Đoạn Đường Chiến Binh
CUỘC DI TẢN ĐẦY MÁU VÀ NƯỚC MẮT *
Tác Giả: Đại Tá Trịnh Tiếu
Không
phải mãi hai ngày sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau vụ di tản rút
quân bỏ miền Trung. Vào buổi tối ngày 17.3.1975, tại bữa cơm đãi một số
Viên Chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại nhà ông Thomas Polgar, Trưởng CIA,
ở Sài Gòn, Tướng Ðặng Văn Quang Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu,
đã lật trang sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu. Rất giống
người Nga tiêu diệt đội quân của Nã Phá Luân vào năm 1812 bằng cách bỏ
đất để câu giờ hầu chấn chỉnh tổ chức quật ngược thế cờ, Tướng Quang
cho rằng quyết định của ông Thiệu đi theo chiến lược đó sẽ đánh bại
quân Bắc Việt. Tướng Quang nói ‘’Có thể mùa mưa sẽ giúp chúng tôi như
thể Ðại Tướng mùa Đông đã giúp người Nga’’.
Tại Cao Nguyên Trung
Phần, dân chúng không chờ giải thích. Họ thấy rõ quá rồi nên tự lo
lấy.Khi quân Bắc Việt pháo kích Kontum, con đường dẫn xuống Pleiku tràn
ngập dân di tản chạy trốn pháo kích. Trong khi các Ðơn Vị Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa bắt đầu rời các vị trí ở Pleiku và các phi cơ vận tải bay
lên bay xuống phi trường suốt ngày đêm, người dân biết ngay đến lúc
chạy theo Quân Ðội.
Vào đêm Chủ Nhật, một đoàn xe vận tải dài
thòng âm thầm rời khỏi Pleiku từng cái một đèn sáng choang. Phóng viên
Nguyễn Tư nghĩ nó ‘’giống như một đoàn xe đi chơi cuối tuần trở về
nhà’’. Phía sau, những tiếng nổ lớn phát ra từ các kho đạn bị phá và
bầu trời đen nghịt khói từ các bồn xăng đốt cháy.
Trong khi đoàn
xe tiến về hướng Nam tung lên những đám bụi đỏ mờ mịt, từng đoàn người
dân đi bộ dài như rắn bò hai bên Ðường Quốc Lộ song song với đoàn quân
xa. Một vị Nữ Tu Công Giáo nhớ lại ‘’trẻ thơ và trẻ em được chất lên xe
bò và người kéo đi. Mọi người đều hoảng hốt. Người ta cố thuê mướn xe
bằng mọi giá’’. Trong ba ngày 16, 17, 18, tháng ba, cuộc di tản di
chuyển êm thắm khỏi Pleiku và giữa các đoàn quân xa là hàng trăm dân sự
đi theo cuộc di tản. Và cũng từ đó bắt đầu một đoàn công voa di tản đầy
máu và nước mắt.
Ði được nửa đường tiến ra Duyên Hải, đoàn xe bị
khựng lại để cho Công Binh Quân Ðoàn II cố làm xong chiếc cầu nổi
ngang qua sông Ea Pa cách đèo Cheo Reo (Phú bổn) vài cây số. Tướng Phạm
Văn Phú tiên liệu hai ngày sẽ sửa xong con Ðường số 7 nhưng mãi ba
ngày vẫn chưa sửa xong cây cầu. Ðến chiều tối ngày 18.3, xe cộ và lính
tráng đã đi được ba ngày và một đám dân tỵ nạn khổng lồ bị khựng lại dọc
theo con đường và dồn cục tạm nghỉ ở chung quanh châu thành Tỉnh Phú
Bổn. Cái châu thành nhỏ bé cheo leo này làm sao cung cấp đủ nhu cầu cho
đoàn di tản này, nhiều người bỏ nhà ra đi chỉ có bộ đồ trên người. Vì
hoảng sợ, địch đe dọa phía sau, đói khát và có những băng lính không
còn Cấp Chỉ Huy nữa sanh đạo tặc, đoàn người đòi cứ tiến đi không cần
biết hậu quả ra sao. Trước tình thế hỗn quân hỗn quan này, các giới
chức lãnh đạo không thể nào thuyết phục dân chúng và điều động xe cộ vũ
khí thành một phòng tuyến phòng thủ.
Và y như xảy ra khi quân
Ðức bao vây khóa chặt Paris năm 1940, dân châu thành cũng chạy trốn, làm
tắc nghẽn mọi con đường, Quân Ðội không thể nào di chuyển để bảo vệ họ
trước kẻ địch. Tình hình đe dọa hỗn loạn. Cần phải có những bàn tay tổ
chức. Nhưng Tướng Lê Duy Tất vẫn còn ở Pleiku với đoàn hậu vệ Biệt Ðộng
Quân, trong khi Ðại Tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn xe, đã phải bỏ xe đi bộ
đến Bộ Chỉ Huy ở Cheo Reo.
Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu
di chuyển xuống Quốc Lộ số 7, Tướng cộng sản Văn tiến Dũng cũng đã bị
đánh lừa theo kế hoạch của Tướng Phú. Trước khi khởi sự chiến dịch 275,
Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh sư đoàn 320 về những con Ðường
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể nào dùng nó như là lối thoát sau
cùng. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Tây Phương nói dân chúng đang bỏ
Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập và Hà Nội đánh tín
hiệu ngày 16.3 báo cho biết Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã di tản về Nha
Trang, Dũng mới bắt đầu nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch
quân rút được không. Ðến 4 giờ chiều cùng ngày, công điện của Hà Nội đến
báo, tình báo Bắc Việt báo một đoàn xe dài từ Pleiku tiến về phía Nam
xuống Ban Mê Thuột. Tin này làm cho Tướng cộng sản bối rối. Phải chăng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phản công hay là chạy trốn?
Tình báo
của Dũng cho ông ta câu trả lời ngay sau đó, đúng như tình hình diễn
biến ở trên. Ðến lúc này bộ chỉ huy cộng sản mới dở bản đồ ra, chiếu
đèn pin và dùng kiếng phóng đại dò tìm địch quân. Kiểm điểm lại, Tướng
Dũng và Tướng Kim Tuấn, tư lệnh sư đoàn 320, mới biết bị Tướng Phú lừa
ngay trước mắt, Tướng Dũng khiển trách Tướng Kim Tuấn, đồng thời phối
trí các đơn vị di chuyển về tụ điểm Quốc Lộ 7 để tiêu diệt đoàn công
voa di tản về Tuy Hòa.
Ðoàn xe Quân Dân miền Nam cầu mong sao cho
thời gian chậm lại để đi kịp về miền biển không bị cộng sản tấn công.
Nhưng không kịp nữa, khi màn đêm buông xuống ngày 18.3 lúc đoàn xe kẹt ở
Cheo Reo, quân cộng sản bắt đầu pháo kích vào đám đông dân di tản. Họ
hết còn bí mật nữa và kẻ thù ở trong tầm tay. Ðêm ngày 18.3, những đơn
vị tiền phong của sư đoàn 302 đụng độ với đoàn xe Quân Ðoàn II ở Cheo
Reo. Cùng lúc các đơn vị khác đụng độ với Ðoàn Quân hậu bị Liên Ðoàn 6
Biệt Ðộng Quân ở Thị Trấn Thành An ngã tư Quốc Lộ 14 và Quốc Lộ 7. Ðại
Tá Lý đi bộ mãi rồi cũng tới Bộ Chỉ Huy Cheo Reo kịp lúc để giúp điều
động Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vào vị trí phòng thủ chống các cuộc
xung phong của quân Bắc Việt ở lối vào Thị Trấn phía Tây. Ðồng thời,
pháo binh Bắc Việt rót vào. Ðoàn xe cái đầu ở Cheo Reo nhưng cái đuôi
vẫn còn ở Pleiku. Việt cộng tha hồ pháo kích. Sáng hôm sau, xác chết và
xác bị thương lính tráng và dân nằm la liệt trên Ðường Phố Cheo Reo
(Phú Bổn) cùng với hàng trăm xe cộ bị phá hủy hoặc bỏ rơi
Một
phi công trực thăng Không Quân Việt Nam báo cáo: ‘’Khi tôi bay thấp,
tôi có thể nhìn thấy hàng trăm xác chết nằm rải rác dọc theo con đường
cạnh các xe còn cháy’’.
Mặc dù lực lượng cộng sản đã chiếm được
Phi Trường Phú Bổn, Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vẫn còn giữ được lối
vào châu thành và cây cầu phía Nam sửa xong. Ðây là một cú cải tử hoàn
sinh, Ðại Tá Lý và các Cấp Chỉ Huy của ông có cơ hội ra lệnh cho đoàn xe
lên đường trở lại với 2.000 xe nổ máy ầm ầm lăn bánh.
Nhưng đoàn
xe di chuyển không bao lâu, Tướng Phú cho trực thăng đến đón Ðại Tá Lý
ra khỏi Cheo Reo. Thế là đầu không còn ai Chỉ Huy chỉ có Tướng Tất Chỉ
Huy ở phía sau. Từ ngày 19 trở đi, Chỉ Huy đầu đoàn công voa là những
Ðơn Vị Trưởng cấp Tiểu Ðoàn, Ðại Ðội mạnh ai lấy ra lệnh.
Bất kể
hỏa lực của cộng sản, trực thăng của Không Quân Việt Nam bắt đầu đáp
xuống bốc những người Lính và dân bị thương dọc theo con đường. Khi
những người di tản được trực thăng chở đến Phi Trường Tuy Hòa, họ kể
những chuyện khủng khiếp xảy ra cho họ. Ngày 19.3, đầu đoàn xe đã đến
Sông Côn chỉ còn cách Tuy Hòa 40 km. Nhưng ở đoạn đuôi nửa đường giữa
Cheo Reo và Sông Côn, quân Bắc Việt lại đánh ngang hông đoàn xe, lần
này ở khoảng Thị Trấn Phú Túc. Không Quân Việt Nam được gọi đến oanh
kích chặn tiến quân của địch nhưng đã nhầm lẫn bỏ bom xuống Liên Ðoàn 7
Biệt Ðộng Quân (Làm tổn thất gần 1 Tiểu Ðoàn). Nhưng Liên Ðoàn này vẫn
tiếp tục chiến đấu giữ cho con đường mở.
Ðoàn xe chạy qua Cheo
Reo cho đến ngày 21.3 thì quân Bắc Việt chọc thủng các vị trí cố thủ
của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, vượt qua chiếm châu thành và cắt đứt
con đường. Trong số khoảng 160.000 người của đoàn xe di tản, nhiều
người dân bị cô lập với Lính của Ba Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Theo lệnh
Tướng Phú, Tướng Tất, vẫn còn ở phía sau đoàn xe, phải bỏ mọi vũ khí
và quân trang nặng để chạy khỏi Phú Bổn càng nhanh càng tốt. Hàng ngàn
người chạy vào rừng. Lính tráng với vợ con bên cạnh bị rượt bắt và tấn
công nhiều lần.
Một số ít giơ cờ lên được trực thăng đáp xuống bốc. Nhưng đa số cầm chắc bị đói và bị bắt.
Những
người may mắn, các bà mẹ trẻ dính máu, các cụ già và phụ nữ người mặc
áo dính bùn, và những người lính gào khóc, chân không, bước xuống trực
thăng trước khi các phóng viên bủa ra hỏi thăm tin tức tại phi đạo Tuy
Hòa. Các trực thăng bắt đầu chở thực phẩm và nước cho đoàn xe vẫn còn
dài thòng di chuyển như con rắn vì đã có nhiều người đói.
Trong
khi ở đuôi đoàn xe bị tấn công dữ dội và Tướng Tất cùng các Ðơn Vị còn
lại cố chống trả bọc hậu, các Ðơn Vị đầu đoàn xe đã tiến vào ranh giới
Tuy Hòa, trên con Sông Ba, cách Thị Trấn 20 cây số. Chiếc cầu nổi mà
Tướng Cao Văn Viên hứa cũng đến kịp lúc, nhưng không kịp với lực lượng
cộng sản đã đắp mô các ngã đường nằm giữa Sông và Tuy Hòa. Chiếc cầu
không thể nào chở xe nổi đến chỗ Bắc nên phải mượn 4 phi cơ C-47 của
Quân Ðoàn IV chở từng khúc đến.
Ngày 22.3, đúng một tuần sau khi
đoàn xe di tản đầy máu và nước mắt rời Pleiku, chiếc cầu được bắc xong,
đầu đoàn xe vội vã vượt qua con sông quá nặng làm chiếc cầu phao lật,
người trong xe cộ phải lội sông. Nhưng đến cuối ngày, đoàn xe vẫn tiếp
tục vượt qua khi chiếc cầu được sửa lật lại. Ngay cả đến thời thiết
cũng tiếp tay cho cộng sản để làm cho đoạn cuối đoàn xe đến Tuy Hòa
chưa hết nạn.
Trời nắng đột nhiên trở thành mưa gió lạnh lẽo cho
người di tản. Không những thời tiết thay đổi xấu gây ra bệnh tật mà nó
còn làm cho phi cơ quân sự không bay lên yểm trợ, chống trả những cuộc
tấn công dưới đất của việt cộng. Từ ngày 22.3, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng
Quân bị kẹt đánh trong một trận đánh bọc hậu vừa đánh vừa lui trước nỗ
lực rượt theo rất rát của quân cộng sản. Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân đã thu
góp xe tăng và pháo binh để bảo vệ con đường ở khúc quẹo thung lũng
gần cầu nổi. Họ đánh câu giờ để cho người di tản và Lính kịp vượt qua
sông.
Ðồng thời, những Ðơn Vị đi đầu đã vượt qua Sông Ba rồi phải
phá mô việt Cộng để tiến vào Tuy Hòa. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân chỉ
còn ít quân sống sót đã gom góp được hơn chục thiết giáp M-113 vừa đánh
vừa ủi các mô tiêu diệt các vị trí cộng sản. Ðến ngày 25.3, vị trí
cuối cùng của quân Bắc Việt bị tiêu diệt nốt, Biệt Ðộng Quân bắt tay
được với Lực Lượng Ðịa Phương Quân ở phía Ðông Tuy Hòa.
Ðoàn xe
khập khễnh tiến vào Tuy Hòa như một đoàn xe ma. Xấp xỉ 60.000 người dân
đến đích, hai phần ba hay hơn 100.000 người bị bỏ lại dọc đường, chết
sống không ai biết. Về phía Quân Ðội, 20.000 quân tiếp vận và yểm trợ,
chỉ còn 5.000 người đến nơi. Sáu Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân 7.000 người,
chỉ còn 900 đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn II ở Nha Trang và
đóng chốt bảo vệ Thành Phố.
Một vị Tướng ở Bộ Tham Mưu đã buồn bã
nói: ‘’70% lực lượng tác chiến của Quân Ðoàn II gồm Sư Ðoàn 23 Bộ
Binh, Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh Chiến Ðấu và các
Ðơn Vị Truyền Tin đã bị tan rã từ ngày 10 đến 25.3’’. Vì thế chuyện
phản công tái chiếm Ban Mê Thuột không thể giao phó cho Quân Ðoàn II.
Canh
bạc Tướng Phú chọn Quốc Lộ 7 có thể đã an toàn nếu các cầu nổi được
bắc kịp thời và Tướng Viên đổ lỗi cho vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II. Tướng
Viên tin rằng Tướng Phú phải hoãn cuộc di tản ít ngày để cho các Kỹ Sư
Công Binh kịp bắc cầu. Tướng Viên cũng tin rằng hoãn lại cho phép điều
động sắp xếp kỹ hơn nhất là kiểm soát dân chúng. Theo một vị Tướng Mỹ
thông thạo các Sĩ Quan cao cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lỗi lầm
không những ở kế hoạch di tản của Tướng Phú mà ở ngay chính Tướng Phú
và lỗi lầm đầu tiên và quan trọng nhất là để mất Ban Mê Thuột. Một vị
Tư Lệnh Quân Ðoàn cương quyết hơn không cần phải rút quân như vậy. Một
Sĩ Quan Tùy Viên Mỹ tuyên bố: ‘’Một vị Tư Lệnh mạnh như Tướng Toàn
(Trước đó là Tư Lệnh Quân Ðoàn II) có thể phản công tái chiếm Ban Mê
Thuột, sử dụng toàn bộ Hải, Lục, Không Quân có trong tay đã có thể kềm
hãm quân Bắc Việt, cố thủ thêm một năm nữa’’.
Nhưng ngày
25.3.1975,không còn cơ hội đó. Cuộc di tản tự làm cho mình thất bại đau
đớn, như lời Tướng Viên mô tả, hoàn tất, gây một cơn ác mộng tâm lý và
chính trị to lớn cho ông Thiệu, cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cho
dân chúng Việt Nam Cộng Hòa. Một dư luận đồn thổi khắp nước và cả ở
những viên chức dân sự và quân sự cao cấp nói rằng: Tổng Thống Thiệu và
người Mỹ, trong một thỏa hiệp mật của Hiệp Định Paris, đã cố kết với
nhau cho cộng sản chiếm một phần lớn lãnh thổ Nam Việt Nam. Tại sao
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu can trường suốt hai mươi năm
không thua đột nhiên bị ra lệnh rút khỏi Cao Nguyên, bỏ Pleiku và Kontum
không một tiếng súng giao tranh ?
Tinh thần đổ vỡ vì mất bốn
Tỉnh trong ba tháng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh nặng và vô
ích không tái chiếm nổi Ban Mê Thuột đã làm cho dân chúng Nam Việt Nam
hết còn tin tưởng Tổng Thống Thiệu có thể bảo vệ họ. Vậy ai khác có
thể làm được? Phe đối lập ông Thiệu vô tổ chức, đứng ngoài chờ thời cơ
và người Mỹ tiếp tục làm ngơ. Chỉ có ông Thiệu là người phải tìm ra
cách nào để lấy lại tinh thần cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trước khi ông
tìm ra hướng đi hợp tình thế thì tin xấu từ Quân Ðoàn I bay về. Cũng
lại di tản và cuộc di tản Quân Ðoàn I bi thảm không kém để kết thúc
ngày 30.4.1975.
Đại Tá Trịnh Tiếu
Tân Sơn Hòa chuyển
Bàn ra tán vào (0)
CUỘC DI TẢN ĐẦY MÁU VÀ NƯỚC MẮT *
Tác Giả: Đại Tá Trịnh Tiếu
Không
phải mãi hai ngày sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau vụ di tản rút
quân bỏ miền Trung. Vào buổi tối ngày 17.3.1975, tại bữa cơm đãi một số
Viên Chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại nhà ông Thomas Polgar, Trưởng CIA,
ở Sài Gòn, Tướng Ðặng Văn Quang Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu,
đã lật trang sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu. Rất giống
người Nga tiêu diệt đội quân của Nã Phá Luân vào năm 1812 bằng cách bỏ
đất để câu giờ hầu chấn chỉnh tổ chức quật ngược thế cờ, Tướng Quang
cho rằng quyết định của ông Thiệu đi theo chiến lược đó sẽ đánh bại
quân Bắc Việt. Tướng Quang nói ‘’Có thể mùa mưa sẽ giúp chúng tôi như
thể Ðại Tướng mùa Đông đã giúp người Nga’’.
Tại Cao Nguyên Trung
Phần, dân chúng không chờ giải thích. Họ thấy rõ quá rồi nên tự lo
lấy.Khi quân Bắc Việt pháo kích Kontum, con đường dẫn xuống Pleiku tràn
ngập dân di tản chạy trốn pháo kích. Trong khi các Ðơn Vị Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa bắt đầu rời các vị trí ở Pleiku và các phi cơ vận tải bay
lên bay xuống phi trường suốt ngày đêm, người dân biết ngay đến lúc
chạy theo Quân Ðội.
Vào đêm Chủ Nhật, một đoàn xe vận tải dài
thòng âm thầm rời khỏi Pleiku từng cái một đèn sáng choang. Phóng viên
Nguyễn Tư nghĩ nó ‘’giống như một đoàn xe đi chơi cuối tuần trở về
nhà’’. Phía sau, những tiếng nổ lớn phát ra từ các kho đạn bị phá và
bầu trời đen nghịt khói từ các bồn xăng đốt cháy.
Trong khi đoàn
xe tiến về hướng Nam tung lên những đám bụi đỏ mờ mịt, từng đoàn người
dân đi bộ dài như rắn bò hai bên Ðường Quốc Lộ song song với đoàn quân
xa. Một vị Nữ Tu Công Giáo nhớ lại ‘’trẻ thơ và trẻ em được chất lên xe
bò và người kéo đi. Mọi người đều hoảng hốt. Người ta cố thuê mướn xe
bằng mọi giá’’. Trong ba ngày 16, 17, 18, tháng ba, cuộc di tản di
chuyển êm thắm khỏi Pleiku và giữa các đoàn quân xa là hàng trăm dân sự
đi theo cuộc di tản. Và cũng từ đó bắt đầu một đoàn công voa di tản đầy
máu và nước mắt.
Ði được nửa đường tiến ra Duyên Hải, đoàn xe bị
khựng lại để cho Công Binh Quân Ðoàn II cố làm xong chiếc cầu nổi
ngang qua sông Ea Pa cách đèo Cheo Reo (Phú bổn) vài cây số. Tướng Phạm
Văn Phú tiên liệu hai ngày sẽ sửa xong con Ðường số 7 nhưng mãi ba
ngày vẫn chưa sửa xong cây cầu. Ðến chiều tối ngày 18.3, xe cộ và lính
tráng đã đi được ba ngày và một đám dân tỵ nạn khổng lồ bị khựng lại dọc
theo con đường và dồn cục tạm nghỉ ở chung quanh châu thành Tỉnh Phú
Bổn. Cái châu thành nhỏ bé cheo leo này làm sao cung cấp đủ nhu cầu cho
đoàn di tản này, nhiều người bỏ nhà ra đi chỉ có bộ đồ trên người. Vì
hoảng sợ, địch đe dọa phía sau, đói khát và có những băng lính không
còn Cấp Chỉ Huy nữa sanh đạo tặc, đoàn người đòi cứ tiến đi không cần
biết hậu quả ra sao. Trước tình thế hỗn quân hỗn quan này, các giới
chức lãnh đạo không thể nào thuyết phục dân chúng và điều động xe cộ vũ
khí thành một phòng tuyến phòng thủ.
Và y như xảy ra khi quân
Ðức bao vây khóa chặt Paris năm 1940, dân châu thành cũng chạy trốn, làm
tắc nghẽn mọi con đường, Quân Ðội không thể nào di chuyển để bảo vệ họ
trước kẻ địch. Tình hình đe dọa hỗn loạn. Cần phải có những bàn tay tổ
chức. Nhưng Tướng Lê Duy Tất vẫn còn ở Pleiku với đoàn hậu vệ Biệt Ðộng
Quân, trong khi Ðại Tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn xe, đã phải bỏ xe đi bộ
đến Bộ Chỉ Huy ở Cheo Reo.
Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu
di chuyển xuống Quốc Lộ số 7, Tướng cộng sản Văn tiến Dũng cũng đã bị
đánh lừa theo kế hoạch của Tướng Phú. Trước khi khởi sự chiến dịch 275,
Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh sư đoàn 320 về những con Ðường
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể nào dùng nó như là lối thoát sau
cùng. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Tây Phương nói dân chúng đang bỏ
Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập và Hà Nội đánh tín
hiệu ngày 16.3 báo cho biết Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã di tản về Nha
Trang, Dũng mới bắt đầu nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch
quân rút được không. Ðến 4 giờ chiều cùng ngày, công điện của Hà Nội đến
báo, tình báo Bắc Việt báo một đoàn xe dài từ Pleiku tiến về phía Nam
xuống Ban Mê Thuột. Tin này làm cho Tướng cộng sản bối rối. Phải chăng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phản công hay là chạy trốn?
Tình báo
của Dũng cho ông ta câu trả lời ngay sau đó, đúng như tình hình diễn
biến ở trên. Ðến lúc này bộ chỉ huy cộng sản mới dở bản đồ ra, chiếu
đèn pin và dùng kiếng phóng đại dò tìm địch quân. Kiểm điểm lại, Tướng
Dũng và Tướng Kim Tuấn, tư lệnh sư đoàn 320, mới biết bị Tướng Phú lừa
ngay trước mắt, Tướng Dũng khiển trách Tướng Kim Tuấn, đồng thời phối
trí các đơn vị di chuyển về tụ điểm Quốc Lộ 7 để tiêu diệt đoàn công
voa di tản về Tuy Hòa.
Ðoàn xe Quân Dân miền Nam cầu mong sao cho
thời gian chậm lại để đi kịp về miền biển không bị cộng sản tấn công.
Nhưng không kịp nữa, khi màn đêm buông xuống ngày 18.3 lúc đoàn xe kẹt ở
Cheo Reo, quân cộng sản bắt đầu pháo kích vào đám đông dân di tản. Họ
hết còn bí mật nữa và kẻ thù ở trong tầm tay. Ðêm ngày 18.3, những đơn
vị tiền phong của sư đoàn 302 đụng độ với đoàn xe Quân Ðoàn II ở Cheo
Reo. Cùng lúc các đơn vị khác đụng độ với Ðoàn Quân hậu bị Liên Ðoàn 6
Biệt Ðộng Quân ở Thị Trấn Thành An ngã tư Quốc Lộ 14 và Quốc Lộ 7. Ðại
Tá Lý đi bộ mãi rồi cũng tới Bộ Chỉ Huy Cheo Reo kịp lúc để giúp điều
động Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vào vị trí phòng thủ chống các cuộc
xung phong của quân Bắc Việt ở lối vào Thị Trấn phía Tây. Ðồng thời,
pháo binh Bắc Việt rót vào. Ðoàn xe cái đầu ở Cheo Reo nhưng cái đuôi
vẫn còn ở Pleiku. Việt cộng tha hồ pháo kích. Sáng hôm sau, xác chết và
xác bị thương lính tráng và dân nằm la liệt trên Ðường Phố Cheo Reo
(Phú Bổn) cùng với hàng trăm xe cộ bị phá hủy hoặc bỏ rơi
Một
phi công trực thăng Không Quân Việt Nam báo cáo: ‘’Khi tôi bay thấp,
tôi có thể nhìn thấy hàng trăm xác chết nằm rải rác dọc theo con đường
cạnh các xe còn cháy’’.
Mặc dù lực lượng cộng sản đã chiếm được
Phi Trường Phú Bổn, Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vẫn còn giữ được lối
vào châu thành và cây cầu phía Nam sửa xong. Ðây là một cú cải tử hoàn
sinh, Ðại Tá Lý và các Cấp Chỉ Huy của ông có cơ hội ra lệnh cho đoàn xe
lên đường trở lại với 2.000 xe nổ máy ầm ầm lăn bánh.
Nhưng đoàn
xe di chuyển không bao lâu, Tướng Phú cho trực thăng đến đón Ðại Tá Lý
ra khỏi Cheo Reo. Thế là đầu không còn ai Chỉ Huy chỉ có Tướng Tất Chỉ
Huy ở phía sau. Từ ngày 19 trở đi, Chỉ Huy đầu đoàn công voa là những
Ðơn Vị Trưởng cấp Tiểu Ðoàn, Ðại Ðội mạnh ai lấy ra lệnh.
Bất kể
hỏa lực của cộng sản, trực thăng của Không Quân Việt Nam bắt đầu đáp
xuống bốc những người Lính và dân bị thương dọc theo con đường. Khi
những người di tản được trực thăng chở đến Phi Trường Tuy Hòa, họ kể
những chuyện khủng khiếp xảy ra cho họ. Ngày 19.3, đầu đoàn xe đã đến
Sông Côn chỉ còn cách Tuy Hòa 40 km. Nhưng ở đoạn đuôi nửa đường giữa
Cheo Reo và Sông Côn, quân Bắc Việt lại đánh ngang hông đoàn xe, lần
này ở khoảng Thị Trấn Phú Túc. Không Quân Việt Nam được gọi đến oanh
kích chặn tiến quân của địch nhưng đã nhầm lẫn bỏ bom xuống Liên Ðoàn 7
Biệt Ðộng Quân (Làm tổn thất gần 1 Tiểu Ðoàn). Nhưng Liên Ðoàn này vẫn
tiếp tục chiến đấu giữ cho con đường mở.
Ðoàn xe chạy qua Cheo
Reo cho đến ngày 21.3 thì quân Bắc Việt chọc thủng các vị trí cố thủ
của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, vượt qua chiếm châu thành và cắt đứt
con đường. Trong số khoảng 160.000 người của đoàn xe di tản, nhiều
người dân bị cô lập với Lính của Ba Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Theo lệnh
Tướng Phú, Tướng Tất, vẫn còn ở phía sau đoàn xe, phải bỏ mọi vũ khí
và quân trang nặng để chạy khỏi Phú Bổn càng nhanh càng tốt. Hàng ngàn
người chạy vào rừng. Lính tráng với vợ con bên cạnh bị rượt bắt và tấn
công nhiều lần.
Một số ít giơ cờ lên được trực thăng đáp xuống bốc. Nhưng đa số cầm chắc bị đói và bị bắt.
Những
người may mắn, các bà mẹ trẻ dính máu, các cụ già và phụ nữ người mặc
áo dính bùn, và những người lính gào khóc, chân không, bước xuống trực
thăng trước khi các phóng viên bủa ra hỏi thăm tin tức tại phi đạo Tuy
Hòa. Các trực thăng bắt đầu chở thực phẩm và nước cho đoàn xe vẫn còn
dài thòng di chuyển như con rắn vì đã có nhiều người đói.
Trong
khi ở đuôi đoàn xe bị tấn công dữ dội và Tướng Tất cùng các Ðơn Vị còn
lại cố chống trả bọc hậu, các Ðơn Vị đầu đoàn xe đã tiến vào ranh giới
Tuy Hòa, trên con Sông Ba, cách Thị Trấn 20 cây số. Chiếc cầu nổi mà
Tướng Cao Văn Viên hứa cũng đến kịp lúc, nhưng không kịp với lực lượng
cộng sản đã đắp mô các ngã đường nằm giữa Sông và Tuy Hòa. Chiếc cầu
không thể nào chở xe nổi đến chỗ Bắc nên phải mượn 4 phi cơ C-47 của
Quân Ðoàn IV chở từng khúc đến.
Ngày 22.3, đúng một tuần sau khi
đoàn xe di tản đầy máu và nước mắt rời Pleiku, chiếc cầu được bắc xong,
đầu đoàn xe vội vã vượt qua con sông quá nặng làm chiếc cầu phao lật,
người trong xe cộ phải lội sông. Nhưng đến cuối ngày, đoàn xe vẫn tiếp
tục vượt qua khi chiếc cầu được sửa lật lại. Ngay cả đến thời thiết
cũng tiếp tay cho cộng sản để làm cho đoạn cuối đoàn xe đến Tuy Hòa
chưa hết nạn.
Trời nắng đột nhiên trở thành mưa gió lạnh lẽo cho
người di tản. Không những thời tiết thay đổi xấu gây ra bệnh tật mà nó
còn làm cho phi cơ quân sự không bay lên yểm trợ, chống trả những cuộc
tấn công dưới đất của việt cộng. Từ ngày 22.3, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng
Quân bị kẹt đánh trong một trận đánh bọc hậu vừa đánh vừa lui trước nỗ
lực rượt theo rất rát của quân cộng sản. Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân đã thu
góp xe tăng và pháo binh để bảo vệ con đường ở khúc quẹo thung lũng
gần cầu nổi. Họ đánh câu giờ để cho người di tản và Lính kịp vượt qua
sông.
Ðồng thời, những Ðơn Vị đi đầu đã vượt qua Sông Ba rồi phải
phá mô việt Cộng để tiến vào Tuy Hòa. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân chỉ
còn ít quân sống sót đã gom góp được hơn chục thiết giáp M-113 vừa đánh
vừa ủi các mô tiêu diệt các vị trí cộng sản. Ðến ngày 25.3, vị trí
cuối cùng của quân Bắc Việt bị tiêu diệt nốt, Biệt Ðộng Quân bắt tay
được với Lực Lượng Ðịa Phương Quân ở phía Ðông Tuy Hòa.
Ðoàn xe
khập khễnh tiến vào Tuy Hòa như một đoàn xe ma. Xấp xỉ 60.000 người dân
đến đích, hai phần ba hay hơn 100.000 người bị bỏ lại dọc đường, chết
sống không ai biết. Về phía Quân Ðội, 20.000 quân tiếp vận và yểm trợ,
chỉ còn 5.000 người đến nơi. Sáu Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân 7.000 người,
chỉ còn 900 đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn II ở Nha Trang và
đóng chốt bảo vệ Thành Phố.
Một vị Tướng ở Bộ Tham Mưu đã buồn bã
nói: ‘’70% lực lượng tác chiến của Quân Ðoàn II gồm Sư Ðoàn 23 Bộ
Binh, Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh Chiến Ðấu và các
Ðơn Vị Truyền Tin đã bị tan rã từ ngày 10 đến 25.3’’. Vì thế chuyện
phản công tái chiếm Ban Mê Thuột không thể giao phó cho Quân Ðoàn II.
Canh
bạc Tướng Phú chọn Quốc Lộ 7 có thể đã an toàn nếu các cầu nổi được
bắc kịp thời và Tướng Viên đổ lỗi cho vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II. Tướng
Viên tin rằng Tướng Phú phải hoãn cuộc di tản ít ngày để cho các Kỹ Sư
Công Binh kịp bắc cầu. Tướng Viên cũng tin rằng hoãn lại cho phép điều
động sắp xếp kỹ hơn nhất là kiểm soát dân chúng. Theo một vị Tướng Mỹ
thông thạo các Sĩ Quan cao cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lỗi lầm
không những ở kế hoạch di tản của Tướng Phú mà ở ngay chính Tướng Phú
và lỗi lầm đầu tiên và quan trọng nhất là để mất Ban Mê Thuột. Một vị
Tư Lệnh Quân Ðoàn cương quyết hơn không cần phải rút quân như vậy. Một
Sĩ Quan Tùy Viên Mỹ tuyên bố: ‘’Một vị Tư Lệnh mạnh như Tướng Toàn
(Trước đó là Tư Lệnh Quân Ðoàn II) có thể phản công tái chiếm Ban Mê
Thuột, sử dụng toàn bộ Hải, Lục, Không Quân có trong tay đã có thể kềm
hãm quân Bắc Việt, cố thủ thêm một năm nữa’’.
Nhưng ngày
25.3.1975,không còn cơ hội đó. Cuộc di tản tự làm cho mình thất bại đau
đớn, như lời Tướng Viên mô tả, hoàn tất, gây một cơn ác mộng tâm lý và
chính trị to lớn cho ông Thiệu, cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cho
dân chúng Việt Nam Cộng Hòa. Một dư luận đồn thổi khắp nước và cả ở
những viên chức dân sự và quân sự cao cấp nói rằng: Tổng Thống Thiệu và
người Mỹ, trong một thỏa hiệp mật của Hiệp Định Paris, đã cố kết với
nhau cho cộng sản chiếm một phần lớn lãnh thổ Nam Việt Nam. Tại sao
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu can trường suốt hai mươi năm
không thua đột nhiên bị ra lệnh rút khỏi Cao Nguyên, bỏ Pleiku và Kontum
không một tiếng súng giao tranh ?
Tinh thần đổ vỡ vì mất bốn
Tỉnh trong ba tháng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh nặng và vô
ích không tái chiếm nổi Ban Mê Thuột đã làm cho dân chúng Nam Việt Nam
hết còn tin tưởng Tổng Thống Thiệu có thể bảo vệ họ. Vậy ai khác có
thể làm được? Phe đối lập ông Thiệu vô tổ chức, đứng ngoài chờ thời cơ
và người Mỹ tiếp tục làm ngơ. Chỉ có ông Thiệu là người phải tìm ra
cách nào để lấy lại tinh thần cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trước khi ông
tìm ra hướng đi hợp tình thế thì tin xấu từ Quân Ðoàn I bay về. Cũng
lại di tản và cuộc di tản Quân Ðoàn I bi thảm không kém để kết thúc
ngày 30.4.1975.
Đại Tá Trịnh Tiếu
Tân Sơn Hòa chuyển