Đoạn Đường Chiến Binh
Đại Đội Trưởng Công Vụ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
Trương Dưỡng.
Đầu năm 1970, tôi gặp Trung úy Thu, sĩ quan ban 4 của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trước cùng học khóa Tác Chiến Trong Rừng tại Mã Lai. Anh nói lữ đoàn đang cần chức Đại Đội Trưởng Chỉ Huy Công Vụ. Thu thấy tôi từng làm Đại đội trưởng tác chiến nên bảo về Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với nó cho vui. Tôi làm đơn vị trưởng có quân trong tay đã quen, sĩ quan tham mưu chỉ một thân một mình thì hơi chán, hơn nữa Đại tá Nam còn độc thân nên cứ tình nguyện đi hành quân hoài. Thấy tôi bằng lòng, Thu về trình với Trung tá Lê Quang Lưỡng.
Thu trước kia ở TĐ5ND làm y tá cho Đại đội 54 của Đại Úy Lê Quang Lưỡng. Thấy anh có bằng cấp, siêng năng, và tánh tình ngay thẳng dễ thương, nên ông cho đi học khóa sĩ quan ở Thủ Đức. Sau khi ra trường, anh được Đại úy Lưỡng kéo về TĐ2ND; vì Thu có tướng lộ xỉ, hai mắt lồi dễ bị chết yểu, nên ông ngầm che chở, cho ở Đại đội Chỉ huy, đỡ nguy hiểm hơn. Nhưng khi Đại úy Lưỡng đi du học ở Mỹ, Thu theo đơn vị ra hành quân và bị pháo kích thủng ruột tại đỉnh cao 1416 tên Ngok Wan ở Dakto, Kontum! Vì vậy khi làm LĐT/LĐ1ND Trung tá Lưỡng cố tình kéo Thu theo. Ông thương Thu ở tánh tình ngay thẳng và làm việc rất năng động. Thu không biết nịnh bợ, anh dám chỉnh (riêng) LĐT nếu ông phạm sai lầm, chính Trung tá Lưỡng thương anh nhất ở điểm dám ăn nói và không ỷ thế làm bậy.
Đại tá Lê Quang Lưỡng
Trong trận Hạ Lào, vì Đại tá Lưỡng ở lại sau để giúp đỡ điều động yểm trợ TĐ2ND và TĐ7ND rút ra an toàn. Lúc ấy địch chỉ có khả năng bắn vói theo máy bay, nên mọi người đều đi đường bộ, chỉ có Thu dám leo lên phi cơ trực thăng để theo bảo vệ chủ mình. Vừa cất cánh chưa được 5 phút, máy bay lập tức bị bắn, phải đáp khẩn cấp xuống gần căn cứ Bravo. Trong khi chờ đợi phi công người Mỹ gọi đồng bạn xuống cứu, Thu cứ lấy mình che chở sợ đạn lạc trúng đại tá Lưỡng. Vị Lữ Đoàn Trưởng thấy anh trong cơn nguy biến mà vẫn một lòng trung thành, lòng ông an ủi và rất thương người sĩ quan thuộc cấp trung cang nghĩa dũng nầy. May thay các phi công Mỹ khác nhận được tín hiệu, nên không đầy 5 phút đã bay tới liều mạng đáp xuống cứu!
Nếu trễ chừng 10 phút thì địch, thấy trực thăng rớt, sẽ tới nơi tìm chiến lợi phẩm; chắc chắn những người trên máy bay nầy sẽ bị bu như kiến gặp viên đường ngon ngọt!
Khi qua Mỹ, Thu ở Atlanta, đứa con trai hay đi tiểu bậy ngoài sân; nên hàng xóm người Mỹ qua nói nhiều lần, anh tức giận lấy roi đánh đứa con trai cưng nhất của mình. Vì nó được nuông chiều quá, nên dạy bảo hoài không nghe. Thật là rủi ro, trong khi đánh, cháu lại né tránh, nên roi trúng nhầm chỗ hiểm, làm cháu chết ngay. Do đó Thu bị cảnh sát bắt giam; vừa hối hận vì lỡ tay đánh đứa con cưng mình chết, vừa không được ở nhà để ngó mặt con lần cuối cùng; tối hôm đó, Thu lấy áo thắt cổ tự vận trong tù! Thật là một thảm cảnh đau lòng!
Khi tôi về làm Đại Đội Trưởng Đại đội Chỉ Huy Công vụ thấy có một số hạ sĩ quan a dua với anh phục vụ của Lữ đoàn trưởng, họ hoành hành lập bè kết đảng (giống như bọn thái giám loạn quyền trong các phim Hồng Kông). Tôi lập tức cho Thượng sĩ Luông làm Thường Vụ thay thế một trung sĩ nhứt. Anh nầy nhờ phe đảng, miệng lưỡi nên lâu nay nắm quyền sinh sát, chỉ huy luôn cả vị thượng sĩ hiền lành có nhiều kinh nghiệm và khả năng. Thế là chúng nó phản đối nói tôi dám “Đảo chánh” và đâm thọc đàm tiếu, rỉ tai gây lung lạc lòng tin của Trung tá Lữ đoàn Trưởng.
Một hôm ông xuống thăm doanh trại đại đội và hỏi:
– Tụi nó đồn anh ăn tiền thằng thủ kho (Trung sĩ Vui) 50 ngàn có đúng không?
Không ngờ có chuyện dựng đứng động trời như vậy, tôi giận đỏ mặt chỉ ngực nói:
– Tôi xuất thân trường VBĐL, Trung tá cứ cho điều tra, nếu có ăn hối lộ
của thằng Vui một đồng hoặc một cắc, thì trung tá cứ lột lon, mấy đứa
cận vệ của trung tá thuộc quân số Đại đội Công Vụ, nếu tôi sợ họ gièm
pha đâm thọc thì không thể nào chỉ huy được.
Trung tá vỗ vai tôi cười giả lã nói:
– Tôi nói chơi với anh thôi, không có gì đâu!
Tôi trình bày rõ với ông, việc nhà kho thiếu hụt nhiều là sự sơ xuất của thủ kho, hậu cư và sĩ quan đại đội trưởng tiền nhiệm, tôi thấy vậy nên tới đại đội cũ lấy về bù đắp. Từ nay kiểm soát thường xuyên nhà kho, nếu có gì sơ sót chính là trung sĩ Vui sẽ chịu trách nhiệm.
Từ đó bọn gièm pha thấy tôi làm việc thẳng thắn, minh bạch, những tên
đệ tử cũng sợ tánh cứng cỏi của tôi; chúng mà vi phạm tôi phạt nặng hơn
người khác. Vì tôi rất ghét những ai đâm thọc, nịnh bợ xỏ lá. Những
người khác sợ đi tác chiến chớ tôi đâu có sợ. Có lần ở trại biên phòng
Kàtum, tôi nạt thằng Miên, bạn cùng khóa, trước mặt Trung tá Lê văn
Ngọc, Lữ đoàn Phó, ông ta nói đùa:
– Tụi mầy đừng có chọc thằng Dưỡng, nó bị thương ở đầu nên “Mát” đó!
Trung tá Lưỡng là người giỏi về đánh trận (những sĩ quan xuất thân khóa 4 Võ Khoa Thủ Đức như Tướng Trưởng, Tướng Lân, Tướng Hậu, Tướng Điềm, Đại tá Phước, Đại tá Lương,…đều có tài hành binh), ông thích nghiên cứu tình hình địch, bạn rồi dùng mưu lược tấn công bất ngờ, khiến địch không trở tay kịp. Nhiều khi hằng đêm ông ngồi thảo ba, bốn lệnh hành quân, sau cùng ông quyết định chọn kế sách nào thật hữu hiệu cho quân ta thành công mà ít bị thiệt hại nhất. Nhiều năm tác chiến ở TĐ5ND, ông học được kinh nghiệm của các Tiểu Đoàn Trưởng Viên, Nguyễn Chánh Thi, Ngô Xuân Soạn, Hồ Tiêu, và Ngô Quang Trưởng. Nhờ vậy lúc về nắm TĐ2ND, ông giống như diều gặp gió, có cờ tới tay, sẵn sàng thi thố tài năng ấp ủ bấy lâu nay.
Lúc tôi mới về Dù thì ông là Đại úy Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù. Khóa 20 ở đó cũng nhiều, ông đã tận dụng tài năng của Hạnh, Phương, Hòa, Thọ, Điệp, Toàn,…và những sĩ quan giỏi như Bằng, Phú đen, Mạnh,…đưa tiểu đoàn hết thắng chỗ nầy lại chiến thắng chỗ khác, đặc biệt ông đã cho dùng kèn thúc quân mỗi khi xung phong, binh sĩ hăng say chiến đấu, công hiệu hơn thuốc Hùng Binh của VC, khiến tiểu đoàn nổi danh như cồn. Ông và các sĩ quan cũng lên chức nhanh như gió. Trận Mậu Thân ở Huế, trận Hạ Lào, trận Mỏ vẹt, Lưỡi Câu ở Cục R Campuchia, trận An Lộc, Bình Long mùa hè đỏ lửa, Trận Vĩnh Hạnh ở ven đô,…. đã đưa ông lên hàng Tướng lãnh, chỉ huy Sư đoàn Nhảy Dù cho tới ngày mất nước. Cuộc đời binh nghiệp của ông vô cùng gian khổ, nhưng ông rất mưu lược, bình tỉnh, và gan dạ. Nhà văn Phan Nhật Nam đã tặng ông danh hiệu: “Con Beo Gấm Của Chiến Trường”.
Tôi theo LĐ1ND đi Phước Long, đóng chung căn cứ với Lữ Đoàn 2 Không Kỵ Hoa Kỳ tại căn cứ Phước Bình. Trung úy Công Binh Nguyễn Thanh Nhàn, Miên, và tôi đi trước nửa tháng để làm hầm hố, chỗ ngủ kiên cố cho Trung tá Lưỡng, Trung tá Lê Văn Ngọc, Thiếu tá Ninh, các sĩ quan tham mưu, và binh sĩ. Đại đội Công vụ và Công binh cũng lo làm Trung tâm Hành quân. Căn cứ nầy thường bị địch đặt pháo từ Mật khu Bù Gia Mập và núi Bà Rá bắn vào.
Những ngày rảnh rỗi, ba đứa đi tham quan thị xã Phước Long, và được Đại tá Lưu Yểm, Tỉnh trưởng, cho tiền tiêu xài thỏa chí. Ở đây có làng người Thượng, gần con suối chảy qua thị xã, có cầu treo lắt lẻo gập gềnh khó đi, phong cảnh rất nên thơ, ba đứa thường ra suối tắm, nước rất trong và mát mẽ.
Nửa tháng sau bộ chỉ huy Lữ đoàn và các tiểu đoàn tác chiến tổ chức hành quân phối hợp Việt-Mỹ, vào các khu rừng rậm ở xung quanh núi Bà Rá và thị xã Phước Long. Ngày nào địch cũng từ mật khu Bù Gia Mập pháo vào căn cứ, mỗi khi di chuyển đều phải đội nón sắt và mặc áo giáp. Có một trái hỏa tiễn 122 ly rơi ngay trước hầm của tôi nghe tiếng “Ầm” thật lớn, làm lòng ngực như bi nghẹt, chạy ra coi thấy miệng hố vô cùng to lớn! Đường kính gần 2 thước, sâu hơn một thước.
Hạ sĩ nhứt Cổn bị một quả rơi trúng hầm, bay văng banh ống cống nhưng anh không hề hấn gì, thật là kỳ diệu khó tưởng! Lúc đó Trung tá Lưỡng vừa được thăng cấp Đại tá, tôi lấy trực thăng C.N.C về Sàigòn, mua rượu Champagne, Olive, xúc xích, và thịt nguội tại tiệm Đô Chính, cạnh rạp cinéma Eden. Ông tổ chức tiệc rửa lon có mời vị Lữ Đoàn Trưởng và sĩ quan tham mưu của Không Kỵ Hoa Kỳ qua dự.
Vài hôm sau đi phép vợ sanh (Cháu Thành), trước khi về tôi ghé thăm
Thiếu tá Tư. Anh có người bạn làm Phó Tỉnh và nhắn ông ta kiếm con đuông
Chà Là cho Tổng Thống. Vị phó Tỉnh Vĩnh Bình nghe tôi chuyển lời, hôm
sau đã chở lại nhà mấy quài đuông, ông cho riêng tôi một phần. Đại tá
Lưỡng cũng rất thích đuông Chà Là, ông ngâm nước mắm cho nhả nhớt dơ,
rồi đích thân đứng chiên từng con. Trong khi chiên, Việt Cộng (có lẽ
ngửi thấy mùi thơm chăng!) pháo kích rầm rầm, làm ông hoảng hồn, phóng
nhanh vào hầm!
Tôi từng theo Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn đóng ở trại biên phòng Thiện Ngôn, phía
Bắc tỉnh Tây Ninh. Nơi đây, Lữ Đoàn trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn
đánh qua căn cứ an toàn của địch ở bên kia biên giới thuộc Campuchia,
tại các đồn điền cao su Snuol, Chup, Damber, Krek. Một hôm, Trung tá
Ngọc rủ anh Lạc và tôi, lấy trực thăng chỉ huy của Lữ Đoàn Trưởng, bay
qua Chup, ghé vào bộ chỉ huy liên đoàn Biệt Động Quân, xin tiền Miên của
ông Liên Đoàn trưởng, bạn của Trung tá. Trực thăng bay qua phi trường
Nam Vang, rồi có xe Jeep đưa chúng tôi vô Thành Phố, chạy vòng vòng qua
Hoàng Cung, nhà hàng nổi Maxim, và Chợ Lớn Mới rất khang trang. Nhà phố ở
đây bề ngang thường rộng hơn nhà phố ở Sàigòn, Chợ Lớn. Tôi mua trái
vải, trái nhản, và trái hồng dòn ở trong chợ Mới (tiền do Trung tá Ngọc
chia và của Nguyễn văn Tới, Đại đội trưởng 82 cho mấy hôm trước).
Vài tháng sau, Bộ chỉ huy Lữ đoàn tới đóng ở Katum, để trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn Dù đánh qua biên giới, ngay Tổng hành dinh của Trung ương cục Miền Nam. Tại đây, các đơn vị tịch thu hàng ngàn xe đạp thồ do Trung Cộng sản xuất và mấy trăm tấn gạo, cùng nhiều quân dụng quân trang.
Về Sàigòn tôi được đi học khóa Đại đội trưỏng và Miên xử lý Đại Đội Công Vụ. Khi học xong, đại tá Lưỡng muốn tôi làm sĩ quan ban Ba với Phạm Như Đà Lạc, Bảo làm Đại đội trưởng Công Vụ (lúc tôi rời Tiểu đoàn 9, Bảo cũng thế tôi làm Đại đội trưởng 91, Bảo là người lót đường phải không bạn?) Tôi không thích làm tham mưu, sẵn Biệt Đội Tác chiến Điện Tử có lệnh sắp thành lập (nhờ Phúc, Đại đội Phó, cho biết và bảo tôi lên gặp Trung tá Lân, Trưởng Phòng 1). Ông nói về hỏi ý kiến đại tá lữ đoàn trưởng và tôi được toại nguyện.
https://dongsongcu.wordpress.com/
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Đại Đội Trưởng Công Vụ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
Trương Dưỡng.
Đầu năm 1970, tôi gặp Trung úy Thu, sĩ quan ban 4 của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trước cùng học khóa Tác Chiến Trong Rừng tại Mã Lai. Anh nói lữ đoàn đang cần chức Đại Đội Trưởng Chỉ Huy Công Vụ. Thu thấy tôi từng làm Đại đội trưởng tác chiến nên bảo về Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với nó cho vui. Tôi làm đơn vị trưởng có quân trong tay đã quen, sĩ quan tham mưu chỉ một thân một mình thì hơi chán, hơn nữa Đại tá Nam còn độc thân nên cứ tình nguyện đi hành quân hoài. Thấy tôi bằng lòng, Thu về trình với Trung tá Lê Quang Lưỡng.
Thu trước kia ở TĐ5ND làm y tá cho Đại đội 54 của Đại Úy Lê Quang Lưỡng. Thấy anh có bằng cấp, siêng năng, và tánh tình ngay thẳng dễ thương, nên ông cho đi học khóa sĩ quan ở Thủ Đức. Sau khi ra trường, anh được Đại úy Lưỡng kéo về TĐ2ND; vì Thu có tướng lộ xỉ, hai mắt lồi dễ bị chết yểu, nên ông ngầm che chở, cho ở Đại đội Chỉ huy, đỡ nguy hiểm hơn. Nhưng khi Đại úy Lưỡng đi du học ở Mỹ, Thu theo đơn vị ra hành quân và bị pháo kích thủng ruột tại đỉnh cao 1416 tên Ngok Wan ở Dakto, Kontum! Vì vậy khi làm LĐT/LĐ1ND Trung tá Lưỡng cố tình kéo Thu theo. Ông thương Thu ở tánh tình ngay thẳng và làm việc rất năng động. Thu không biết nịnh bợ, anh dám chỉnh (riêng) LĐT nếu ông phạm sai lầm, chính Trung tá Lưỡng thương anh nhất ở điểm dám ăn nói và không ỷ thế làm bậy.
Đại tá Lê Quang Lưỡng
Trong trận Hạ Lào, vì Đại tá Lưỡng ở lại sau để giúp đỡ điều động yểm trợ TĐ2ND và TĐ7ND rút ra an toàn. Lúc ấy địch chỉ có khả năng bắn vói theo máy bay, nên mọi người đều đi đường bộ, chỉ có Thu dám leo lên phi cơ trực thăng để theo bảo vệ chủ mình. Vừa cất cánh chưa được 5 phút, máy bay lập tức bị bắn, phải đáp khẩn cấp xuống gần căn cứ Bravo. Trong khi chờ đợi phi công người Mỹ gọi đồng bạn xuống cứu, Thu cứ lấy mình che chở sợ đạn lạc trúng đại tá Lưỡng. Vị Lữ Đoàn Trưởng thấy anh trong cơn nguy biến mà vẫn một lòng trung thành, lòng ông an ủi và rất thương người sĩ quan thuộc cấp trung cang nghĩa dũng nầy. May thay các phi công Mỹ khác nhận được tín hiệu, nên không đầy 5 phút đã bay tới liều mạng đáp xuống cứu!
Nếu trễ chừng 10 phút thì địch, thấy trực thăng rớt, sẽ tới nơi tìm chiến lợi phẩm; chắc chắn những người trên máy bay nầy sẽ bị bu như kiến gặp viên đường ngon ngọt!
Khi qua Mỹ, Thu ở Atlanta, đứa con trai hay đi tiểu bậy ngoài sân; nên hàng xóm người Mỹ qua nói nhiều lần, anh tức giận lấy roi đánh đứa con trai cưng nhất của mình. Vì nó được nuông chiều quá, nên dạy bảo hoài không nghe. Thật là rủi ro, trong khi đánh, cháu lại né tránh, nên roi trúng nhầm chỗ hiểm, làm cháu chết ngay. Do đó Thu bị cảnh sát bắt giam; vừa hối hận vì lỡ tay đánh đứa con cưng mình chết, vừa không được ở nhà để ngó mặt con lần cuối cùng; tối hôm đó, Thu lấy áo thắt cổ tự vận trong tù! Thật là một thảm cảnh đau lòng!
Khi tôi về làm Đại Đội Trưởng Đại đội Chỉ Huy Công vụ thấy có một số hạ sĩ quan a dua với anh phục vụ của Lữ đoàn trưởng, họ hoành hành lập bè kết đảng (giống như bọn thái giám loạn quyền trong các phim Hồng Kông). Tôi lập tức cho Thượng sĩ Luông làm Thường Vụ thay thế một trung sĩ nhứt. Anh nầy nhờ phe đảng, miệng lưỡi nên lâu nay nắm quyền sinh sát, chỉ huy luôn cả vị thượng sĩ hiền lành có nhiều kinh nghiệm và khả năng. Thế là chúng nó phản đối nói tôi dám “Đảo chánh” và đâm thọc đàm tiếu, rỉ tai gây lung lạc lòng tin của Trung tá Lữ đoàn Trưởng.
Một hôm ông xuống thăm doanh trại đại đội và hỏi:
– Tụi nó đồn anh ăn tiền thằng thủ kho (Trung sĩ Vui) 50 ngàn có đúng không?
Không ngờ có chuyện dựng đứng động trời như vậy, tôi giận đỏ mặt chỉ ngực nói:
– Tôi xuất thân trường VBĐL, Trung tá cứ cho điều tra, nếu có ăn hối lộ
của thằng Vui một đồng hoặc một cắc, thì trung tá cứ lột lon, mấy đứa
cận vệ của trung tá thuộc quân số Đại đội Công Vụ, nếu tôi sợ họ gièm
pha đâm thọc thì không thể nào chỉ huy được.
Trung tá vỗ vai tôi cười giả lã nói:
– Tôi nói chơi với anh thôi, không có gì đâu!
Tôi trình bày rõ với ông, việc nhà kho thiếu hụt nhiều là sự sơ xuất của thủ kho, hậu cư và sĩ quan đại đội trưởng tiền nhiệm, tôi thấy vậy nên tới đại đội cũ lấy về bù đắp. Từ nay kiểm soát thường xuyên nhà kho, nếu có gì sơ sót chính là trung sĩ Vui sẽ chịu trách nhiệm.
Từ đó bọn gièm pha thấy tôi làm việc thẳng thắn, minh bạch, những tên
đệ tử cũng sợ tánh cứng cỏi của tôi; chúng mà vi phạm tôi phạt nặng hơn
người khác. Vì tôi rất ghét những ai đâm thọc, nịnh bợ xỏ lá. Những
người khác sợ đi tác chiến chớ tôi đâu có sợ. Có lần ở trại biên phòng
Kàtum, tôi nạt thằng Miên, bạn cùng khóa, trước mặt Trung tá Lê văn
Ngọc, Lữ đoàn Phó, ông ta nói đùa:
– Tụi mầy đừng có chọc thằng Dưỡng, nó bị thương ở đầu nên “Mát” đó!
Trung tá Lưỡng là người giỏi về đánh trận (những sĩ quan xuất thân khóa 4 Võ Khoa Thủ Đức như Tướng Trưởng, Tướng Lân, Tướng Hậu, Tướng Điềm, Đại tá Phước, Đại tá Lương,…đều có tài hành binh), ông thích nghiên cứu tình hình địch, bạn rồi dùng mưu lược tấn công bất ngờ, khiến địch không trở tay kịp. Nhiều khi hằng đêm ông ngồi thảo ba, bốn lệnh hành quân, sau cùng ông quyết định chọn kế sách nào thật hữu hiệu cho quân ta thành công mà ít bị thiệt hại nhất. Nhiều năm tác chiến ở TĐ5ND, ông học được kinh nghiệm của các Tiểu Đoàn Trưởng Viên, Nguyễn Chánh Thi, Ngô Xuân Soạn, Hồ Tiêu, và Ngô Quang Trưởng. Nhờ vậy lúc về nắm TĐ2ND, ông giống như diều gặp gió, có cờ tới tay, sẵn sàng thi thố tài năng ấp ủ bấy lâu nay.
Lúc tôi mới về Dù thì ông là Đại úy Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù. Khóa 20 ở đó cũng nhiều, ông đã tận dụng tài năng của Hạnh, Phương, Hòa, Thọ, Điệp, Toàn,…và những sĩ quan giỏi như Bằng, Phú đen, Mạnh,…đưa tiểu đoàn hết thắng chỗ nầy lại chiến thắng chỗ khác, đặc biệt ông đã cho dùng kèn thúc quân mỗi khi xung phong, binh sĩ hăng say chiến đấu, công hiệu hơn thuốc Hùng Binh của VC, khiến tiểu đoàn nổi danh như cồn. Ông và các sĩ quan cũng lên chức nhanh như gió. Trận Mậu Thân ở Huế, trận Hạ Lào, trận Mỏ vẹt, Lưỡi Câu ở Cục R Campuchia, trận An Lộc, Bình Long mùa hè đỏ lửa, Trận Vĩnh Hạnh ở ven đô,…. đã đưa ông lên hàng Tướng lãnh, chỉ huy Sư đoàn Nhảy Dù cho tới ngày mất nước. Cuộc đời binh nghiệp của ông vô cùng gian khổ, nhưng ông rất mưu lược, bình tỉnh, và gan dạ. Nhà văn Phan Nhật Nam đã tặng ông danh hiệu: “Con Beo Gấm Của Chiến Trường”.
Tôi theo LĐ1ND đi Phước Long, đóng chung căn cứ với Lữ Đoàn 2 Không Kỵ Hoa Kỳ tại căn cứ Phước Bình. Trung úy Công Binh Nguyễn Thanh Nhàn, Miên, và tôi đi trước nửa tháng để làm hầm hố, chỗ ngủ kiên cố cho Trung tá Lưỡng, Trung tá Lê Văn Ngọc, Thiếu tá Ninh, các sĩ quan tham mưu, và binh sĩ. Đại đội Công vụ và Công binh cũng lo làm Trung tâm Hành quân. Căn cứ nầy thường bị địch đặt pháo từ Mật khu Bù Gia Mập và núi Bà Rá bắn vào.
Những ngày rảnh rỗi, ba đứa đi tham quan thị xã Phước Long, và được Đại tá Lưu Yểm, Tỉnh trưởng, cho tiền tiêu xài thỏa chí. Ở đây có làng người Thượng, gần con suối chảy qua thị xã, có cầu treo lắt lẻo gập gềnh khó đi, phong cảnh rất nên thơ, ba đứa thường ra suối tắm, nước rất trong và mát mẽ.
Nửa tháng sau bộ chỉ huy Lữ đoàn và các tiểu đoàn tác chiến tổ chức hành quân phối hợp Việt-Mỹ, vào các khu rừng rậm ở xung quanh núi Bà Rá và thị xã Phước Long. Ngày nào địch cũng từ mật khu Bù Gia Mập pháo vào căn cứ, mỗi khi di chuyển đều phải đội nón sắt và mặc áo giáp. Có một trái hỏa tiễn 122 ly rơi ngay trước hầm của tôi nghe tiếng “Ầm” thật lớn, làm lòng ngực như bi nghẹt, chạy ra coi thấy miệng hố vô cùng to lớn! Đường kính gần 2 thước, sâu hơn một thước.
Hạ sĩ nhứt Cổn bị một quả rơi trúng hầm, bay văng banh ống cống nhưng anh không hề hấn gì, thật là kỳ diệu khó tưởng! Lúc đó Trung tá Lưỡng vừa được thăng cấp Đại tá, tôi lấy trực thăng C.N.C về Sàigòn, mua rượu Champagne, Olive, xúc xích, và thịt nguội tại tiệm Đô Chính, cạnh rạp cinéma Eden. Ông tổ chức tiệc rửa lon có mời vị Lữ Đoàn Trưởng và sĩ quan tham mưu của Không Kỵ Hoa Kỳ qua dự.
Vài hôm sau đi phép vợ sanh (Cháu Thành), trước khi về tôi ghé thăm
Thiếu tá Tư. Anh có người bạn làm Phó Tỉnh và nhắn ông ta kiếm con đuông
Chà Là cho Tổng Thống. Vị phó Tỉnh Vĩnh Bình nghe tôi chuyển lời, hôm
sau đã chở lại nhà mấy quài đuông, ông cho riêng tôi một phần. Đại tá
Lưỡng cũng rất thích đuông Chà Là, ông ngâm nước mắm cho nhả nhớt dơ,
rồi đích thân đứng chiên từng con. Trong khi chiên, Việt Cộng (có lẽ
ngửi thấy mùi thơm chăng!) pháo kích rầm rầm, làm ông hoảng hồn, phóng
nhanh vào hầm!
Tôi từng theo Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn đóng ở trại biên phòng Thiện Ngôn, phía
Bắc tỉnh Tây Ninh. Nơi đây, Lữ Đoàn trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn
đánh qua căn cứ an toàn của địch ở bên kia biên giới thuộc Campuchia,
tại các đồn điền cao su Snuol, Chup, Damber, Krek. Một hôm, Trung tá
Ngọc rủ anh Lạc và tôi, lấy trực thăng chỉ huy của Lữ Đoàn Trưởng, bay
qua Chup, ghé vào bộ chỉ huy liên đoàn Biệt Động Quân, xin tiền Miên của
ông Liên Đoàn trưởng, bạn của Trung tá. Trực thăng bay qua phi trường
Nam Vang, rồi có xe Jeep đưa chúng tôi vô Thành Phố, chạy vòng vòng qua
Hoàng Cung, nhà hàng nổi Maxim, và Chợ Lớn Mới rất khang trang. Nhà phố ở
đây bề ngang thường rộng hơn nhà phố ở Sàigòn, Chợ Lớn. Tôi mua trái
vải, trái nhản, và trái hồng dòn ở trong chợ Mới (tiền do Trung tá Ngọc
chia và của Nguyễn văn Tới, Đại đội trưởng 82 cho mấy hôm trước).
Vài tháng sau, Bộ chỉ huy Lữ đoàn tới đóng ở Katum, để trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn Dù đánh qua biên giới, ngay Tổng hành dinh của Trung ương cục Miền Nam. Tại đây, các đơn vị tịch thu hàng ngàn xe đạp thồ do Trung Cộng sản xuất và mấy trăm tấn gạo, cùng nhiều quân dụng quân trang.
Về Sàigòn tôi được đi học khóa Đại đội trưỏng và Miên xử lý Đại Đội Công Vụ. Khi học xong, đại tá Lưỡng muốn tôi làm sĩ quan ban Ba với Phạm Như Đà Lạc, Bảo làm Đại đội trưởng Công Vụ (lúc tôi rời Tiểu đoàn 9, Bảo cũng thế tôi làm Đại đội trưởng 91, Bảo là người lót đường phải không bạn?) Tôi không thích làm tham mưu, sẵn Biệt Đội Tác chiến Điện Tử có lệnh sắp thành lập (nhờ Phúc, Đại đội Phó, cho biết và bảo tôi lên gặp Trung tá Lân, Trưởng Phòng 1). Ông nói về hỏi ý kiến đại tá lữ đoàn trưởng và tôi được toại nguyện.
https://dongsongcu.wordpress.com/
Sinh Tồn chuyển