Nay, sau gần 40 năm, lời tuyên bố đại ngôn trên đây cần được sửa lại: “Biến cố 30 tháng 4, 1975 đã chứng minh một nước yếu và lạc hậu, dù không có chính nghĩa nhưng nếu biết cách lừa gạt thì cũng có thể quật ngã bất cứ kẻ thù nào, dù nắm chính nghĩa và hùng mạnh tới đâu ”.
Sau ngày 30.4.1975, quá say sưa trong men chiến thắng bất ngờ, Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã huênh hoang tuyên bố: “Chiến thắng 30.4 là biến cố lớn thứ 4 trong lịch sử loài người. Biến cố lớn thứ nhất là việc tìm ra lửa, biến cố lớn thứ 2 là Cách mạng Dân quyền Pháp năm 1789, biến cố lớn thứ 3 là Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917. Chiến thắng 30 tháng 4 đã chứng minh một nước đất không rộng, dân không đông, nhưng nếu có chính nghiã và biết cách đánh thì có thể đánh thắng bất cứ kẻ thù nào.”
Nay, sau gần 40 năm, lời tuyên bố đại ngôn trên đây cần được sửa lại: “Biến cố 30 tháng 4, 1975 đã chứng minh một nước yếu và lạc hậu, dù không có chính nghĩa nhưng nếu biết cách lừa gạt thì cũng có thể quật ngã bất cứ kẻ thù nào, dù nắm chính nghĩa và hùng mạnh tới đâu ”.
Thật vậy, với những sự thật cứ dần dần được phơi ra trước ánh sáng, người ta có thể khẳng định rằng trong cuộc chiến tranh xâm chiếm Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), một quốc gia có chủ quyền, suốt trong 20 năm (1955-1975), CSVN đã dùng những mánh khóe gian manh tuyên truyền lừa gạt được cả thế giới với sự tiếp tay của những trí thức thiên tả Âu Mỹ để tin rằng Hoa Kỳ là một đế quốc tân thực dân hiếu chiến, đã thuộc địa hoá Miền Nam Việt Nam với những tay sai thối nát, và hèn nhát, không chịu chiến đấu.
Sự thật đã chứng minh ngược lại. Quân đội VNCH đã chiến đấu dũng cảm trong suốt 20 năm, đã đánh bại tất cả những cuộc tấn công lớn nhỏ của bộ đội Cộng sản Bắc Việt (CSBV) và lực lượng tay sai Giải Phóng Miền Nam (GPMN) cho đến khi bị Quốc Hội Mỹ năm 1974 do Đảng Dân Chủ kiểm soát đã bỏ phiếu cắt viện trợ do áp lực của phe phản chiến Mỹ.
Lúc ấy, Jane Fonda, con gái của diễn viên phim ảnh Henry Fonda, là một con nai tơ lý tưởng để CSBV và Cộng sản Quốc tế (CSQT) dùng trong mặt trận tuyên truyền gian manh nhằm đánh lừa thế giới. Từng sống 6 năm tại Pháp và là vợ của Roger Vadim, một trong những trí thức thân cộng nổi tiếng tại Paris, Jane Fonda đã bị những huyền thoại về chủ nghĩa cộng sản nhuộm đỏ tâm hồn.
Jane Fonda đã bị tiêm nhiễm tinh thần chống Mỹ và bị mê hoặc bởi những huyền thoại tuyệt vời về chủ nghĩa cộng sản từ giới trí thức thiên tả ở Tây Âu, đặc biệt là tại Pháp lúc bấy giờ, như Jean Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Albert Camus, Simone Signoret, Roger Vadim, v.v. Bọn trí thức sống trong tháp ngà ảo vọng này, trong khi được hưởng mọi thứ tự do và tiện nghi vật chất tại các nước Tây Âu, đã chỉ nhìn thấy những xấu xa của chủ nghĩa tư bản và không ngớt đề cao những tốt đẹp của chủ nghĩa Marx do sách báo tuyên truyền cộng sản, hay bị mua chuộc bằng tiền, tình.
Ít ai có thể tưởng tượng Jean Paul Sartre, cha đẻ của thuyết hiện sinh (existentialism), đã từng nói một câu rất vô trí thức: “Chỉ có những con chó mới chống đối cộng sản”. Dù sau này Sartre có vẻ đã tỉnh ngộ, nhưng những “trí thức ngu ngốc” như ông ta đã tiếp tay đắc lực cho cộng sản gây tội ác đối với nhân loại đúng như định nghĩa chính xác của Lê-nin: “Những tên ngốc hữu dụng”.
“Những tên ngốc hữu dụng” ở Tây Âu cùng với “những tên ngốc hữu dụng” tại Bắc Mỹ đã tạo nên “phong trào phản chiến” ở Hoa Kỳ, tuy tự nhận là yêu chuộng hòa bình nhưng thực chất là hỗ trợ CSBV xâm chiếm VNCH và chống Mỹ. Câu nói sau đây của Howard Zinni, thuộc Hội Sử Gia Hoa Kỳ, đã cho thấy đầy đủ mục tiêu của “phong trào phản chiến” tại Mỹ: “Hoa Kỳ đang mở rộng đế quốc trong thời hiện đại. Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN là đại diện tinh thần quốc gia của dân tộc Việt Nam. Đó là những nhà cách mạng đúng nghĩa nhất.”
Với quan điểm chính trị sai lầm hoàn toàn do tuyên truyền xảo trá cộng sản nhào nặn như trên, Jane Fonda và người chồng mới Tom Hayden đã làm mưa làm gió trong các khuôn viên đại học nước Mỹ và lôi cuốn hàng chục ngàn người xuống đường, đòi Mỹ rút quân và ủng hộ cuộc xâm lăng VNCH của CSBV được dán nhãn hiệu là “giải phóng”.
Không chỉ vận động chống Mỹ tại Hoa Kỳ, Jane Fonda còn sang tận Bắc Việt để công khai ủng hộ kẻ thù và lên án Mỹ xâm lăng Việt Nam. Trong bài tham luận dài 23 trang về Chiến Tranh Việt Nam được phổ biến gần đây, Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn đã viết rõ “con nai tơ chính trị” Jane Fonda bị lừa gạt như thế nào tại Việt Nam:
“Những kẻ đội lốt yêu chuộng hòa bình tại Hà Nội đã đón Jane Fonda tại phi trường Gia Lâm với những nụ cười hân hoan và những vòng hoa đẹp nhất đã choàng vào cổ Jane. Jane đã từng mơ đến Hà Nội và bây giờ giấc mơ đã trở thành sự thật. Trong quãng thời gian Jane cũng như những người đến Hà Nội đều đã được đi thăm các làng xã bị bỏ bom, các bệnh viện chứa đầy thương bệnh nhân của chiến tranh và đôi khi đi thăm các đê điều bị hư hại. Sau đó đã đi về các vùng nông thôn, những người khách đã được mời tới để cùng với những người CSBV để thảo luận về tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ. Và Jane Fonda và những người Mỹ này đã lên các đài phát thanh tại Hà Nội để kêu gọi quân đội Hoa Kỳ phải chấm dứt các phi vụ ném bom Bắc Việt.
Quá xúc động Jane Fonda đã khóc nức nở và thảng thốt kêu lên: “I’m sorry, I’m so sorry”. Một nữ cán binh Bắc Việt đã vỗ về Jane và nói “cô không nên khóc cho chúng tôi, chúng tôi biết tại sao chúng tôi chiến đấu. Điều buồn nhất là buồn cho nước Mỹ và quân đội Hoa Kỳ, họ không biết vì sao họ đến đây chiến đấu, chính vì Hoa Kỳ đã phản bội nước Mỹ” (trích Jane Fonda – My Life so Far).
Trong một party dành cho Jane Fonda, một thông dịch viên nói với Jane Fonda rằng có một cán binh Cộng sản muốn hát cho Jane một bản nhạc. Bản nhạc nói về ngày bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình. Jane đã nghe được những lời như sau: “All men are created equal. They are given certain rights, among these are life, liberty and persuit happiness”, Jane lại khóc sướt mướt và vỗ tay nói “These young men should not be our enemy. They celebrate the same words Americans do”. Tất cả con người sinh ra đều bình đẳng, họ đã được Đấng tạo hóa ban cho những quyền không thể thiếu được, giữa những quyền đó là quyền sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc. Nghe xong Jane nhìn những người lính trẻ và nói: “những người trẻ tuổi này không thể là kẻ thù của chúng ta được. Họ đã viết tuyên ngôn độc lập hoàn toàn giống như Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ đã viết ra.”
Đây là một bằng chứng xác thật cho thấy đúng là những chiến lược gia tuyên truyền của khối Liên Bang Sô Viết (LBSV) đã nói: “những người trí thức Hoa Kỳ và Âu Châu chỉ chú ý đến tư tưởng, ý kiến và lời nói”, mà không bao giờ tìm kiếm để đối diện với những việc làm của những người Cộng Sản để xem những lời nói có đi đôi với việc làm không. Muốn tìm kiếm sự thật nơi những người CSBV và QTCS thì hãy hỏi họ “các anh đã và đang làm gì đấy?”, chứ đừng ngờ nghệch dại khờ chỉ đi tìm kiếm xem họ đã nói gì. Những người trí thức Hoa Kỳ, Âu Châu và khắp nơi trên thế giới chỉ đọc Bản Tuyên Ngôn 10 điểm của ĐCSĐD do HCM viết vào năm 1930, và tuyên ngôn độc lập cho Việt Nam năm 1945, hay các bản tuyên ngôn của MTGPMN cũng do HCM và CSBV viết ra mà đã vội khóc sướt mướt như Jane đã bao lần khóc khi được mời đến Hà Nội. Một con người ngây thơ, trong trắng, nhiệt tình với một trái tim dạt dào tình cảm của một nữ tài tử còn quá trẻ như Jane mà dấn thân vào một chỗ hùm beo, chó sói và rắn rết như thế giới của CSBV thì làm sao thoát được nọc độc và nanh vuốt của thế giới đó. Cũng theo Louis Fanning đã viết trong cuốn sách của ông “Betrayal in Vietnam”: sự thay đổi mối quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ với LBSV và Bắc Kinh đã đưa đến những vấn đề nghiêm trọng cho CSBV, thí dụ như phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ đã đi gần đến chỗ tàn lụi và giãy chết. Tuy nhiên vẫn còn một số cá nhân tại Hoa Kỳ vẫn là bạn bè thân thiết của Hà Nội như Jane Fonda và Tom Hayden vẫn hăng hái vận động hòa bình cho Việt Nam. Sự thật là Jane và Tom vẫn có những mối liên hệ rộng lớn và mật thiết với Quốc Hội Hoa Kỳ. Điều quan trọng họ muốn là Quốc Hội Hoa Kỳ phải được thuyết phục để cho Quốc Hội tin rằng Miền Nam VN (MNVN) không còn xứng đáng để tiếp tục sự nhận trợ giúp tài chánh nữa.
Jane Fonda và Tom Hayden quả là đã tạo được cho họ một tiếng nói đầy quyền năng để gây ảnh hưởng lớn lao đến Quốc Hội vì đây là điểm then chốt sẽ đưa đến việc cắt giảm tiền bạc và khả năng bảo vệ miền Nam của Tổng Thống Richard Nixon. Cuộc vận động Quốc Hội qua dân biểu Ronald Dellums thuộc Đảng Dân chủ; một người đã bảo trợ cho Jane Fonda và Tom Hayden. Việc được phép đến Quốc Hội để điều trần đã là điều không phải dễ, Jane và Tom lại được Quốc Hội cấp cho họ riêng một phòng họp tại Quốc Hội để họ loan truyền những gì CSBV muốn nói với Quốc Hội Hoa Kỳ và dư luận quần chúng Mỹ mà không nói được. Khi có được một phòng họp ngay tại Quốc Hội những thơ mời đã được đưa ra để mời Quốc Hội đến nghe để xin trợ giúp. Họ đã nghe hàng loạt bài giảng giải về mối tương quan giữa Hoa Kỳ và Đông Nam Á. Những hoạt động này đưa đến kết quả là chỉ trong vòng 3 tuần là vào tháng 1-1974 đã có tối thiểu 60 vị phụ tá tham mưu của Quốc Hội đến tham dự để lắng nghe các bài diễn văn trong ủy ban Tư Pháp Hạ Viện do Hayden và Fonda điều động. Sau khi đã có những buổi thuyết trình về những chủ đề chính, nhóm chính trị mới đã được thành lập tại Washington. Nhóm này đã được 35 dân biểu tiếp tay được biết là ủy ban phối trí của Thủ Đô “Capital Hill Coordinating Committee” lãnh tụ chính là M.J.Mike Duberstein phụ tá lập pháp cho Ronald Dellums. Mục đích của Ủy Ban là chấm dứt tất cả mọi sự trợ giúp của Quốc Hội cho Chính Quyền MNVN. Trong lúc Tom Hayden đang hướng dẫn các lớp học về Đế Quốc Mỹ thì tờ New York Times đăng bài viết của David Shipler. Bài viết có tựa đề: “Viện trợ lớn lao từ Hoa Kỳ là để cho Chính Quyền Sài Gòn tiến tục chiến tranh”. Trong lời bình luận Shipler đã nhấn mạnh đến cái mà tác giả nghĩ về những vi phạm của MNVN và của Hoa Kỳ về Thỏa Hiệp ngưng bắn. Người phóng viên của tờ báo Times thì cũng mô tả là viện trợ của Hoa Kỳ quá nhiều cho MNVN để tiếp tục chiến tranh nên đã khuyến khích MNVN đến chỗ vi phạm Hiệp Định Paris.
Vào ngày 12-3 Thượng Nghị Sĩ McGovern (Dân Chủ) đã đến lắng nghe một nhân chứng là Tom Hayden - người vừa qua đã đến với Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện để đưa vào hồ sơ Quốc hội. Sự chống đối của Quốc Hội nhắm vào bất cứ trợ giúp quân sự nào cho Cam-bốt và MNVN đều đã nhận được sự thúc giục mạnh mẽ của các dân biểu Hạ Viện, họ đã bỏ phiếu chống lại viện trợ cho các quốc gia này với số phiếu là 189/49. Những người thuộc phe Dân Chủ là những người đã gặp nhau trong một cuộc họp bí mật vào ngày 12-3 và đã bỏ phiếu để chấp nhận đề nghị của nhóm phản chiến đưa ra, đã được dân biểu Robert Car trình bày. Nghị quyết của Car đã nhấnh mạnh đến ý nghĩa và cuộc họp Dân Chủ nhằm để “chống lại mạnh mẽ tất cả trợ giúp quân sự thêm cho MNVN và Cam-bốt vào tài khóa 1975”.
Trong ngày kế tiếp Thượng Viện cũng có cuộc họp của phe Dân Chủ cũng đã bỏ phiếu 38/5 để chống lại viện trợ quân sự thêm cho Cam-bốt. Những cuộc bỏ phiếu trong các cuộc họp của phe Dân Chủ với đa số trong lưỡng viện Quốc Hội nên phe Dân Chủ rất thành công trong tất cả hành động chống đối lại viện trợ cho Đông Nam Á. Trong khi lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ, phe đa số Dân Chủ đều đồng ý cắt viện trợ quân sự cho miền Nam và Cam-bốt, thì tại MNVN Tổng Thống Thiệu đang phải đối đầu với một tình thế vô cùng nguy hiểm trước các làn sóng xâm lăng của CSBV. (ngưng trích)
Và như thế, chiến thắng của CSBV trong trận đánh cuối cùng này không phải là chiến công của bộ đội cộng sản miền Bắc mà là thành tích của phe phản chiến tại Mỹ đã thành công trong việc làm cho Quốc Hội Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh Nam Việt Nam, được xác nhận qua lời phát biểu lẻ loi của Nghị sĩ Hiram Fong (Cộng Hoà, Hawaii) trong khi chứng kiến VNCH bị đẩy vào chỗ chết: “Không còn gì để thắc mắc nữa mà chỉ còn lại một điều, đó là chúng ta đã phản bội những người Cam- bốt, chúng ta đã phản bội những người Nam Việt Nam. Không còn gì để thắc mắc nữa là chúng ta đã không còn sống với những cam kết của chúng ta.”
Chiến dịch tuyên truyền lừa bịp của CSVN và CSQT do Liên Sô lúc ấy điều hợp với một bộ máy tuyên truyền khổng lồ, sử dụng khoảng 500 ngàn (nửa triệu) cán bộ và 2 tỉ đô-la mỗi năm (1970) đã thành công trong mục tiêu lừa gạt thế giới qua sự tiếp tay của “những tên ngốc hữu dụng” tại Âu Mỹ để tạo nên những huyền thoại rằng:
1. Chiến tranh VN (1955-1975) là một cuộc nội chiến giữa phe cách mạng XHCN và chính quyền Sài-gòn, do thực dân Pháp để lại với sự nối tiếp thô bạo của đế quốc Mỹ.
2. Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam VN là tự phát, không phải do CSBV nhào nặn ra và lãnh đạo.
3. Việt Cộng đã chinh phục được trái tim và trí tuệ người dân Nam VN.
4. Hồ Chí Minh là một lãnh tụ quốc gia yêu nước, một “George Washington của Việt Nam”.
5. TT Ngô Đình Diệm là một bù nhìn của thực dân Pháp và tay sai của đế quốc Mỹ.
6. Ông Ngô Đình Diệm chủ trương kỳ thị tôn giáo đã đưa đến những bất ổn chính trị và bị lật đổ.
7. Hoa Kỳ và VNCH không thể thắng bằng quân sự trong cuộc Chiến tranh VN.
8. Hoa Kỳ và VNCH đã thua nặng trong vụ tổng công kích Tết Mậu Thân.
9. Hoa Kỳ rút đi thì các dân tộc ở Đông Dương (Việt, Miên, Lào) sẽ sống hạnh phúc, ấm no, hoà bình.
Đây là 9 nhận thức sai lầm có tính chiến lược tạo ra do tuyên truyền lừa bịp của cộng sản cùng với những sai lầm nghiêm trọng khác mà TT Richard Nixon đã tìm thấy trong 1,200 cuốn sách viết về cuộc Chiến Tranh VN của các tác giả Âu Mỹ.
Trí thức bị lừa đã đưa đến quyết định sai lầm của quốc Hội Hoa Kỳ, đưa đến sự lên ngôi của tội ác tại Việt Nam, đến sự sụp đổ của VNCH, đến vụ tháo chạy đầu tiên của quân đội Mỹ trước một kẻ thù gian ác và yếu kém hơn.
Nạn nhân của “Vụ lừa gạt của Thế Kỷ” có nhiều loại:
- “Những tên ngốc hữu dụng” ở Âu Mỹ đã hăm hở làm tay sai không công, hay có công, cho cộng sản, đồng lõa với tội ác để giúp CSBV đánh chiếm Nam Việt Nam, bành trướng ảnh hưởng ở Đông Nam Á;
- Nhân dân miền Bắc VN, đã bị lùa vào chết trong chiến trường miền Nam hết thế hệ này đến thế hệ khác;
- Dân chúng miền Nam VN, những nạn nhân đích thực của “Vụ lừa gạt của Thế kỷ”, đã chịu biết bao mất mát, khổ đau kéo dài cho đến ngày nay.
Trong 37 năm qua, đa số trí thức thiên tả ở Âu Mỹ, với lòng kiêu ngạo cố hữu, sau khi chứng kiến những sự thật lõa lồ phơi bày tại VN, kể cả sau khi “đế quốc ma quỷ” Liên-sô đã sụp đổ (đầu thập niên 1990), vẫn không có can đảm thú nhận đã là nạn nhân và đồng lõa trong “Vụ lừa gạt của Thế kỷ 20”.
Người ta được nghe rất ít lời thú tội.
“Nữ thần phản chiến ngu ngốc” Jane Fonda, sau khi nghe nhiều sỉ vả và lên án của giới cựu quân nhân Mỹ, đã phải hạ bút viết trong cuốn hồi ký “My Life So Far” (2003): “Tất cả chúng ta đã bị lừa gạt” (All of us were deceived).
Nhà văn “bất đắc dĩ” Dương Thu Hương đã “khóc như cha chết” trên đường phố Sài-gòn vào ngày 30/4/1975 vì thấy mình đã bị lừa.
Thế nhưng, giới trí thức Tây phương, nói chung, vẫn không muốn nói tới tội ác của cộng sản với một thái độ khiếp nhược, bất công, đúng như nhận định của Giáo sư Alan Cors tại trường Đại Học Pennylvania: “Phương Tây chấp nhận một tiêu chuẩn kép kỳ quái về lịch sử không thể tha thứ được. Chúng ta nhắc lại tội ác của chủ nghiã Quốc-Xã gần như mỗi ngày, chúng ta đem những tội ác ấy để dạy con cháu chúng ta như là những bài học lịch sử và luân lý tuyệt đối, và chúng ta đưa nhân chứng đến từng nạn nhân. Trừ một số rất ít ngoại lệ, chúng ta hầu như im lặng về những tội ác của chủ nghĩa Cộng sản.” Và GS Cors đã nhận định khái quát về tội ác của Cộng sản như sau: “Trong lịch sử loài người, chưa từng có cớ lý nào đã sản xuất nhiều bạo chúa máu lạnh, nhiều người vô tội bị tàn sát và nhiều trẻ em mồ côi hơn là chủ nghiã xã hội khi nắm quyền. Nó vượt qua với cấp số nhân tất cả các hệ thống khác trong việc sản xuất xác chết.” (*)
TS Nguyễn Anh Tuấn giúp độc giả một cái nhìn vào nguyên ủy: “Bởi vì cả thế giới đã bị guồng máy tuyên truyền khổng lồ của Liên Bang Sô-viết kể từ năm 1920 đã bỏ ra gần một thế kỷ để lừa đảo dư luận…Vì thế mục đích chính của việc duyệt xét lại lịch sử là thấy được một cách minh bạch và chính xác đâu là giả đâu là thật, đâu là trắng đâu là đen, đâu là gian tà đâu là chính nghĩa, đâu là bạn đâu là thù, đâu là tội ác đâu là công lý?”
Đây là điều không thể không làm để giải quyết thách đố sau cùng “ai thắng ai” với chủ nghĩa cộng sản, và cũng là điều mà những kẻ cầm đầu Đảng CSVN, một trong mấy cái đuôi của con thằn lằn đỏ đã chết còn sót lại trên mặt đất, rất sợ và đang cố làm mọi cách để kéo dài sự lừa dối bằng những luận điệu xưa cũ như người ta vừa thấy xuất hiện trên một tờ báo ở “thủ đô tị nạn” miền Nam California về “…một điều đơn giản tối thiểu là chỉ có đội quân xâm lược Mỹ và bè lũ Việt gian tay sai của Mỹ là thất thủ, là mất miền Nam, mất Sài-gòn, còn dân tộc VN cả Nam lẫn Bắc là người thắng trận, thu giang sơn về một mối, chấm dứt ách thống trị của thực dân mới”.(Người Việt, ngày 8/7/2012)
Đây không phải là “thư độc giả”, không phải là “sơ sót của toà soạn”, cũng không phải “trục trặc kỹ thuật”. Đây là những đòn mang tính chiến lược quen thuộc của cộng sản qua chiến thuật độn thổ.
Vì vậy, đây không phải là việc nhỏ, có thể giải quyết bằng “nhận lỗi”, hay “xin lỗi”. Nó nằm trong một kế hoạch lừa gạt rất rộng lớn đã kéo dài nhiều chục năm nay, đã đưa đến cái chết của tự do tại Nam Việt Nam, và đã dựng lên một guồng máy vô cảm kềm kẹp cả dân tộc Việt Nam mà hiện nay nhiều người đang can đảm đứng lên chống lại, bất chấp đàn áp, ngục tù.
Sơn Tùng
(Virginia, 26/7/2012)
(* ) “No cause, ever, in the history of mankind, has produced more cold-blooded tyrants, more slaughtered innocents and more orphans than socialism with power. It surpassed, exponentially, all other systems of production in turning out the dead.”