Thân Hữu Tiếp Tay...
Chó rúc gầm giường - Trần Thế Kỷ
Mới đây, tại cuộc hội thảo mang tên “Thành tựu nghiên cứu, phê bình văn học tại TPHCM từ 1975 đến nay”, GSTS Văn chương Huỳnh Như Phương cho rằng làng văn thiếu công trình nghiên cứu tác phẩm miền Nam trước năm 1975 dù nhiều cuốn có giá trị cao.
Theo ông Huỳnh Như Phương, do tính chất phức tạp liên quan đến lịch sử nên đề tài về văn chương miền Nam trước 1975 khó nghiên cứu hơn so với các lĩnh vực khác. Và rằng các nhà nghiên cứu cần xem văn học miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 là tiếng nói, tâm tư của các văn nghệ sĩ về dân tộc và đất nước.
Thiết tưởng phát biểu của ông GSTS Huỳnh Như Phương chẳng có gì mới. Những gì ông ta nói thì người ta đã biết từ lâu. Có cảm tưởng ông ta nói chỉ để cho người ta biết là mình không câm. Sinh năm 1955 tại Quảng Ngãi, Huỳnh Như Phương vốn là phó tiến sĩ, sau được đôn lên thành tiến sĩ. Nhờ lý lịch tốt, ông ta từng leo lên chức Trưởng khoa Ngữ Văn và Báo Chí trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM (sau đổi tên thành trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn TPHCM).
Ai có nói gì thì nói, không thể phủ nhận văn học miền Nam thời kỳ trước 1975 là một phần quan trọng của toàn bộ nền văn học Việt Nam. Nói tới văn học miền Nam trước 1975 là nói tới một nền văn học tự do, phóng khoáng, không chật hẹp, tù túng như văn học miến Bắc cùng thời kỳ. Đáng tiếc là cho tới nay gần như chưa có ai đứng ra làm công trình nghiên cứu đầy đủ về văn học miền Nam trước 1975.
Nói tới văn học miền nam trước 1975, người yêu văn chương thường nghĩ ngay tới những tên tuổi lớn như Doãn Quốc Sỹ, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Dương Nghiễm Mậu… Tác phẩm của họ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Nhà nghiên cứu Trần Hoài Anh cho rằng : “Văn học miền Nam phải là một thực thể trong di sản văn học dân tộc. Tôi tin tưởng sẽ sớm đến thời điểm chúng ta không còn gọi là ‘Văn học miền Nam trước 1975’, mà chỉ gọi là văn học Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, trong đó có bộ phận văn học miền Nam”.
Ông Trần Hoài Anh rất chí lý khi nhận định rằng nhờ được hình thành và phát triển trong một bối cảnh xã hội văn hóa khá cởi mở, mạnh dạn tiếp nhận nhiều lý thuyết văn hóa của thế giới, đặc biệt là các trường phái lý thuyết Phương Tây hiện đại nên văn học miền Nam phát triển đa dạng, phong phú về các hình thức thể loại : Thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, lý luận phê bình, kịch nghệ, biên khảo, nghiên cứu… mà thể loại nào cũng có những thành tựu đáng kể, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm thức người đọc.
Trong những năm gần đây, sự trở lại của một số tác phẩm của văn học miền Nam đã mang lại sự khởi sắc và hy vọng cho văn học Việt Nam nói chung. Trong đó có tác phẩm của những cây bút Nguyễn Thị Hoàng, Bình Nguyên Lộc, Dương Nghiễm Mậu, Nguyên Sa…
Trở lại với Huỳnh Như Phương, người yêu văn chương hoàn toàn có thể tán thành ý kiến của ông rằng “Làng văn thiếu công trình nghiên cứu tác phẩm miền Nam trước năm 1975 dù nhiều cuốn có giá trị cao”. Người ta chỉ thắc mắc đường đường là một vị giáo sư, một tiến sĩ về văn chương, sao ông Phương lại không đứng ra làm một công trình nghiên cứu về nền văn học miền nam trước 1975 mà ông ta xem là “tiếng nói, tâm tư của các văn nghệ sĩ về dân tộc và đất nước”? Ông ta muốn đùn đẩy cho ai? Bao nhiêu năm qua ông ta đã nghiên cứu những gì mà lại né tránh văn học miền Nam?
Rất có thể ông giáo sư tiến sĩ văn chương Huỳnh Như Phương nghĩ rằng cái tuổi 70 của mình là vẫn còn trẻ nên chờ đủ 100 tuổi hẵng viết về văn học miền Nam cũng chưa muộn. Cũng có thể ông ta nghĩ rằng chẳng hơi đâu mà làm cho mệt xác, mà nên để cho người khác làm, còn ông thì ngồi ngắm mây, ngửi gió. Mà nếu thế thì ông ta có xứng đáng được gọi là giáo sư, là tiến sĩ nữa hay không? Thực là thời nay không thiếu những hạng giáo sư, tiến sĩ nói thì hay mà làm thì hèn.Cái bằng tiến sĩ của họ tuy thật mà như giả.
Đã từ lâu trong công chúng tồn tại suy nghĩ rằng đám giáo sư, tiến sĩ ở Việt Nam nhiều như rác nhưng trong số họ không mấy người là có thực tài, có nhân cách. Họ làm gì cũng sợ sệt, nhìn trước nhìn sau, nhìn lên nhìn xuống rồi lại thôi, chẳng khác gì lũ chó quanh năm chui rúc gầm giường, thỉnh thoảng chui đầu ra sủa vài tiếng lấy le rồi lại chui vào.
Huỳnh Như Phương chính là hạng giáo sư như thế.
Trần Thế Kỷ ( HNPD )
Bàn ra tán vào (0)
Chó rúc gầm giường - Trần Thế Kỷ
Mới đây, tại cuộc hội thảo mang tên “Thành tựu nghiên cứu, phê bình văn học tại TPHCM từ 1975 đến nay”, GSTS Văn chương Huỳnh Như Phương cho rằng làng văn thiếu công trình nghiên cứu tác phẩm miền Nam trước năm 1975 dù nhiều cuốn có giá trị cao.
Theo ông Huỳnh Như Phương, do tính chất phức tạp liên quan đến lịch sử nên đề tài về văn chương miền Nam trước 1975 khó nghiên cứu hơn so với các lĩnh vực khác. Và rằng các nhà nghiên cứu cần xem văn học miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 là tiếng nói, tâm tư của các văn nghệ sĩ về dân tộc và đất nước.
Thiết tưởng phát biểu của ông GSTS Huỳnh Như Phương chẳng có gì mới. Những gì ông ta nói thì người ta đã biết từ lâu. Có cảm tưởng ông ta nói chỉ để cho người ta biết là mình không câm. Sinh năm 1955 tại Quảng Ngãi, Huỳnh Như Phương vốn là phó tiến sĩ, sau được đôn lên thành tiến sĩ. Nhờ lý lịch tốt, ông ta từng leo lên chức Trưởng khoa Ngữ Văn và Báo Chí trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM (sau đổi tên thành trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn TPHCM).
Ai có nói gì thì nói, không thể phủ nhận văn học miền Nam thời kỳ trước 1975 là một phần quan trọng của toàn bộ nền văn học Việt Nam. Nói tới văn học miền Nam trước 1975 là nói tới một nền văn học tự do, phóng khoáng, không chật hẹp, tù túng như văn học miến Bắc cùng thời kỳ. Đáng tiếc là cho tới nay gần như chưa có ai đứng ra làm công trình nghiên cứu đầy đủ về văn học miền Nam trước 1975.
Nói tới văn học miền nam trước 1975, người yêu văn chương thường nghĩ ngay tới những tên tuổi lớn như Doãn Quốc Sỹ, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Dương Nghiễm Mậu… Tác phẩm của họ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Nhà nghiên cứu Trần Hoài Anh cho rằng : “Văn học miền Nam phải là một thực thể trong di sản văn học dân tộc. Tôi tin tưởng sẽ sớm đến thời điểm chúng ta không còn gọi là ‘Văn học miền Nam trước 1975’, mà chỉ gọi là văn học Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, trong đó có bộ phận văn học miền Nam”.
Ông Trần Hoài Anh rất chí lý khi nhận định rằng nhờ được hình thành và phát triển trong một bối cảnh xã hội văn hóa khá cởi mở, mạnh dạn tiếp nhận nhiều lý thuyết văn hóa của thế giới, đặc biệt là các trường phái lý thuyết Phương Tây hiện đại nên văn học miền Nam phát triển đa dạng, phong phú về các hình thức thể loại : Thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, lý luận phê bình, kịch nghệ, biên khảo, nghiên cứu… mà thể loại nào cũng có những thành tựu đáng kể, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm thức người đọc.
Trong những năm gần đây, sự trở lại của một số tác phẩm của văn học miền Nam đã mang lại sự khởi sắc và hy vọng cho văn học Việt Nam nói chung. Trong đó có tác phẩm của những cây bút Nguyễn Thị Hoàng, Bình Nguyên Lộc, Dương Nghiễm Mậu, Nguyên Sa…
Trở lại với Huỳnh Như Phương, người yêu văn chương hoàn toàn có thể tán thành ý kiến của ông rằng “Làng văn thiếu công trình nghiên cứu tác phẩm miền Nam trước năm 1975 dù nhiều cuốn có giá trị cao”. Người ta chỉ thắc mắc đường đường là một vị giáo sư, một tiến sĩ về văn chương, sao ông Phương lại không đứng ra làm một công trình nghiên cứu về nền văn học miền nam trước 1975 mà ông ta xem là “tiếng nói, tâm tư của các văn nghệ sĩ về dân tộc và đất nước”? Ông ta muốn đùn đẩy cho ai? Bao nhiêu năm qua ông ta đã nghiên cứu những gì mà lại né tránh văn học miền Nam?
Rất có thể ông giáo sư tiến sĩ văn chương Huỳnh Như Phương nghĩ rằng cái tuổi 70 của mình là vẫn còn trẻ nên chờ đủ 100 tuổi hẵng viết về văn học miền Nam cũng chưa muộn. Cũng có thể ông ta nghĩ rằng chẳng hơi đâu mà làm cho mệt xác, mà nên để cho người khác làm, còn ông thì ngồi ngắm mây, ngửi gió. Mà nếu thế thì ông ta có xứng đáng được gọi là giáo sư, là tiến sĩ nữa hay không? Thực là thời nay không thiếu những hạng giáo sư, tiến sĩ nói thì hay mà làm thì hèn.Cái bằng tiến sĩ của họ tuy thật mà như giả.
Đã từ lâu trong công chúng tồn tại suy nghĩ rằng đám giáo sư, tiến sĩ ở Việt Nam nhiều như rác nhưng trong số họ không mấy người là có thực tài, có nhân cách. Họ làm gì cũng sợ sệt, nhìn trước nhìn sau, nhìn lên nhìn xuống rồi lại thôi, chẳng khác gì lũ chó quanh năm chui rúc gầm giường, thỉnh thoảng chui đầu ra sủa vài tiếng lấy le rồi lại chui vào.
Huỳnh Như Phương chính là hạng giáo sư như thế.
Trần Thế Kỷ ( HNPD )


















