Văn Học & Nghệ Thuật
Chỉ Có Tiếng Việt Cộng Là Không Chuẩn: TIẾNG VIỆT BA MIỀN TIẾNG NÀO LÀ " CHUẨN" ? - TS Lê Thiện Phúc
Trong tiến trình nghiên cứu ngôn ngữ học về sự thay đổi của tiếng Việt (bằng tiếng Anh) tôi thấy có đôi điều khá lý thú về ngôn ngữ của chúng ta, nên viết ra đây để chia xẻ cùng quý độc giả.
Trong tiến trình nghiên cứu ngôn ngữ học về sự thay đổi của tiếng Việt (bằng tiếng Anh) tôi thấy có đôi điều khá lý thú về ngôn ngữ của chúng ta, nên viết ra đây để chia xẻ cùng quý độc giả.
Bài nầy mang tinh thần của một nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ chớ không phải thuộc loại xã luận nên hoàn toàn không có ý định phê bình. Tuy nhiên khi phân tích thì không thể tránh khỏi sự đề cập tới những nét đặc thù của tiếng Việt liên quan tới thổ ngữ của ba miền Nam, Trung, Bắc.
Các từ ngữ mà tôi dùng ở đây xuất phát từ sự tương phản của Anh Ngữ, chớ không phải là Hán ngữ, nên có thể tạo ra cái cảm giác hơi xa lạ một chút, kính mong quí độc giả thông cảm cho.
Điều trước tiên tôi muốn nêu ra đây để nhấn mạnh rằng trong ngôn ngữ, không nhất thiết là ngôn ngữ nào, người ta không nên đặt vấn đề “đúng” hay “sai”; mà thật ra hai từ ngữ "đúng” và "sai", tự nó đã không thể đứng vững rồi, bởi vì nó còn cần phải nương nhờ vào các từ ngữ khác để bổ túc, giới hạn, hay để xác định tình huống, thì mới được coi là hợp lý. Thí dụ chúng ta nói "cái nầy sai" thì chưa ổn, mà phải nói "cái nầy "sai nguyên tắc" hay "sai đối với tôi” thì nó hợp lý hơn và nhờ vậy mà có thể hy vọng không bị bắt bẻ. Một khi chúng ta đề cập tới vấn đề “đúng” và "sai" thì có nghĩa là chúng ta phải so sánh - "đúng” là đúng theo cái gì, còn "sai" là sai theo cái gì – thì mới công bằng và hợp lý!
Đó là một lý luận hơi lòng vòng về cái ý niệm không hoàn hảo về cái "đúng” và cái "sai", để từ đó chúng ta xét tới các vấn đề trong ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ của người Việt chúng ta. Giờ đây tôi xin mời quí độc giả làm một chuyến "thăm dân cho biết sự tình" qua khắp ba miền Nam, Trung, Bắc của nước Việt Nam mình.
Với miền Nam "ruộng đồng cò bay thẳng cánh", tôm cá đầy sông”, một vùng đất phì nhiêu, cây trái sum sê bốn mùa, đời sống của người dân rất sung túc, thoải mái. Họ có làm lụng vất vả công việc đồng áng, ruộng vườn đi nữa, nhưng tâm hồn lúc nào cũng thảnh thơi, không băn khoăn lo lắng nợ nần. Lúc nào làm thì làm còn lúc nào chơi thì chơi:
"Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè …"
Cờ bạc và rượu chè ở đây không phải là loại say sưa, quậy phá, hay đam mê ngồi sòng Casino để phải ‘bán hết cửa nhà, gia đình ly tán’, mà cờ bạc, rượu chè của người dân miền Nam là hình thức giải trí lành mạnh trong thời gian nhàn rỗi mà thôi. Sự gắn bó với thiên nhiên, với ruộng đồng đã làm cho người dân miền Nam "ăn ngay, nói thẳng” trong mọi cuộc giao tiếp hàng ngày; và từ đó nảy sinh ra những ngôn từ, hay lối nói tương ứng - bộc trực.
Với miền Trung "khô cằn sỏi đá” và "lũ lụt mỗi năm”, cuộc sống của người dân ở đây khắc khổ hơn, khiến cho tâm hồn họ luôn luôn căng thẳng, âu lo cho cái sống ngày mai. Nếu có ai từng đi qua các vùng Bình Lãnh, Bình Trị, Quế Sơn, Tuyên Phước của tỉnh Quảng Ngải, Quảng Tín, thì chắc có lẽ đã chứng kiến cảnh sống vô cùng khắc khổ của đồng bào ta ở đó. Có gia đình không có một con dao để làm cá mà phải dùng một cành cây nhọn để thay dao. Không có muối để dùng nên phải đốt rể cỏ tranh, lấy tro ngâm nước để làm nước muối mà dùng. Xuất phát từ cái tâm tư khắc khổ đó, ngôn ngữ của người dân miền Trung cũng thể hiện một cách tương ứng.
Với thời tiết giá buốt và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt của miền Bắc, người dân ở đây nhất định không thể sung túc, thoải mái bằng người dân ở miền Nam. Tuy nhiên về phương diện lịch sử thì miền Bắc là nơi khởi nguồn thành hình đất nước Việt Nam. Miền Bắc cũng là nơi tiếp cận với người Tàu nên ảnh hưởng nhiều với văn hoá và ngôn ngữ Tàu, tức là chữ Hán. Miền Bắc chính là nơi khai sinh ra ngôn ngữ Việt, để từ đó lan tràn theo tiến trình khai mở bờ cõi xuống tới phía Nam.
Thực ra, tiếng Việt là một ngôn ngữ có một lịch sử rất dài và nó vô cùng phong phú, đã có từ thế kỷ thứ Tư trước Tây lịch. Nguồn gốc thành hình của tiếng Việt đã được tranh cãi nhiều bởi các nhà ngôn ngữ học loanh quanh vấn đề được nhiều người đặt ra là nó có phải thuộc nhóm ngôn ngữ north-south Austronesian, tức thuộc nguồn gốc Mã Lai và các thổ ngữ phía Nam Trung quốc, như Cam Bốt, Tây Tạng và Thái Lan, hay không?[1] Một nhà nghiên cứu khác về ngôn ngữ, Marybeth Clark[2], thì cho rằng tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Úc-Á, có quan hệ mật thiết với tiếng Mường ở miền Bắc Việt Nam. Còn các nhà ngôn ngữ học khác thì lại cho rằng tiếng Việt của chúng ta thuộc nguồn gốc Tây Tạng, Khờ Me, hay Thái[3]. Tuy nhiên, theo quan điểm của người Việt thì ông Đỗ Quang Vinh[4] đã đưa ra các bằng chứng lịch sử cho thấy tiếng Việt của chúng ta được phát triển từ tiếng Mường và tiếng nguyên thuỷ nầy vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Xin mời quí vị đọc trích đoạn sau đây:
"Khây klước pâu PÔ rằng cỏ môch ông, thên hốp là ông Tùng, mà cỏ hai bơ chồng: nã rú ra tế nĩ lấp cải Ksông Pờ. Nã tan lê Ksông Pờ pao tất Thach Pi. Bơ nã mê ti lê ksú tế nã lấp ksông. Lòng klời ksinh tha môch ông hốp là ông Sách; mê thuỗng mê thếch pất bởi ông Tùng. Nã mê pao lò; nã tỏ mìng nó tha, nã mê pât ông Tùng. Ông Tùng mê chải hết mìng, mê chết. Cho đênh cải ksông dỉ chăng lấp ẩn, mê đênh cải Thác pờ dỉ"
"Ngày xưa người ta nghe rằng có một người đàn ông, tên là ông Đông. Hai vợ chồng ông ấy định lấp con sông Bờ. Họ muốn ghép đất của sông Bờ vào vùng Thạch Bi. Vợ ông ấy đi mang đá về để lấp sông. Việc nầy làm động lòng Trời, nên Trời sai xuống một sứ thần tên là ông Sắt. Ông Sắt đi vào lửa để làm nóng lên cả toàn thân trước khi đánh với ông Đông. Ông Đông bị nóng cháy rồi chết. Vì vậy mà con sông kia đã không lấp được, nên trở thành một cái thác"
Theo sử liệu nầy thì người Việt Nam mình đã có ngôn ngữ riêng mà nguồn gốc của nó bắt nguồn từ miền Bắc và vẫn còn tồn tại với người Mường cho đến ngày nay. Dưới đây là một bằng chứng văn bản chữ Việt nguyên thuỷ của người Mường.
Do ngôn ngữ xuất phát từ miền Bắc, nên sau nầy có người lấy ngôn ngữ miền nầy làm chuẩn cho tiếng Việt, nghĩa là nói theo khuôn mẫu giọng Bắc mới là cách nói đúng theo tiêu chuẩn tiếng Việt, còn giọng nói của các miền khác đều không đúng cả!
Vấn đề đặt ra ở đây là ‘cái chuẩn’ của tiếng Việt là gì và ai có thẩm quyền đặt ra ‘cái chuẩn nầy? Nếu cho rằng giọng miền Bắc là ‘chuẩn’ là ‘đúng’, vì sự phân biệt rõ ràng trong cách phát âm các dấu hỏi, dấu ngã, chữ cuối có ‘G’ và không có ‘G’, hay chữ cuối là vần ‘T’ hay ‘C’, thì thật ra vẫn chưa ổn lắm, bởi vì cách phát âm miền Bắc còn nhiều rắc rối với các chữ bắt đầu bằng ‘L’, ‘D’ hay ‘TR’. Cách phát âm của giọng miền Nam và miền Trung thì chắc chắn không thể nào cho là ‘chuẩn’ được rồi, bởi vì miền Nam phát âm ‘V’ giống như ‘D’, không phân biệt ấm cuối ‘C’ và ‘T’, không phân biệt chữ có ‘G’ và không có ‘G’ v.v. Còn giọng miền Trung thì lại càng ‘đa dạng’ nữa, nhưng thiết không cần phải kể ra đây.
Như vậy, tiếng Việt của ta nên được căn cứ vào giọng nói của miền nào để được gọi là ‘chuẩn’, là ’đúng’? Như trên tôi đã thưa, theo quan niệm của ngôn ngữ học thì không có chuyện ‘đúng’ và ‘sai’, bởi vì ngôn ngữ không phải là ‘tài sản’ của riêng ai hay của riêng miền nào. Nó là ‘sản phẩm’ của tư tưởng trong mỗi cá nhân tùy theo mỗi tình huống. Chức năng của ngôn ngữ là để làm phương tiện cho việc chuyên chở ý tưởng của con người. Tuy nhiên không phải lúc nào ngôn ngữ cũng làm tròn cái chức năng của nó. Sự giới hạn của ngôn ngữ phát xuất từ một nguyên do căn bản nhất là người nghe không hiểu đúng ý tưởng người nói; và cũng chính vì vậy mà trên đời nầy có biết bao chuyện hiểu lầm đáng tiếc và đáng thương trong tương quan, giao tiếp giữa người nầy và người khác, ngay cả giữa vợ chồng, anh em, cha con hay mẹ con với nhau! Điều nầy chắc không cần phải có dẫn chứng vì chắc ai cũng đã từng có những kinh nghiệm về sự hiểu lầm và hậu quả ‘bất hoà’ của nó!
Khi chúng ta đã nhận ra tính chất giới hạn trong chức năng của ngôn ngữ, và khi chúng ta nhìn nhận là chuyện hiểu lầm với nhau là điều quả quyết không thể tránh khỏi được, thì chúng ta cần nên cẩn thận trong ngôn từ khi dùng nó để làm phương tiện diễn đạt ý tưởng của mình, và khi tiếp nhận đối thoại từ người khác. Chúng ta phải luôn luôn nghi ngờ về tính chất giới hạn của ngôn ngữ để làm sao càng tránh được nhiều sự hiểu lầm thì càng tốt.
Trên thực tế, ngôn ngữ không phải là của riêng ai. Bất cứ một lời nói nào ta dùng hôm nay đều được vay mượn của người khác, hoặc trực tiếp qua đối thoại, hoặc gián tiếp qua sách vở, báo chí. Nên nhớ rằng khi ta nói chuyện với ai, không phải chỉ có một mình ta đang nói, mà có nhiều người đang nói, bởi những lời nói ta dùng chỉ là sự lập lại lời nói của người khác mà thôi! Nếu bạn không tin hay không đồng ý như vậy thì xin hãy hỏi mẹ mình hay anh chị mình coi lúc mình mới chào đời thì đã có chút vốn liếng ngôn ngữ nào hay chưa? Có biết dùng từ ngữ nào của mình hay chưa?
Chuyện ngôn ngữ còn dài, không thể mô tả hết được; nhưng tôi đành phải kết thúc bài nầy ở đây với một kết luận rằng lối phát âm theo ba miền Nam, Trung, Bắc đều là phản ảnh thổ ngữ, hay tiếng địa phương. Không có lối phát âm nào là ‘chuẩn’, là "đúng" hay là ‘chánh cống’ tiếng Việt cả! Chúng ta tôn trọng ý tưởng của mỗi người khi dùng ngôn ngữ và cố gắng hiểu theo ý họ chớ không nên chủ quan hiểu theo ý mình thì mới tránh được những sự hiểu lầm thật đáng tiếc. Trên căn bản nầy, chúng ta phải tôn trọng lối phát âm của mỗi miền đất nước thân yêu, bởi vì tiếng Việt vẫn là tiếng Việt mến yêu ngàn đời của mọi người Việt Nam chúng ta.
http://www.aihuubienhoa.com/p124a5475/tieng-viet-ba-mien-tieng-nao-chuan
Song Phương chuyển
Trong tiến trình nghiên cứu ngôn ngữ học về sự thay đổi của tiếng Việt (bằng tiếng Anh) tôi thấy có đôi điều khá lý thú về ngôn ngữ của chúng ta, nên viết ra đây để chia xẻ cùng quý độc giả.
Bài nầy mang tinh thần của một nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ chớ không phải thuộc loại xã luận nên hoàn toàn không có ý định phê bình. Tuy nhiên khi phân tích thì không thể tránh khỏi sự đề cập tới những nét đặc thù của tiếng Việt liên quan tới thổ ngữ của ba miền Nam, Trung, Bắc.
Các từ ngữ mà tôi dùng ở đây xuất phát từ sự tương phản của Anh Ngữ, chớ không phải là Hán ngữ, nên có thể tạo ra cái cảm giác hơi xa lạ một chút, kính mong quí độc giả thông cảm cho.
Điều trước tiên tôi muốn nêu ra đây để nhấn mạnh rằng trong ngôn ngữ, không nhất thiết là ngôn ngữ nào, người ta không nên đặt vấn đề “đúng” hay “sai”; mà thật ra hai từ ngữ "đúng” và "sai", tự nó đã không thể đứng vững rồi, bởi vì nó còn cần phải nương nhờ vào các từ ngữ khác để bổ túc, giới hạn, hay để xác định tình huống, thì mới được coi là hợp lý. Thí dụ chúng ta nói "cái nầy sai" thì chưa ổn, mà phải nói "cái nầy "sai nguyên tắc" hay "sai đối với tôi” thì nó hợp lý hơn và nhờ vậy mà có thể hy vọng không bị bắt bẻ. Một khi chúng ta đề cập tới vấn đề “đúng” và "sai" thì có nghĩa là chúng ta phải so sánh - "đúng” là đúng theo cái gì, còn "sai" là sai theo cái gì – thì mới công bằng và hợp lý!
Đó là một lý luận hơi lòng vòng về cái ý niệm không hoàn hảo về cái "đúng” và cái "sai", để từ đó chúng ta xét tới các vấn đề trong ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ của người Việt chúng ta. Giờ đây tôi xin mời quí độc giả làm một chuyến "thăm dân cho biết sự tình" qua khắp ba miền Nam, Trung, Bắc của nước Việt Nam mình.
Với miền Nam "ruộng đồng cò bay thẳng cánh", tôm cá đầy sông”, một vùng đất phì nhiêu, cây trái sum sê bốn mùa, đời sống của người dân rất sung túc, thoải mái. Họ có làm lụng vất vả công việc đồng áng, ruộng vườn đi nữa, nhưng tâm hồn lúc nào cũng thảnh thơi, không băn khoăn lo lắng nợ nần. Lúc nào làm thì làm còn lúc nào chơi thì chơi:
"Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè …"
Cờ bạc và rượu chè ở đây không phải là loại say sưa, quậy phá, hay đam mê ngồi sòng Casino để phải ‘bán hết cửa nhà, gia đình ly tán’, mà cờ bạc, rượu chè của người dân miền Nam là hình thức giải trí lành mạnh trong thời gian nhàn rỗi mà thôi. Sự gắn bó với thiên nhiên, với ruộng đồng đã làm cho người dân miền Nam "ăn ngay, nói thẳng” trong mọi cuộc giao tiếp hàng ngày; và từ đó nảy sinh ra những ngôn từ, hay lối nói tương ứng - bộc trực.
Với miền Trung "khô cằn sỏi đá” và "lũ lụt mỗi năm”, cuộc sống của người dân ở đây khắc khổ hơn, khiến cho tâm hồn họ luôn luôn căng thẳng, âu lo cho cái sống ngày mai. Nếu có ai từng đi qua các vùng Bình Lãnh, Bình Trị, Quế Sơn, Tuyên Phước của tỉnh Quảng Ngải, Quảng Tín, thì chắc có lẽ đã chứng kiến cảnh sống vô cùng khắc khổ của đồng bào ta ở đó. Có gia đình không có một con dao để làm cá mà phải dùng một cành cây nhọn để thay dao. Không có muối để dùng nên phải đốt rể cỏ tranh, lấy tro ngâm nước để làm nước muối mà dùng. Xuất phát từ cái tâm tư khắc khổ đó, ngôn ngữ của người dân miền Trung cũng thể hiện một cách tương ứng.
Với thời tiết giá buốt và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt của miền Bắc, người dân ở đây nhất định không thể sung túc, thoải mái bằng người dân ở miền Nam. Tuy nhiên về phương diện lịch sử thì miền Bắc là nơi khởi nguồn thành hình đất nước Việt Nam. Miền Bắc cũng là nơi tiếp cận với người Tàu nên ảnh hưởng nhiều với văn hoá và ngôn ngữ Tàu, tức là chữ Hán. Miền Bắc chính là nơi khai sinh ra ngôn ngữ Việt, để từ đó lan tràn theo tiến trình khai mở bờ cõi xuống tới phía Nam.
Thực ra, tiếng Việt là một ngôn ngữ có một lịch sử rất dài và nó vô cùng phong phú, đã có từ thế kỷ thứ Tư trước Tây lịch. Nguồn gốc thành hình của tiếng Việt đã được tranh cãi nhiều bởi các nhà ngôn ngữ học loanh quanh vấn đề được nhiều người đặt ra là nó có phải thuộc nhóm ngôn ngữ north-south Austronesian, tức thuộc nguồn gốc Mã Lai và các thổ ngữ phía Nam Trung quốc, như Cam Bốt, Tây Tạng và Thái Lan, hay không?[1] Một nhà nghiên cứu khác về ngôn ngữ, Marybeth Clark[2], thì cho rằng tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Úc-Á, có quan hệ mật thiết với tiếng Mường ở miền Bắc Việt Nam. Còn các nhà ngôn ngữ học khác thì lại cho rằng tiếng Việt của chúng ta thuộc nguồn gốc Tây Tạng, Khờ Me, hay Thái[3]. Tuy nhiên, theo quan điểm của người Việt thì ông Đỗ Quang Vinh[4] đã đưa ra các bằng chứng lịch sử cho thấy tiếng Việt của chúng ta được phát triển từ tiếng Mường và tiếng nguyên thuỷ nầy vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Xin mời quí vị đọc trích đoạn sau đây:
"Khây klước pâu PÔ rằng cỏ môch ông, thên hốp là ông Tùng, mà cỏ hai bơ chồng: nã rú ra tế nĩ lấp cải Ksông Pờ. Nã tan lê Ksông Pờ pao tất Thach Pi. Bơ nã mê ti lê ksú tế nã lấp ksông. Lòng klời ksinh tha môch ông hốp là ông Sách; mê thuỗng mê thếch pất bởi ông Tùng. Nã mê pao lò; nã tỏ mìng nó tha, nã mê pât ông Tùng. Ông Tùng mê chải hết mìng, mê chết. Cho đênh cải ksông dỉ chăng lấp ẩn, mê đênh cải Thác pờ dỉ"
"Ngày xưa người ta nghe rằng có một người đàn ông, tên là ông Đông. Hai vợ chồng ông ấy định lấp con sông Bờ. Họ muốn ghép đất của sông Bờ vào vùng Thạch Bi. Vợ ông ấy đi mang đá về để lấp sông. Việc nầy làm động lòng Trời, nên Trời sai xuống một sứ thần tên là ông Sắt. Ông Sắt đi vào lửa để làm nóng lên cả toàn thân trước khi đánh với ông Đông. Ông Đông bị nóng cháy rồi chết. Vì vậy mà con sông kia đã không lấp được, nên trở thành một cái thác"
Theo sử liệu nầy thì người Việt Nam mình đã có ngôn ngữ riêng mà nguồn gốc của nó bắt nguồn từ miền Bắc và vẫn còn tồn tại với người Mường cho đến ngày nay. Dưới đây là một bằng chứng văn bản chữ Việt nguyên thuỷ của người Mường.
Source: Do (1994:210)[5]
Như vậy, theo sử liệu nầy thì chữ Việt của chúng ta đã có từ lâu chớ không phải bắt nguồn từ chữ Hán của người Tàu sau khi họ đô hộ nước ta hơn cả ngàn năm, và cũng không phải là do kết quả sự đô hộ của người Pháp[6].Do ngôn ngữ xuất phát từ miền Bắc, nên sau nầy có người lấy ngôn ngữ miền nầy làm chuẩn cho tiếng Việt, nghĩa là nói theo khuôn mẫu giọng Bắc mới là cách nói đúng theo tiêu chuẩn tiếng Việt, còn giọng nói của các miền khác đều không đúng cả!
Vấn đề đặt ra ở đây là ‘cái chuẩn’ của tiếng Việt là gì và ai có thẩm quyền đặt ra ‘cái chuẩn nầy? Nếu cho rằng giọng miền Bắc là ‘chuẩn’ là ‘đúng’, vì sự phân biệt rõ ràng trong cách phát âm các dấu hỏi, dấu ngã, chữ cuối có ‘G’ và không có ‘G’, hay chữ cuối là vần ‘T’ hay ‘C’, thì thật ra vẫn chưa ổn lắm, bởi vì cách phát âm miền Bắc còn nhiều rắc rối với các chữ bắt đầu bằng ‘L’, ‘D’ hay ‘TR’. Cách phát âm của giọng miền Nam và miền Trung thì chắc chắn không thể nào cho là ‘chuẩn’ được rồi, bởi vì miền Nam phát âm ‘V’ giống như ‘D’, không phân biệt ấm cuối ‘C’ và ‘T’, không phân biệt chữ có ‘G’ và không có ‘G’ v.v. Còn giọng miền Trung thì lại càng ‘đa dạng’ nữa, nhưng thiết không cần phải kể ra đây.
Như vậy, tiếng Việt của ta nên được căn cứ vào giọng nói của miền nào để được gọi là ‘chuẩn’, là ’đúng’? Như trên tôi đã thưa, theo quan niệm của ngôn ngữ học thì không có chuyện ‘đúng’ và ‘sai’, bởi vì ngôn ngữ không phải là ‘tài sản’ của riêng ai hay của riêng miền nào. Nó là ‘sản phẩm’ của tư tưởng trong mỗi cá nhân tùy theo mỗi tình huống. Chức năng của ngôn ngữ là để làm phương tiện cho việc chuyên chở ý tưởng của con người. Tuy nhiên không phải lúc nào ngôn ngữ cũng làm tròn cái chức năng của nó. Sự giới hạn của ngôn ngữ phát xuất từ một nguyên do căn bản nhất là người nghe không hiểu đúng ý tưởng người nói; và cũng chính vì vậy mà trên đời nầy có biết bao chuyện hiểu lầm đáng tiếc và đáng thương trong tương quan, giao tiếp giữa người nầy và người khác, ngay cả giữa vợ chồng, anh em, cha con hay mẹ con với nhau! Điều nầy chắc không cần phải có dẫn chứng vì chắc ai cũng đã từng có những kinh nghiệm về sự hiểu lầm và hậu quả ‘bất hoà’ của nó!
Khi chúng ta đã nhận ra tính chất giới hạn trong chức năng của ngôn ngữ, và khi chúng ta nhìn nhận là chuyện hiểu lầm với nhau là điều quả quyết không thể tránh khỏi được, thì chúng ta cần nên cẩn thận trong ngôn từ khi dùng nó để làm phương tiện diễn đạt ý tưởng của mình, và khi tiếp nhận đối thoại từ người khác. Chúng ta phải luôn luôn nghi ngờ về tính chất giới hạn của ngôn ngữ để làm sao càng tránh được nhiều sự hiểu lầm thì càng tốt.
Trên thực tế, ngôn ngữ không phải là của riêng ai. Bất cứ một lời nói nào ta dùng hôm nay đều được vay mượn của người khác, hoặc trực tiếp qua đối thoại, hoặc gián tiếp qua sách vở, báo chí. Nên nhớ rằng khi ta nói chuyện với ai, không phải chỉ có một mình ta đang nói, mà có nhiều người đang nói, bởi những lời nói ta dùng chỉ là sự lập lại lời nói của người khác mà thôi! Nếu bạn không tin hay không đồng ý như vậy thì xin hãy hỏi mẹ mình hay anh chị mình coi lúc mình mới chào đời thì đã có chút vốn liếng ngôn ngữ nào hay chưa? Có biết dùng từ ngữ nào của mình hay chưa?
Chuyện ngôn ngữ còn dài, không thể mô tả hết được; nhưng tôi đành phải kết thúc bài nầy ở đây với một kết luận rằng lối phát âm theo ba miền Nam, Trung, Bắc đều là phản ảnh thổ ngữ, hay tiếng địa phương. Không có lối phát âm nào là ‘chuẩn’, là "đúng" hay là ‘chánh cống’ tiếng Việt cả! Chúng ta tôn trọng ý tưởng của mỗi người khi dùng ngôn ngữ và cố gắng hiểu theo ý họ chớ không nên chủ quan hiểu theo ý mình thì mới tránh được những sự hiểu lầm thật đáng tiếc. Trên căn bản nầy, chúng ta phải tôn trọng lối phát âm của mỗi miền đất nước thân yêu, bởi vì tiếng Việt vẫn là tiếng Việt mến yêu ngàn đời của mọi người Việt Nam chúng ta.
[1] Xin đọc trang 139, Marr, D., (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. University of California Press. Berkeley. Los Angeless. London.
[2] Xin đọc trang 3, Clark, Marybeth, (1978). Coverbs and Case in Vietnamese. Series B. No. 48. Pacific Linguistics. Department of Linguistics. Research School of Pacific Studies. The Australian National University
[3] Xin đọc trang 1 và 2, Shum, Shu-Ying (1965) A Transformational Study of Vietnamese Syntax. (PhD thesis) Indiana University.
Song Phương chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Chỉ Có Tiếng Việt Cộng Là Không Chuẩn: TIẾNG VIỆT BA MIỀN TIẾNG NÀO LÀ " CHUẨN" ? - TS Lê Thiện Phúc
Trong tiến trình nghiên cứu ngôn ngữ học về sự thay đổi của tiếng Việt (bằng tiếng Anh) tôi thấy có đôi điều khá lý thú về ngôn ngữ của chúng ta, nên viết ra đây để chia xẻ cùng quý độc giả.
Trong tiến trình nghiên cứu ngôn ngữ
học về sự thay đổi của tiếng Việt (bằng tiếng Anh) tôi thấy có đôi điều
khá lý thú về ngôn ngữ của chúng ta, nên viết ra đây để chia xẻ cùng quý
độc giả.
Bài nầy mang tinh thần của một nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ chớ không phải thuộc loại xã luận nên hoàn toàn không có ý định phê bình. Tuy nhiên khi phân tích thì không thể tránh khỏi sự đề cập tới những nét đặc thù của tiếng Việt liên quan tới thổ ngữ của ba miền Nam, Trung, Bắc.
Các từ ngữ mà tôi dùng ở đây xuất phát từ sự tương phản của Anh Ngữ, chớ không phải là Hán ngữ, nên có thể tạo ra cái cảm giác hơi xa lạ một chút, kính mong quí độc giả thông cảm cho.
Điều trước tiên tôi muốn nêu ra đây để nhấn mạnh rằng trong ngôn ngữ, không nhất thiết là ngôn ngữ nào, người ta không nên đặt vấn đề “đúng” hay “sai”; mà thật ra hai từ ngữ "đúng” và "sai", tự nó đã không thể đứng vững rồi, bởi vì nó còn cần phải nương nhờ vào các từ ngữ khác để bổ túc, giới hạn, hay để xác định tình huống, thì mới được coi là hợp lý. Thí dụ chúng ta nói "cái nầy sai" thì chưa ổn, mà phải nói "cái nầy "sai nguyên tắc" hay "sai đối với tôi” thì nó hợp lý hơn và nhờ vậy mà có thể hy vọng không bị bắt bẻ. Một khi chúng ta đề cập tới vấn đề “đúng” và "sai" thì có nghĩa là chúng ta phải so sánh - "đúng” là đúng theo cái gì, còn "sai" là sai theo cái gì – thì mới công bằng và hợp lý!
Đó là một lý luận hơi lòng vòng về cái ý niệm không hoàn hảo về cái "đúng” và cái "sai", để từ đó chúng ta xét tới các vấn đề trong ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ của người Việt chúng ta. Giờ đây tôi xin mời quí độc giả làm một chuyến "thăm dân cho biết sự tình" qua khắp ba miền Nam, Trung, Bắc của nước Việt Nam mình.
Với miền Nam "ruộng đồng cò bay thẳng cánh", tôm cá đầy sông”, một vùng đất phì nhiêu, cây trái sum sê bốn mùa, đời sống của người dân rất sung túc, thoải mái. Họ có làm lụng vất vả công việc đồng áng, ruộng vườn đi nữa, nhưng tâm hồn lúc nào cũng thảnh thơi, không băn khoăn lo lắng nợ nần. Lúc nào làm thì làm còn lúc nào chơi thì chơi:
"Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè …"
Cờ bạc và rượu chè ở đây không phải là loại say sưa, quậy phá, hay đam mê ngồi sòng Casino để phải ‘bán hết cửa nhà, gia đình ly tán’, mà cờ bạc, rượu chè của người dân miền Nam là hình thức giải trí lành mạnh trong thời gian nhàn rỗi mà thôi. Sự gắn bó với thiên nhiên, với ruộng đồng đã làm cho người dân miền Nam "ăn ngay, nói thẳng” trong mọi cuộc giao tiếp hàng ngày; và từ đó nảy sinh ra những ngôn từ, hay lối nói tương ứng - bộc trực.
Với miền Trung "khô cằn sỏi đá” và "lũ lụt mỗi năm”, cuộc sống của người dân ở đây khắc khổ hơn, khiến cho tâm hồn họ luôn luôn căng thẳng, âu lo cho cái sống ngày mai. Nếu có ai từng đi qua các vùng Bình Lãnh, Bình Trị, Quế Sơn, Tuyên Phước của tỉnh Quảng Ngải, Quảng Tín, thì chắc có lẽ đã chứng kiến cảnh sống vô cùng khắc khổ của đồng bào ta ở đó. Có gia đình không có một con dao để làm cá mà phải dùng một cành cây nhọn để thay dao. Không có muối để dùng nên phải đốt rể cỏ tranh, lấy tro ngâm nước để làm nước muối mà dùng. Xuất phát từ cái tâm tư khắc khổ đó, ngôn ngữ của người dân miền Trung cũng thể hiện một cách tương ứng.
Với thời tiết giá buốt và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt của miền Bắc, người dân ở đây nhất định không thể sung túc, thoải mái bằng người dân ở miền Nam. Tuy nhiên về phương diện lịch sử thì miền Bắc là nơi khởi nguồn thành hình đất nước Việt Nam. Miền Bắc cũng là nơi tiếp cận với người Tàu nên ảnh hưởng nhiều với văn hoá và ngôn ngữ Tàu, tức là chữ Hán. Miền Bắc chính là nơi khai sinh ra ngôn ngữ Việt, để từ đó lan tràn theo tiến trình khai mở bờ cõi xuống tới phía Nam.
Thực ra, tiếng Việt là một ngôn ngữ có một lịch sử rất dài và nó vô cùng phong phú, đã có từ thế kỷ thứ Tư trước Tây lịch. Nguồn gốc thành hình của tiếng Việt đã được tranh cãi nhiều bởi các nhà ngôn ngữ học loanh quanh vấn đề được nhiều người đặt ra là nó có phải thuộc nhóm ngôn ngữ north-south Austronesian, tức thuộc nguồn gốc Mã Lai và các thổ ngữ phía Nam Trung quốc, như Cam Bốt, Tây Tạng và Thái Lan, hay không?[1] Một nhà nghiên cứu khác về ngôn ngữ, Marybeth Clark[2], thì cho rằng tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Úc-Á, có quan hệ mật thiết với tiếng Mường ở miền Bắc Việt Nam. Còn các nhà ngôn ngữ học khác thì lại cho rằng tiếng Việt của chúng ta thuộc nguồn gốc Tây Tạng, Khờ Me, hay Thái[3]. Tuy nhiên, theo quan điểm của người Việt thì ông Đỗ Quang Vinh[4] đã đưa ra các bằng chứng lịch sử cho thấy tiếng Việt của chúng ta được phát triển từ tiếng Mường và tiếng nguyên thuỷ nầy vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Xin mời quí vị đọc trích đoạn sau đây:
"Khây klước pâu PÔ rằng cỏ môch ông, thên hốp là ông Tùng, mà cỏ hai bơ chồng: nã rú ra tế nĩ lấp cải Ksông Pờ. Nã tan lê Ksông Pờ pao tất Thach Pi. Bơ nã mê ti lê ksú tế nã lấp ksông. Lòng klời ksinh tha môch ông hốp là ông Sách; mê thuỗng mê thếch pất bởi ông Tùng. Nã mê pao lò; nã tỏ mìng nó tha, nã mê pât ông Tùng. Ông Tùng mê chải hết mìng, mê chết. Cho đênh cải ksông dỉ chăng lấp ẩn, mê đênh cải Thác pờ dỉ"
"Ngày xưa người ta nghe rằng có một người đàn ông, tên là ông Đông. Hai vợ chồng ông ấy định lấp con sông Bờ. Họ muốn ghép đất của sông Bờ vào vùng Thạch Bi. Vợ ông ấy đi mang đá về để lấp sông. Việc nầy làm động lòng Trời, nên Trời sai xuống một sứ thần tên là ông Sắt. Ông Sắt đi vào lửa để làm nóng lên cả toàn thân trước khi đánh với ông Đông. Ông Đông bị nóng cháy rồi chết. Vì vậy mà con sông kia đã không lấp được, nên trở thành một cái thác"
Theo sử liệu nầy thì người Việt Nam mình đã có ngôn ngữ riêng mà nguồn gốc của nó bắt nguồn từ miền Bắc và vẫn còn tồn tại với người Mường cho đến ngày nay. Dưới đây là một bằng chứng văn bản chữ Việt nguyên thuỷ của người Mường.
Do ngôn ngữ xuất phát từ miền Bắc, nên sau nầy có người lấy ngôn ngữ miền nầy làm chuẩn cho tiếng Việt, nghĩa là nói theo khuôn mẫu giọng Bắc mới là cách nói đúng theo tiêu chuẩn tiếng Việt, còn giọng nói của các miền khác đều không đúng cả!
Vấn đề đặt ra ở đây là ‘cái chuẩn’ của tiếng Việt là gì và ai có thẩm quyền đặt ra ‘cái chuẩn nầy? Nếu cho rằng giọng miền Bắc là ‘chuẩn’ là ‘đúng’, vì sự phân biệt rõ ràng trong cách phát âm các dấu hỏi, dấu ngã, chữ cuối có ‘G’ và không có ‘G’, hay chữ cuối là vần ‘T’ hay ‘C’, thì thật ra vẫn chưa ổn lắm, bởi vì cách phát âm miền Bắc còn nhiều rắc rối với các chữ bắt đầu bằng ‘L’, ‘D’ hay ‘TR’. Cách phát âm của giọng miền Nam và miền Trung thì chắc chắn không thể nào cho là ‘chuẩn’ được rồi, bởi vì miền Nam phát âm ‘V’ giống như ‘D’, không phân biệt ấm cuối ‘C’ và ‘T’, không phân biệt chữ có ‘G’ và không có ‘G’ v.v. Còn giọng miền Trung thì lại càng ‘đa dạng’ nữa, nhưng thiết không cần phải kể ra đây.
Như vậy, tiếng Việt của ta nên được căn cứ vào giọng nói của miền nào để được gọi là ‘chuẩn’, là ’đúng’? Như trên tôi đã thưa, theo quan niệm của ngôn ngữ học thì không có chuyện ‘đúng’ và ‘sai’, bởi vì ngôn ngữ không phải là ‘tài sản’ của riêng ai hay của riêng miền nào. Nó là ‘sản phẩm’ của tư tưởng trong mỗi cá nhân tùy theo mỗi tình huống. Chức năng của ngôn ngữ là để làm phương tiện cho việc chuyên chở ý tưởng của con người. Tuy nhiên không phải lúc nào ngôn ngữ cũng làm tròn cái chức năng của nó. Sự giới hạn của ngôn ngữ phát xuất từ một nguyên do căn bản nhất là người nghe không hiểu đúng ý tưởng người nói; và cũng chính vì vậy mà trên đời nầy có biết bao chuyện hiểu lầm đáng tiếc và đáng thương trong tương quan, giao tiếp giữa người nầy và người khác, ngay cả giữa vợ chồng, anh em, cha con hay mẹ con với nhau! Điều nầy chắc không cần phải có dẫn chứng vì chắc ai cũng đã từng có những kinh nghiệm về sự hiểu lầm và hậu quả ‘bất hoà’ của nó!
Khi chúng ta đã nhận ra tính chất giới hạn trong chức năng của ngôn ngữ, và khi chúng ta nhìn nhận là chuyện hiểu lầm với nhau là điều quả quyết không thể tránh khỏi được, thì chúng ta cần nên cẩn thận trong ngôn từ khi dùng nó để làm phương tiện diễn đạt ý tưởng của mình, và khi tiếp nhận đối thoại từ người khác. Chúng ta phải luôn luôn nghi ngờ về tính chất giới hạn của ngôn ngữ để làm sao càng tránh được nhiều sự hiểu lầm thì càng tốt.
Trên thực tế, ngôn ngữ không phải là của riêng ai. Bất cứ một lời nói nào ta dùng hôm nay đều được vay mượn của người khác, hoặc trực tiếp qua đối thoại, hoặc gián tiếp qua sách vở, báo chí. Nên nhớ rằng khi ta nói chuyện với ai, không phải chỉ có một mình ta đang nói, mà có nhiều người đang nói, bởi những lời nói ta dùng chỉ là sự lập lại lời nói của người khác mà thôi! Nếu bạn không tin hay không đồng ý như vậy thì xin hãy hỏi mẹ mình hay anh chị mình coi lúc mình mới chào đời thì đã có chút vốn liếng ngôn ngữ nào hay chưa? Có biết dùng từ ngữ nào của mình hay chưa?
Chuyện ngôn ngữ còn dài, không thể mô tả hết được; nhưng tôi đành phải kết thúc bài nầy ở đây với một kết luận rằng lối phát âm theo ba miền Nam, Trung, Bắc đều là phản ảnh thổ ngữ, hay tiếng địa phương. Không có lối phát âm nào là ‘chuẩn’, là "đúng" hay là ‘chánh cống’ tiếng Việt cả! Chúng ta tôn trọng ý tưởng của mỗi người khi dùng ngôn ngữ và cố gắng hiểu theo ý họ chớ không nên chủ quan hiểu theo ý mình thì mới tránh được những sự hiểu lầm thật đáng tiếc. Trên căn bản nầy, chúng ta phải tôn trọng lối phát âm của mỗi miền đất nước thân yêu, bởi vì tiếng Việt vẫn là tiếng Việt mến yêu ngàn đời của mọi người Việt Nam chúng ta.
http://www.aihuubienhoa.com/p124a5475/tieng-viet-ba-mien-tieng-nao-chuan
Song Phương chuyển
Bài nầy mang tinh thần của một nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ chớ không phải thuộc loại xã luận nên hoàn toàn không có ý định phê bình. Tuy nhiên khi phân tích thì không thể tránh khỏi sự đề cập tới những nét đặc thù của tiếng Việt liên quan tới thổ ngữ của ba miền Nam, Trung, Bắc.
Các từ ngữ mà tôi dùng ở đây xuất phát từ sự tương phản của Anh Ngữ, chớ không phải là Hán ngữ, nên có thể tạo ra cái cảm giác hơi xa lạ một chút, kính mong quí độc giả thông cảm cho.
Điều trước tiên tôi muốn nêu ra đây để nhấn mạnh rằng trong ngôn ngữ, không nhất thiết là ngôn ngữ nào, người ta không nên đặt vấn đề “đúng” hay “sai”; mà thật ra hai từ ngữ "đúng” và "sai", tự nó đã không thể đứng vững rồi, bởi vì nó còn cần phải nương nhờ vào các từ ngữ khác để bổ túc, giới hạn, hay để xác định tình huống, thì mới được coi là hợp lý. Thí dụ chúng ta nói "cái nầy sai" thì chưa ổn, mà phải nói "cái nầy "sai nguyên tắc" hay "sai đối với tôi” thì nó hợp lý hơn và nhờ vậy mà có thể hy vọng không bị bắt bẻ. Một khi chúng ta đề cập tới vấn đề “đúng” và "sai" thì có nghĩa là chúng ta phải so sánh - "đúng” là đúng theo cái gì, còn "sai" là sai theo cái gì – thì mới công bằng và hợp lý!
Đó là một lý luận hơi lòng vòng về cái ý niệm không hoàn hảo về cái "đúng” và cái "sai", để từ đó chúng ta xét tới các vấn đề trong ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ của người Việt chúng ta. Giờ đây tôi xin mời quí độc giả làm một chuyến "thăm dân cho biết sự tình" qua khắp ba miền Nam, Trung, Bắc của nước Việt Nam mình.
Với miền Nam "ruộng đồng cò bay thẳng cánh", tôm cá đầy sông”, một vùng đất phì nhiêu, cây trái sum sê bốn mùa, đời sống của người dân rất sung túc, thoải mái. Họ có làm lụng vất vả công việc đồng áng, ruộng vườn đi nữa, nhưng tâm hồn lúc nào cũng thảnh thơi, không băn khoăn lo lắng nợ nần. Lúc nào làm thì làm còn lúc nào chơi thì chơi:
"Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè …"
Cờ bạc và rượu chè ở đây không phải là loại say sưa, quậy phá, hay đam mê ngồi sòng Casino để phải ‘bán hết cửa nhà, gia đình ly tán’, mà cờ bạc, rượu chè của người dân miền Nam là hình thức giải trí lành mạnh trong thời gian nhàn rỗi mà thôi. Sự gắn bó với thiên nhiên, với ruộng đồng đã làm cho người dân miền Nam "ăn ngay, nói thẳng” trong mọi cuộc giao tiếp hàng ngày; và từ đó nảy sinh ra những ngôn từ, hay lối nói tương ứng - bộc trực.
Với miền Trung "khô cằn sỏi đá” và "lũ lụt mỗi năm”, cuộc sống của người dân ở đây khắc khổ hơn, khiến cho tâm hồn họ luôn luôn căng thẳng, âu lo cho cái sống ngày mai. Nếu có ai từng đi qua các vùng Bình Lãnh, Bình Trị, Quế Sơn, Tuyên Phước của tỉnh Quảng Ngải, Quảng Tín, thì chắc có lẽ đã chứng kiến cảnh sống vô cùng khắc khổ của đồng bào ta ở đó. Có gia đình không có một con dao để làm cá mà phải dùng một cành cây nhọn để thay dao. Không có muối để dùng nên phải đốt rể cỏ tranh, lấy tro ngâm nước để làm nước muối mà dùng. Xuất phát từ cái tâm tư khắc khổ đó, ngôn ngữ của người dân miền Trung cũng thể hiện một cách tương ứng.
Với thời tiết giá buốt và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt của miền Bắc, người dân ở đây nhất định không thể sung túc, thoải mái bằng người dân ở miền Nam. Tuy nhiên về phương diện lịch sử thì miền Bắc là nơi khởi nguồn thành hình đất nước Việt Nam. Miền Bắc cũng là nơi tiếp cận với người Tàu nên ảnh hưởng nhiều với văn hoá và ngôn ngữ Tàu, tức là chữ Hán. Miền Bắc chính là nơi khai sinh ra ngôn ngữ Việt, để từ đó lan tràn theo tiến trình khai mở bờ cõi xuống tới phía Nam.
Thực ra, tiếng Việt là một ngôn ngữ có một lịch sử rất dài và nó vô cùng phong phú, đã có từ thế kỷ thứ Tư trước Tây lịch. Nguồn gốc thành hình của tiếng Việt đã được tranh cãi nhiều bởi các nhà ngôn ngữ học loanh quanh vấn đề được nhiều người đặt ra là nó có phải thuộc nhóm ngôn ngữ north-south Austronesian, tức thuộc nguồn gốc Mã Lai và các thổ ngữ phía Nam Trung quốc, như Cam Bốt, Tây Tạng và Thái Lan, hay không?[1] Một nhà nghiên cứu khác về ngôn ngữ, Marybeth Clark[2], thì cho rằng tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Úc-Á, có quan hệ mật thiết với tiếng Mường ở miền Bắc Việt Nam. Còn các nhà ngôn ngữ học khác thì lại cho rằng tiếng Việt của chúng ta thuộc nguồn gốc Tây Tạng, Khờ Me, hay Thái[3]. Tuy nhiên, theo quan điểm của người Việt thì ông Đỗ Quang Vinh[4] đã đưa ra các bằng chứng lịch sử cho thấy tiếng Việt của chúng ta được phát triển từ tiếng Mường và tiếng nguyên thuỷ nầy vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Xin mời quí vị đọc trích đoạn sau đây:
"Khây klước pâu PÔ rằng cỏ môch ông, thên hốp là ông Tùng, mà cỏ hai bơ chồng: nã rú ra tế nĩ lấp cải Ksông Pờ. Nã tan lê Ksông Pờ pao tất Thach Pi. Bơ nã mê ti lê ksú tế nã lấp ksông. Lòng klời ksinh tha môch ông hốp là ông Sách; mê thuỗng mê thếch pất bởi ông Tùng. Nã mê pao lò; nã tỏ mìng nó tha, nã mê pât ông Tùng. Ông Tùng mê chải hết mìng, mê chết. Cho đênh cải ksông dỉ chăng lấp ẩn, mê đênh cải Thác pờ dỉ"
"Ngày xưa người ta nghe rằng có một người đàn ông, tên là ông Đông. Hai vợ chồng ông ấy định lấp con sông Bờ. Họ muốn ghép đất của sông Bờ vào vùng Thạch Bi. Vợ ông ấy đi mang đá về để lấp sông. Việc nầy làm động lòng Trời, nên Trời sai xuống một sứ thần tên là ông Sắt. Ông Sắt đi vào lửa để làm nóng lên cả toàn thân trước khi đánh với ông Đông. Ông Đông bị nóng cháy rồi chết. Vì vậy mà con sông kia đã không lấp được, nên trở thành một cái thác"
Theo sử liệu nầy thì người Việt Nam mình đã có ngôn ngữ riêng mà nguồn gốc của nó bắt nguồn từ miền Bắc và vẫn còn tồn tại với người Mường cho đến ngày nay. Dưới đây là một bằng chứng văn bản chữ Việt nguyên thuỷ của người Mường.
Source: Do (1994:210)[5]
Như vậy, theo sử liệu nầy thì chữ Việt của chúng ta đã có từ lâu chớ không phải bắt nguồn từ chữ Hán của người Tàu sau khi họ đô hộ nước ta hơn cả ngàn năm, và cũng không phải là do kết quả sự đô hộ của người Pháp[6].Do ngôn ngữ xuất phát từ miền Bắc, nên sau nầy có người lấy ngôn ngữ miền nầy làm chuẩn cho tiếng Việt, nghĩa là nói theo khuôn mẫu giọng Bắc mới là cách nói đúng theo tiêu chuẩn tiếng Việt, còn giọng nói của các miền khác đều không đúng cả!
Vấn đề đặt ra ở đây là ‘cái chuẩn’ của tiếng Việt là gì và ai có thẩm quyền đặt ra ‘cái chuẩn nầy? Nếu cho rằng giọng miền Bắc là ‘chuẩn’ là ‘đúng’, vì sự phân biệt rõ ràng trong cách phát âm các dấu hỏi, dấu ngã, chữ cuối có ‘G’ và không có ‘G’, hay chữ cuối là vần ‘T’ hay ‘C’, thì thật ra vẫn chưa ổn lắm, bởi vì cách phát âm miền Bắc còn nhiều rắc rối với các chữ bắt đầu bằng ‘L’, ‘D’ hay ‘TR’. Cách phát âm của giọng miền Nam và miền Trung thì chắc chắn không thể nào cho là ‘chuẩn’ được rồi, bởi vì miền Nam phát âm ‘V’ giống như ‘D’, không phân biệt ấm cuối ‘C’ và ‘T’, không phân biệt chữ có ‘G’ và không có ‘G’ v.v. Còn giọng miền Trung thì lại càng ‘đa dạng’ nữa, nhưng thiết không cần phải kể ra đây.
Như vậy, tiếng Việt của ta nên được căn cứ vào giọng nói của miền nào để được gọi là ‘chuẩn’, là ’đúng’? Như trên tôi đã thưa, theo quan niệm của ngôn ngữ học thì không có chuyện ‘đúng’ và ‘sai’, bởi vì ngôn ngữ không phải là ‘tài sản’ của riêng ai hay của riêng miền nào. Nó là ‘sản phẩm’ của tư tưởng trong mỗi cá nhân tùy theo mỗi tình huống. Chức năng của ngôn ngữ là để làm phương tiện cho việc chuyên chở ý tưởng của con người. Tuy nhiên không phải lúc nào ngôn ngữ cũng làm tròn cái chức năng của nó. Sự giới hạn của ngôn ngữ phát xuất từ một nguyên do căn bản nhất là người nghe không hiểu đúng ý tưởng người nói; và cũng chính vì vậy mà trên đời nầy có biết bao chuyện hiểu lầm đáng tiếc và đáng thương trong tương quan, giao tiếp giữa người nầy và người khác, ngay cả giữa vợ chồng, anh em, cha con hay mẹ con với nhau! Điều nầy chắc không cần phải có dẫn chứng vì chắc ai cũng đã từng có những kinh nghiệm về sự hiểu lầm và hậu quả ‘bất hoà’ của nó!
Khi chúng ta đã nhận ra tính chất giới hạn trong chức năng của ngôn ngữ, và khi chúng ta nhìn nhận là chuyện hiểu lầm với nhau là điều quả quyết không thể tránh khỏi được, thì chúng ta cần nên cẩn thận trong ngôn từ khi dùng nó để làm phương tiện diễn đạt ý tưởng của mình, và khi tiếp nhận đối thoại từ người khác. Chúng ta phải luôn luôn nghi ngờ về tính chất giới hạn của ngôn ngữ để làm sao càng tránh được nhiều sự hiểu lầm thì càng tốt.
Trên thực tế, ngôn ngữ không phải là của riêng ai. Bất cứ một lời nói nào ta dùng hôm nay đều được vay mượn của người khác, hoặc trực tiếp qua đối thoại, hoặc gián tiếp qua sách vở, báo chí. Nên nhớ rằng khi ta nói chuyện với ai, không phải chỉ có một mình ta đang nói, mà có nhiều người đang nói, bởi những lời nói ta dùng chỉ là sự lập lại lời nói của người khác mà thôi! Nếu bạn không tin hay không đồng ý như vậy thì xin hãy hỏi mẹ mình hay anh chị mình coi lúc mình mới chào đời thì đã có chút vốn liếng ngôn ngữ nào hay chưa? Có biết dùng từ ngữ nào của mình hay chưa?
Chuyện ngôn ngữ còn dài, không thể mô tả hết được; nhưng tôi đành phải kết thúc bài nầy ở đây với một kết luận rằng lối phát âm theo ba miền Nam, Trung, Bắc đều là phản ảnh thổ ngữ, hay tiếng địa phương. Không có lối phát âm nào là ‘chuẩn’, là "đúng" hay là ‘chánh cống’ tiếng Việt cả! Chúng ta tôn trọng ý tưởng của mỗi người khi dùng ngôn ngữ và cố gắng hiểu theo ý họ chớ không nên chủ quan hiểu theo ý mình thì mới tránh được những sự hiểu lầm thật đáng tiếc. Trên căn bản nầy, chúng ta phải tôn trọng lối phát âm của mỗi miền đất nước thân yêu, bởi vì tiếng Việt vẫn là tiếng Việt mến yêu ngàn đời của mọi người Việt Nam chúng ta.
[1] Xin đọc trang 139, Marr, D., (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. University of California Press. Berkeley. Los Angeless. London.
[2] Xin đọc trang 3, Clark, Marybeth, (1978). Coverbs and Case in Vietnamese. Series B. No. 48. Pacific Linguistics. Department of Linguistics. Research School of Pacific Studies. The Australian National University
[3] Xin đọc trang 1 và 2, Shum, Shu-Ying (1965) A Transformational Study of Vietnamese Syntax. (PhD thesis) Indiana University.
Song Phương chuyển