Thân Hữu Tiếp Tay...
CUỘC ĐỔI ĐỜI LẦN THỨ V TỪ NHÀ TÙ NHỎ RA NHÀ TÙ LỚN (TỪ THÁNG 1.1985 ĐẾN 7.4.1993) - Anh Phương Trần Văn Ngà
CUỘC ĐỔI ĐỜI LẦN THỨ V
TỪ NHÀ TÙ NHỎ RA NHÀ TÙ LỚN
(TỪ THÁNG 1.1985 ĐẾN 7.4.1993)
Anh Phương Trần Văn Ngà
LỜI TÁC GIẢ: Đọan văn này trích trong Hồi Ký Công Tử Nhà Quê Bà Bài của tôi, khá dày trên dưới 600 trang, viết lại mọi vấn đề mà tác giã từng trải qua từ những năm còn bé ở ấp Bà Bài, tản cư ra tỉnh lỵ Châu Đốc - dạy tiểu học & huấn luyện viên thể dục thao trường Nam Tỉnh Lỵ Châu Đốc. Sự vươn lên, trôi nổi lên Sài gòn học lại và làm giáo sư trung học dạy trường người Hoa . Thi hành lệnh tổng động viên vào Quân Đội phục vụ ngành truyền thông báo chí Vùng IV Chiến Thuật - phục vụ tại Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị - Biệt Khu Thủ Đô. Và cộng tác nhiều nhựt báo Nhật, Việt, ở tù cộng sản gần 10 năm từ Nam ra Bắc và trở về Nam. Ra khỏi nhà tù nhỏ vào nhà tù lớn, buôn bán chợ trời kiếm sống - Sang Mỹ diện HO bị người Việt qua trước xem thường "kỳ thị" vì làm nghề lao động chân tay cực khổ. Đó là cơ hội trui rèn thêm nhân cách để vươn lên, tôi trở lại nghề cũ năm xưa, làm báo viết báo và ngay bây giờ, chỉ còn hơn hai tháng nữa qua tuổi 86, vẫn còn viết báo có tiền nhuận bút đủ uống cà phê, nhậu lai rai cho vui tuổi già, chờ ngày ra đi...Bài này, chỉ "trích ngang" một đoạn nhỏ - Mời quý độc giả đọc chơi cho quên cái Cô Vi mắc dịch này đang hoành hành khắp thế giới (Hình chụp tại tiệm hình Mỹ Tân - Châu Đốc, lúc từ giã thơ ngây, đã 22 tuổi, dấn thân vào con đường gió bụi - 1957).
RA NHÀ TÙ NHỎ Z30D
Lại một trò lưu manh vặt, thả tù ở giữa rừng mà không cấp phương tiện đưa tù ra khỏi trại để về với gia đình, về đến Sài Gòn hay các tỉnh xa. Đơn giản nhất là cấp cho tù được "giải phóng" đủ tiền đi xe đò về đến nhà ở Sài Gòn hay các tỉnh, còn ăn uống dọc đường nữa....
Nhóm tù chúng tôi được thả ra vào đầu năm 1985 có lẽ khoảng 80 người, cũng là lần thả tù đông nhứt của Liên trại Z30D từ trước đến lúc đó. Khi chúng tôi, cả trại tập họp, nghe đọc lệnh thả, tôi nghĩ làm gì có tên mình, may ra có tên Hạ sĩ Nguyễn Văn Chuối nằm cạnh tôi. Từ Bắc chuyển về đây, em Chuối rất "hồ hởi phấn khởi" tin rắng mình được thả ra đợt này. Còn tôi cứ tỉnh bơ để hồn đi đâu đâu khi bò vàng bắt đầu đọc danh sách, được vài chục người thấy có cả cấp Trung tá và Thiếu tá. Lúc bấy giờ, tôi mới chăm chú lắng nghe, may chó ngáp phải ruồi, mới là ngộ đó.! Tôi nói với Chuối suy nghĩ này. Đùng một cái nghe tên mình, hai lỗ tai tôi lùng bùng hết, mắt như hoa lên, ngất ngây trong vui mừng. Đợi chấm dứt đọc hết tên được tha khỏi trại. Tôi nói liền với Chuối, đồ đạt của anh tặng lại hết cho em, anh chỉ lấy một vài món mang về làm kỷ niệm mà thôi. Tôi còn cho Chuối địa chỉ nhà ờ Cầu Chữ Y và dặn khi nào em được ra về Sài Gòn ghé anh, anh chị sẽ giúp em tiền mua vé xe về Thốt Nốt (An Giang). Tôi căn dặn Chuối trong lúc còn đợi lệnh cho về trại thu xếp "tư trang". Lúc ấy cũng khoảng 11 giờ sáng, tôi ra khỏi lán, chuồng giam, chỗ nằm "thân thương" trên dưới 2 năm không bị rệp chích. Có lẽ rệp Hàm Tân biết phe mình sa cơ thất thế ở tù, đốt cũng tội nghiệp.! Còn loài rệp ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa cũng cùng hung cực ác, giống sếp của nó chỉ biết hút máu người tù miền Nam thua cuộc chiến quốc cộng, hút máu cho đến chết càng tốt.
Khi ra khỏi cổng trại giam, các con bò vàng dẫn mấy chục người chúng tôi từ trại B đi ra ban chỉ huy trại - trại A, họ đưa chúng tôi đến một cái nhà lớn bỏ trống như là hội trường của trại cũng gần ban chỉ huy trại ở tạm đợi cấp giấy ra trại trở về đời sống bình thường. Theo lẽ, cách làm việc đúng đắn, chúng tôi đã có Giấy Ra Trại được đánh máy sẵn trước từ lâu rồi, ra trại được cấp liền để chúng tôi còn phải đi bộ trên dưới 3 cây số từ trại ra đến quốc lộ Nam Bắc để đón xe đò về Sài Gòn. Một tên bò vàng có lẽ là sĩ quan cũng có chức sắc gì đó, ra lệnh chúng tôi cử người lấy phần ăn trưa, cứ nghỉ tạm ở đây đợi khi nào có giấy ra trại sẽ thông báo sau. Sau bữa ăn trưa xong, chúng tôi dài cổ trông đợi văn phòng trại gọi lấy giấy ra trại và còn đi bộ ra đường đón xe nữa, chiều tối hết xe chạy thi làm sao?
Bữa cơm chiều xong, chúng tôi đang tụm năm tụm ba, quây quần chuyện trò, hút thuốc lào và tin chắc là phải ngủ lại đây đêm nay. Đêm đầu ngủ ngoài chuồng giam tù, được tự do mà chưa được tự do đúng nghĩa vì chẳng dám đì đâu khi chưa có giấy ra trại lận lưng. Bổng có đám bò vàng gần cả chục tên xuống chỗ ở chúng tôi, bảo chúng tôi tập họp để nghe cán bộ trưởng trại nói chuyện. Sau khi chúng tôi ổn định, im lặng, tên trưởng trại nói: các anh được về dịp trước Tết Nguyên Đán sum họp với gia đình là một đặc ân của "đảng và nhà nước", tôi đại diện trại Z30D chúc các anh và gia đình được vui khỏe và hạnh phúc. Tên trại trưởng đại khái nói như vậy như là "động viên" tinh thần để chúng tôi chấp nhận bị bọn này bốc lột thêm hai tuần nữa "lao động tạo ra của cải" và "lao động là vinh quang" cho riêng cá nhân chúng hay cho ban chỉ huy trại "cải thiện" có thêm "của cải vật chất" để đón Tết ta...(Những chữ trong ngoặc kép là những danh tử nổ của cán bộ bò vàng "truyền đạt" cho đám tù).
Dù chúng có đắc nhân tâm, bôi trơn sự bốc lột sức lao động tù, chúng tôi đồng ý hay không cũng diễn ra đúng kịch bản chúng đã dựng sẵn. Chúng nói là thả tù mà chưa cấp giấy ra trại đố ai dám ra về, như vậy chúng tôi bắt buộc phải "nín thở qua sông" được ở ngoài chuồng nhốt tù, ăn uống tiêu chẩn có phần nhỉnh hơn một chút ở trong lán trại giam, đi rừng tự giác tự do, không có cán bộ súng dài "hộ tống". Cán bộ trưởng trại cũng như các bò vàng khác đều có giọng nói nặng chình chịch của gốc Nghệ An - Hà Tĩnh rất khó nghe. Ông ta ra chỉ tiêu cho ngày mai, sau khi ăn sáng xong, chúng tôi có mười tổ được phát dao, cưa hạ gỗ nhỏ cũng như gỗ lớn toàn là gỗ thao lao mà có từ khác là cây bằng lăng, có hoa màu tím bắt mắt rất đẹp khi cả rừng đến mùa hoa nở. Kích cở cây bằng lăng như thế nào? Còn các tổ đi lấy lá buông phải già còn xanh, lá càng lớn càng tốt và có tổ chuyên lấy lá non để làm nón hay các vật dụng thù công mỹ nghệ chuyên bán cho khách du lịch... Với 10 tổ 8 hoặc 10 người, có chừng 3 tổ có nhiệm vụ chặt lấy lá buông mang về chất đống tại địa điểm gần đường xe hơi chạy vào. Còn các tổ khác đi tìm cây bằng lăng vừa 2 người khiêng vác về. Loại cây này ở rừng lá trước đây có nhiều vô số kể, nay lại hiếm, không còn ở gần trại, phải đi xa sâu vào rừng mới có vì bao nhiêu năm, từ ngày cất trại cũng sử dụng loại gỗ cở đó hay cán bộ quản giáo thỉnh thoảng cũng bắt tù "chôm chĩa" vài cây mang ra gần đường giấu cất để chúng bán hay cho ai đó làm quà...
Liên trại Z30D, lúc chúng tôi từ Bắc về đây, chỉ còn 2 trại A và B. Nghe nói trước đó có thêm một hay hai trại nữa. Trại A là nơi có cả ban chỉ huy trại ở đó, gọi là trại khung, có mở đường xe chạy ra quốc lộ Nam Bắc. Còn tôi ở trại B, sâu vô rừng, cách trại A chừng hơn một cây số cũng gần bờ suối nhỏ và cạn vào mùa nắng. Trại Z30D có tên là trại Thủ Đức mà lại thuộc lãnh thổ của quận Hàm Tân - tỉnh Thuận Hải, thời Việt Nam Cộng Hòa. Khu này là nơi có vô số bụi lá buông nên có tên gọi khác là Rừng Lá. Lá buông còn non có màu trắng đục, hay trắng có pha màu vàng lợt trông rất đẹp, cho nên người dân thường dùng loại lá này làm nón hay những món đồ dùng trong ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ rất đẹp mắt. Còn lá già có màu xanh đậm dùng trong xây cất nhà...Về cây gỗ, rừng lá buông, ngoài lá mọc khắp nơi bạt ngàn từ trong sâu ra đến quốc lộ Nam Bắc, còn có một loại gỗ quý đối với những người đóng tàu, xuồng hay làm cột cất nhà vì loại gỗ này là cây thao lao hay còn gọi là cây bằng lăng, có đặc tính chống lại con hàu dứới nước thường bám vào lườn xuồng, lườn tàu, chúng đục khoét ăn gỗ. Cây thao lao còn thêm giá trị, thân gỗ nhẹ ít hút nước và thân rất thắng dù cao cả chục thước... Ngoài lá buông, cây rừng, nơi đây có cây thao lao to nhỏ chiếm đến 70 - 80%. Có những cây thao lao to hai người ôm không giáp, sống lưu niên hàng bao trăm năm. Vì vậy, chúng tôi thấy nhiều cây to nằm ngổn ngang cũ mới có đủ như vàng cục vàng cây đầy dãy mà không ai lấy chở đi vì một cây to như vậy bán được bao nhiêu cây vàng phải có xe truck to, cần cẩu lớn mới trục cây to lên xe được. Nhiều cây to mục nát cũng là nơi đến mùa mưa, chúng tôi tìm lấy nấm mối để cải thiện. Như vậy, Rừng Lá này chỉ thấy người ta khai thác có hai thứ là lá buông và cây thao lao. Từ Bắc về đây, tôi thấy có quá nhiều cây bằng lăng có hoa tím đẹp, tôi cũng nổi hứng học ca bài vọng cổ "Hoa Tím Bằng Lăng". Xung quanh hai trại A và B, trên các con đường đi, hay hàng rào trại này trồng đều khắp cây sua đủa vì cây này rất thích hợp thổ nhưỡng nơi đây. Về đây chúng tôi tha hồ mà ăn bông sua đuả như ở các trại tù trên đất Bắc chúng tôi hái đọt sắn luộc ăn thay cơm. Còn ở đây hái bông xua đủa luộc ăn hay chiên xào nấu canh ăn rất ngơn, nếu ăn nhiều quá cũng dễ bị té re, có nhiều mà lại ăn ít cũng là điều nghịch lý.
Chúng tôi được lệnh thả do Bộ Nội Vụ ký, nay bị bắt làm xâu. Ngày qua ngày, cái gì đến rồi cũng đến, phải thả chúng tôi trở về với gia đình. Tôi nhớ không rõ, ngày cấp giấy ra trại chánh thức, nhưng chắc chắn một điều, tôi về đến Sài Gòn hơn 10 giờ tối. Tôi nghe anh xích lô nói, hôm nay đã có chợ Tết, đêm thứ hai rồi.
ĐÓN XE HÀNG QUÁ GIANG VỀ BẾN XE MIỀN ĐÔNG
Những ngày cận Tết Nguyên Đán mà chúng tôi chưa rời được khỏi nhà tù, dù được thả ai cũng rất vui mừng mà lại chưa trọn vẹn hưởng vì còn bị cù cưa với cái trại Z30D này phải làm "nghĩa vụ" tư riêng cho trại cho cán bộ quản giáo...
Khi có lệnh tập hợp trước văn phòng trại, xếp hàng chờ đợi, khoảng 9 - 10 giờ sáng, mỗi lần gọi tên chừng người lên xác nhận tên họ, địa chỉ để cho nhân viên viết tay vào giấy Ra Trại, nếu ai khi vào trại tù có "đăng ký" gởi tư trang như đồng hồ, bóp, tiền...sau khi nhận giấy ra trại rồi ra ngoài đợi cán bộ gọi vào chỗ lãnh tư trang - cái khâu này lâu nhứt - hình như trại muốn làm thế để ai đợi lâu sốt ruột "bỏ của chạy lấy người", trại sẽ hưởng các thứ đó? Đến giờ ăn trưa, nghỉ chừng một tiếng mà mới giải quyết được hơn 1/3 còn gần 2/3 nữa mà đã qua 1 giờ trưa rồi. Ai được cấp giấy ra trại vội vã khoác ba lô lên vai, đi như chạy ra quốc lộ đón xe về Sài Gòn. Còn những ai có tư trang gởi còn phải chờ để họ trao lại.
Chẳng may, tôi và chừng 8 người cuối cùng chưa nhận được Giấy Ra Trại và nhận lại tư trang mà đã gần 5 giờ chiều rồi. Chúng tôi nôn nao lo lắng không thể đứng yên đi tới đi lui, cứ lo nhận được giấy ra trại, ra quốc lô tối quá, không có xe đò, rồi sẽ ngủ ở đâu? Khi gọi tên tôi cùng với 4 anh nữa làm thủ tục ra trại, làm xong chừng 5 phút, họ trao giấy cho tôi còn chúc ra về bình an vui vẻ nữa và bảo tôi đợi nhận lại tư trang rồi hãy ra khỏi trại. Tôi đứng đợi, khoảng 10 phút mà vụ nhận lại tư trang êm re, tôi nghĩ ngay phải bỏ của chạy lấy người để còn chạy ra quốc lộ đón xe vì đã 5 giờ chiều rồi. Thế là bỏ lại cái đồng hố Omega và 20 đồng cùng với cái bóp da "tặng cho trại". Ba lô rất nhẹ chỉ còn mùng mền vài bộ đồ còn tốt và vài vật dụng tự làm trong trại và đặc biệt cái điếu cày thân thương của đời tù. Tôi khoác lên lưng, đi nhanh ra khỏi trại, đi chừng vài chục bước, tôi thấy đi sao còn chậm, lấy giép cầm tay, đi chân đất thoăn thắt mà cũng thấy chậm. Thỉnh thoảng ngó lại sau lưng sợ bò vàng kêu lại "nhờ chút việc" thì bỏ mẹ, nhớ lại hồi xưa mỗi ngày tôi chạy bộ 12 cây số, nay con đường ngắn trên 2 cây số thì có nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ. Thế là, tôi chạy, dù tuổi đời lúc đó cũng vào 50 rồi, ở tù khổ sai cũng gần tròn 10 năm, thể xác bị bào mòn. May về được miền Nam hơn 2 năm nên sức khỏe cũng được hồi phục khá tốt, và ý chí vươn lên quyết tâm về đến nhà tối hôm nay là động cơ giúp tôi "thêm sức" chạy một mạch ra đến quốc lô. Trời bắt đầu nhá nhem tôi, tôi đứng nghỉ, đợi có xe đò hay xe hàng đón về Sài Gòn. Chừng mười phút, có 3 anh nữa, cũng bắt chước, giép cầm tay chạy lúp xúp theo tôi ra quốc lộ. Nhóm chúng tôi có 4 người đều đón xe về Sài Gòn rồi sau đó mạnh ai nấy tự tìm cách về nhà. Tôi đề nghị liền, bây giờ tối, chắc khó còn xe đò, mình đón xe hàng mà đứng đông quá, sợ họ ngại không dám cho quá giang, tôi nói ba anh ngồi dưới gốc cây, cách chỗ tôi đứng hơn 10 mét. Đợi tôi "ngoắc" ra hiệu xe đò ngừng, các anh hãy nhanh ra, xin chở bọn mình về bến xe Miền Đông, các anh vui vẻ đồng ý liền.
Chừng nửa tiếng đứng đợi, từ xa có ánh sáng của chiếc xe đang chạy tới, không biết xe đò hay xe hàng, tôi đứng ra gần sát ven lộ, cầm nón phất qua phất lại liên tục, tôi thấy xe đã giảm tốc độ, tôi càng phất nhanh, xe thắng dừng lại, chú tài xế trẻ xuống kiếng nói lớn, chú là tù mới thả ra muốn về Sài Gòn phải không?. Tôi đáp lớn, đúng rồi, và đi lại gần cửa xe, nói với chú tài xế làm ơn cho bốn anh em chúng tôi về Sài Gòn vì chúng tôi vừa mới thả ra đợt này. Chú tài xế cón trẻ, chừng trên dưới 30 tuổi, vui vẻ nói: tôi chạy xe đường này, thường gặp như các chú nhiều lần rồi, chúng cháu quý mến các chú chế độ cũ... Ba anh bạn, thấy xe tải ngừng đã vội chạy đến gần tôi rồi. Chú tài xế nói, chú ngồi ở ca bin với cháu, còn ba chú thì ngồi ở trong mui, cháu mở cửa sau ba chú leo lên vì xe trống, không có chở hàng hóa lượt về.
MÓN NGON MỘC TỒN TRONG TRẠI TÙ Z30D & NỒI MẮM KHO TRẠI TÂN LẬP
Khi đoàn tù của liên trại Tân Lập Vĩnh Phú lần thứ hai chuyển về trại Z30D, cách vài tháng trước, liên trại này cũng có một cuộc chuyển hàng ngàn tù về Nam sau Tết Nguyên Đán (năm 1982) không lâu, hình như về các trại tù vùng Long Khánh (cũng ở các Z30A hay B - C?). Sau hai chuyển tù về Nam của liên trại Tân Lập, anh em còn lại rất ít, cũng có anh em được thả ra khỏi trại. Sau này nghe anh em nói, có một số anh em phe ta không chuyển trại về Nam hay được thả ra mà lại chuyển về các trại ít hắc ám hơn, ở vùng Hà Nam Ninh và cũng thả ra trong năm 1982. Liên trại Tân Lập - Vĩnh Phú chuyên nhốt tù thua cuộc của Miền Nam, nay như giải thể, không biết CSBV sử dụng trở lại trại tù này nhốt tù hình sự hay làm việc gì với một cơ ngơi 5 trại rộng lớn chiếm hàng trăm héc-ta đất canh tác của người dân.
Trong lúc chờ đợi, đón xe, ban đầu tôi lo sợ không có chỗ ngủ qua đêm, nếu đón tới khuya không có xe cho quá giang về Sài Gòn. Trong lúc lo lắng vu vơ, bổng tôi nhớ có bà chị nuôi cũng ở vùng này. Khi gia đình chúng tôi còn ở Bà Bài, chị đến cắt lúa mướn cho gia đình và cảm mến gia đình, xin làm con gái nuôi, ba má tôi chấp nhận. Khi gia đình chúng tôi tản cử ra tỉnh lỵ Châu Đốc 1947, chị có đến thăm hỏi và ở chơi với gia đình vài ngày, lúc ấy chị qua tuổi 20. Vài năm sau, chị đến thưa với ba má tôi đứng làm chủ hôn vì ba má chị đã mất sớm. Ba má tôi đồng ý, tổ chức đám cưới cho chị, ba má tôi bao hết chi phí đải đằng bà con hai họ. Sau hơn mười lăm năm, tôi lại gặp chị tại khu vực Rừng Lá có trại tù Z30D. Tôi và tồ 8 người được bò vàng quản giáo ra lệnh đẩy xe cải ra khu dân cư ở ven quốc lộ bán gây quỹ cho trại. Sự tình cờ hy hữu, chị Tư (quên tên) chị nhận ra tôi, lại nói nhỏ với tôi, chị tư nè, em có nhớ chị không? Lúc bấy giờ tôi mới sực nhớ lại chị. Chị tư nói lớn, anh em để số cải còn lại tôi mua hết, tôi sẽ bán lại, tôi còn làm dưa chua để chuẩn bị ăn Tết, mời anh em cứ uống nước tự nhiên, cà phê, nước ngọt. nước dừa, tôi bao hết. Anh em cứ ngồi nghỉ cho khỏe rồi hãy đi về trại. Quán cà phê của chị tư cũng có bán nhiều thứ cần thiết khác để bán cho bà con đến thăm nuôi thân nhân tù mua đồ dùng còn thiếu...Chị khều tôi ra sau bếp nói, anh tư của em và anh em ở Châu Đốc, bỏ quê hương trốn lên đây, chuyên đi rừng đốn cây làm củi, chặt lá buông bỏ mối và có cả lò hầm than. Chị nói nhỏ, anh tư không trình diện cùng vài bạn trẻ cũng sĩ quan về đây làm ăn, nay có cuộc sống vững, có hộ khẩu, chúng minh nhân dân. Tôi có nghe gia đình cho biết anh tư là sĩ quan giáo phái Hòa Hảo đồng hóa sang QLVNCH, chị nhét vào túi tôi vài chục, tôi trả lại chị, nói em mang tiền vô trại bị xét thêm phiền hà, cám ơn chị. Và chúng tôi trở về trại sớm hơn các lần bán khác. Cuối năm 1984, đội rau xanh của chúng tôi, trồng cải bẹ xanh trúng mùa, trại ăn không hết đưa đi khu dân này bán nữa và một lần ra đây mua một con nai đồng quê - cầy tơ - về mần thịt do trại thưởng công đội rau xanh.
Khi từ trại được ra chạy một mạch đến quốc lộ quẹo phải đợi xe quá giang, nếu tôi nhớ quẹo trái hướng Hàm Tân (miền Bắc), tôi sẽ gặp lại chị tư, đâu còn lo lắng, có thể tôi ở lại qua đêm, sáng hôm sau, chị tư đón xe đò cho tôi về Sài Gòn.
Nhớ đến xóm nhà dân này cũng cả trăm nóc gia ở hai ben ven lộ, sau vụ bán cải cho chị Tư, chừng một tuần, đã vào tháng chạp. Cán bộ quản giáo cũng muốn thưởng công đội rau xanh chúng tôi trúng mùa và bán cải có tiền cũng kha khá cộng chung gần hai trăm đồng, cán bộ quản giáo xuất qũy 20 đồng cho đội đi mua một con chó về mần thịt bồi dưỡng cho cả đội. Đội cử tôi và ba bạn nữa đi ra khu dân tìm mua "nai đồng quê", tôi không gặp chị tư vì chị đi về quê chồng ở xã Hòa Hảo. Chúng tôi đi cả giờ mà mua chưa được con chó nào cả. Lúc này, gần Tết, các bò vàng hai trại A-B của Z30D ra xóm này "vớt" hết chó rồi, chúng tôi lại đi buổi chiều nữa nên tìm không ra. May, tôi thấy một con chó lông vàng mập mạp, đang bị nhốt, nhưng rất tiếc bị ghẻ ở mông mà các bò vàng đi buổi sáng chê. Tôi đề nghị, mình mua đại con chó ghẻ này, họ lại bán rẻ 16 đồng, tiền còn dư mua thêm ba xi đế, ăn thịt chó mà có ba xi đưa cay thì ngon hết ý. Tôi còn nói thêm, khi mình thui, nhớ thui chỗ bị ghẻ cho thật kỹ và còn nấu chín nữa, vi trùng gì vào lửa đốt, nước sôi cũng sẽ chết hết và cũng nên cắt bỏ mảng thịt ghẻ một ít, anh em đồng ý. Ở tù cả chục năm mới có một lần duy nhứt, được bò vàng cho tiền mua nai đồng quê mần thịt bồi dưỡng, quả thật ngàn năm một thuở. Tôi giữ 20 đồng, không lẽ mang tiền về trả lại quản giáo, coi không đặng chút nào hết. Tôi còn xin ông chủ bán cho thêm đồ phụ tùng tẫn liệm con cầy tơ này. Hơn nữa, ông chủ nhà bán được con chó ghẻ cũng mừng húm, ông cho chúng tôi nhiều gia vị, có cả cà ry, con mẽ, nước mắm và những phụ tùng linh tinh để chúng tôi hóa kiếp cho con cầy xấu số này sớm siêu thoát vào dạ dày. Ông chủ còn cho cái can nhỏ, ông đi mua giùm ba xi đế nào ngon nhứt ở xóm này. Con chó bị trói bốn chăn lại, ông chủ còn cho một cái đòn, chúng tôi luân phiên khiên về trại cũng xế chiều, thông báo cho cán bộ biết, tiền còn dư, chúng tôi mua rượu...
Thú thật, ăn thịt chó đối với tôi không có sợ tội phước như nhiều người miền Nam nghĩ, tôi có nhiều người bạn thân gốc Bắc Kỳ chín nút ở vùng Tam Hà, Long Thạnh Mỹ - Thủ Đức thường đải tôi những món ăn thịt chó "bảy món', tôi chỉ ăn qua loa vài món, không mê như các bạn tôi. Nay có dịp, tôi muốn ăn lại món "mộc tồn" này coi có sướng cái miệng không? Nhưng cái kẹt, tôi đi mua chó ghẻ nên ăn cũng không mạnh miệng, ăn vài miếng và đưa cay vài hớp rượu đế cũng có cảm giác sướng tê gân. Không biết, tôi được ăn thịt chó có được may mắn không, chỉ vài ngày sau có tên được thả khỏi trại?
MẮM KHO CHÂU ĐỐC - Nói về ăn, tôi liên tưởng đến món ăn ngon của quê hương Châu Đốc thì rất nhiều, nhiều lắm với các món ăn về cá đồng. Về thịt thì có thịt bò xào lá dang (ngoại trừ tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo kiêng cử ăn thịt bò, trâu, chó...) với nước cốt dừa mà các tỉnh khác của đồng bắng sông Cửu Long ít có. Những món thịt đồng có nào rắn, rùa, chim. chuột... mà món ăn vang danh nhứt của quê hương Châu Đốc là mắm kho và các loại mắm. Cũng như các loại khô cá lăng phồng, cá lóc, cá sặc bổi cũng được du khách đi Châu Đốc viếng cảnh "năm non - bảy núi", Vía Bà Chúa Chúa Xứ Núi Sam...không thể nào quên mua các món ăn ngon độc đáo của Châu Đốc mang về làm quà tặng gia đình, bà con, bạn bè.
Trại tù K1 (hay K4) Tân Lập, có nhiều anh em gốc Châu Đốc ở nhiều đội trong các lán gần nhau thường lãnh xong phần ăn, quây quần bên nhau vừa nhai sắn vừa kể chuyện Châu Đốc cho nhau nghe. Đặc biệt là kể các món ăn ngon độc đáo của quê hương mình trong các bữa ăn chung chừng năm sáu người hay cả chục người vào những ngày nghỉ lao động. Trong trại tù gặp lại bạn bè đồng hương cùng lứa tuổi hay học cùng trường cùng thầy cô thì có nhiều chuyện để gợi nhớ quê hương kể cho nhau nghe, nhứt là những món ăn mà mình thích và nhiều người mê.
Có một buổi ăn trưa, anh em ao ước nếu có mắm cá sặc kho của quê Châu Đốc thì chắc anh em vui lắm. Còn gì bằng, mọi người cùng khổ, cùng nhau thưởng thức mốn ăn ngon độc đáo như là đặc sản của Châu Đốc, chắc sướng lắm lắm! Cái ao uớc dễ thương đó đến tai bạn Vương Văn Trung (Thiếu tá thuộc Tiểu khu Châu Đốc) vừa có quà của vợ Trung gởi nuôi chồng, có một hủ mắm cá sặc và mắm thái. Trung nói với tôi là xin đóng góp hơn nửa chén mắm cá sặc để tôi kho cùng anh em Châu Đốc "chén" một bữa. Có người bạn khác cũng còn chừng một chục con mắm cá sậc cũng xin đóng. vài anh khác góp một ít gạo hay có cái gì như cá khô, tôm khô... cũng đóng vô "quỹ" cho một bữa ăn trong trại tù. Thế là "tài nguyên" mắm của tôi có hai nguồn cung cấp, được một chén mắm, tôi sẽ kho một nồi lớn cho khoảng 12 người bạn Châu Đốc cùng hòa điệu thưởng thức một nhịp sống quê hương về văn hóa ẩm thực Châu Đốc - mắm kho. Có bạn có "tay trong" làm ở nhà bếp mượn được 2 cái nồi và xin được nhiều nước muối pha loãng để tôi dùng trong việc kho mắm. Trong nhóm này, anh mười Đệ (Chánh Án) lớn nhứt sanh năm 1933, kế là tôi sanh năm 1935. Các bạn nhờ tôi làm "tổng khậu" - Chef cook) vì các bạn cùng tổ cùng đội biết tôi là "chuyên viên" kể các món ăn đồng quê trong đội cho đỡ buồn - trong khi các bạn khác kể chuyện "chưởng" (tôi kể các món ăn đồng quê trong trại tù là tiền đề cho tôi thai nghén viết nên tác phẩm Chuyện Đồng Quê, xuất bản tại Sacramento - CA năm 1999 - bán như tôm tươi - tiền lời thừa mua được một chiếc xe truck cũ, chưa quá 30,000 miles và mua computer, máy in chuẩn bị ra báo - bán nguyệt san Tiếng Vang).
Tôi xin mở ngoặc, tại sao, phải lựa chọn mắm để dành lâu mà không sợ hư thối, đắng, chua, lên men, mắm cá sặc để lâu được, vì không có trộn đu đủ như mắm thái (cá lóc thái mỏng hay xé ra). Còn mắm cá linh là loại mắm rẻ tiền nhứt lại để lâu không được thường bị "lên dầu" (mỡ) hôi, đắng hoặc chua vì cá linh mềm, có nhiều mỡ hơn cá sặc. Hơn nữa, mắm cá linh trong khâu kho mắm hay ăn sống không ngon bằng mắm cá sặc. Mắm cá linh khi có mốc xanh, hư thối ăn rất hại sức khỏe. Còn các loại cá lớn con như mắm cá lóc làm sao ăn từ từ phải có dao cắt, lại bất tiện đủ mọi bề và mắm cá lóc lại mắc gấp ba bốn lần hơn mắm cá sặc. Và các loại cá da trơn làm mắm cũng gặp trường hợp như cá linh không để lâu được. Tôi ao ước trong trại tù mà mỗi bữa ăn nếu có một con mắm cá sặc ăn với sắn, rau luộc cũng sướng như tiên "mắc đoạ" rồi - xin đóng cái ngoặc.
Nhóm chúng tôi thường ăn chung có khoảng 5 người như: Chánh Án Nguyễn Văn Đệ - Tòa Hòa Giải (Sơ Thẩm Châu Đốc - định cư Orange County - CA) - Hồ Thanh Chiếu (Đại úy - quê An Phú - hiện định cư ở Seatle - WA) - Nguyễn Văn Hoài (Thượng sĩ P2/TK Châu Đốc - hiện định cư ở Sacramento) - Võ Ngọc Xoàn (Trưởng P2 TK Châu Đốc - Thiếu tá Quận Trưởng), có một người bạn của Chiếu là Trần Thụy Anh (gốc Bắc di cư - Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng - hiện định cư ở Úc) và tôi (Thiếu tá Trưởng Phòng TLC Biệt Khu Thủ Đô)... Nhóm nhỏ này có lúc đông hơn hay ít hơn 5 người, vừa ăn vừa kể chuyện "đời xưa" của cái xứ mắm, nổi tiếng cả nước. Các loại mắm ở Châu Đốc đến thời điểm "chao đường" người ta dùng đường thốt nốt chảy (rẻ hơn đường thốt nốt thành tán, cục) màu sắc tự nhiên, có mùi thơm đặc biệt, ngọt thanh hơn các loại mắm làm ở Long Xuyên hay các nơi khác chao đường bằng "đường thùng" - đường chảy lấy ra từ cây mía.
Ngày vui đến, dịp gần cuối năm (trước sau năm 1980). Với óc tổ chức, kinh nghiệm trong nhiều lần cắm trại, ăn tập thể của học sinh, tôi nhờ nhiều anh lo giúp tìm củi khô dự trữ sẵn. Anh lo chặt vài cây chuối rừng chỉ lấy cái phần non bên trong về xắt làm gõi - "nộm" - anh hái rau rắp cá trộn gõi, có anh giúp gom những đóng góp của anh em... Cái món mắm kho độc đáo của anh em chúng tôi là chỉ có một chén mắm mà với cái nồi to nấu cho 12 người ăn, không có cà tím, không cần thịt cá gì hết, chỉ cần có thêm nước muối mới có đủ chất mặn để chang ăn ghém chuối rừng. Tôi đứng bếp, kho cả tiếng cho xương cá tan biến cùng với nước đại dương. Người ta kho mắm phải lược bỏ xương mắm, còn anh em chúng tôi tận dụng xương mắm được coi như là thịt cá được kho chung với mắm. Khi tôi giở nắp nồi lên cũng có mùi mắm thoang thoảng cũng làm cho chúng tôi chảy nước miếng và hình ảnh thân thương của xứ mắm Châu Đốc hiển hiện trước mắt đến những người con xa xứ lạc loài bị đày ải nơi "đất khách quê người" - miền Bắc nghèo mạt này. Cái nồi mắm kho đủ chia cho mỗi người một chén nước muối lạt gọi là mắm kho với nước đại dương chang vào ghém ăn cũng ngon ra phết. Còn cơm thì cũng chia cho mỗi người cũng được một muỗng canh. Vừa có cơm, vừa có mắm kho ăn với ghém lõi chuối rừng cùng với sắn bữa ăn tiêu chuẩn cũng vui cũng sướng, đã như thường. Bây giờ, các món ăn ngon nhiều quá, nhưng, đều thua xa món mắm kho đại dương của đầu bếp Trần Văn Ngà ở trại tù Tân Lập, mới nhớ đời. Cả đời tôi chỉ có một lần duy nhứt, vô tiền khoán hậu, vừa là người đứng nấu nồi mắm kho bất hủ không giống ai mà lại ngon tuyệt vời trên cả tuyệt vời. Đố ai học được cách nấu mắm kho nầy?
CHUYỆN ÂN TÌNH CỦA TÀI XẾ XE HÀNG & CÁC CHÁU Ở CÁC GA XE LỬA
Chuyển trại về Nam, khởi hành từ K5 Tân Lập Vĩnh Phú, có đến hàng trăm chiếc xe đi về ga Hà Nam Ninh, nghĩa là ra khỏi Hà Nội vì, số tù quá đông. Đoàn công voa chạy ngang qua Thủ đô Hà Nội của người ta, chúng tôi có dịp ngắm "Hà Nội 36 phố phường" vào buổi chiều cuối xuân năm 1982 oi bức. Chúng tôi có dịp rửa mắt một thành phố buồn hiu vì dân cả Hà Nội ùn ùn tìm cách len lỏi vào miền Nam liên tục từ ngày 30.4.1975, như người ta náo nức đi ra nước ngoài chiêm ngưỡng cái văn minh hào phóng giàu đep hơn miền Bắc. Đoàn xe chạy qua Hà Nội về đến ga Hà Nam, ra khỏi ga chừng vài cây số là làng quê cũng vào chiều tối, đoàn xe công voa dừng lại. Được lệnh xuống xe tải, vẫn hai người một còng, tôi bị còng chung với anh Thiếu tá cảnh sát, Chỉ huy trưởng Cảnh Sát quận Gò Dầu hay Trảng Bàng? (tây Ninh), lớn tuổi hơn tôi. Chúng tôi cứ thoải mái ngồi dựa lưng vào ba lô đồ đoàng lỉnh kỉnh nghỉ ngơi. Từ sáng sớm 2 - 3 giờ, đến lúc đó ai cũng oải gân. Có lệnh loan báo, chúng tôi nghỉ ở đây, đợi tàu lửa ghé đón mà không cần phải di chuyển đi đâu nữa. Chúng tôi còn gì moi ra ăn hết cho đở đói, còn khát có bi đong sẵn có nước tu một ngụm cũng đở lòng chiến sĩ thua cuộc.
Khoảng 11 giờ khuya, xe lửa ngừng lại, có lệnh đội nào lên toa số mấy có bò vàng súng ngắn, súng dài "hộ tống" đưa lên toa xe lửa. Bị còng một tay, một tay xách hành lý bước lên xe rất khó khăn. Hai tên bò vàng hộ tống đẩy chúng bước lên, suýt té, chúi nhủi và vào ghế gỗ ngồi, từng cặp. Một người đi toilet thì người bạn ngồi ở ngoài, cửa toilet mở toang để cả hai cũng ngữi một thứ mùi thơm tho đặc biệt. Tôi không nhớ rõ, hình như còn có thêm 2 đêm nữa trên xe lửa, đêm đầu mãi gần 2 giờ sáng tàu hỏa mới lăn bánh bỏ lại đất Bắc xã hội chủ nghĩa nghèo khổ buồn tênh.
Khi đoàn tàu về đến cầu Hiền Lương - Quảng Trị (vĩ tuyên 17 - chia cắt hai miền Nam Bắc). Dù mệt và quá buồn ngủ mà không chợp mắt được vì cái cùng khổ nghiệt ngã ở các trại tù miền Bắc đày đọa hành xác ác độc mà không chết, nay về đến "quê hương miền Nam" như chim xổ lồng, Con đường hầm tăm tối đau khổ, nay có ánh sáng lóe lên, không bỏ xác trên đất Bắc, mà không phải là hy vọng mà tự tin, chắc chắn tôi sẽ gặp lại gia đình.
Qua cầu Hiền Lương xuôi về ga Quảng Trị, đoàn tàu dừng lại nhận tiếp tế chừng hơn 10 phút, các em cháu bán bắp, khoai lang, đậu phộng nấu cũng như mía ghim, đến các cửa toa rao mời hành khách mua giúp. Chúng tôi làm gì có tiền để mua, dù đói meo, chỉ biết đưa tay bị còng lên báo cho các em cháu biết tù thuộc chế độ cũ. Các cháu không cần bán, cứ ném, thảy lên bắp, khoai, mía ghim cho chúng tôi đón bắt. Toa xe phía trước, có hàng mấy chục bò vàng theo áp tải tù, cũng gọi các em cháu ném mía ghim hay chuối cho chúng. Các con cháu của "ngụy quân ngụy quyền" thay vì thảy lên nhẹ từ trái chuối một, từ trái bắp hay gói đậu phộng, khoai lang lên còn thông báo chúng tôi đón bắt. Khi bò vàng gọi các em cháu bán buôn đó, cũng ném lên mà không thông báo trước, ném cả khúc mía hay nửa nải chuối sống, ném mạnh trúng tên nào tên đó lãnh đủ, Mặc sức bò vàng la hét, văng tục mà chúng chẳng dám xuống xe. Tôi nghĩ nếu có tên nào ngu quá nhảy xuống, các em cháu sẽ ném hết cái gì các em có vào mặt, thân xác bò vàng, bỏ của chạy lấy người, thoát thân. Từ Quảng Tri về Nam, đoàn tàu còn dừng nhiều nhà ga lớn, cũng có cảnh bán buôn như ở ga Quảng Trị, Huế mà các con bò vàng lặng im không còn dám kêu gọi các em cháu bán lẻ ném thức ăn kể cả thuốc lá. Các em cháu thấy chúng tôi đưa tay bị còng lên và chúng reo hò, chúng "thảy" lên vài điếu để trong bao thuốc lá đàng hoàng. Còn các em cháu, thấy bò vàng là ném cả gạch đá nhỏ, trả thù dùm chúng tôi.
Đó mới biết sau 7 năm "phỏng giái - giải phóng", đồng bào và các em nhỏ ở miền Nam Việt Nam còn nhớ ơn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, dù nay bị ngã ngựa, các chiến sĩ năm xưa đó luôn có tinh thần vì dân, đặc biệt trận chiến Tết Mậu Thân - 1968 ở Huế - mùa Hè đỏ lửa năm 1972 ở Quảng Trị...
Khi được thả ra khỏi trại tù Z30D - Hàm Tân (Rừng Lá), tôi không nhớ rõ, ngày cấp giấy ra trại chánh thức, nhưng chắc chắn một điều, tôi về đến Sài Gòn hơn 10 giờ tối. Tôi nghe anh xích lô nói, hôm nay đã có chợ Tết bán đêm qua ngày thứ hai rồi. Tôi nói anh làm ơn chở tôi đi vòng ra đường Nguyễn Huệ để thoáng nhìn chợ hoa, chợ Bến Thành và chạy thẳng về Cầu Chữ Y theo Đại lộ Trần Hưng Đạo, tôi sẽ thấy thêm cảnh họp chợ Tết ban đêm ở chợ Nancy thân thương của tôi từ lúc tôi mới lên Sài Gòn hoa lệ ở trọ nhà bạn gần chợ Nancy năm 1957, thử coi ra sao.?
Lần đầu được ra khỏi trại tù hắc ám, khổ sai ngoài Bắc chuyển về nhốt tiếp ở trại tù Z30D qua các cử chỉ hành động của các em cháu nhỏ đối với những người tù thua cuộc chúng tôi, các em cháu rất hào phóng. Dù gia đình nghèo khổ mà các em cháu dám biếu tặng hết những món hàng chúng bán góp nhặt tiền lời để có đủ tiền mua thực phẩm nuôi gia đình trong ngày. Cái cao đẹp của các em cháu dám hy sinh cả vốn lẫn lời giúp những người sa cơ thất thế, tôi miên man suy nghĩ, gia đình các cháu chắc phải chịu đói hay ăn cháo môt ngày để các cháu biểu hiện tình cảm chân phương ân nghĩa của giới bình dân, nghèo khổ.
Còn ngày ra trại tù Z30D, gặp chú tài xế ở độ tuổi trên dưới 30, có chút ít kinh nghiệm trường đời, có thu nhập khá hơn các em cháu nhỏ, thay vì sống ích kỹ. Qua lời nói, dù đêm tối, cháu cũng không sợ bị cướp chận đường mà vì tấm lòng vị tha bác ái, cháu ngừng xe lại cho bốn anh em chúng tôi về đến bến xe Miền Đông (Sài Gòn). Đây là những ân tình bất diệt của những người dân miền Nam đối với người chiến sĩ thua cuộc bị tù đày khổ sai từ Nam ra Bắc và trở về Nam.
Nếu các chiến sĩ hay quân dân cán chính từng phục vụ dưới chánh thể VNCH mà tàn độc như cán bộ của chế độ cộng sản, tôi tin chắc sẽ không có những cháu bé và chú tài xế giàu lòng nhân ái cứu giúp người thua cuộc như chúng tôi.
NGHỆ SĨ MINH CHÍ VUA "XÀNG XÊ" CHÀO MỪNG ĐẦU TIÊN NGƯỜI TÙ MỚI VỀ
Từ bến xe miền Đông, anh lái xe xích lô, theo lời yêu cầu của tôi, đưa tôi đi lòng vòng và đạp chầm chậm để tôi chiêm ngưỡng lại hình ảnh chợ Tết về đêm của Sài Gòn. Tôi hướng dẫn anh lái xe ngang qua số 15 đường Lê Lợi (góc đường Lê Lợi - Tự Do, bên kia đường Tự Do là trụ sở Quốc Hội Hạ Nghị Viện, bên phải là nhà hàng khách sạn Caravelle, bên trái có Continental. Tại khu vực này, ngoài hai nhà "hàng Tây" to sầm cực sang thời đó, còn có các nhà hàng nhỏ cũng thuộc loại "quý phái" như Givral - Broadard - La Pagode, quán cà phê thời danh ở góc đường Lê Thánh Tôn và Tự Do - nhà sách chuyên bán sách báo Pháp và ngoại quốc Portrail-tên Việt, Xuân Thu - pharmacie La Thành của dược sĩ La Thành Nghệ (có thời là Nghị Sĩ Thượng Viện - Quốc Hội. Trước năm 2000, Bác La Thành Nghệ định cư ở thành phố Stockton - đã qua đời trên 15 năm - cùng bàn bạc với chúng tôi ở Sacramento tổ chức khu an dưỡng người cao niên Việt (+Á Châu...) khoảng gần giữa xa lộ 99 - Sacramento-Stockton, bao gồm: nhà dưỡng lão, phòng khám bịnh, nghĩa trang...
Khu vực này có Tòa Đô Chánh - rạp ciné sang nhất ở Sài Gòn là Rex - Trụ sở Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam - Trung Tâm Quốc Gia Báo Chí - khách sạn Catinat do người Việt làm chủ... Công việc làm của tôi tới lui như hàng ngày ở khu vực này trên 4 năm cho đến ngày 30.4.1975. Tôi có dịp ăn uống, dạo quanh khu vực nổi tiếng còn có tên là khu radio Catinat, nghĩa là nơi đây tung tin đủ thứ tin tức giựt gân thượng vàng hạ cám cái gì cũng có kể tin giã. Và là nơi tập trung ký giả quốc tế, quốc nội, tình báo quốc tế, tình báo cộng sản và của phe ta đều có hiện diện ở khu vực sang trọng này. Ngôi phố lầu đồ sộ ở số 15 Lê Lợi, là Trung Tâm Quốc Gia Báo Chí (sau chuyển qua đường Tự Do cũng ở gần đó) và văn phòng Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam. Ngang cửa văn phòng Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam có tượng đài sừng sững người chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiền QLVNCH đối diện với Trụ sở Hạ Viện. Xích lô chạy về đến đây, tôi vô cùng xúc động, nhớ lại bao kỷ niệm, có nhiều năm tôi có nhiệm vụ theo phát ngôn nhân Quân Đội (tôi làm phụ tá) họp báo hàng ngày sáng chiều tại Trung Tâm Quốc Gia Báo Chí. Có khoảng một năm, tôi đảm trách Trưởng Ban Điểm Báo Quốc Phòng của Khối Thông Tin & Giao Tế Dân Sự của Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Tri, cũng là thành viên của ủy ban kiểm duyệt các nhựt báo tại Trung Tâm Quốc Gia Báo Chí. (H: Cờ - biểu tượng nhựt báo Ashi Shimbun - năm 2010 mỗi ngày phát hành 8 triệu số - năm 2016 phát hành 6 triệu rưởi số - Nhật Bản có 3 tờ đại nhựt báo, trước năm 1975, tôi đều có cộng tác, mỗi tờ phát hành hàng ngày cả chục triệu số - Yomiuri Shimbun tờ báo lớn nhứt phát hành năm 2016 còn trên 9 triệu số. Tờ nhựt báo thứ ba là Mainichi Shimbun - ấn bản buổi sáng trên 3 triệu số - ấn bản buổi chiều trên 1.6 triệu, năm 2016 - trích trên Google).
Cả một chuổi ngày dài, tôi thường có mặt ở khu vực này. Nay kỷ niệm xưa hiện về mà tôi đoán trước, ra khỏi nhà tù nhỏ, lại vào nhà tù lớn của cả nước. Tôi sẽ ít có dịp trở lại khu vực này vì phải quần quật kiếm sống vất vả, đâu có cơ may trở lại đây. Tôi còn nhớ rõ, cái hào khí "anh hùng tử - khí hùng bất tử" của Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến đúng sáng sớm ngày 30.4.1975 trong lúc tôi đang đi đến văn phòng nhựt báo Nhật Bản Asahi Shimbun thay bỏ quân phục, cởi giày nhà binh và súng colt 45, tôi ném vào thùng rác to của khu vực này.
Vào văn phòng Asahi nằm nghỉ một chút lấy sức vì cả đêm 29.4.1975, tôi ở trong trại Lê Văn Duyệt - Biệt Khu Thủ Đô lo tiếp tế thực phẩm cho các chiến sĩ từ Biên Hòa rút quân về đây. Từ tối 28 và ngày 29.4, Tổng Cục CTCT, Trung Tướng Trần Văn Trung gọi cho tôi biết, Tổng Cục sẽ cho cho tôi 3 xe GMC thực phẩm dự trữ trợ giúp các đơn vị chạy về tăng cường phòng thủ cho Biệt Khu Thủ Đô...
Xích lô chạy ngang nhà ông bố vợ tôi gần nhà hàng Kim Sơn, ngang qua rạp Đại Nam, rạp cải lương Nguyễn Văn Hảo và chạy đến chợ Nancy. Tôi như sống lại thời vang bóng năm xưa mà ngậm ngùi nuối tiếc khôn nguôi.! Đến đầu cầu chữ Y, nhánh lò heo Chánh Hưng, tôi dặn kỹ anh lái xe, vừa xuống dốc, cái hẻm đầu tiên bên trái, xe dừng lại trước quán cà phê trên mặt tiền, nhà tôi ở phía dưới sát bờ sông, cách quán cà phê chừng mười lăm mét.
Xe dừng lại, anh năm Minh Chí nói lớn Thiếu Tá Ngà được thả về rồi, gia đình chúng tôi còn thức nghe tiếng anh Minh Chí, cả gia đình lật đật chạy lên đường Hưng Phú đón "chàng về dinh" tử địa ngục lao tù. Tôi nói gia đình mang tiền lên trả anh lái xích lô, tôi cám ơn anh và tặng thêm tiền típ.
Khu tôi ở, có nghệ sĩ vang bóng một thời là Minh Chí cùng với nghệ sĩ thời danh Việt Hùng, một cặp bài trùng có một thời lập gánh hát Cải lương thuộc đại bang Minh Chí-Việt Hùng. Nghệ sĩ Minh Chí ở sát cạnh nhà tôi, chỉ cách một đường nhỏ vào nhà chưa tới hai thước. Nghệ sĩ Minh Chí được giới nghệ sĩ phong tặng là Vua Xàng Xê vì anh ca bản xàng xê luyến lái tuyệt vời. Chúng ta từng nghe Vua Vọng Cổ Út Trà Ôn - Nữ hoàng Cải Lương Thanh Nga - Cải lương chi bảo Bạch Tuyết - vua hát nhạc kích động Hùng Cường - Mai Lệ Huyền... Anh năm Minh Chí người ta còn nhớ tên vì có cái đặc biệt là lấy cả mẹ và con gái riêng của bà làm vợ ở chung một nhà. Bà vợ chánh là đào Ánh Nguyệt, bà bị lao phổi mất tại xóm tôi. Nghệ sĩ Minh Chí đã "vớt" luôn nghệ sĩ Ánh Hoa con riêng trước đó của Ánh Nguyệt, hai mẹ con cùng chung một chồng, ở chung một nhà, đều có con. Ở khu đầu cầu chữ Y này còn có nghệ sĩ Hà Cẩm Thu (kịch nói), bên ban phát thanh truyền hình ngành cảnh sát, nhà ở dưới gầm cầu chữ Y. Vợ chồng Hà Cẩm Thu đều thuộc ngành cảnh sát. Nghe nói sau này, Hà Cẩm Thu cũng khá nổi tiếng về thơ văn ở Sài Gòn. Cả xóm hẻm 1/2A... đường Hưng Phú đổ xô lại bu quanh chúc mừng tôi, hỏi han đủ thứ, bà con mừng tôi trở về xóm cũ mà vẫn còn lành lặn khỏe mạnh. Khu hẻm này xe hơi chạy vào được, chưa tới ba mươi căn nhà, mọi người đều thân quen nhau, có nhiều thiện cảm với gia đình chúng tôi từ trước ngày 30.4.1975 và 10 năm sau vẫn giữ tình nghĩa như cũ...
(Trích tập Hồi Ký Công Tử Nhà Quê Bà Bài, sẽ xuất bản cuối năm 2020 - dày gần 600 trang) Anh Phương Trần Văn Ngà (25.10.2020).CUỘC ĐỔI ĐỜI LẦN THỨ V TỪ NHÀ TÙ NHỎ RA NHÀ TÙ LỚN (TỪ THÁNG 1.1985 ĐẾN 7.4.1993) - Anh Phương Trần Văn Ngà
CUỘC ĐỔI ĐỜI LẦN THỨ V
TỪ NHÀ TÙ NHỎ RA NHÀ TÙ LỚN
(TỪ THÁNG 1.1985 ĐẾN 7.4.1993)
Anh Phương Trần Văn Ngà
LỜI TÁC GIẢ: Đọan văn này trích trong Hồi Ký Công Tử Nhà Quê Bà Bài của tôi, khá dày trên dưới 600 trang, viết lại mọi vấn đề mà tác giã từng trải qua từ những năm còn bé ở ấp Bà Bài, tản cư ra tỉnh lỵ Châu Đốc - dạy tiểu học & huấn luyện viên thể dục thao trường Nam Tỉnh Lỵ Châu Đốc. Sự vươn lên, trôi nổi lên Sài gòn học lại và làm giáo sư trung học dạy trường người Hoa . Thi hành lệnh tổng động viên vào Quân Đội phục vụ ngành truyền thông báo chí Vùng IV Chiến Thuật - phục vụ tại Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị - Biệt Khu Thủ Đô. Và cộng tác nhiều nhựt báo Nhật, Việt, ở tù cộng sản gần 10 năm từ Nam ra Bắc và trở về Nam. Ra khỏi nhà tù nhỏ vào nhà tù lớn, buôn bán chợ trời kiếm sống - Sang Mỹ diện HO bị người Việt qua trước xem thường "kỳ thị" vì làm nghề lao động chân tay cực khổ. Đó là cơ hội trui rèn thêm nhân cách để vươn lên, tôi trở lại nghề cũ năm xưa, làm báo viết báo và ngay bây giờ, chỉ còn hơn hai tháng nữa qua tuổi 86, vẫn còn viết báo có tiền nhuận bút đủ uống cà phê, nhậu lai rai cho vui tuổi già, chờ ngày ra đi...Bài này, chỉ "trích ngang" một đoạn nhỏ - Mời quý độc giả đọc chơi cho quên cái Cô Vi mắc dịch này đang hoành hành khắp thế giới (Hình chụp tại tiệm hình Mỹ Tân - Châu Đốc, lúc từ giã thơ ngây, đã 22 tuổi, dấn thân vào con đường gió bụi - 1957).
RA NHÀ TÙ NHỎ Z30D
Lại một trò lưu manh vặt, thả tù ở giữa rừng mà không cấp phương tiện đưa tù ra khỏi trại để về với gia đình, về đến Sài Gòn hay các tỉnh xa. Đơn giản nhất là cấp cho tù được "giải phóng" đủ tiền đi xe đò về đến nhà ở Sài Gòn hay các tỉnh, còn ăn uống dọc đường nữa....
Nhóm tù chúng tôi được thả ra vào đầu năm 1985 có lẽ khoảng 80 người, cũng là lần thả tù đông nhứt của Liên trại Z30D từ trước đến lúc đó. Khi chúng tôi, cả trại tập họp, nghe đọc lệnh thả, tôi nghĩ làm gì có tên mình, may ra có tên Hạ sĩ Nguyễn Văn Chuối nằm cạnh tôi. Từ Bắc chuyển về đây, em Chuối rất "hồ hởi phấn khởi" tin rắng mình được thả ra đợt này. Còn tôi cứ tỉnh bơ để hồn đi đâu đâu khi bò vàng bắt đầu đọc danh sách, được vài chục người thấy có cả cấp Trung tá và Thiếu tá. Lúc bấy giờ, tôi mới chăm chú lắng nghe, may chó ngáp phải ruồi, mới là ngộ đó.! Tôi nói với Chuối suy nghĩ này. Đùng một cái nghe tên mình, hai lỗ tai tôi lùng bùng hết, mắt như hoa lên, ngất ngây trong vui mừng. Đợi chấm dứt đọc hết tên được tha khỏi trại. Tôi nói liền với Chuối, đồ đạt của anh tặng lại hết cho em, anh chỉ lấy một vài món mang về làm kỷ niệm mà thôi. Tôi còn cho Chuối địa chỉ nhà ờ Cầu Chữ Y và dặn khi nào em được ra về Sài Gòn ghé anh, anh chị sẽ giúp em tiền mua vé xe về Thốt Nốt (An Giang). Tôi căn dặn Chuối trong lúc còn đợi lệnh cho về trại thu xếp "tư trang". Lúc ấy cũng khoảng 11 giờ sáng, tôi ra khỏi lán, chuồng giam, chỗ nằm "thân thương" trên dưới 2 năm không bị rệp chích. Có lẽ rệp Hàm Tân biết phe mình sa cơ thất thế ở tù, đốt cũng tội nghiệp.! Còn loài rệp ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa cũng cùng hung cực ác, giống sếp của nó chỉ biết hút máu người tù miền Nam thua cuộc chiến quốc cộng, hút máu cho đến chết càng tốt.
Khi ra khỏi cổng trại giam, các con bò vàng dẫn mấy chục người chúng tôi từ trại B đi ra ban chỉ huy trại - trại A, họ đưa chúng tôi đến một cái nhà lớn bỏ trống như là hội trường của trại cũng gần ban chỉ huy trại ở tạm đợi cấp giấy ra trại trở về đời sống bình thường. Theo lẽ, cách làm việc đúng đắn, chúng tôi đã có Giấy Ra Trại được đánh máy sẵn trước từ lâu rồi, ra trại được cấp liền để chúng tôi còn phải đi bộ trên dưới 3 cây số từ trại ra đến quốc lộ Nam Bắc để đón xe đò về Sài Gòn. Một tên bò vàng có lẽ là sĩ quan cũng có chức sắc gì đó, ra lệnh chúng tôi cử người lấy phần ăn trưa, cứ nghỉ tạm ở đây đợi khi nào có giấy ra trại sẽ thông báo sau. Sau bữa ăn trưa xong, chúng tôi dài cổ trông đợi văn phòng trại gọi lấy giấy ra trại và còn đi bộ ra đường đón xe nữa, chiều tối hết xe chạy thi làm sao?
Bữa cơm chiều xong, chúng tôi đang tụm năm tụm ba, quây quần chuyện trò, hút thuốc lào và tin chắc là phải ngủ lại đây đêm nay. Đêm đầu ngủ ngoài chuồng giam tù, được tự do mà chưa được tự do đúng nghĩa vì chẳng dám đì đâu khi chưa có giấy ra trại lận lưng. Bổng có đám bò vàng gần cả chục tên xuống chỗ ở chúng tôi, bảo chúng tôi tập họp để nghe cán bộ trưởng trại nói chuyện. Sau khi chúng tôi ổn định, im lặng, tên trưởng trại nói: các anh được về dịp trước Tết Nguyên Đán sum họp với gia đình là một đặc ân của "đảng và nhà nước", tôi đại diện trại Z30D chúc các anh và gia đình được vui khỏe và hạnh phúc. Tên trại trưởng đại khái nói như vậy như là "động viên" tinh thần để chúng tôi chấp nhận bị bọn này bốc lột thêm hai tuần nữa "lao động tạo ra của cải" và "lao động là vinh quang" cho riêng cá nhân chúng hay cho ban chỉ huy trại "cải thiện" có thêm "của cải vật chất" để đón Tết ta...(Những chữ trong ngoặc kép là những danh tử nổ của cán bộ bò vàng "truyền đạt" cho đám tù).
Dù chúng có đắc nhân tâm, bôi trơn sự bốc lột sức lao động tù, chúng tôi đồng ý hay không cũng diễn ra đúng kịch bản chúng đã dựng sẵn. Chúng nói là thả tù mà chưa cấp giấy ra trại đố ai dám ra về, như vậy chúng tôi bắt buộc phải "nín thở qua sông" được ở ngoài chuồng nhốt tù, ăn uống tiêu chẩn có phần nhỉnh hơn một chút ở trong lán trại giam, đi rừng tự giác tự do, không có cán bộ súng dài "hộ tống". Cán bộ trưởng trại cũng như các bò vàng khác đều có giọng nói nặng chình chịch của gốc Nghệ An - Hà Tĩnh rất khó nghe. Ông ta ra chỉ tiêu cho ngày mai, sau khi ăn sáng xong, chúng tôi có mười tổ được phát dao, cưa hạ gỗ nhỏ cũng như gỗ lớn toàn là gỗ thao lao mà có từ khác là cây bằng lăng, có hoa màu tím bắt mắt rất đẹp khi cả rừng đến mùa hoa nở. Kích cở cây bằng lăng như thế nào? Còn các tổ đi lấy lá buông phải già còn xanh, lá càng lớn càng tốt và có tổ chuyên lấy lá non để làm nón hay các vật dụng thù công mỹ nghệ chuyên bán cho khách du lịch... Với 10 tổ 8 hoặc 10 người, có chừng 3 tổ có nhiệm vụ chặt lấy lá buông mang về chất đống tại địa điểm gần đường xe hơi chạy vào. Còn các tổ khác đi tìm cây bằng lăng vừa 2 người khiêng vác về. Loại cây này ở rừng lá trước đây có nhiều vô số kể, nay lại hiếm, không còn ở gần trại, phải đi xa sâu vào rừng mới có vì bao nhiêu năm, từ ngày cất trại cũng sử dụng loại gỗ cở đó hay cán bộ quản giáo thỉnh thoảng cũng bắt tù "chôm chĩa" vài cây mang ra gần đường giấu cất để chúng bán hay cho ai đó làm quà...
Liên trại Z30D, lúc chúng tôi từ Bắc về đây, chỉ còn 2 trại A và B. Nghe nói trước đó có thêm một hay hai trại nữa. Trại A là nơi có cả ban chỉ huy trại ở đó, gọi là trại khung, có mở đường xe chạy ra quốc lộ Nam Bắc. Còn tôi ở trại B, sâu vô rừng, cách trại A chừng hơn một cây số cũng gần bờ suối nhỏ và cạn vào mùa nắng. Trại Z30D có tên là trại Thủ Đức mà lại thuộc lãnh thổ của quận Hàm Tân - tỉnh Thuận Hải, thời Việt Nam Cộng Hòa. Khu này là nơi có vô số bụi lá buông nên có tên gọi khác là Rừng Lá. Lá buông còn non có màu trắng đục, hay trắng có pha màu vàng lợt trông rất đẹp, cho nên người dân thường dùng loại lá này làm nón hay những món đồ dùng trong ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ rất đẹp mắt. Còn lá già có màu xanh đậm dùng trong xây cất nhà...Về cây gỗ, rừng lá buông, ngoài lá mọc khắp nơi bạt ngàn từ trong sâu ra đến quốc lộ Nam Bắc, còn có một loại gỗ quý đối với những người đóng tàu, xuồng hay làm cột cất nhà vì loại gỗ này là cây thao lao hay còn gọi là cây bằng lăng, có đặc tính chống lại con hàu dứới nước thường bám vào lườn xuồng, lườn tàu, chúng đục khoét ăn gỗ. Cây thao lao còn thêm giá trị, thân gỗ nhẹ ít hút nước và thân rất thắng dù cao cả chục thước... Ngoài lá buông, cây rừng, nơi đây có cây thao lao to nhỏ chiếm đến 70 - 80%. Có những cây thao lao to hai người ôm không giáp, sống lưu niên hàng bao trăm năm. Vì vậy, chúng tôi thấy nhiều cây to nằm ngổn ngang cũ mới có đủ như vàng cục vàng cây đầy dãy mà không ai lấy chở đi vì một cây to như vậy bán được bao nhiêu cây vàng phải có xe truck to, cần cẩu lớn mới trục cây to lên xe được. Nhiều cây to mục nát cũng là nơi đến mùa mưa, chúng tôi tìm lấy nấm mối để cải thiện. Như vậy, Rừng Lá này chỉ thấy người ta khai thác có hai thứ là lá buông và cây thao lao. Từ Bắc về đây, tôi thấy có quá nhiều cây bằng lăng có hoa tím đẹp, tôi cũng nổi hứng học ca bài vọng cổ "Hoa Tím Bằng Lăng". Xung quanh hai trại A và B, trên các con đường đi, hay hàng rào trại này trồng đều khắp cây sua đủa vì cây này rất thích hợp thổ nhưỡng nơi đây. Về đây chúng tôi tha hồ mà ăn bông sua đuả như ở các trại tù trên đất Bắc chúng tôi hái đọt sắn luộc ăn thay cơm. Còn ở đây hái bông xua đủa luộc ăn hay chiên xào nấu canh ăn rất ngơn, nếu ăn nhiều quá cũng dễ bị té re, có nhiều mà lại ăn ít cũng là điều nghịch lý.
Chúng tôi được lệnh thả do Bộ Nội Vụ ký, nay bị bắt làm xâu. Ngày qua ngày, cái gì đến rồi cũng đến, phải thả chúng tôi trở về với gia đình. Tôi nhớ không rõ, ngày cấp giấy ra trại chánh thức, nhưng chắc chắn một điều, tôi về đến Sài Gòn hơn 10 giờ tối. Tôi nghe anh xích lô nói, hôm nay đã có chợ Tết, đêm thứ hai rồi.
ĐÓN XE HÀNG QUÁ GIANG VỀ BẾN XE MIỀN ĐÔNG
Những ngày cận Tết Nguyên Đán mà chúng tôi chưa rời được khỏi nhà tù, dù được thả ai cũng rất vui mừng mà lại chưa trọn vẹn hưởng vì còn bị cù cưa với cái trại Z30D này phải làm "nghĩa vụ" tư riêng cho trại cho cán bộ quản giáo...
Khi có lệnh tập hợp trước văn phòng trại, xếp hàng chờ đợi, khoảng 9 - 10 giờ sáng, mỗi lần gọi tên chừng người lên xác nhận tên họ, địa chỉ để cho nhân viên viết tay vào giấy Ra Trại, nếu ai khi vào trại tù có "đăng ký" gởi tư trang như đồng hồ, bóp, tiền...sau khi nhận giấy ra trại rồi ra ngoài đợi cán bộ gọi vào chỗ lãnh tư trang - cái khâu này lâu nhứt - hình như trại muốn làm thế để ai đợi lâu sốt ruột "bỏ của chạy lấy người", trại sẽ hưởng các thứ đó? Đến giờ ăn trưa, nghỉ chừng một tiếng mà mới giải quyết được hơn 1/3 còn gần 2/3 nữa mà đã qua 1 giờ trưa rồi. Ai được cấp giấy ra trại vội vã khoác ba lô lên vai, đi như chạy ra quốc lộ đón xe về Sài Gòn. Còn những ai có tư trang gởi còn phải chờ để họ trao lại.
Chẳng may, tôi và chừng 8 người cuối cùng chưa nhận được Giấy Ra Trại và nhận lại tư trang mà đã gần 5 giờ chiều rồi. Chúng tôi nôn nao lo lắng không thể đứng yên đi tới đi lui, cứ lo nhận được giấy ra trại, ra quốc lô tối quá, không có xe đò, rồi sẽ ngủ ở đâu? Khi gọi tên tôi cùng với 4 anh nữa làm thủ tục ra trại, làm xong chừng 5 phút, họ trao giấy cho tôi còn chúc ra về bình an vui vẻ nữa và bảo tôi đợi nhận lại tư trang rồi hãy ra khỏi trại. Tôi đứng đợi, khoảng 10 phút mà vụ nhận lại tư trang êm re, tôi nghĩ ngay phải bỏ của chạy lấy người để còn chạy ra quốc lộ đón xe vì đã 5 giờ chiều rồi. Thế là bỏ lại cái đồng hố Omega và 20 đồng cùng với cái bóp da "tặng cho trại". Ba lô rất nhẹ chỉ còn mùng mền vài bộ đồ còn tốt và vài vật dụng tự làm trong trại và đặc biệt cái điếu cày thân thương của đời tù. Tôi khoác lên lưng, đi nhanh ra khỏi trại, đi chừng vài chục bước, tôi thấy đi sao còn chậm, lấy giép cầm tay, đi chân đất thoăn thắt mà cũng thấy chậm. Thỉnh thoảng ngó lại sau lưng sợ bò vàng kêu lại "nhờ chút việc" thì bỏ mẹ, nhớ lại hồi xưa mỗi ngày tôi chạy bộ 12 cây số, nay con đường ngắn trên 2 cây số thì có nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ. Thế là, tôi chạy, dù tuổi đời lúc đó cũng vào 50 rồi, ở tù khổ sai cũng gần tròn 10 năm, thể xác bị bào mòn. May về được miền Nam hơn 2 năm nên sức khỏe cũng được hồi phục khá tốt, và ý chí vươn lên quyết tâm về đến nhà tối hôm nay là động cơ giúp tôi "thêm sức" chạy một mạch ra đến quốc lô. Trời bắt đầu nhá nhem tôi, tôi đứng nghỉ, đợi có xe đò hay xe hàng đón về Sài Gòn. Chừng mười phút, có 3 anh nữa, cũng bắt chước, giép cầm tay chạy lúp xúp theo tôi ra quốc lộ. Nhóm chúng tôi có 4 người đều đón xe về Sài Gòn rồi sau đó mạnh ai nấy tự tìm cách về nhà. Tôi đề nghị liền, bây giờ tối, chắc khó còn xe đò, mình đón xe hàng mà đứng đông quá, sợ họ ngại không dám cho quá giang, tôi nói ba anh ngồi dưới gốc cây, cách chỗ tôi đứng hơn 10 mét. Đợi tôi "ngoắc" ra hiệu xe đò ngừng, các anh hãy nhanh ra, xin chở bọn mình về bến xe Miền Đông, các anh vui vẻ đồng ý liền.
Chừng nửa tiếng đứng đợi, từ xa có ánh sáng của chiếc xe đang chạy tới, không biết xe đò hay xe hàng, tôi đứng ra gần sát ven lộ, cầm nón phất qua phất lại liên tục, tôi thấy xe đã giảm tốc độ, tôi càng phất nhanh, xe thắng dừng lại, chú tài xế trẻ xuống kiếng nói lớn, chú là tù mới thả ra muốn về Sài Gòn phải không?. Tôi đáp lớn, đúng rồi, và đi lại gần cửa xe, nói với chú tài xế làm ơn cho bốn anh em chúng tôi về Sài Gòn vì chúng tôi vừa mới thả ra đợt này. Chú tài xế cón trẻ, chừng trên dưới 30 tuổi, vui vẻ nói: tôi chạy xe đường này, thường gặp như các chú nhiều lần rồi, chúng cháu quý mến các chú chế độ cũ... Ba anh bạn, thấy xe tải ngừng đã vội chạy đến gần tôi rồi. Chú tài xế nói, chú ngồi ở ca bin với cháu, còn ba chú thì ngồi ở trong mui, cháu mở cửa sau ba chú leo lên vì xe trống, không có chở hàng hóa lượt về.
MÓN NGON MỘC TỒN TRONG TRẠI TÙ Z30D & NỒI MẮM KHO TRẠI TÂN LẬP
Khi đoàn tù của liên trại Tân Lập Vĩnh Phú lần thứ hai chuyển về trại Z30D, cách vài tháng trước, liên trại này cũng có một cuộc chuyển hàng ngàn tù về Nam sau Tết Nguyên Đán (năm 1982) không lâu, hình như về các trại tù vùng Long Khánh (cũng ở các Z30A hay B - C?). Sau hai chuyển tù về Nam của liên trại Tân Lập, anh em còn lại rất ít, cũng có anh em được thả ra khỏi trại. Sau này nghe anh em nói, có một số anh em phe ta không chuyển trại về Nam hay được thả ra mà lại chuyển về các trại ít hắc ám hơn, ở vùng Hà Nam Ninh và cũng thả ra trong năm 1982. Liên trại Tân Lập - Vĩnh Phú chuyên nhốt tù thua cuộc của Miền Nam, nay như giải thể, không biết CSBV sử dụng trở lại trại tù này nhốt tù hình sự hay làm việc gì với một cơ ngơi 5 trại rộng lớn chiếm hàng trăm héc-ta đất canh tác của người dân.
Trong lúc chờ đợi, đón xe, ban đầu tôi lo sợ không có chỗ ngủ qua đêm, nếu đón tới khuya không có xe cho quá giang về Sài Gòn. Trong lúc lo lắng vu vơ, bổng tôi nhớ có bà chị nuôi cũng ở vùng này. Khi gia đình chúng tôi còn ở Bà Bài, chị đến cắt lúa mướn cho gia đình và cảm mến gia đình, xin làm con gái nuôi, ba má tôi chấp nhận. Khi gia đình chúng tôi tản cử ra tỉnh lỵ Châu Đốc 1947, chị có đến thăm hỏi và ở chơi với gia đình vài ngày, lúc ấy chị qua tuổi 20. Vài năm sau, chị đến thưa với ba má tôi đứng làm chủ hôn vì ba má chị đã mất sớm. Ba má tôi đồng ý, tổ chức đám cưới cho chị, ba má tôi bao hết chi phí đải đằng bà con hai họ. Sau hơn mười lăm năm, tôi lại gặp chị tại khu vực Rừng Lá có trại tù Z30D. Tôi và tồ 8 người được bò vàng quản giáo ra lệnh đẩy xe cải ra khu dân cư ở ven quốc lộ bán gây quỹ cho trại. Sự tình cờ hy hữu, chị Tư (quên tên) chị nhận ra tôi, lại nói nhỏ với tôi, chị tư nè, em có nhớ chị không? Lúc bấy giờ tôi mới sực nhớ lại chị. Chị tư nói lớn, anh em để số cải còn lại tôi mua hết, tôi sẽ bán lại, tôi còn làm dưa chua để chuẩn bị ăn Tết, mời anh em cứ uống nước tự nhiên, cà phê, nước ngọt. nước dừa, tôi bao hết. Anh em cứ ngồi nghỉ cho khỏe rồi hãy đi về trại. Quán cà phê của chị tư cũng có bán nhiều thứ cần thiết khác để bán cho bà con đến thăm nuôi thân nhân tù mua đồ dùng còn thiếu...Chị khều tôi ra sau bếp nói, anh tư của em và anh em ở Châu Đốc, bỏ quê hương trốn lên đây, chuyên đi rừng đốn cây làm củi, chặt lá buông bỏ mối và có cả lò hầm than. Chị nói nhỏ, anh tư không trình diện cùng vài bạn trẻ cũng sĩ quan về đây làm ăn, nay có cuộc sống vững, có hộ khẩu, chúng minh nhân dân. Tôi có nghe gia đình cho biết anh tư là sĩ quan giáo phái Hòa Hảo đồng hóa sang QLVNCH, chị nhét vào túi tôi vài chục, tôi trả lại chị, nói em mang tiền vô trại bị xét thêm phiền hà, cám ơn chị. Và chúng tôi trở về trại sớm hơn các lần bán khác. Cuối năm 1984, đội rau xanh của chúng tôi, trồng cải bẹ xanh trúng mùa, trại ăn không hết đưa đi khu dân này bán nữa và một lần ra đây mua một con nai đồng quê - cầy tơ - về mần thịt do trại thưởng công đội rau xanh.
Khi từ trại được ra chạy một mạch đến quốc lộ quẹo phải đợi xe quá giang, nếu tôi nhớ quẹo trái hướng Hàm Tân (miền Bắc), tôi sẽ gặp lại chị tư, đâu còn lo lắng, có thể tôi ở lại qua đêm, sáng hôm sau, chị tư đón xe đò cho tôi về Sài Gòn.
Nhớ đến xóm nhà dân này cũng cả trăm nóc gia ở hai ben ven lộ, sau vụ bán cải cho chị Tư, chừng một tuần, đã vào tháng chạp. Cán bộ quản giáo cũng muốn thưởng công đội rau xanh chúng tôi trúng mùa và bán cải có tiền cũng kha khá cộng chung gần hai trăm đồng, cán bộ quản giáo xuất qũy 20 đồng cho đội đi mua một con chó về mần thịt bồi dưỡng cho cả đội. Đội cử tôi và ba bạn nữa đi ra khu dân tìm mua "nai đồng quê", tôi không gặp chị tư vì chị đi về quê chồng ở xã Hòa Hảo. Chúng tôi đi cả giờ mà mua chưa được con chó nào cả. Lúc này, gần Tết, các bò vàng hai trại A-B của Z30D ra xóm này "vớt" hết chó rồi, chúng tôi lại đi buổi chiều nữa nên tìm không ra. May, tôi thấy một con chó lông vàng mập mạp, đang bị nhốt, nhưng rất tiếc bị ghẻ ở mông mà các bò vàng đi buổi sáng chê. Tôi đề nghị, mình mua đại con chó ghẻ này, họ lại bán rẻ 16 đồng, tiền còn dư mua thêm ba xi đế, ăn thịt chó mà có ba xi đưa cay thì ngon hết ý. Tôi còn nói thêm, khi mình thui, nhớ thui chỗ bị ghẻ cho thật kỹ và còn nấu chín nữa, vi trùng gì vào lửa đốt, nước sôi cũng sẽ chết hết và cũng nên cắt bỏ mảng thịt ghẻ một ít, anh em đồng ý. Ở tù cả chục năm mới có một lần duy nhứt, được bò vàng cho tiền mua nai đồng quê mần thịt bồi dưỡng, quả thật ngàn năm một thuở. Tôi giữ 20 đồng, không lẽ mang tiền về trả lại quản giáo, coi không đặng chút nào hết. Tôi còn xin ông chủ bán cho thêm đồ phụ tùng tẫn liệm con cầy tơ này. Hơn nữa, ông chủ nhà bán được con chó ghẻ cũng mừng húm, ông cho chúng tôi nhiều gia vị, có cả cà ry, con mẽ, nước mắm và những phụ tùng linh tinh để chúng tôi hóa kiếp cho con cầy xấu số này sớm siêu thoát vào dạ dày. Ông chủ còn cho cái can nhỏ, ông đi mua giùm ba xi đế nào ngon nhứt ở xóm này. Con chó bị trói bốn chăn lại, ông chủ còn cho một cái đòn, chúng tôi luân phiên khiên về trại cũng xế chiều, thông báo cho cán bộ biết, tiền còn dư, chúng tôi mua rượu...
Thú thật, ăn thịt chó đối với tôi không có sợ tội phước như nhiều người miền Nam nghĩ, tôi có nhiều người bạn thân gốc Bắc Kỳ chín nút ở vùng Tam Hà, Long Thạnh Mỹ - Thủ Đức thường đải tôi những món ăn thịt chó "bảy món', tôi chỉ ăn qua loa vài món, không mê như các bạn tôi. Nay có dịp, tôi muốn ăn lại món "mộc tồn" này coi có sướng cái miệng không? Nhưng cái kẹt, tôi đi mua chó ghẻ nên ăn cũng không mạnh miệng, ăn vài miếng và đưa cay vài hớp rượu đế cũng có cảm giác sướng tê gân. Không biết, tôi được ăn thịt chó có được may mắn không, chỉ vài ngày sau có tên được thả khỏi trại?
MẮM KHO CHÂU ĐỐC - Nói về ăn, tôi liên tưởng đến món ăn ngon của quê hương Châu Đốc thì rất nhiều, nhiều lắm với các món ăn về cá đồng. Về thịt thì có thịt bò xào lá dang (ngoại trừ tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo kiêng cử ăn thịt bò, trâu, chó...) với nước cốt dừa mà các tỉnh khác của đồng bắng sông Cửu Long ít có. Những món thịt đồng có nào rắn, rùa, chim. chuột... mà món ăn vang danh nhứt của quê hương Châu Đốc là mắm kho và các loại mắm. Cũng như các loại khô cá lăng phồng, cá lóc, cá sặc bổi cũng được du khách đi Châu Đốc viếng cảnh "năm non - bảy núi", Vía Bà Chúa Chúa Xứ Núi Sam...không thể nào quên mua các món ăn ngon độc đáo của Châu Đốc mang về làm quà tặng gia đình, bà con, bạn bè.
Trại tù K1 (hay K4) Tân Lập, có nhiều anh em gốc Châu Đốc ở nhiều đội trong các lán gần nhau thường lãnh xong phần ăn, quây quần bên nhau vừa nhai sắn vừa kể chuyện Châu Đốc cho nhau nghe. Đặc biệt là kể các món ăn ngon độc đáo của quê hương mình trong các bữa ăn chung chừng năm sáu người hay cả chục người vào những ngày nghỉ lao động. Trong trại tù gặp lại bạn bè đồng hương cùng lứa tuổi hay học cùng trường cùng thầy cô thì có nhiều chuyện để gợi nhớ quê hương kể cho nhau nghe, nhứt là những món ăn mà mình thích và nhiều người mê.
Có một buổi ăn trưa, anh em ao ước nếu có mắm cá sặc kho của quê Châu Đốc thì chắc anh em vui lắm. Còn gì bằng, mọi người cùng khổ, cùng nhau thưởng thức mốn ăn ngon độc đáo như là đặc sản của Châu Đốc, chắc sướng lắm lắm! Cái ao uớc dễ thương đó đến tai bạn Vương Văn Trung (Thiếu tá thuộc Tiểu khu Châu Đốc) vừa có quà của vợ Trung gởi nuôi chồng, có một hủ mắm cá sặc và mắm thái. Trung nói với tôi là xin đóng góp hơn nửa chén mắm cá sặc để tôi kho cùng anh em Châu Đốc "chén" một bữa. Có người bạn khác cũng còn chừng một chục con mắm cá sậc cũng xin đóng. vài anh khác góp một ít gạo hay có cái gì như cá khô, tôm khô... cũng đóng vô "quỹ" cho một bữa ăn trong trại tù. Thế là "tài nguyên" mắm của tôi có hai nguồn cung cấp, được một chén mắm, tôi sẽ kho một nồi lớn cho khoảng 12 người bạn Châu Đốc cùng hòa điệu thưởng thức một nhịp sống quê hương về văn hóa ẩm thực Châu Đốc - mắm kho. Có bạn có "tay trong" làm ở nhà bếp mượn được 2 cái nồi và xin được nhiều nước muối pha loãng để tôi dùng trong việc kho mắm. Trong nhóm này, anh mười Đệ (Chánh Án) lớn nhứt sanh năm 1933, kế là tôi sanh năm 1935. Các bạn nhờ tôi làm "tổng khậu" - Chef cook) vì các bạn cùng tổ cùng đội biết tôi là "chuyên viên" kể các món ăn đồng quê trong đội cho đỡ buồn - trong khi các bạn khác kể chuyện "chưởng" (tôi kể các món ăn đồng quê trong trại tù là tiền đề cho tôi thai nghén viết nên tác phẩm Chuyện Đồng Quê, xuất bản tại Sacramento - CA năm 1999 - bán như tôm tươi - tiền lời thừa mua được một chiếc xe truck cũ, chưa quá 30,000 miles và mua computer, máy in chuẩn bị ra báo - bán nguyệt san Tiếng Vang).
Tôi xin mở ngoặc, tại sao, phải lựa chọn mắm để dành lâu mà không sợ hư thối, đắng, chua, lên men, mắm cá sặc để lâu được, vì không có trộn đu đủ như mắm thái (cá lóc thái mỏng hay xé ra). Còn mắm cá linh là loại mắm rẻ tiền nhứt lại để lâu không được thường bị "lên dầu" (mỡ) hôi, đắng hoặc chua vì cá linh mềm, có nhiều mỡ hơn cá sặc. Hơn nữa, mắm cá linh trong khâu kho mắm hay ăn sống không ngon bằng mắm cá sặc. Mắm cá linh khi có mốc xanh, hư thối ăn rất hại sức khỏe. Còn các loại cá lớn con như mắm cá lóc làm sao ăn từ từ phải có dao cắt, lại bất tiện đủ mọi bề và mắm cá lóc lại mắc gấp ba bốn lần hơn mắm cá sặc. Và các loại cá da trơn làm mắm cũng gặp trường hợp như cá linh không để lâu được. Tôi ao ước trong trại tù mà mỗi bữa ăn nếu có một con mắm cá sặc ăn với sắn, rau luộc cũng sướng như tiên "mắc đoạ" rồi - xin đóng cái ngoặc.
Nhóm chúng tôi thường ăn chung có khoảng 5 người như: Chánh Án Nguyễn Văn Đệ - Tòa Hòa Giải (Sơ Thẩm Châu Đốc - định cư Orange County - CA) - Hồ Thanh Chiếu (Đại úy - quê An Phú - hiện định cư ở Seatle - WA) - Nguyễn Văn Hoài (Thượng sĩ P2/TK Châu Đốc - hiện định cư ở Sacramento) - Võ Ngọc Xoàn (Trưởng P2 TK Châu Đốc - Thiếu tá Quận Trưởng), có một người bạn của Chiếu là Trần Thụy Anh (gốc Bắc di cư - Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng - hiện định cư ở Úc) và tôi (Thiếu tá Trưởng Phòng TLC Biệt Khu Thủ Đô)... Nhóm nhỏ này có lúc đông hơn hay ít hơn 5 người, vừa ăn vừa kể chuyện "đời xưa" của cái xứ mắm, nổi tiếng cả nước. Các loại mắm ở Châu Đốc đến thời điểm "chao đường" người ta dùng đường thốt nốt chảy (rẻ hơn đường thốt nốt thành tán, cục) màu sắc tự nhiên, có mùi thơm đặc biệt, ngọt thanh hơn các loại mắm làm ở Long Xuyên hay các nơi khác chao đường bằng "đường thùng" - đường chảy lấy ra từ cây mía.
Ngày vui đến, dịp gần cuối năm (trước sau năm 1980). Với óc tổ chức, kinh nghiệm trong nhiều lần cắm trại, ăn tập thể của học sinh, tôi nhờ nhiều anh lo giúp tìm củi khô dự trữ sẵn. Anh lo chặt vài cây chuối rừng chỉ lấy cái phần non bên trong về xắt làm gõi - "nộm" - anh hái rau rắp cá trộn gõi, có anh giúp gom những đóng góp của anh em... Cái món mắm kho độc đáo của anh em chúng tôi là chỉ có một chén mắm mà với cái nồi to nấu cho 12 người ăn, không có cà tím, không cần thịt cá gì hết, chỉ cần có thêm nước muối mới có đủ chất mặn để chang ăn ghém chuối rừng. Tôi đứng bếp, kho cả tiếng cho xương cá tan biến cùng với nước đại dương. Người ta kho mắm phải lược bỏ xương mắm, còn anh em chúng tôi tận dụng xương mắm được coi như là thịt cá được kho chung với mắm. Khi tôi giở nắp nồi lên cũng có mùi mắm thoang thoảng cũng làm cho chúng tôi chảy nước miếng và hình ảnh thân thương của xứ mắm Châu Đốc hiển hiện trước mắt đến những người con xa xứ lạc loài bị đày ải nơi "đất khách quê người" - miền Bắc nghèo mạt này. Cái nồi mắm kho đủ chia cho mỗi người một chén nước muối lạt gọi là mắm kho với nước đại dương chang vào ghém ăn cũng ngon ra phết. Còn cơm thì cũng chia cho mỗi người cũng được một muỗng canh. Vừa có cơm, vừa có mắm kho ăn với ghém lõi chuối rừng cùng với sắn bữa ăn tiêu chuẩn cũng vui cũng sướng, đã như thường. Bây giờ, các món ăn ngon nhiều quá, nhưng, đều thua xa món mắm kho đại dương của đầu bếp Trần Văn Ngà ở trại tù Tân Lập, mới nhớ đời. Cả đời tôi chỉ có một lần duy nhứt, vô tiền khoán hậu, vừa là người đứng nấu nồi mắm kho bất hủ không giống ai mà lại ngon tuyệt vời trên cả tuyệt vời. Đố ai học được cách nấu mắm kho nầy?
CHUYỆN ÂN TÌNH CỦA TÀI XẾ XE HÀNG & CÁC CHÁU Ở CÁC GA XE LỬA
Chuyển trại về Nam, khởi hành từ K5 Tân Lập Vĩnh Phú, có đến hàng trăm chiếc xe đi về ga Hà Nam Ninh, nghĩa là ra khỏi Hà Nội vì, số tù quá đông. Đoàn công voa chạy ngang qua Thủ đô Hà Nội của người ta, chúng tôi có dịp ngắm "Hà Nội 36 phố phường" vào buổi chiều cuối xuân năm 1982 oi bức. Chúng tôi có dịp rửa mắt một thành phố buồn hiu vì dân cả Hà Nội ùn ùn tìm cách len lỏi vào miền Nam liên tục từ ngày 30.4.1975, như người ta náo nức đi ra nước ngoài chiêm ngưỡng cái văn minh hào phóng giàu đep hơn miền Bắc. Đoàn xe chạy qua Hà Nội về đến ga Hà Nam, ra khỏi ga chừng vài cây số là làng quê cũng vào chiều tối, đoàn xe công voa dừng lại. Được lệnh xuống xe tải, vẫn hai người một còng, tôi bị còng chung với anh Thiếu tá cảnh sát, Chỉ huy trưởng Cảnh Sát quận Gò Dầu hay Trảng Bàng? (tây Ninh), lớn tuổi hơn tôi. Chúng tôi cứ thoải mái ngồi dựa lưng vào ba lô đồ đoàng lỉnh kỉnh nghỉ ngơi. Từ sáng sớm 2 - 3 giờ, đến lúc đó ai cũng oải gân. Có lệnh loan báo, chúng tôi nghỉ ở đây, đợi tàu lửa ghé đón mà không cần phải di chuyển đi đâu nữa. Chúng tôi còn gì moi ra ăn hết cho đở đói, còn khát có bi đong sẵn có nước tu một ngụm cũng đở lòng chiến sĩ thua cuộc.
Khoảng 11 giờ khuya, xe lửa ngừng lại, có lệnh đội nào lên toa số mấy có bò vàng súng ngắn, súng dài "hộ tống" đưa lên toa xe lửa. Bị còng một tay, một tay xách hành lý bước lên xe rất khó khăn. Hai tên bò vàng hộ tống đẩy chúng bước lên, suýt té, chúi nhủi và vào ghế gỗ ngồi, từng cặp. Một người đi toilet thì người bạn ngồi ở ngoài, cửa toilet mở toang để cả hai cũng ngữi một thứ mùi thơm tho đặc biệt. Tôi không nhớ rõ, hình như còn có thêm 2 đêm nữa trên xe lửa, đêm đầu mãi gần 2 giờ sáng tàu hỏa mới lăn bánh bỏ lại đất Bắc xã hội chủ nghĩa nghèo khổ buồn tênh.
Khi đoàn tàu về đến cầu Hiền Lương - Quảng Trị (vĩ tuyên 17 - chia cắt hai miền Nam Bắc). Dù mệt và quá buồn ngủ mà không chợp mắt được vì cái cùng khổ nghiệt ngã ở các trại tù miền Bắc đày đọa hành xác ác độc mà không chết, nay về đến "quê hương miền Nam" như chim xổ lồng, Con đường hầm tăm tối đau khổ, nay có ánh sáng lóe lên, không bỏ xác trên đất Bắc, mà không phải là hy vọng mà tự tin, chắc chắn tôi sẽ gặp lại gia đình.
Qua cầu Hiền Lương xuôi về ga Quảng Trị, đoàn tàu dừng lại nhận tiếp tế chừng hơn 10 phút, các em cháu bán bắp, khoai lang, đậu phộng nấu cũng như mía ghim, đến các cửa toa rao mời hành khách mua giúp. Chúng tôi làm gì có tiền để mua, dù đói meo, chỉ biết đưa tay bị còng lên báo cho các em cháu biết tù thuộc chế độ cũ. Các cháu không cần bán, cứ ném, thảy lên bắp, khoai, mía ghim cho chúng tôi đón bắt. Toa xe phía trước, có hàng mấy chục bò vàng theo áp tải tù, cũng gọi các em cháu ném mía ghim hay chuối cho chúng. Các con cháu của "ngụy quân ngụy quyền" thay vì thảy lên nhẹ từ trái chuối một, từ trái bắp hay gói đậu phộng, khoai lang lên còn thông báo chúng tôi đón bắt. Khi bò vàng gọi các em cháu bán buôn đó, cũng ném lên mà không thông báo trước, ném cả khúc mía hay nửa nải chuối sống, ném mạnh trúng tên nào tên đó lãnh đủ, Mặc sức bò vàng la hét, văng tục mà chúng chẳng dám xuống xe. Tôi nghĩ nếu có tên nào ngu quá nhảy xuống, các em cháu sẽ ném hết cái gì các em có vào mặt, thân xác bò vàng, bỏ của chạy lấy người, thoát thân. Từ Quảng Tri về Nam, đoàn tàu còn dừng nhiều nhà ga lớn, cũng có cảnh bán buôn như ở ga Quảng Trị, Huế mà các con bò vàng lặng im không còn dám kêu gọi các em cháu bán lẻ ném thức ăn kể cả thuốc lá. Các em cháu thấy chúng tôi đưa tay bị còng lên và chúng reo hò, chúng "thảy" lên vài điếu để trong bao thuốc lá đàng hoàng. Còn các em cháu, thấy bò vàng là ném cả gạch đá nhỏ, trả thù dùm chúng tôi.
Đó mới biết sau 7 năm "phỏng giái - giải phóng", đồng bào và các em nhỏ ở miền Nam Việt Nam còn nhớ ơn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, dù nay bị ngã ngựa, các chiến sĩ năm xưa đó luôn có tinh thần vì dân, đặc biệt trận chiến Tết Mậu Thân - 1968 ở Huế - mùa Hè đỏ lửa năm 1972 ở Quảng Trị...
Khi được thả ra khỏi trại tù Z30D - Hàm Tân (Rừng Lá), tôi không nhớ rõ, ngày cấp giấy ra trại chánh thức, nhưng chắc chắn một điều, tôi về đến Sài Gòn hơn 10 giờ tối. Tôi nghe anh xích lô nói, hôm nay đã có chợ Tết bán đêm qua ngày thứ hai rồi. Tôi nói anh làm ơn chở tôi đi vòng ra đường Nguyễn Huệ để thoáng nhìn chợ hoa, chợ Bến Thành và chạy thẳng về Cầu Chữ Y theo Đại lộ Trần Hưng Đạo, tôi sẽ thấy thêm cảnh họp chợ Tết ban đêm ở chợ Nancy thân thương của tôi từ lúc tôi mới lên Sài Gòn hoa lệ ở trọ nhà bạn gần chợ Nancy năm 1957, thử coi ra sao.?
Lần đầu được ra khỏi trại tù hắc ám, khổ sai ngoài Bắc chuyển về nhốt tiếp ở trại tù Z30D qua các cử chỉ hành động của các em cháu nhỏ đối với những người tù thua cuộc chúng tôi, các em cháu rất hào phóng. Dù gia đình nghèo khổ mà các em cháu dám biếu tặng hết những món hàng chúng bán góp nhặt tiền lời để có đủ tiền mua thực phẩm nuôi gia đình trong ngày. Cái cao đẹp của các em cháu dám hy sinh cả vốn lẫn lời giúp những người sa cơ thất thế, tôi miên man suy nghĩ, gia đình các cháu chắc phải chịu đói hay ăn cháo môt ngày để các cháu biểu hiện tình cảm chân phương ân nghĩa của giới bình dân, nghèo khổ.
Còn ngày ra trại tù Z30D, gặp chú tài xế ở độ tuổi trên dưới 30, có chút ít kinh nghiệm trường đời, có thu nhập khá hơn các em cháu nhỏ, thay vì sống ích kỹ. Qua lời nói, dù đêm tối, cháu cũng không sợ bị cướp chận đường mà vì tấm lòng vị tha bác ái, cháu ngừng xe lại cho bốn anh em chúng tôi về đến bến xe Miền Đông (Sài Gòn). Đây là những ân tình bất diệt của những người dân miền Nam đối với người chiến sĩ thua cuộc bị tù đày khổ sai từ Nam ra Bắc và trở về Nam.
Nếu các chiến sĩ hay quân dân cán chính từng phục vụ dưới chánh thể VNCH mà tàn độc như cán bộ của chế độ cộng sản, tôi tin chắc sẽ không có những cháu bé và chú tài xế giàu lòng nhân ái cứu giúp người thua cuộc như chúng tôi.
NGHỆ SĨ MINH CHÍ VUA "XÀNG XÊ" CHÀO MỪNG ĐẦU TIÊN NGƯỜI TÙ MỚI VỀ
Từ bến xe miền Đông, anh lái xe xích lô, theo lời yêu cầu của tôi, đưa tôi đi lòng vòng và đạp chầm chậm để tôi chiêm ngưỡng lại hình ảnh chợ Tết về đêm của Sài Gòn. Tôi hướng dẫn anh lái xe ngang qua số 15 đường Lê Lợi (góc đường Lê Lợi - Tự Do, bên kia đường Tự Do là trụ sở Quốc Hội Hạ Nghị Viện, bên phải là nhà hàng khách sạn Caravelle, bên trái có Continental. Tại khu vực này, ngoài hai nhà "hàng Tây" to sầm cực sang thời đó, còn có các nhà hàng nhỏ cũng thuộc loại "quý phái" như Givral - Broadard - La Pagode, quán cà phê thời danh ở góc đường Lê Thánh Tôn và Tự Do - nhà sách chuyên bán sách báo Pháp và ngoại quốc Portrail-tên Việt, Xuân Thu - pharmacie La Thành của dược sĩ La Thành Nghệ (có thời là Nghị Sĩ Thượng Viện - Quốc Hội. Trước năm 2000, Bác La Thành Nghệ định cư ở thành phố Stockton - đã qua đời trên 15 năm - cùng bàn bạc với chúng tôi ở Sacramento tổ chức khu an dưỡng người cao niên Việt (+Á Châu...) khoảng gần giữa xa lộ 99 - Sacramento-Stockton, bao gồm: nhà dưỡng lão, phòng khám bịnh, nghĩa trang...
Khu vực này có Tòa Đô Chánh - rạp ciné sang nhất ở Sài Gòn là Rex - Trụ sở Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam - Trung Tâm Quốc Gia Báo Chí - khách sạn Catinat do người Việt làm chủ... Công việc làm của tôi tới lui như hàng ngày ở khu vực này trên 4 năm cho đến ngày 30.4.1975. Tôi có dịp ăn uống, dạo quanh khu vực nổi tiếng còn có tên là khu radio Catinat, nghĩa là nơi đây tung tin đủ thứ tin tức giựt gân thượng vàng hạ cám cái gì cũng có kể tin giã. Và là nơi tập trung ký giả quốc tế, quốc nội, tình báo quốc tế, tình báo cộng sản và của phe ta đều có hiện diện ở khu vực sang trọng này. Ngôi phố lầu đồ sộ ở số 15 Lê Lợi, là Trung Tâm Quốc Gia Báo Chí (sau chuyển qua đường Tự Do cũng ở gần đó) và văn phòng Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam. Ngang cửa văn phòng Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam có tượng đài sừng sững người chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiền QLVNCH đối diện với Trụ sở Hạ Viện. Xích lô chạy về đến đây, tôi vô cùng xúc động, nhớ lại bao kỷ niệm, có nhiều năm tôi có nhiệm vụ theo phát ngôn nhân Quân Đội (tôi làm phụ tá) họp báo hàng ngày sáng chiều tại Trung Tâm Quốc Gia Báo Chí. Có khoảng một năm, tôi đảm trách Trưởng Ban Điểm Báo Quốc Phòng của Khối Thông Tin & Giao Tế Dân Sự của Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Tri, cũng là thành viên của ủy ban kiểm duyệt các nhựt báo tại Trung Tâm Quốc Gia Báo Chí. (H: Cờ - biểu tượng nhựt báo Ashi Shimbun - năm 2010 mỗi ngày phát hành 8 triệu số - năm 2016 phát hành 6 triệu rưởi số - Nhật Bản có 3 tờ đại nhựt báo, trước năm 1975, tôi đều có cộng tác, mỗi tờ phát hành hàng ngày cả chục triệu số - Yomiuri Shimbun tờ báo lớn nhứt phát hành năm 2016 còn trên 9 triệu số. Tờ nhựt báo thứ ba là Mainichi Shimbun - ấn bản buổi sáng trên 3 triệu số - ấn bản buổi chiều trên 1.6 triệu, năm 2016 - trích trên Google).
Cả một chuổi ngày dài, tôi thường có mặt ở khu vực này. Nay kỷ niệm xưa hiện về mà tôi đoán trước, ra khỏi nhà tù nhỏ, lại vào nhà tù lớn của cả nước. Tôi sẽ ít có dịp trở lại khu vực này vì phải quần quật kiếm sống vất vả, đâu có cơ may trở lại đây. Tôi còn nhớ rõ, cái hào khí "anh hùng tử - khí hùng bất tử" của Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến đúng sáng sớm ngày 30.4.1975 trong lúc tôi đang đi đến văn phòng nhựt báo Nhật Bản Asahi Shimbun thay bỏ quân phục, cởi giày nhà binh và súng colt 45, tôi ném vào thùng rác to của khu vực này.
Vào văn phòng Asahi nằm nghỉ một chút lấy sức vì cả đêm 29.4.1975, tôi ở trong trại Lê Văn Duyệt - Biệt Khu Thủ Đô lo tiếp tế thực phẩm cho các chiến sĩ từ Biên Hòa rút quân về đây. Từ tối 28 và ngày 29.4, Tổng Cục CTCT, Trung Tướng Trần Văn Trung gọi cho tôi biết, Tổng Cục sẽ cho cho tôi 3 xe GMC thực phẩm dự trữ trợ giúp các đơn vị chạy về tăng cường phòng thủ cho Biệt Khu Thủ Đô...
Xích lô chạy ngang nhà ông bố vợ tôi gần nhà hàng Kim Sơn, ngang qua rạp Đại Nam, rạp cải lương Nguyễn Văn Hảo và chạy đến chợ Nancy. Tôi như sống lại thời vang bóng năm xưa mà ngậm ngùi nuối tiếc khôn nguôi.! Đến đầu cầu chữ Y, nhánh lò heo Chánh Hưng, tôi dặn kỹ anh lái xe, vừa xuống dốc, cái hẻm đầu tiên bên trái, xe dừng lại trước quán cà phê trên mặt tiền, nhà tôi ở phía dưới sát bờ sông, cách quán cà phê chừng mười lăm mét.
Xe dừng lại, anh năm Minh Chí nói lớn Thiếu Tá Ngà được thả về rồi, gia đình chúng tôi còn thức nghe tiếng anh Minh Chí, cả gia đình lật đật chạy lên đường Hưng Phú đón "chàng về dinh" tử địa ngục lao tù. Tôi nói gia đình mang tiền lên trả anh lái xích lô, tôi cám ơn anh và tặng thêm tiền típ.
Khu tôi ở, có nghệ sĩ vang bóng một thời là Minh Chí cùng với nghệ sĩ thời danh Việt Hùng, một cặp bài trùng có một thời lập gánh hát Cải lương thuộc đại bang Minh Chí-Việt Hùng. Nghệ sĩ Minh Chí ở sát cạnh nhà tôi, chỉ cách một đường nhỏ vào nhà chưa tới hai thước. Nghệ sĩ Minh Chí được giới nghệ sĩ phong tặng là Vua Xàng Xê vì anh ca bản xàng xê luyến lái tuyệt vời. Chúng ta từng nghe Vua Vọng Cổ Út Trà Ôn - Nữ hoàng Cải Lương Thanh Nga - Cải lương chi bảo Bạch Tuyết - vua hát nhạc kích động Hùng Cường - Mai Lệ Huyền... Anh năm Minh Chí người ta còn nhớ tên vì có cái đặc biệt là lấy cả mẹ và con gái riêng của bà làm vợ ở chung một nhà. Bà vợ chánh là đào Ánh Nguyệt, bà bị lao phổi mất tại xóm tôi. Nghệ sĩ Minh Chí đã "vớt" luôn nghệ sĩ Ánh Hoa con riêng trước đó của Ánh Nguyệt, hai mẹ con cùng chung một chồng, ở chung một nhà, đều có con. Ở khu đầu cầu chữ Y này còn có nghệ sĩ Hà Cẩm Thu (kịch nói), bên ban phát thanh truyền hình ngành cảnh sát, nhà ở dưới gầm cầu chữ Y. Vợ chồng Hà Cẩm Thu đều thuộc ngành cảnh sát. Nghe nói sau này, Hà Cẩm Thu cũng khá nổi tiếng về thơ văn ở Sài Gòn. Cả xóm hẻm 1/2A... đường Hưng Phú đổ xô lại bu quanh chúc mừng tôi, hỏi han đủ thứ, bà con mừng tôi trở về xóm cũ mà vẫn còn lành lặn khỏe mạnh. Khu hẻm này xe hơi chạy vào được, chưa tới ba mươi căn nhà, mọi người đều thân quen nhau, có nhiều thiện cảm với gia đình chúng tôi từ trước ngày 30.4.1975 và 10 năm sau vẫn giữ tình nghĩa như cũ...
(Trích tập Hồi Ký Công Tử Nhà Quê Bà Bài, sẽ xuất bản cuối năm 2020 - dày gần 600 trang) Anh Phương Trần Văn Ngà (25.10.2020).