Văn Học & Nghệ Thuật
Đọc lại Hồng Lâu Mộng
Anh Nguyễn
Lời nói đầu: Trong số Tứ đại danh tác, chỉ có duy nhất Hồng Lâu Mộng vinh dự có cả một ngành học riêng nghiên cứu về nó.
“Hồng học,” hay Redology (theo tên tiếng Anh Dream of the Red Chamber) đã được khởi xướng từ ngay khi Tào Tuyết Cần còn sống và đang viết Hồng Lâu Mộng! Trong số những nhà Hồng học nổi tiếng có Lỗ Tấn, Trương Ái Linh, Vương Côn Luân (Chủ nhiệm Ban cố vấn cho bộ phim Hồng lâu mộng năm 1987,)…
Hồng Lâu Mộng là niềm tự hào văn chương cực lớn của Trung Hoa, một pho bách khoa toàn thư về thi ca, hội họa, âm nhạc, ẩm thực, kiến trúc, lễ nghi,… Người Trung Quốc có câu: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, độc tận thi thư diệc uổng nhiên!” (tạm dịch: Mở miệng ra mà không nói đến “Hồng Lâu Mộng” thì có đọc hết cả sách cũng uổng phí!). Mao Trạch Đông cũng từng nói:
”Mỗi người nên đọc cuốn tiểu thuyết này 5 lần trước khi muốn đưa ra bất kì một nhận xét gì về nó. Dẫu đã từng được cày nát qua nhiều thế kỉ, cuốn sách với hơn 600 nhân vật độc đáo và đa dạng Hồng Lâu Mộng vẫn là một kho chứa nhiều điều bí ẩn.”
Tình hình tài liệu nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng ở Việt Nam vẫn còn ít ỏi và kém phổ cập, người Viết lại không biết tiếng Trung Quốc để có thể tiếp cận các văn bản Hồng học, nên chỉ muốn viết ra những điều tự mình ngẫm nghĩ và thu lượm bằng tiếng Anh. Nếu có thiếu sót hoặc trùng lặp, rất mong được những người yêu Hồng Lâu Mộng chỉ giáo thêm, mục đích để cùng nhau hiểu thêm về một tác phẩm kinh điển của văn học thế giới.
Tần Khả Khanh – kẻ lẳng lơ trong mộng
Trong số Kim Lăng thập nhị thoa chính sách (mười hai cô gái đầu bảng ở Kim Lăng – hiện giờ là Nam Kinh), Tần Khả Khanh là người có thân thế mơ hồ nhất, ra đi cũng sớm nhất (từ hồi thứ mười ba.) Sự xuất hiện của nhân vật này ngắn ngủi đến mức nhiều người không nhớ ra Tần Khả Khanh là ai trong số hơn 400 nhân vật của Hồng Lâu Mộng. Nhưng thật vô cùng thiếu sót nếu phủ nhận sự phức tạp và ngòi bút tinh tế của Tào Tuyết Cần trong việc mô tả nhân vật này, thậm chí nhà Hồng học Lưu Tâm Vũ còn đề xuất Tần học – chi nghiên cứu riêng về Tần Khả Khanh.
Cuộc sống và cái chết của Tần Khả Khanh có rất nhiều điều bí ẩn. Điều khiến nhiều người ngờ vực nhất là mối quan hệ loạn luân giữa Khả Khanh và bố chồng là Giả Trân, mặc dù không có một lời nào trong Hồng Lâu Mộng khẳng định chắc chắn điều đó. Trong bài viết này chúng ta hãy cùng xem lại một lượt những đầu mối của tác giả để xác định tính thật hư của giả thuyết trên.
*
Tần Khả Khanh xuất hiện từ hồi thứ năm, qua con mắt của chàng trai mới lớn Giả Bảo Ngọc, với vai trò là cháu họ.
Một lúc sau, Bảo Ngọc mệt, muốn về nghỉ trưa. Giả mẫu định sai người đưa về nghỉ một chốc rồi sẽ đến. Vợ Giả Dung là họ Tần, vội cười nói:
– Ở đây đã dọn một gian buồng để chú Bảo nghỉ rồi, xin cụ yên lòng, cứ giao chú ấy cho cháu là được.
Giả Bảo Ngọc sau đó được Tần thị (Khả Khanh) dẫn đến một căn phòng có bức vẽ Nhiên lê đồ và câu đối khuyên răn chăm học. Là kẻ lười biếng, ghét thi thư, cậu ta không thích, nằng nặc không chịu ngủ. Tần thị liền dẫn cậu ta tới buồng ngủ riêng của mình. Hành vi này không hẳn là thương phong bại tục, song cũng không tề chỉnh. Văn hóa Trung Quốc giới hạn quan hệ giới tính ngay cả trong gia đình cũng rất khắc nghiệt, có câu “chị dâu em chồng không được nói chuyện với nhau.” Tác giả khéo léo để người hầu lên tiếng bày tỏ sự không đồng tình, nhưng Tần thị liền mau chóng gạt đi.
Bảo Ngọc gật đầu mỉm cười, một bà già nói:
– Có lẽ nào chú lại đến ngủ ở buồng cháu dâu?
Tần thị cười nói:
– Ôi dào! Không sợ chú ấy phật ý. Chú ấy đã lớn đâu mà phải e dè?
Cần phải nhớ rằng, trong toàn bộ câu chuyện, đây là lần đầu tiên Giả Bảo Ngọc vào buồng ngủ của một người phụ nữ mà không phải bà và mẹ ruột. Đây là một sự kiện có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đời Bảo Ngọc, bởi nó là sàn diễn để gặp nàng tiên Thái Hư ảo cảnh, người đánh thức bản năng đàn ông trong người chàng ta. Trong toàn bộ Hồng Lâu Mộng, trừ phòng ngủ của chính Bảo Ngọc, có lẽ đây là căn phòng ngủ được miêu tả kỹ càng và khêu gợi nhất.
Đến buồng Tần thị, Bảo Ngọc vừa mới bước chân vào, đã thoảng có mùi thơm say sưa. Khi ấy mắt Bảo Ngọc dính lại, người nhủn ra, nói ngay:
– Mùi thơm thích nhỉ.
Trong buồng, trên tường treo bức họa “Hải đường xuân thụy” của Đường Bá Hổ vẽ, hai bên có đôi câu đối của học sĩ Tần Thái Hư đời Tống:
Lờ mờ giấc mộng hơi xuân lạnh,
Ngào ngạt mùi hương rượu khá nồng.
Trên án bày một cái gương quý của Vũ Tắc Thiên đời Đường. Một bên bày cái mâm vàng mà Triệu Phi Yến đã đứng lên múa, trên mâm để quả dưa mà An Lộc Sơn đã ném vào vú Dương Quý Phi. Đằng trước kê một cái giường báu của công chúa Thọ Xương nằm ở điện Hàm Chương, mắc cái màn liên châu của Công chúa Đồng Xương dệt ra.
Bảo Ngọc thấy vậy cười nói:
– Ở đây tốt! Ở đây tốt!
Tần thị cười:
– Cái buồng của tôi dù thần tiên cũng có thể ở được.
Nói xong, Tần Thị tự tay mở cái khăn lụa mà chính tay Tây Thi đã giặt, và đặt sẵn cái gối Uyên Ương của Hồng Nương đã ôm khi xưa.
Bằng ngòi bút, Tào Tuyết Cần vẽ nên một căn phòng có cả hương và sắc, đầy những chi tiết gợi cảm. Dường như phòng ngủ của Tần Khả Khanh là một địa điểm hoàn hảo để trải nghiệm những cảm xúc mê mệt. Những mỹ nhân được nêu lên trong đoạn trên gồm những ai? Chỉ cần một cái liếc mắt cũng đủ thấy: Triệu Phi Yến, Dương Quí Phi, Võ Tắc Thiên, Tây Thi. Không ngẫu nhiên mà họ toàn là những “hồng nhan họa thủy,” làm tan nát bao vương triều. Chẳng những thế, Dương Quí Phi và Võ Tắc Thiên còn là hai mỹ nhân nổi tiếng vì có quan hệ bất chính với bố chồng. Ngoài ra, tuy Tào Tuyết Cần cố tình không nói rõ, các nhà Hồng học đã chỉ ra bức vẽ “Hải đường xuân thụy” không phải vẽ hoa hải đường ngày xuân như tên gọi, mà vẽ một người đàn bà quần áo lả lơi nằm ngủ ngày. Là cậu bé mới lớn, dĩ nhiên Bảo Ngọc thích bức vẽ đó hơn bức tranh “khuyến học” Nhiên lê đồ. Có thể nói một cách hình tượng rằng qua việc chọn lựa này, Bảo Ngọc đã không vượt qua được thử thách đầu tiên của dục vọng. “Người làm sao của chiêm bao làm vậy,” trong Hồng Lâu Mộng điều này càng rõ hơn: nơi ở của một người chính là hiện thân tính cách người đó, như Đại Ngọc có Tiêu Tương quán sầu bi, Bảo Thoa có Hành Vu uyển thoáng đãng. Buồng ngủ của Tần Khả Khanh như vậy, nàng ta không thể là người đoan chính mẫu mực.
Đoạn sau mới thật là gây bất ngờ. Được ấp ủ trong những thứ chăn gối đã từng được các mỹ nhân sờ mó, ôm ấp, hít ngửi mùi thơm của Tần Khả Khanh, Bảo Ngọc nhanh chóng đi vào “giấc mơ ướt” đầu tiên trong đời. Điều đáng nói là chính Tần Khả Khanh là người dắt tay cậu ta vào cõi mơ.
Bảo Ngọc vừa nhắm mắt đã bàng hoàng ngủ say. Tưởng như Tần thị còn đứng trước mặt mình. Bảo Ngọc lững thững theo Tần Thị đi đến một chỗ lan can sơn đỏ, thềm xây bằng ngọc, cây xanh ngắt, suối trong veo, không có một tí dấu vết bụi trần.
Và sau đó, tiên cô đã gả cho Bảo Ngọc một nàng tiên có tên Kiêm Mỹ, tên chữ là Khả Khanh, vừa đẹp như Bảo Thoa, vừa dịu dàng như Đại Ngọc. Đây là người đầu tiên “mây mưa” cùng cậu Bảo. Cái tên “Kiêm Mỹ” có nghĩa là được cả hai cái đẹp, tác giả lại nhấn mạnh thêm bằng việc chỉ ra cô ta là người kết hợp tinh túy của Đại Ngọc và Bảo Thoa. Cái tên Khả Khanh là tên tục của Tần thị, cả nhà Giả phủ không ai biết, nhưng tác giả dùng giấc chiêm bao để nói lên rằng: Tần Khả Khanh chính là người bạn tình lý tưởng trong tiềm thức Bảo Ngọc. Freud sẽ nói gì về điều này? Quả thật là “Một hồi mộng kín chờ ai đấy? Nghìn thuở tình ngây một tớ thôi.” Kể từ đó, nhân vật Tần Khả Khanh đã nhuốm màu dục tính. Tuy nhiên để đi đến kết luận Tần Khả Khanh gian dâm với bố chồng, ta cần đi tiếp một vài chương nữa.
*
Đến hồi bảy, Giả Bảo Ngọc và Vương Hy Phượng sang thăm phủ nhà Tần thị. Khi ở đó, chúng ta được giới thiệu với Tiều Đại, một người nô bộc cũ của Ninh quốc công. Trước đã từng được trọng dụng, song về già, Tiều Đại dần trở nên ngang ngạnh, ngỗ ngược, phát ngôn không nể nang ai.
Mọi người thấy Tiều Đại càn rỡ quá, vật xuống trói lại, lôi nó bỏ vào chuồng ngựa. Tiều Đại càng tức, nói động cả đến Giả Trân. Nó thét ầm lên, đòi đến từ đường khóc với cụ tổ: “Ai ngờ bây giờ lại đẻ ra những giống súc sinh này! Hàng ngày trộm gà bắt chó, nào ‘Tiểu thúc’, nào ‘Ba hôi’, loạn luân cả lũ, tao lại không biết à? Thôi đừng đem cánh tay gãy giấu vào trong ống áo nữa!”
“Tiểu thúc” là gì? Là em chồng nằm với chị dâu. “Ba hôi” là gì? Là bố chồng nằm với con dâu. Tiều Đại chỉ xuất hiện đúng một lần, vai trò của y trong Hồng Lâu Mộng không có gì ngoài thốt lên những lời buộc tội sự bất luân của phủ Ninh. Tác giả thậm chí còn cố tình nhét tên Giả Trân vào đoạn này để người đọc “không chệch đi đâu được.” Liệu có thể gạt đi, coi là những lời Tiều Đại nói càn lúc say rượu chăng? Nên nhớ rằng, Hồng Lâu Mộng tưởng chừng toàn ghi chép những chuyện vụn vặt không đầu không cuối, song thực ra không có chi tiết nào là thừa. Tào Tuyết Cần để cho Tiều Đại ngang nhiên thốt ra những câu nhưng thế, không thể không có ẩn ý. Trong gia đình nhà Giả Trân, cặp bố chồng-con dâu duy nhất mà ta biết là Tần Khả Khanh-Giả Trân. Xem ra, mối quan hệ này không trong sáng lắm, đến nỗi kẻ trong truyện cũng bàn tán, xì xào. Tào Tuyết Cần đã mượn lời một người nô bộc hèn mọn để nói bóng gió về nội tình nhà Giả Trân.
*
Những hồi sau có thể tóm tắt như sau: Tần Thị ốm, rồi chết. Gia đình tổ chức đám ma linh đình. Một cái chết đơn giản? Không hẳn. Theo ý nhiều người, Tào Tuyết Cần đã khéo léo giấu đi một câu chuyện đen tối hơn giữa những con chữ: Tần Khả Khanh thực sự có quan hệ với bố chồng, bị hai tỳ nữ phát hiện, nên tự tử chết. Lúc chết còn có mang thai hai tháng. Các dẫn chứng sau cho thấy giả thuyết này không hoang đường như ta tưởng
… Tần Thị ốm, rồi chết. Gia đình tổ
chức đám ma linh đình. Một cái chết đơn giản? Không hẳn. Theo ý nhiều
người, Tào Tuyết Cần đã khéo léo giấu đi một câu chuyện đen tối hơn giữa
những con chữ: Tần Khả Khanh thực sự có quan hệ với bố chồng, bị hai tỳ
nữ phát hiện, nên tự tử chết. Lúc chết còn có mang thai hai tháng. Các
dẫn chứng sau cho thấy giả thuyết này không hoang đường như ta tưởng.
5 dẫn chứng, xếp từ ít “đáng nghi” nhất:
1. Dẫn chứng một: thái độ của mẹ chồng Tần Khả Khanh.
Mẹ chồng Tần Khả Khanh là Vưu thị, qua lời nói có vẻ rất thương yêu con dâu. Ta hãy xem đoạn bà ta nói chuyện với Kim thị về bệnh tình Tần thị:
Tôi lại trông cho nó ăn hết nửa bát yến sào rồi mới về đây. Thím tính thế có sốt ruột không? Lại thêm bây giờ không có thầy thuốc nào hay. Nghĩ đến bệnh nó lúc nào, là ruột tôi đau như kim châm. Thím có biết ai chữa thuốc giỏi không?
Thật là mối quan hệ mẹ chồng-con dâu
kiểu mẫu! Cũng không quá khó tin, vì tác giả đã thiết lập cho Tần Khả
Khanh là con người dịu dàng khéo léo, rất được lòng người. Song khi con
dâu chết thì bà ta thế nào? Không xuất hiện lấy một lần. Tác giả khéo
léo để cho Vưu thị “bị bệnh dạ dày tái phát, ốm liệt giường,” không thốt
ra một câu một chữ nào về con dâu nữa. Ngay cả trong đám tang Khả
Khanh, Vưu thị vẫn ốm nằm trong buồng! Tác giả nhắc đến điều này ba lần,
ắt phải có dụng ý. Sự IM LẶNG và VẮNG MẶT của Vưu thị tương phản rõ rệt
với nỗi ai oán, gào khóc xé ruột gan của ông bố chồng.
Giả thuyết: Vưu thị phát hiện mối quan hệ nhơ nhuốc của chồng và con
dâu, nhưng phải giữ thể diện, nên không thể làm rùm beng, đành chọn cách
nghiến răng giấu mặt.
2. Dẫn chứng hai: thái độ của chồng Tần Khả Khanh.
Tần Khả Khanh là vợ của Giả Dung, cháu của Phượng Thư. Hồng Lâu Mộng xác lập Giả Dung là một thanh niên bảnh bao, khéo nói, lại rất hay đùa bỡn phụ nữ. Tuy nhiên trong toàn bộ câu chuyện, ta không hề thấy một giây phút ân cần nào giữa hai vợ chồng. Cách Tào Tuyết Cần viết khiến Giả Dung giống như một người câm điếc khi có mặt vợ vậy. Ngược lại, khi Giả Dung ở cùng Vương Hy Phượng, anh ta lả lướt, lúng liếng, sống động, nhấm nháy. Thái độ “đầu mày cuối mắt” của hai người không qua được mắt chồng Phượng Thư là Giả Liễn, càng không qua được mắt bạn đọc. Giả Dung và Vương Hy Phượng ngọt ngào với nhau thế nào? Xin xem đoạn Giả Dung đến mượn Phượng Thư cái bình phong pha lê:
Giả Dung nghe nói cười hì hì, quỳ lom khom ở trên bục nói:
– Nếu thím không cho mượn, cha cháu sẽ bảo cháu không khéo nói, lại bị một trận đòn thôi. Thím ơi! Thương cháu với.
– Không lẽ cái gì của nhà họ Vương cũng đều đẹp cả. Ở bên nhà cháu bao nhiêu đồ đẹp, nhưng hễ thấy cái gì của ta là chỉ chực cuỗm thôi.
Phải chăng Phượng Thư cố tình nói kháy, ví Khả Khanh là “đồ đẹp” nhà Giả Dung, còn nói móc chàng ta tham lam, cái gì cũng muốn “cuỗm về”? Chắc hẳn vậy, bởi chỉ vài câu sau, ta có đoạn văn đầy tình ý:
Phượng Thư chợt nghĩ đến một việc, vội ngoảnh ra cửa sổ gọi :
– Cháu Dung hãy trở lại đây.
Mấy người bên ngoài gọi theo:
– Cậu Dung hãy trở lại.
Giả Dung vội quay lại, buông thõng tay đứng đợi.
Phượng Thư cứ lẳng lặng uống nước, rồi ngẩn một lúc rồi mặt tự nhiên đỏ bừng lên, cười nói:
– Thôi cháu hãy về đi. Cơm chiều xong lại đây sẽ nói. Bây giờ đương có người, ta chẳng bụng nào nghĩ đến nữa.
Sao má nàng ta lại đỏ, sao lại không dám
nói chỗ đông người mà hẹn đến cơm chiều xong gặp lại? Không cần nói
cũng đoán được. Và khi Tần Khả Khanh chết thì sao? Xin thưa, trong ba
chương nói về cái chết và đám tang của vợ, Giả Dung cũng không xuất hiện
lấy một lần! Anh ta chỉ xuất hiện qua lời của ông bố, vì Giả Trân muốn
mua cho con một chức quan để viết lên tờ phướn cho đẹp. Rõ thật đáng sợ
chưa! Cũng như trên, sự lãnh đạm, vô tình, thậm chí bạc tình của Giả
Dung đối nghịch rõ rệt với sự thương tiếc của Giả Trân. Đây không thể là
một mối quan hệ vợ chồng bình thường được. Không những thế, sau khi vợ
chết, anh ta liền mau chóng đi lấy vợ khác, lại tằng tịu cả với hai
người em gái của Vưu thị.
Giả thuyết: Hoặc Giả Dung thờ ơ khiến Tần Khả Khanh ngoại tình, hoặc Tần Khả Khanh gian dâm khiến Giả Dung chán ghét vợ.
3. Dẫn chứng ba: thái độ của bố chồng Tần Khả Khanh
Đương nhiên đã tìm cách chứng minh Tần Khả Khanh thông gian với Giả Trân thì không thể nào bỏ qua sự “quá đà” của nhân vật này. Ai đọc Hồng Lâu Mộng chắc cũng phải cảm thấy “gờn gợn” vì sự vồ vập thái quá của Giả Trân đối với nàng dâu. Cũng như Giả Dung thờ ơ với vợ mình, Giả Trân cũng thờ ơ với Vưu thị, song lại hết sức hết lòng với Tần Khả Khanh. Gia đình Tần Khả Khanh không giàu có, về mặt môn đăng hộ đối không thể sánh với nhà họ Giả, song nàng ta được hết mực cưng chiều như nàng công chúa, thậm chí em trai là Tần Chung cũng được tự do ra vào trong phủ, đi học cùng Bảo Ngọc. So ra mà nói, Tần Chung còn được đối xử tốt hơn cả Giả Hoàn – em cùng cha khác mẹ của Bảo Ngọc. Sự phân biệt này là do đâu? Nếu chỉ vì Tần Khả Khanh tốt tính, tận hiếu với bố mẹ chồng, thì xem ra cũng chưa đủ.
Hãy xem một số ví dụ.
Khi Tần Khả Khanh bị ốm, Giả Dung thõng tay không can dự, còn bố chồng là Giả Trân thì xông xáo đi tìm thầy thuốc. So với thái độ thờ ơ, vô tâm với đàn bà trong nhà của Giả Kính, Giả Chính, Giả Xá, Giả Liễn thì thật khác một trời một vực! Đến khi Tần thị chết rồi, ông ta thế nào?
Giả Trân khóc sướt mướt, nói với bọn Giả Đại Nho:
– Tất cả lớn bé trong nhà, bè bạn gần xa, ai cũng khen con dâu tôi khôn ngoan hơn con trai nhiều. Nay nó mất đi, đủ biết nhành trưởng này lụn bại mất!
Nói xong lại khóc, mọi người khuyên giải:
– Người đã chết rồi, khóc cũng vô ích, ông nên lo liệu ngay việc ma chay là hơn.
Giả Trân đập tay, nói:
– Lo liệu gì! Chẳng qua có bao nhiêu tiền làm hết bấy nhiêu thì thôi!
Giả Trân thấy cha không nhìn đến tiền bạc, thì tha hồ phung phí. Lúc tìm áo quan, nghe Tiết Bàn gạ gẫm, liền mua ngay loại gỗ quý nhất, vốn chỉ dành cho bậc vương công. Có một câu vô cùng đáng nghi:
Giả Trân nghe nói, cảm tạ luôn mồm, sai cưa ra và gắn sơn ngay. Giả Kính khuyên:
– Người thường thì không nên dùng thứ này, tìm thứ gỗ tốt là được.
Giả Trân không thể chết thay cho Tần thị, khi nào lại chịu nghe.
Giả Trân lại còn “thương xót quá không
ăn uống được,” rồi “đang ốm, lại vì quá thương xót, nên chống gậy bước
vào.” Nếu một người không biết đầu đuôi câu chuyện, chỉ đọc mấy câu
trên, ắt tưởng Giả Trân là tình nhân của Tần Khả Khanh, chứ nào phải cha
con chồng! Qua những chương sau, ta lại càng thấy rõ bộ mặt của Giả
Trân. Ông ta cùng con trai Giả Dung có quan hệ bất chính với hai cô em
gái của Vưu thị, thậm chí ngay lúc để tang cha ruột còn mở xới đánh bạc,
thuê kỹ nam trẻ tuổi về chơi bời. Tư cách của Giả Trân quả thực rất
đáng khinh bỉ.
Giả thuyết: không cần nói cũng hiểu quan hệ của Giả Trân-Tần Khả Khanh không phải mối quan hệ cha con bình thường.
4. Dẫn chứng bốn: thái độ hai người hầu gái của Khả Khanh
Đến đây lại phải nhờ đến ông Du Bình Bá, một trong những nhà Hồng học kỳ cựu, lỗi lạc. Các tác phẩm nghiên cứu của ông đã mở ra một con đường mới của phái Tân Hồng học, đổi lại bản thân ông phải chịu không ít gian nan trong thời kỳ Cách mạng văn hóa. Trong phần bàn về cái chết của Tần Khả Khanh, ông có nêu lên một thuyết mới lạ, nhờ phân tích đoạn dưới đây:
Thấy Tần thị chết, a hoàn Thụy Châu cũng đập đầu vào cột chết theo, câu chuyện hiếm có ấy làm cho cả họ đều thở than khen ngợi. Giả Trân cho làm ma theo lễ “cháu gái”, cũng rước linh vào gác Đăng Tiên trong vườn Hội Phương. Lại có một a hoàn tên là Bảo Châu, thấy Tần thị không có con, xin làm con nuôi giữ tang lễ như con đẻ. Giả Trân mừng lắm, cho gọi là tiểu thư. Bảo Châu theo lễ con gái chưa gả chồng ngồi bên linh cữu khóc than thảm thiết.
Mới đọc qua, không có gì lạ. Nhưng một
chữ “cũng” trong câu “Thấy Tần thị chết, a hoàn Thụy Châu cũng đập đầu
vào cột chết theo, câu chuyện hiếm có ấy làm cho cả họ đều thở than khen
ngợi.” khiến ta phải ngẫm nghĩ. Khi tôi kiểm tra lại, chữ “cũng” này có
mặt trong cả nguyên bản tiếng Trung và bản dịch tiếng Anh nên không thể
là do lỗi của dịch giả. Có thể bảo, ừ thì a hoàn cùng chết theo chủ,
nhưng phải chăng Tào Tuyết Cần ngụ ý rằng Tần Khả Khanh đã tự vẫn trước?
A hoàn thứ hai xin làm con nuôi, vì sao? Theo thuyết của Du Bình Bá,
chính hai a hoàn này đã chứng kiến cảnh gian díu của Tần Khả Khanh với
Giả Trân, dẫn đến việc Tần Khả Khanh xấu hổ tự sát. Vì quá hối hận, một a
hoàn tự tử, a hoàn kia xin làm con nuôi để chuộc tội. Nếu không có gì
bất thường, một a hoàn sao dễ làm con nuôi nhà chủ được, kể cả chủ có
quy tiên đi chăng nữa! Sự “mừng lắm” của Giả Trân càng khiến ta phải
nghi ngờ. Ở cuối hồi 15, a hoàn Bảo Châu còn không chịu về lại phủ,
quyết ở lại chùa Thiết Hạm. Hoặc cô ta bị Giả Trân đe dọa, tống đi xa
khuất mắt, hoặc chính cô ta sợ về phủ Giả nhiều cạm bẫy, tóm lại, chi
tiết này cũng thật kỳ lạ.
Giả thuyết: hai nữ tỳ này góp phần không nhỏ dẫn tới kết cục thảm thương của Tần Khả Khanh.
5. Dẫn chứng năm: cuốn sổ Kim lăng thập nhị thoa chính sách
Đây là bằng chứng quan trọng nhất. Khi Bảo Ngọc lạc vào Thái Hư ảo cảnh, có được nàng tiên mở tủ cho xem cuốn sổ ghi số mệnh mười hai cô gái đẹp trong truyện. Lần lại, có thể đoán ra số phận từng người một. Ví dụ:
Giàu sang cũng thế thôi.
Từ bé mẹ cha bỏ đi rồi.
Nhìn bóng chiều ngậm ngùi,
Sông Tương nước chảy mây Sở trôi.
Là Sử Tương Vân
Chim phượng kìa sao đến lỗi thời,
Người đều yêu mến bực cao tài,
Một theo hai lệnh, ba thôi cả
Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi.
Là Vương Hy Phượng
Than ôi có đức dừng thoi,
Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai treo đai ngọc giữa rừng
Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?
Đích thị là Lâm Đại Ngọc
Thế nhưng trong quần thoa đó, không ai có số phận hợp với mỹ nhân cuối cùng:
Lại có một tòa lầu cao, trên có một mỹ nhân treo cổ tự tử. Có mấy câu phán:
Trời tình, bể tình là mộng ảo,
Mà tội dâm kia cũng bởi tình.
Đầu têu nào phải “Vinh” hư hỏng,
Mở lối khơi nguồn, thực tại “Ninh”.
Chiếu theo bài thơ này, thì Tần Khả
Khanh là phù hợp nhất. Trong những chị em còn lại, không có ai tự tử.
Cái chết của Tần Khả Khanh lại là cái chết đột ngột. Theo tiên lượng của
thầy thuốc, nàng ta có thể cố trụ qua mùa đông, hơn nữa căn bệnh của
Tần Khả Khanh (triệu chứng giống ho lao), không phải căn bệnh có thể đột
tử qua đời. Chính vì thế mà khi nghe tin nàng chết, cả phủ đều “bàng
hoàng, không ai tin là thật.” Phượng Thư nghe tin thì “thất kinh, toát
mồ hôi, ngẩn người ra một lúc,” Giả Bảo Ngọc thì “vội vùng trở dậy, ruột
đau như cắt, không ngờ ọe một cái, khạc ra một cục máu.” Nếu cái chết
của Tần Khả Khanh không quá bất ngờ thì phản ứng của mọi người không thể
dữ dội như vậy! Do đó nói Khả Khanh chết vì bệnh là vô lý. Trước khi
mất, Tần Khả Khanh còn có các triệu chứng giống như đã mang thai. Vấn đề
này được các bà các cô trong phủ suy đoán không ít, thậm chí Vưu thị
còn bảo ít nhất một thầy thuốc bảo rằng cô ta có bầu. Vì vậy có thể loại
bỏ khả năng Tần Khả Khanh bị lên cơn bệnh đột ngột mà chết. Ngược lại,
trường hợp Khả Khanh có thai với bố chồng, lại bị người hầu phát hiện,
quẫn trí tự sát rất có thể đã xảy ra.
Lại xét câu “Trời tình, bể tình là mộng ảo.” Nhân vật Khả Khanh trong giấc mơ Thái hư ảo cảnh của Bảo Ngọc chính là cái tôi thứ hai của Tần Khả Khanh (alter ego), cô ta cũng là đối tượng si mê trong mộng của Bảo Ngọc – một sự kéo dài từ tình yêu của Bảo Ngọc với chị ruột của cậu ta, Nguyên Xuân. Khả Khanh trong mơ và Khả Khanh ngoài đời tuy hai mà một, tuy một mà hai. Cái “tình” của Khả Khanh “thật” ở cõi diêm phù này cũng chỉ là một giấc mộng mà thôi.
Lại xét câu “Mà tội dâm kia cũng bởi tình.” Trong mười hai thoa, chỉ có duy nhất mỹ nhân này bị gắn chữ “dâm.” Trừ Tần Khả Khanh, mười một người kia, có kẻ độc ác, có kẻ vô tình, nhưng thật khó dùng chữ “dâm” để gán cho bất kỳ ai trong họ. Chính bởi chữ “dâm” này mà Tần Khả Khanh bị xếp hàng gần bét trong mười hai thoa, chỉ hơn có Giả Xảo Thư. Lật lại Hồng Lâu Mộng nguyên cảo còn có đề mục “Tần Khả Khanh dâm táng Thiên Hương Lầu” ở hồi mười ba, lúc Khả Khanh qua đời cơ mà! Đủ thấy ý Tào Tuyết Cần đã cho số phận Tần Khả Khanh không thoát khỏi chữ “dâm,” dù sống hay chết.
Xét hai câu cuối:
Đầu têu nào phải “Vinh” hư hỏng,
Mở lối khơi nguồn, thực tại “Ninh”.
Để dễ phân biệt, bên Giả Chính, Giả Bảo Ngọc là phủ Vinh, còn bên Giả Trân, Giả Dung là phủ Ninh. Hai câu này có thể hiểu rằng: Bảo Ngọc “hư hỏng” quan hệ với nàng Khả Khanh trong mộng, xong cái nghiệp của nàng ta là do phủ Ninh gây ra. Nếu không vì Giả Trân “đầu têu” làm nhơ nhuốc nàng thì nàng đã không trở thành một “dâm nữ” và phải tự kết liễu cuộc đời.
Kết thúc lại, khúc hát Hồng Lâu Mộng của Tần Khả Khanh nói rõ hơn hết:
Xuân đi hương vẫn còn rơi,
Nguyệt hoa gây vạ suy đồi vì ai ?
Nhà suy bởi tại Kính rồi,
Nhà tan trước hết tội thời tại Ninh.
Gây nên oan trái vì tình.
Em trai Tần Khả Khanh là Tần Chung rồi cũng chết vì trót yêu cô tiểu Trí Năng. Tên của hai chị em, Tần Thị – Tần Chung lại đồng âm với Tình Thủy (đầu) – Tình Chung (cuối), nên có thể coi họ là hai đầu của quang phổ tình ái vậy. Cái chết của Tần thị, Tần Chung, và Giả Thụy là những “câu chuyện cảnh giác” đầu tiên của Hồng Lâu Mộng, ám chỉ bóng gió đến những bi kịch còn ở phía trước. Tần Khả Khanh là một nhân vật mang tính biểu tượng hơn là thực tế, vừa như Vệ Nữ, vừa là kẻ đầu tiên hy sinh vì tình trong truyện.
Kết luận: dựa trên những dẫn chứng trên, có thể kết luận mười phần chắc đến tám, chín về sự thật đằng sau cuộc đời, số phận, và cái chết của Tần Khả Khanh. Tuy nhiên những tầng lớp vô cùng tinh tế của Hồng Lâu Mộng luôn là thử thách lớn cho những kẻ đam mê. Người viết xin được nhận sự góp ý, tranh luận của người đọc để chúng ta cùng phân tích, khám phá thêm tác phẩm này một cách trọn vẹn nhất có thể.
Hai chị em nhà họ Vưu: càng lăng loàn tợn càng đau vì tình
Hồng Lâu Mộng tuy là bức tranh gấm màu rực rỡ thêu vòng trong vòng ngoài, càng ngắm càng sâu, song sợi chỉ tơ xuyên suốt tác phẩm là nghiệp chướng của ái tình. Ngoại trừ Giả Mẫu ra, gần như cái chết nào trong chuyện cũng là chết vì tình. Ở bài trước ta đã bàn đến cái chết của Tần Khả Khanh, “Trời tình, bể tình là mộng ảo. Mà tội dâm kia cũng bởi tình.” Sang bài này, ta sẽ xem xét đến số phận hai chị em họ Vưu. Sở dĩ gộp chung lại vì tác giả cố ý cho họ làm chị em, vận mệnh của họ vốn không thể tách rời, ngay cả nguyên do đẩy họ đến cái chết cũng cùng một gốc rễ.
Vưu nhị thư và Vưu tam thư là hai cô em gái của Vưu thị, vợ hai Giả Trân bên phủ Đông. Giả Trân còn có một người con trai lớn là Giả Dung, chồng Tần Khả Khanh. Hai bố con này là người thế nào? Dâm ô, xấu xa, ăn chơi, bệ rạc, đủ trò không gì không làm, xem ra còn tệ hơn cả Tiết Bàn. Hai cô em gái Vưu thị cũng không phải loại vừa, vừa xinh đẹp phong lưu, lại lẳng lơ phóng đãng. Lần đầu họ xuất hiện trong truyện đã đùa cợt cùng Giả Dung:
Hắn vờ làm bộ run sợ, ôm đầu lăn xả vào lòng dì Hai xin tha tội. Dì Ba quay mặt đi, nói:
– Chờ chị về sẽ mách cho nó!
Giả Dung cười, quỳ xuống giường xin tha tội, làm cho cả hai người cười ồ lên. Giả Dung lại vồ nắm sa nhân của dì Hai để ăn. Dì Hai nhai bã sa nhân đầy mồm nhổ toẹt vào mặt, hắn thè lưỡi liếm hết. Bọn a hoàn thấy trái mắt, đều cười, nói:
– Cậu vừa có tang, bà ngoại lại mới ngủ. Hai cô tuy trẻ tuổi nhưng đều là bậc dì. Cậu không coi bà ra gì à! Khi ông về bà sẽ mách, liệu cậu chạy đằng nào cho thoát!
Đúng như Giả Liễn dự đoán, hai chị em họ Vưu đều có quan hệ bất chính với anh rể và cháu trai. Nhưng nếu nhà văn còn bóng gió chuyện của Tần Khả Khanh, thì đối hai chị em họ Vưu thì Tào Tuyết Cần tung hê hết ra. Nét đẹp của họ cũng khác hẳn với vẻ băng thanh ngọc khiết của các cô tiểu thư trong phủ Giả:
Dì Ba tháo đồ trang sức, cởi áo ngoài, vén tóc mai lên, chỉ mặc một cái áo lót đỏ, nửa kín nửa hở, cố ý để lộ bộ ngực trắng nõn ra, dưới mặc quần xanh, đi giày đỏ, trông rất lộng lẫy. Lúc đứng lúc ngồi, khi vui khi giận, không có một phút nghiêm trang, đôi khuyên cứ lủng lẳng như đánh đu; dưới ánh đèn, trông càng tỏ ra mày liễu xanh rờn, môi son đỏ chót, đôi mắt như nước mùa thu, lại uống mấy chén rượu, càng thêm lẳng lơ khêu gợi.
Thế nhưng điều khó ngờ nhất đã xảy ra. Hai chị em Vưu nhị thư, Vưu tam thư nếu cứ “ngoan ngoãn” làm “gái hư” thì đã đành. Họ sẽ được liệt vào hạng xấu xa vô loài, tác giả cũng không cần tốn thêm bút mực để viết về họ nữa. Vấn đề là họ lại vướng vào lưới tình, yêu thật sự, si mê thật sự! Đây là sự khởi đầu của hai tấn bi kịch.
Người mà Vưu nhị thư đem lòng yêu là ai? Chính là Giả Liễn.
Từ đầu truyện, hình ảnh Giả Liễn trong
mắt độc giả vốn không được sáng sủa cho lắm. Chàng ta là kẻ thích mèo
mỡ, nếu không vì sợ lọ “dấm chua” của Phượng Thư, ắt đã ăn chơi thỏa
thích gấp mười. Tuy nhiên lúc nào hở ra được vợ cho ngủ riêng (khi Xảo
Thư bị bệnh đậu mùa, phải kiêng chẳng hạn) là chàng ta chạy ngay đi tìm
gái. Khi hai người mới gặp nhau, trai có ý mà gái cũng không vừa, tưởng
đâu chỉ là chuyện gió trăng mà thôi. Nhưng ai ngờ lộng giả thành chân,
Giả Liễn lén lút đưa Vưu nhị thư về làm vợ lẽ, đối xử chân tình thắm
thiết. Lại mua cho nàng ta một gian nhà nhỏ, đặt tên là Tiểu Hoa Chi, ở
giữa phủ Ninh và phủ Vinh. Như ta đã nhấn mạnh ở bài trước, nơi ở của
nhân vật có gắn bó mật thiết với số phận của họ. “Tiểu Hoa Chi” – cành
hoa nhỏ bị kẹp giữa hai tòa phủ, chẳng mấy chốc sẽ nát bấy. Tương lai
của Vưu nhị thư ắt không lành.
Vưu nhị thư đã quen cảnh “dập dìu lá gió cành chim”. Phượng Thư thì ghen tuông, tàn nhẫn, khiến Giả Liễn cảm thấy ngột ngạt khó thở, lúc điên lên còn rủa cô ta chết đi. Mối quan hệ của Giả Liễn và Vưu nhị thư, tưởng là mạt cưa mướp đắng gặp nhau mà thôi, ai ngờ lại khiến họ trở nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Dường như chỉ trong mối quan hệ này, hai người mới nếm trải tình yêu thật sự. Lần này tác giả đã nhân hậu cho Vưu nhị thư được nếm trải cảm giác ngọt ngào của tình cảm đôi lứa, rũ bỏ lớp áo hư hỏng, lại khiến Giả Liễn biến thành một người chồng mẫu mực, độ lượng, không còn vẻ khinh bạc trước kia. Tương lai thật tươi sáng, hứa hẹn. Mấy câu sau đây, ngắn ngủi mà đủ ý đã diễn tả sự thay đổi tích cực của họ:
Chị Hai lại là người đa tình, cho Giả Liễn là người nương tựa suốt đời của mình, việc gì cũng chăm sóc hỏi han. Chị Hai lại có vẻ dịu dàng hòa thuận, không những mọi việc bàn bạc không dám lộng quyền mà dáng điệu và lời nói việc làm cũng hơn hẳn Phượng Thư. Nhưng đã trót lỡ bước mắc phải một chữ “dâm” rồi, thì bao nhiêu điều hay cũng vứt đi cả. Giả Liễn lại nghĩ: “Ai không có điều lầm lỗi? Nhưng biết lỗi mà sửa đổi đi thì tốt”. Cho nên hắn không nhắc đến việc dâm lúc trước, chỉ kể điều hay bây giờ thôi, thành ra hai người một lòng một dạ, dính như keo sơn, thề cùng sống chết với nhau, còn để ý gì đến Phượng Thư và cô Bình nữa.
Bởi vậy mới nói, tình yêu có thể cứu chuộc con người! Sau khi Vưu nhị thư tìm được ý trung nhân Giả Liễn, lại đến lượt Vưu tam thư. Hai chị em xinh đẹp này được chính Bảo Ngọc khen là một đôi “vưu vật”(nghĩa là đồ quý, lại chơi chữ “Vưu” là họ của họ.) Theo lời kể của Tào Tuyết Cần, Vưu tam thư không những đẹp hơn cả chị, mà tính tình cũng đanh đá, ghê gớm, sắc sảo hơn chị gấp nhiều lần. Theo kiểu “không đẹp được thì cho xấu luôn,” không những không ngượng ngập về tội “hư” của mình, nàng ta còn lấy đó làm cớ để ngang ngược, khêu gợi, vênh vang. Nàng ta mắng Giả Trân rất thẳng: “Anh đừng lú lấp ruột gan, tưởng chừng tôi không biết việc trong nhà các anh hay sao? Lần này anh em nhà anh định vung một ít tiền thối ra, coi chị em chúng tôi là đĩ thõa để mua vui.”
Hãy xem nàng ta đày đọa mấy ông tướng nhà họ Giả thế nào:
Chị Ba ngày nào cũng kén chọn thức ăn đồ mặc, đã đeo bạc lại muốn đeo vàng, có hạt châu lại đòi ngọc báu; ăn ngỗng xong lại đòi mổ vịt; có điều gì không bằng lòng, liền hất cả mâm đi. Quần áo không vừa ý thì bất cứ lụa là mới may cũng lấy kéo cắt vụn ra, vừa xé vừa mắng. Rút cục bọn Giả Trân có được ngày nào vừa ý đâu? Trái lại phải tiêu trộm mất bao nhiêu là tiền.
Đó là cách Vưu tam thư đối xử với những tên đàn ông bạc bẽo. Nàng không ngại gì khi lợi dụng lại họ. Công khai, thách thức, ngang nhiên lắm. Nói gì thì nói, rõ ràng nàng ở thế của kẻ chiến thắng, dù là theo kiểu không còn gì để mất. Nhưng khi nàng bắt đầu mong muốn xây dựng gia đình với người trong mộng thì lại khác hẳn. Hạt giống tình gieo từ năm năm trước, giờ được tưới bởi hy vọng nên nở bừng ra. Nàng trở nên đứng đắn, lễ độ, cốt cách không kém gì các tiểu thư con nhà gia giáo. Người đọc lại càng biết rõ, sự thay đổi của Vưu tam thư thực sự bắt nguồn từ bên trong, tuyệt đối không phải giả dối lừa người… Thậm chí nàng còn bẻ gãy cái trâm, thề nếu trái lời thì số phận cũng như cái trâm vậy.
Giống như Vưu nhị thư, Vưu tam thư lột xác nhờ tình yêu. Vưu nhị thư còn bảo với Giả Liễn: “Dì ấy đã nói: người ấy một năm không đến, thì chờ một năm; mười năm không đến thì chờ mười năm. Nếu người ấy chết đi, thì dì ấy đành cắt tóc đi tu, ăn chay niệm phật, chứ quyết không lấy ai nữa.”
Người mà Vưu tam thư yêu là ai? Chính là
Liễu Tương Liên, một chàng trai trẻ tuổi, đẹp đẽ, con nhà dòng dõi thi
thư. Tuy nhiên Liễu Tương Liên lại là kẻ vô tình. Giả Liễn có nhận xét
rất chuẩn xác về anh ta: “Em không biết, chàng trai Liễu này là người
rất phong nhã, nhưng bụng rất lạnh nhạt, đối với nhiều người không có
tình nghĩa gì cả.”
Lần đầu tiên Liễu Tương Liên xuất hiện ở hồi bốn mươi bảy, tại một bữa tiệc có nhiều anh em trong họ Giả. Tiết Bàn, vốn mắc bệnh “Long Dương” (đồng tính) nhìn thấy chàng ta là đã chết mê chết mệt, hẹn ra ngoài thành gặp. Liễu Tương Liên liền giả cách đồng ý, nhân đó nện cho Tiết Bàn một trận thừa sống thiếu chết vì cái tội dám tán tỉnh mình.
Nói xong, lại lấy roi ngựa, đánh ba bốn chục roi vào lưng và đùi.
Tiết Bàn đã gần tỉnh rượu, đau quá không chịu nổi, kêu lên một tiếng “úi chao”. Tương Liên cười nhạt nói:
– Mới có thế thôi! Tao cứ tưởng mày dạn đòn!
Vừa nói vừa kéo chân trái Tiết Bàn dìm xuống bãi sậy, bùn lấm be bét, đầy người, lại hỏi:
– Mày đã biết tay tao chưa?
Tiết Bàn không trả lời, chỉ nằm gục xuống rên hừ hừ. Tương Liên lại vất roi đi, nắm tay đấm mấy quả. Tiết Bàn kêu rối rít lên:
– Xương tôi gãy cả rồi! Tôi biết em là người đứng đắn, chỉ vì tôi nghe người ta đồn nhầm đấy thôi!
– Không được kéo người ta vào. Mày chỉ được nói chuyện hiện giờ thôi.
– Hiện giờ tôi không có gì đáng nói cả? Chẳng qua em là người đứng đắn, tôi trót nhầm đấy thôi!
– Phải nói nhũn nữa, tao mới tha cho.
Tiết Bàn rén hừ hừ, nói: “Bạn ơi”. – Tương Liên lại đấm cho một quả nữa. Tiết Bàn kêu lên một tiếng, rồi nói: “Ông anh ơi” – Tương Liên lại đấm luôn cho hai quả nữa. Tiết Bàn vội kêu lên “úi chao ơi”, rồi nói:
– Ông ơi! ông tha cho con là thằng mù không có mắt! Từ nay trở đi, con kinh người, sợ lắm rồi.
– Mày phải uống hai ngụm nước bùn này đi!
– Nước này bẩn quá, con uống thế nào được?
Tương Liên lại giơ tay lên đấm. Tiết Bàn vội nói:
– Con xin uống… Con xin uống…
Tiết Bàn là nhân vật thô bỉ, xấu tính bậc nhất trong truyện, ai ai cũng ghét, đọc đến đoạn này, nhiều người không khỏi sướng đến mức hoa chân múa tay. Nhưng ít ai dừng lại để tự hỏi xem:
Tiết Bàn có đáng bị Tương Liên đánh ác như vậy không? Nếu hắn ta dùng sức hoặc quyền lực cưỡng ép Tương Liên thì đã đành, đằng này Tiết Bàn đối với Tương Liên vô cùng tử tế, tôn trọng, thậm chí thích đến mê muội. Vụ này tác giả khéo bố trí từ trước để vẽ lên đặc tính cơ bản của Liễu Tương Liên: kiêu ngạo và vô tình. Đối với chàng ta, bất cứ tình cảm nào của con người cũng là xấu xí, hèn kém, yếu đuối. Trong tâm trí của Tương Liên, chữ “tình,” dù là tình yêu hay tình dục, tình nam hay tình nữ, đều dơ bẩn, không xứng với địa vị, con người anh ta. Sau này khi Tiết Bàn gặp nạn, Liễu Tương Liên lập tức ra tay cứu trợ, chứng tỏ cái anh ta khinh ghét không phải con người Tiết Bàn, mà chính là tình cảm của hắn.
Sau khi nghe Vưu tam thư thổ lộ, Giả Liễn bèn gặp Liễu Tương Liên để làm mối cho cô em vợ. Liễu Tương Liên đã định cưới Vưu tam thư, nhưng khi vừa thoáng nghe Bảo Ngọc lỡ miệng nhắc đến xuất xứ của Vưu tam thư, thái độ của anh ta thế nào?
Tương Liên nghe xong giậm chân nói:
– Việc này không xong rồi! Nhất định không thể lấy được! Trong phủ Đông nhà anh, ngoài hai con sư tử đá ra, dù con mèo, con chó cũng chẳng còn trong sạch nữa. Tôi không thèm làm anh chàng rùa đen đâu!
Bảo Ngọc nghe nói, đỏ bừng mặt.
Tình yêu của hai chị em họ Vưu trong sáng, mãnh liệt, song kết cục của họ thì sao? Có thể tóm tắt rằng, Tào Tuyết Cần đã dùng tình yêu “rửa tội” cho hai chị em nhà họ Vưu, song cũng đồng thời đẩy họ đến chỗ chết. Vưu nhị thư là người con gái hiền dịu, không tâm kế sâu xa, chẳng mấy chốc nàng đã ngây thơ nghe lời Phượng Thư, để bị đầy đọa cả thể xác lẫn tâm hồn. Cành hoa nhỏ đã bị chim phượng xéo nát, cái thai bị mất, nàng đành nuốt vàng mà chết, quả thực vô cùng đáng thương.
Vưu tam thư thì bị Liễu Tương Liên từ chối, nàng đau đớn dùng cây kiếm “Uyên” trong cặp “Uyên Ương” tự sát chết trước mặt người trong mộng.
Chim uyên ương là biểu tượng lứa đôi trong văn hóa Trung Quốc, cách Vưu tam thư kết liễu cuộc đời do đó có tính biểu tượng rõ rệt. Chính là tình yêu đã giết nàng, đâu phải tại Liễu Tương Liên lạnh lùng tàn nhẫn, lãnh diện lang quân. Anh ta chỉ là một đại diện, biểu tượng cho cái gọi là đàn ông “tử tế” trong xã hội. Vưu tam thư phải chết vì nàng đã đánh đồng bản thể của mình vào tình yêu, khi tình yêu mất đi thì nàng không thể tồn tại nữa. Đúng như Vưu nhị thư phải thừa nhận:” Người ta có ép buộc dì ấy đâu, tự dì ấy tìm lấy cái chết.” Hai chị em họ, một người bị tình từ trong phá ra, một người dùng cái chết để trả nợ tình, quả thực là hai “nữ thánh” tử vì đạo, nếu đạo ở đây là tình ái.
Ở đoạn cuối chương sáu mươi sáu, Liễu Tương Liên hội ngộ Vưu tam thư trong giấc mơ, nàng nói: ”Thiếp lại từ trời tình, đi từ đất tình. Kiếp trước đã lầm vì tình, kiếp này lại xấu hổ vì tình, nên mới được giác ngộ.” Câu này thực đã tóm hết nội dung của Hồng Lâu Mộng vậy. Trong cõi “mộng” đấy, quả thực không có kết cục tốt đẹp cho kẻ đa tình. Người đọc ngậm ngùi chỉ biết lắc đầu thở dài, nhưng thế giới hiện thực liệu có thực sự khác truyện kể chăng?
Giả Thám Xuân: con phượng hoàng sinh trong ổ quạ
Trong số những cô gái của Hồng Lâu Mộng, Giả Thám Xuân là cô gái có cá tính cứng cỏi nhất trong mười hai thoa, song vẫn giữ được khí chất cao đẹp của một vị thiên kim tiểu thư. Cái mạnh mẽ của Thám Xuân thật đường hoàng, hơn hẳn Vương Hy Phượng chỉ được cái khôn vặt, nham hiểm, trên đội dưới đạp. Vương Hy Phượng cũng rất thú vị, người ta muốn ghét nàng cũng không ghét nổi, muốn yêu nàng lại càng khó hơn, song con phượng hoàng thực sự trong Hồng Lâu Mộng là Giả Thám Xuân. Tào Tuyết Cần dụng công mô tả những mặt đối lập của nhân vật này, lại bày đặt những đầu mối giúp người đọc đoán được số phận nàng.
Giả Thám Xuân là cô ba trong “Giả Phủ Tứ Xuân”, về thứ tự nàng xếp sau Nguyên Xuân, Nghênh Xuân, trên Tích Xuân. Lần đầu Giả Thám Xuân xuất hiện đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Lâm Đại Ngọc:
Cô thứ hai, vóc dáng tròn trặn, người dong dỏng cao, mặt trái xoan, mắt sắc, lông mày dài, nhìn ngắm tình tứ, thanh tú khác thường, trông như thoát hẳn trần tục.
Trong bốn cô Xuân, trừ Nguyên Xuân đã vào cung không kể, nàng là cô gái đẹp nhất, thường được xếp chung với nhóm Đại Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Bảo Cầm. Không chỉ đẹp, Thám Xuân còn có khí độ vô cùng đặc biệt. Thám Xuân có con mắt tinh đời, khiếu thẩm mỹ rất tốt. Những đồ vật xa hoa nàng không coi vào đâu, ngược lại chỉ thích những thứ bình dị mà tinh xảo. Đoạn nàng nhờ Bảo Ngọc mua đồ chơi diễn tả rất khéo điều này:
– Mấy tháng nay em có dành dụm được mười quan tiền, anh cầm lấy, khi nào ra chơi phố, thấy có bức chữ hay vẽ đẹp, hoặc đồ chơi xinh xắn, anh mua hộ mang về cho em.
– Thỉnh thoảng anh cũng có đi qua các nhà, các miếu ở trong thành, ngoài thành, chẳng thấy cái gì mới lạ, xinh xắn cả, chỉ có những đồ vàng, ngọc, đồng, sứ, và những thứ đồ cổ không có chỗ vất; rồi đến các thứ vóc, nhiễu và các đồ ăn thức mặc thôi.
– Ai cần gì đến những thứ ấy! Như lần trước anh mua cái lẵng hoa bằng cành liễu, hộp phấn bằng rễ trúc, cái lồng ấp bằng đất thó, trông rất đẹp, em thích lắm. Mà chị em ai cũng thích cả. Họ coi những thứ này như của báu, có cái nào là cướp mất cái ấy.
– Nếu em thích những cái ấy, thì chẳng đáng mấy đồng tiền, cứ cho người nhà mang mấy quan tiền đi, sẽ mua được hàng xe.
– Bọn người nhà biết gì? Anh đi chọn lấy cái gì mộc mạc mà không tục, thì mua nhiều về cho em.
Thám Xuân có sở trường thư pháp. Khuê phòng của nàng được Tào lão gia miêu tả tinh tế mà vẫn phóng khoáng, thể hiện một trí tuệ mẫn tiệp, trong sáng:
Bọn Phượng Thư vào buồng Thám Xuân, thấy các chị em đang cười đùa. Thám Xuân vốn thích rộng rãi, ba gian nhà ở đều để thông luôn. Giữa nhà kê một cái bàn to bằng đá Đại Lý, trên bàn có các loại bút thiếp của cái bậc danh nhân, cùng mấy chục cái nghiên báu, và các thứ ống bút; bút cắm ở ống như rừng cây. Một bên bày cái lọ sứ Như Châu to bằng cái đấu, cắm đầy hoa cúc trắng như thủy tinh. Phía tường bên Tây treo một bức họa “Yên vũ đồ” của Mễ Tương Dương. Hai bên treo hai câu đối, bút tích của ông Nhan Lỗ công: Phong lưu cảnh đượm màu mây khói, chất phác người quen thú suối rừng. Trên án đặt một cái đỉnh lớn, trên cái giá gỗ đàn tía ở bên tả đặt một cái mâm sứ lớn, trên mâm bày mấy chục quả phật thủ vàng tươi; trên cái giá sơn ở bên hữu treo một cái khánh Tị Mục bằng ngọc trắng, bên cạnh treo một cái dùi nhỏ.
Khuê phòng như vậy, Giả Thám Xuân đương nhiên là người có năng khiếu văn chương. Vẫn biết Đại Ngọc, Bảo Thoa có tài làm thơ, nhưng phải nhờ đến Thám Xuân ra tay tập hợp, Đại Quan Viên mới có Hải Đường thi xã. Bảo Ngọc cũng phải bất ngờ thốt lên “không ngờ em Ba phong nhã thế.”
Loài cây ưa thích của Thám Xuân chính là cây ba tiêu (cây chuối), nên nàng tự xưng là Tiêu hạ khách, phong cách đặc biệt ấy khiến mọi người đều trầm trồ khen hay. Hình tượng cây chuối trong thơ ca cổ điển Trung Quốc vừa có khí độ quân tử, lại có duyên ngầm kín đáo, rất hợp với Thám Xuân. Những bức họa mô tả nàng do vậy thường vẽ Thám Xuân tay cầm sách, có khi ngồi cạnh tàu ba tiêu. Chính Thám Xuân đã từng tuyên bố nếu nàng sinh ra là đàn ông, hẳn đã tự lập được công danh rạng rỡ.
Vì những nét đẹp kể trên, Thám Xuân còn được mệnh danh là “cô Ba hoa hồng”. Đầy tớ của Phượng Thư đã giải thích nguyên do như sau: “Hoa hồng vừa đỏ vừa thơm, ai mà chẳng phải yêu, có điều lắm gai thôi.” Quả vậy, không những trong số các cô gái ở vườn Đại Quan nàng ghê gớm nhất, mà ngay cả những người hầu dày dạn và các bà phu nhân cũng phải dè chừng Thám Xuân. Khi Phượng Thư bị ốm, Thám Xuân thay nàng trông nom việc nhà cửa. Bọn người hầu tưởng có thể qua mặt cô tiểu thư non nớt nên định nhờn mặt, xong bị nàng sửa đâu ra đấy, không dám ngo ngoe. Thái độ của các nô tài, nô tì trong phủ Giả đối với Phượng Thư có bảy phần sợ sệt, ba phần căm ghét, còn đối với Thám Xuân là bảy phần kính trọng, ba phần sợ sệt. Phượng Thư cũng biết tính nàng khác hẳn mọi người nên hết sức tôn trọng, không dám khiến nàng mếch lòng. Một lần các bà già đi khắp vườn Đại Quan tra xét, lục rương hòm a hoàn để truy tìm một vật cấm. Vợ Vương Thiện Bảo là một bà già ngu xuẩn, nghĩ Thám Xuân là cô gái yếu đuối nên có ý coi thường, định làm nhục nàng để lên mặt với bọn người dưới. Lập tức bà ta bị đòn đau:
Mụ cho Thám Xuân chỉ giận một mình Phượng Thư thôi, không can gì đến mụ, nên muốn nhân đó làm bộ, liền đi lên trước mọi người, kéo vạt áo Thám Xuân, cố ý giơ lên một cái cười hì hì nói:
– Ngay trong mình cô tôi cũng khám cả rồi, chẳng thấy gì cả.
Phượng Thư thấy mụ làm thế vội nói:
– Già đi thôi, đừng giở trò rồ dại nữa.
Chưa dứt lời thì nghe “bốp” một tiếng, vợ Vương Thiện Bảo bị Thám Xuân tát một cái vào mặt. Thám Xuân nổi giận, trỏ vào vợ Vương Thiện Bảo hỏi:
– Mày là hạng gì dám nắm lấy áo tao. Chẳng qua tao nể mặt bà, thấy mày cũng đã có tuổi, nên mới gọi mày là già, mày lại chó cậy chủ nhà, càng ngày càng bậy, dám lên mặt với tao à! Mày cứ tưởng tao cũng dễ tính như cô mày, mặc cho chúng bay khinh rẻ, mày nghĩ thế là nhầm rồi!
Tính cách Thám Xuân cương cường như vậy có một phần rất lớn là do hoàn cảnh xuất thân của nàng. Thám Xuân là em gái của Bảo Ngọc, nhưng chỉ cùng cha. Mẹ Bảo Ngọc là Vương phu nhân, vợ cả của Giả Chính. Mẹ đẻ Thám Xuân là dì Triệu, vợ bé. Theo tôn ti trật tự của xã hội phong kiến, không những con gái không bằng con trai mà con vợ bé cũng không bằng con vợ cả. Có nhiều trường hợp thê “cướp” con trai của thiếp, thiếp cũng đành nuốt nước mắt chấp nhận. Kể cả con của thiếp nhận thê làm mẹ, chỉ coi thiếp như người hầu kẻ hạ, thiếp cũng phải chịu. Nhưng dì Triệu lại là người đàn bà ti tiện, xấu xa, luôn bày kế hãm hại Bảo Ngọc, ghét cả Thám Xuân, nên sự thông cảm của người đọc dành cho bà ta hầu như rất ít. Những hành vi, lời nói tục tĩu của dì Triệu gây cho Thám Xuân không ít tức giận và xấu hổ. Nàng đẹp, thông minh, được Giả mẫu yêu thương, nhưng sự tôn trọng mọi người dành cho nàng luôn bị đe dọa bởi bà mẹ đẻ địa vị thấp kém, lại hay gây chuyện. Bởi tinh thần ức chế nên nàng khó tính, chua cay, hay nói lời cay đắng. Theo như lời thằng Hưng nói, “Đáng tiếc là cô ấy lại không phải bà Hai đẻ ra, thực là ‘phượng hoàng đẻ trong tổ quạ’”, thật là nhận xét chuẩn xác. Dì Triệu cũng tự ý thức được điều đó nên khi Thám Xuân sắp đi lấy chồng, bà ta liền nói kháy:
Dì Triệu vừa nghĩ vừa chạy đến bên Thám Xuân mừng cho cô ta, và nói:
– Cô ơi! Cô là người sắp bay cao rồi. Về nhà chú rể tất nhiên là tốt hơn ở đây, chắc cô cũng bằng lòng. Tôi sinh ra cô bấy lâu, chưa hề nhờ được gì, dù cho tôi có bảy phần xấu, cũng còn ba phần tốt, đừng có đi rồi cô bỏ quên ngay tôi.
Thám Xuân nghe nói chẳng có nghĩa lý gì cả, nên chỉ cúi đầu làm việc, không nói nửa lời.
Trong mắt dì Triệu, Thám Xuân là con phượng hoàng sắp bay khỏi cái tổ quạ, khiến cho bà ta vừa hậm hực, vừa nhẹ nhõm. Song số phận của Thám Xuân không chỉ gắn với hình ảnh chim phượng, mà còn cả cái diều nữa. Trong truyện, cái diều xuất hiện ba lần để ám thị tương lai của nàng. Lần thứ nhất là trong sổ tiền định ở Thái Hư ảo cảnh:
Mặt sau lại vẽ hai người thả diều, một vùng bể lớn, một cái thuyền lớn, trong thuyền có một cô gái bưng mặt khóc. Sau bức họa có bốn câu:
Chí cao tài giỏi có ai bì,
Gặp lúc nhà suy, vận cũng suy,
Nhớ tiếc thanh xuân ra bến khóc.
Gió đông nghìn dặm mộng xa đi.
Hai người thả diều trong tranh ứng vào Giả Chính và Vương phu nhân – cha và mẹ cả của Thám Xuân. Việc cho Thám Xuân đi lấy chồng xa chính là quyết định của họ. Đây là lá số tiền định chính thức của nàng.
Lần thứ hai, ở hội thi đố đèn:
Giả Chính lại xem câu đố của Thám Xuân:
Trẻ con ngửa mặt nhìn trời,
Thanh minh là tiết dong chơi hợp thì.
Mỏng manh một sợi du ti,
Biệt ly đừng có trách gì gió đông.
(Đố một đồ chơi)
Giả Chính nói:
– Đó là cái diều.
Lúc đó, Giả Chính lo buồn vì những câu đố đèn do các chị em đặt ra đều báo hiệu việc không lành. Quả vậy, Nguyên Xuân đố cái pháo nổ tan tành, về sau chết trẻ, Tích Xuân đố cái đèn đại hải treo cửa Phật, cuối cùng xuất gia đi tu. Thám Xuân đố cái diều, số phận nàng là phải rời khỏi quê hương.
Lần thứ ba, ở lần các chị em chơi thả diều. Sự ám thị lần này được diễn tả rất thơ mộng. Những lần đọc trước tôi đều bỏ qua đoạn này, bây giờ mới thấy dụng ý của tác giả:
Thám Xuân đương định cắt dây cái diều phượng hoàng của mình, chợt nhìn thấy một cái diều phượng hoàng đang bay lên trời, liền nói:
– Không biết cái kia của ai?
Mọi người đều nói:
– Cô cứ cắt cái của cô đi, xem nó quấn lại với nhau thế nào?
Nói xong, thấy cái diều phượng hoàng này dần dần bay sát lại chập vào cái diều phượng hoàng kia. Mọi người đương định rút dây lại, thấy cái diều kia cũng rút dây. Hai cái đương quấn với nhau, lại thấy một cái diều thật to, có chữ “Hỷ” long lanh, có cả sáo vang lên như tiếng chuông trên lưng chừng trời, bay dần sát lại. Mọi người nói:
– Để cho cái này quấn vào, hãy hượm kéo về. Cả ba cái quấn vào nhau mới thích.
Quả nhiên cái diều chữ “Hỷ” quấn vào hai diều phượng hoàng. Ba cái cứ
đảo tít mù, đều đứt cả dây rồi vù vù bay đi cả. Mọi người đứng xem vỗ
tay cười:
– Thú thật! Không biết cái diều chữ “Hỷ” là của nhà ai, lại đâm ngay vào?
Đoạn văn ngắn nhưng ý nghĩa hàm súc thật tuyệt diệu. Cái diều phượng hoàng của Thám Xuân là sự kết hợp cả hai biểu tượng gắn với nàng: chim phượng và chiếc diều. Tác giả lại cho một chiếc diều lạ từ đâu bay tới, kèm thêm chữ “Hỷ,” ba diều cuốn vào nhau rồi bay đi biệt tăm, chính ngụ ý rằng Thám Xuân sẽ kết hôn với người phương xa, theo chồng đi mất. Đám cưới là đại hỷ, chim phượng (trống) và chim hoàng (mái) thì biểu tượng cho đôi lứa truyền thống, ví dụ như khúc Phượng Cầu Hoàng của Tư Mã Tương Như.
Ở hồi sáu mươi ba, Thám Xuân lại rút được thẻ hoa hạnh, “Ai rút được thẻ này, tất lấy được chồng sang.” Số phận của Thám Xuân vậy là chắc chắn. Ở cuối sách, nàng được gả vào một gia đình quan chức ở miền biển xa, được đối xử rất tử tế.
Bi kịch của Thám Xuân cũng nhè nhẹ thôi, chỉ là phải xa gia đình, không được cốt nhục sum vầy. Khúc “Hồng Lâu Mộng” tương ứng với nàng như sau:
PHÂN CỐT NHỤC (Cốt nhục phân ly)
Đường xa mưa gió một chèo,
Cửa nhà, ruột thịt thôi đều bỏ qua.
Con đành lỗi với mẹ cha,
Khóc thương chỉ thiệt thân già đấy thôi.
Cùng thông số đã định rồi,
Hợp tan âu cũng duyên trời chi đây,
Phân chia hai ngả từ nay,
Dám mong giữ được ngày ngày bình yên,
Con đi xin chớ lo phiền.
Tào Tuyết Cần viết 80 hồi đầu Hồng Lâu Mộng, 40 hồi sau ai chấp bút vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Do đó nhiều nhà Hồng học cho rằng kết thúc này quá tích cực theo kiểu “happy ending,” không hợp với mạch truyện. Nhưng dựa trên những “lá số tiền định” trên, kết cục của Thám Xuân có thể nói là rất chính xác và đúng với ý đồ của Tào Tuyết Cần.
Người đàn bà ghen Hạ Kim Quế
Ông Nhật Chiêu từng phát biểu: “Nghệ thuật của Hồng Lâu Mộng trác tuyệt ở chỗ nó tự nhiên như chính đời sống đến mức gần như “phi nghệ thuật.” Hầu như không có dấu vết của công phu và nhân tạo. Vậy mà hễ chạm vào nó là mê: Hồng mê.” Đã trót ghiền Hồng Lâu Mộng thì lâu lâu lại phải giở ra đỡ nhớ, mà không giở ra thì thôi, đã giở là cắm đầu đọc không nghỉ. Người trong giới yêu Hồng Lâu Mộng vì nó như kho tàng vô tận, mỗi lần đọc lại “cảm” hơn một ít. Trải nghiệm cuộc đời càng nhiều thì lại càng dễ khóc cười với tác phẩm. Trong bài này tôi muốn phân tích nhân vật phụ Hạ Kim Quế để tìm hiểu một hiện tượng quen thuộc: sự ghen tuông của phụ nữ.
Ai chưa từng trải qua ghen tuông? Kể cả không trực tiếp dính dáng chắc cũng đã lọt tai vài câu chuyện đánh ghen đầu làng cuối phố. Nhưng phải nói thật là chị em bây giờ còn sướng hơn phụ nữ ngày xưa nhiều. Chế độ phụ hệ ngày xưa cho phép đàn ông năm thê bảy thiếp, thấy bông hoa mới và đẹp thì vô tư mang về nhà cắm vào lọ. Văn hóa Trung Quốc lại giáo dục phụ nữ tốt “không ghen tuông,” càng khiến nhà trong lửa cháy bừng bừng. Hoàng đế của Lưu Tống là Minh Đế thậm chí còn ra lệnh cho Ngu Thông Chi viết cuốn Đố phụ ký (ghi chép về sự đố kị của phụ nữ) để “giáo huấn” phụ nữ.
Ở đời, hễ cảm xúc tự nhiên mà bị can thiệp, ức chế thì lại càng méo mó biến dạng. Thế nên phụ nữ Trung Quốc hồi xưa không ghen thì thôi, đã ghen thì thật là kinh khủng. Ngoài các thủ đoạn triệt hạ đối thủ, có người còn sẵn sàng quyết liệt lấy cái chết để phản đối. Tại sao người ta gọi đàn bà ghen là “hũ giấm,” “giấm chua,””uống giấm?” Tất cả bắt nguồn từ việc ông Nhiệm Khôi được vua Đường Thái Tôn thưởng cho hai cô hầu xinh, vợ tức quá không chịu. Vua gọi vào bảo nếu cứ khăng khăng cay cú thì uống rượu độc chết đi. Bà ta không ngần ngừ uống ngay. Hóa ra không phải rượu độc mà chỉ là giấm. Nhà vua sợ quá đành phải lấy lại hai nàng hầu. Quả thật đối với hạng người đến chết còn không sợ thì không thể lấy cái chết ra mà dọa được.
Cái ghen của đàn bà trong Hồng Lâu Mộng biểu hiện thế nào? Hầu hết những người vợ trong truyện đều tỏ ra an phận với chế độ một ông nhiều bà, thậm chí còn “dễ thương” đến mức nài nỉ đi hỏi vợ bé cho chồng như Hình phu nhân hỏi Uyên Ương cho Giả Xá!
Đối với những gia đình quý tộc, quan lại, chuyện đàn ông nạp thiếp là đương nhiên, không có mới kì quặc. Ngay Lâm Đại Ngọc cũng chỉ ghen tuông với Tiết Bảo Thoa, Sử Tương Vân vì họ là đối thủ tranh ngôi vị “vợ cả” của nàng, chứ với Tập Nhân – nàng hầu của Bảo Ngọc, nàng không ghen. Một khi đã sinh ra trong nền văn hóa trọng nam khinh nữ thì tư tưởng chồng chúa vợ tôi đã ngấm vào máu, lại thêm nhiều cặp vợ chồng kết hôn chỉ để củng cố địa vị và quan hệ giữa hai dòng họ chứ tình yêu nào có, nên điều này không đáng ngạc nhiên cho lắm.
Trong cả Hồng Lâu Mộng chỉ có hai bà ghen thật sự với các cô vợ bé, ghen đến mức phát tiết thành hành động trả thù: Hạ Kim Quế và Vương Hy Phượng. Tôi bàn về Hạ Kim Quế trước bởi ghen tuông chỉ là một khía cạnh trong tính cách của Phượng ớt. Ngoài ra, Phượng ớt còn nhiều tội “to” hơn, đáng bàn kĩ hơn ở bài sau. Hạ Kim Quế ngược lại là một bức tranh biếm họa điển hình, một nhân vật mà tính cách chủ đạo là ghen giống như nữ thần ghen tuông Invidia của La Mã vậy.
Trước tiên xin nói sơ qua về nhân vật Hạ Kim Quế. Cô nàng này là tiểu thư của nhà bán hoa quế họ Hạ, nhà giàu lại có nhan sắc nên “tôn mình như Bồ Tát, coi người khác như bùn”. Là vợ cả Tiết Bàn nhưng xem chừng lại ghê gớm, hung dữ hơn cả chồng, đối xử với người dưới thì độc ác, mẹ chồng thì hỗn láo. Vì tên của nàng ta có chữ “kim” và chữ “quế” nên hễ ai nhắc đụng tới là đánh tập tàn nhẫn. Xin thử phân tích mà coi, hoa quế có đặc điểm gì? Xinh xắn, thơm tho, và nở… vào mùa đông! Hoa quế mà nở mùa hè (hạ) thì nhất định là hoa quế rởm rồi, dù có dát vàng (kim) đi chăng nữa! Tào Tuyết Cần cũng mô tả Hạ Kim Quế “bề ngoài thì tươi đẹp như bông hoa, nhưng bên trong lại có tính nóng nảy như sấm sét”. Cái tính xấu và giả tạo của Hạ Kim Quế vậy là được hàm ý ngay từ cái tên. Lại để ý họ của Tiết Bàn mà xem: chữ tiết đồng âm với chữ tuyết. Tuyết mà gặp mùa hè thì chịu sao thấu! Bảo sao “Tiết Bàn cũng không biết làm thế nào nữa, chỉ hối hận mình chỉ vì một lúc không nghĩ kỹ, lấy phải con yêu tinh ấy.”
Hạ Kim Quế ghen với Hương Lăng, nàng hầu của Tiết Bàn. Hương Lăng địa vị, gia cảnh đều kém Hạ Kim Quế, ghen như thế là có lý không? Thú thực là có lý. Người Trung Quốc thường nói: thê không bằng thiếp, thiếp không bằng tỳ (nàng hầu,) nàng hầu không bằng kỹ nữ. Đã là thê thì phải đảm bảo bốn điều: vợ hiền, mẹ tốt, dâu thảo, nghiêm phụ. Lại phải khuyên răn chồng lập công danh, không được quyến rũ chồng để lơ là nghiệp lớn, chậm trễ báo hiếu cha mẹ. So với thê, vai trò của thiếp nhẹ hơn nhiều. Vì thế tình trạng các ông chồng sủng ái thiếp hơn thê là một “vấn nạn” có thật mà thê phải đương đầu. Sự đề phòng, dè chừng của Hạ Kim Quế với Hương Lăng còn lớn hơn bởi dĩ Hương Lăng đã làm nàng hầu cho Tiết Bàn, chăm sóc Tiết phu nhân từ rất lâu rồi. Đoạn sau cho thấy rõ sự thù ghét sủi tăm dưới bộ mặt tươi tỉnh của Hạ Kim Quế:
Một hôm, Kim Quế ngồi rỗi nói chuyện phiếm với Hương Lăng, hỏi đến cha mẹ quê quán, thì Hương Lăng đều nói đã quên mất cả. Kim Quế không bằng lòng, cho là có ý nói dối, rồi hỏi:
– Hai chữ “Hương Lăng” ai đặt cho đấy?
– Cô Bảo đặt cho đấy.
– Ai cũng nói cô Bảo thông, nhưng chị xem cái tên này thì thật là không thông.
– Mợ nói cô Bảo không thông, là vì mợ chưa bàn luận với cô ấy thôi. Cứ kể ra sức học của cô ấy thì ngay ông lớn bên phủ Giả cũng thường khen đấy.
Kim Quế nghe thấy nói thế, ngoảnh mặt đi, bĩu môi, khịt mũi, cười nhạt nói:
– Khi hoa ấu nở có mùi thơm đâu? Nếu bảo là hoa ấu thơm, thì các hoa thơm khác sẽ để nào chỗ nào? Thực là rất mực không thông.
Hương Lăng nói:
– Không những hoa ấu thơm, ngay đến lá sen, gương sen cũng đều có một mùi thơm mát. Nhưng mùi thơm ấy không thơm bằng mùi hoa, nếu khi thanh vắng, hoặc sáng sớm hay nửa đêm, ta chịu khó thưởng thức, thì cái mùi ấy cũng thơm mát như hoa. Ngay cả đến hoa ấu, hoa súng, lá lau, gốc sậy, nếu được hơi mưa móc vun tưới, thì cái mùi thơm mát ấy cũng làm cho người ta tỉnh táo nhẹ nhàng.
– Theo như cô nói, thì hoa quế, hoa lan thơm không ra gì à?
Hương Lăng đương lúc hăng, quên cả kiêng kỵ, thuận miệng nói luôn:
– Mùi thơm của hoa lan hoa quế thì hoa khác không thể bì được.
Nói chưa dứt câu thì a hoàn của Kim Quế tên là Bảo Thiềm trỏ ngay vào mặt Hương Lăng mắng:
– Cô đáng chết! Sao dám gọi tên mợ ra?
Hương Lăng chợt nghĩ ra, băn khoăn ngượng nghịu vội cười thưa:
– Tôi trót buột miệng, xin mợ đừng để ý.
Kim Quế cười nói:
– Làm gì có chuyện ấy. Cô thực cẩn thận quá. Nhưng tôi nghĩ chữ “Hương” vẫn không ổn, muốn đổi ra một chữ khác, không biết cô có bằng lòng hay không?
Hương Lăng cười nói:
– Sao mợ lại nói thế? Ngay thân tôi bây giờ cũng là thuộc về mợ rồi, đổi một chữ tên mà mợ lại hỏi tôi có bằng lòng hay không? Như thế tôi đâu dám nhận. Mợ xem chữ nào hay thì đặt tên cho tôi chữ ấy.
Kim Quế cười nhạt:
– Cô nói cũng đúng đấy, nhưng chỉ sợ chị Bảo để bụng thôi.
Hương Lăng cười thưa:
– Mợ chưa biết, lúc trước mua tôi về, cốt để hầu mẹ thôi, nên cô Bảo đặt cho tôi cái tên ấy. Về sau tôi sang hầu cậu và bây giờ có mợ về đây, lại càng không dính dáng gì đến cô ấy nữa. Vả chăng cô ấy là người hiểu đời thì việc ấy làm gì mà phải tức giận?
– Cô đã nói thế thì chữ “hương” không ổn bằng chữ “thu”. Vì mùa thu thì củ ấu, hoả ấu mọc nhiều, như thế chẳng có gốc tích hơn chữ “hương” hay sao?
– Thôi tôi xin nghe lời mợ.
Từ đấy Hương Lăng đổi tên là Thu Lăng. Bảo Thoa cũng chẳng để ý đến.
Khi đọc lướt có thể cho rằng, Hạ Kim Quế chẳng qua bắt nạt Bảo Thoa không được nên tìm cách xỏ xiên, phủ nhận cái tên Bảo Thoa đặt cho Hương Lăng mà thôi. Nhưng việc đổi tên đấy còn có hàm ý khác. Hoa lăng là củ ấu, nhưng chữ “lăng” còn có nghĩa lăng mộ, kết hợp với chữ “thu” lại càng mang ý nghĩa chết chóc, tiêu cực. Ý đồ nham hiểm của Hạ Kim Quế muốn ám hại Hương Lăng đã được tác giả báo trước từ câu chuyện đổi tên tưởng chừng vô thưởng vô phạt này.
Kế đó, Hạ Kim Quế bắt đầu kế hoạch cô lập Hương Lăng và Tiết Bàn, cắn răng dùng Bảo Thiềm làm mồi, bụng bảo dạ sẽ “xử lí” Bảo Thiềm sau. Hạ Kim Quế lại tự làm hình nhân thế mạng, gài tội cho Hương Lăng, quậy tung cả nhà Tiết phu nhân. Đỉnh điểm của quá trình tranh đấu mang hơi hướng… Byzantine này là lúc Hạ Kim Quế định quyến rũ cậu em chồng Tiết Khoa, bị Hương Lăng vô tình phá bĩnh. Từ đấy, Hạ Kim Quế quyết chí diệt trừ Hương Lăng bằng được.
Sự ghen tuông của Hạ Kim Quế không chỉ tác động đến Hương Lăng, Tiết Bàn, Bảo Thiềm, Bảo Thoa, Tiết phu nhân, mà còn gây ấn tượng mạnh mẽ cả với người ngoài cuộc: Bảo Ngọc. Trong Đại quan viên, hay thế giới lý tưởng của Bảo Ngọc, các chị em đều phong nhã, thướt tha, đối đãi với nhau tử tế. Theo cái lý của Bảo Ngọc, Hạ Kim Quế xinh xắn như đóa hoa, ắt không thể cư xử như ác quỷ. Đứng trước một sự việc mà cậu ta không có khả năng lý giải (Hạ Kim Quế là bông hoa rởm,) Bảo Ngọc rơi vào trạng thái buồn bực. Cậu bèn tìm sự cố vấn của Vương Nhất Niêm, một lương y – lang băm khéo mồm:
Vương Nhất Niêm sợ quá không chờ Bảo Ngọc hỏi lại, liền nói:
– Xin cậu cứ kể rõ bệnh ra.
Bảo Ngọc nói:
– Tôi hỏi thấy có thứ cao nào dán khỏi được bệnh ghen của đàn bà không?
Vương Nhất Niêm vỗ tay cười nói:
– Việc ấy thì chịu thôi, không những không có bài thuốc, mà tôi cũng không nghe ai nói đến bao giờ.
– Như thế thì thuốc cao ấy cũng chả ra cái gì.
– Không có thuốc cao chữa bệnh ghen, chỉ có thứ thuốc uống may ra chữa được. Nhưng phải dần dần chứ không thể khỏi ngay được.
– Thuốc gì? Cách uống thế nào?
Thuốc ấy gọi là thuốc “chữa ghen”: lấy một quả lê mùa thu hạng tốt, hai đồng cân đường, một đồng cân trần bì, ba bát nước, sắc đến khi lê chín thì được. Sáng nào cũng ăn một quả và cứ ăn đi ăn lại mãi thì khỏi.
– Như thế chả đáng bao nhiêu, chỉ sợ không chắc đã có công hiệu.
– Một thang không khỏi thì uống mười thang, hôm nay không khỏi thì ngày mai uống tiếp, năm nay không khỏi thì sang năm. Vì ba vị thuốc này đều nhuận phế khai vị, không hại đến người. Vừa ngọt lừ, khỏi ho, lại dễ uống. Uống đến khi một trăm tuổi, thế nào người cũng phải chết, chết rồi thì còn ghen vào đâu nữa? Bấy giờ là kiến hiệu đấy.
Bảo Ngọc và Dính Yên đều cười và mắng:
– Thật là đồ đầu trâu bẻm mép.
Lê mùa thu đã ngọt, sên nước đường lại càng ngọt, dùng cái ngọt để áp chế giấm chua, thật là logic làm sao. Nhưng phải chờ chết đi mới có công hiệu, tóm lại vòng vèo chỉ để nói rằng ghen là căn bệnh mãn tính không có thuốc chữa! Bài thuốc chữa ghen – “liệu đố thang” đó tưởng chỉ là một câu chuyện cười mua vui, nhưng thực tế diễn biến những hồi sau đã xảy ra đúng y như vậy. Bệnh ghen của Hạ Kim Quế chấm dứt khi Hạ Kim Quế tìm cách đầu độc Hương Lăng, cuối cùng lại giết chính mình. Khi Hạ Kim Quế chết, “lỗ mũi con mắt đều chảy máu, đang vật vã giữa đất, hai tay cào bụng, hai chân giãy đành đạch” khiến Tiết phu nhân chết khiếp. Điều tra ra, Hạ Kim Quế nấu bát canh đổ thạch tín, định để Hương Lăng ăn, nhưng Bảo Thiềm đã vô tình đánh tráo lại, khiến Hạ Kim Quế trở thành tự mình hại lấy mình. Người viết khéo để cho chính Hạ Kim Quế và Bảo Thiềm – một nạn nhân kiêm đồng phạm trong “tội ghen” của Hạ Kim Quế – chịu trách nhiệm hoàn toàn trong vụ ám sát ngược này. Nào phải thạch tín hại chết cô ta mà chính là căn bệnh ghen tuông mới là thủ phạm vậy. Vì ghen tuông mà chết, chết là hết ghen, thật gọn ghẽ.
Phân tích kĩ hơn, có thể thấy cách mô tả có phần nghiệt ngã, khắt khe của người viết với Hạ Kim Quế đã phản ánh phần nào tư tưởng của thời đại. Việc nạp thiếp được lễ giáo phong kiến cho phép, nên thê thường rút về “tuyến hai,” tìm cách áp bức, hành hạ, thậm chí mưu sát thiếp như Hạ Kim Quế. Hành động ghen tuông này đương nhiên bị giới đàn ông phản đối cật lực, thậm chí người đàn ông thương hoa tiếc ngọc nhất trong Hồng Lâu Mộng là Giả Bảo Ngọc cũng không thông cảm nổi. Vì thế việc Hạ Kim Quế bị đem ra làm cái bung xung xấu xí, làm “câu chuyện cảnh giác” để khuyên phụ nữ không ghen tuông âu cũng phù hợp với mạch tư tưởng của Hồng Lâu Mộng. Ghen chưa chắc đã là tình, nhưng ghen chắc chắn là một sản phẩm phụ của tình, do vậy tội ghen bị trừng phạt, suy đi tính lại, cũng là bởi tình mà ra. Hạ Kim Quế vì thế cũng có thể liệt vào những nạn nhân chết vì tình trong Hồng Lâu Mộng. Tuy vậy, tội ghen khiến Hạ Kim Quế phải đứng “đội sổ” trong Kim Lăng thập nhị thoa phó sách, xếp sau hai chị em nhà họ Vưu, Uyên Ương, Bình Nhi, Trí Năng, và kẻ thù số một – Hương Lăng.
Tiết Bảo Thoa: Từ món thuốc giá băng đến mối lương duyên lạnh lẽo
Trong Chi Nghiễn Trai trùng bình Thạch Đầu Ký (câu chuyện hòn đá – tên khác của Hồng Lâu Mộng), Lâm Đại Ngọc được tặng hai chữ tình tình,
nhưng về tình của Tiết Bảo Thoa thì… chẳng có chữ nào. Những ý kiến cho
rằng nhân vật này vô tình hoặc lãnh tình là có cơ sở xác đáng từ văn
bản tiểu thuyết. Diệu Ngọc tuy xuất gia làm ni cô nhưng ngoài lạnh trong
ấm, còn cái lạnh của Bảo Thoa là một cái nghiệp, vừa là lỗi của số phận
vừa do Bảo Thoa tự mình gây ra. Lớp vỏ băng giá khiến cho Bảo Thoa vĩnh
viễn không thể chạm đến trái tim ấm nóng của Bảo Ngọc và nàng cũng tự
héo mòn trong hố băng đó.
Ở hồi thứ tư, lần đầu người đọc được tiếp xúc với nhà họ Tiết – một trong bốn họ giàu nhất Kim Lăng nhờ đảm nhận việc mua hàng trong cung. Câu tục ngữ truyền miệng về nhà này như thế nào?
Được mùa tuyết lã chã rơi, ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi. (Con cháu Tử vi xá nhân Tiết công, hiện lĩnh tiền khi đi mua hàng, có tám chi).
Chữ Tiết trong họ của Bảo Thoa rất gần
với chữ “tuyết,” đó chính là hàm ý về “được mùa tuyết rơi” trong câu
trên. Hai vế “ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi” vừa nhấn mạnh gia
sản giàu cỡ… Thạch Sùng của nhà họ Tiết, vừa là ẩn ý kín đáo về số phận
của hai nhân vật Bảo Ngọc (ngọc châu) và Bảo Thoa (vàng). Khi giấc mộng
lầu hồng kết thúc thì công tử cũng hóa thành bùn đất, tiểu thư thì giống
như sắt vụn mà thôi.
Giải mã những lá số tiền định của mười hai thoa trong Hồng Lâu Mộng là một việc làm khó khăn. Đối với những người đọc không có vốn tiếng Trung dày dặn cộng thêm kiến thức về nền văn hóa Trung Quốc thì hiểu một cách hoàn toàn những biện pháp nghệ thuật trong truyện (ẩn dụ, điển cố, song quan, chiết tự) là gần như không thể. Bài viết này do đó chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót. Trong số mười hai lá số thì lá số Bảo Thoa – Đại Ngọc đứng đầu bảng. Lá số tiền định của Bảo Thoa gắn liền với Đại Ngọc, bởi lẽ hai nhân vật này như âm và dương, như mặt trăng và mặt trời soi rọi vào nhau làm nổi bật lên những góc cạnh của họ. Bởi thế trong số mười công án lớn của Hồng học, công án đầu tiên là “Đại Ngọc Bảo Thoa ai hơn ai kém?” Những cuộc tranh cãi liên miên trong giới học giả và giữa người đọc về vấn đề này đến giờ vẫn chưa dứt và đây có lẽ cũng là ý đồ của tác giả. Lá số tiền định như sau:
Bảo Ngọc xem xong cũng không hiểu. Lại lấy một quyển ở trong tủ “chính sách” ra xem, thấy trang đầu vẽ hai cây khô, trên cây treo một cái đai ngọc; dưới đất có một đống tuyết, trong tuyết có cái trâm vàng. Có bốn câu thơ:
Than ôi có đức dừng thoi,
Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai treo đai ngọc giữa rừng
Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?
“Đức dừng thoi” ở đây ám chỉ Bảo Thoa, dựa theo điển cố về người vợ nết na của Dương Tử: thấy chồng bỏ học quay về, nàng cắt tấm vải đang dệt để khuyên chồng đừng bỏ lỡ con đường công danh sự nghiệp. Xuyên suốt cả câu chuyện, Bảo Thoa luôn khuyên nhủ Bảo Ngọc học hành đỗ đạt khiến cậu ta chán ngán – biểu hiệu cơ bản về sự cập kênh tâm hồn giữa hai người. Hai chữ “trâm vàng” (kim trâm) là ám chỉ tên của Bảo Thoa vì nghĩa trâm–thoa gần nhau, cũng như “đai ngọc giữa rừng” (ngọc đái lâm nói lái là tên của Lâm Đại Ngọc). Bởi thế chiếc trâm vàng vùi trong tuyết (tiết) chính là hình ảnh ẩn dụ về Bảo Thoa vậy.
Nói đến đây phải dừng lại một chút để
bàn về tên của những cô gái vây quanh Bảo Ngọc. Trong số các chị em tiểu
thư trong vườn Đại Quan thì cậu ta thân thiết nhất Sử Tương Vân và Đại
Ngọc. Tên của Sử Tương Vân có chữ “sở,” tên của Đại Ngọc lại được Bảo
Ngọc đặt là Tần Tần, ghép lại thành ra “mưa Sở mây Tần” chỉ chuyện ái ân
của trai gái. Không chỉ có “mây mưa,” Bảo Ngọc còn ôm cả trăng hoa nữa
(Xạ Nguyệt, Hoa Tập Nhân). Nhưng kết cục của cậu ta lại phải gắn với
nàng tuyết lạnh lẽo – Bảo Thoa. Tất cả là vì mối nhân duyên vàng ngọc
được định sẵn khiến cho truyện Hồng Lâu Mộng còn có tên khác là Kim Ngọc lương duyên.
Bảo Ngọc lúc đẻ ra ngậm viên Thông linh bảo ngọc trong miệng, chính là do hòn đá hóa thành. Trên mặt viên ngọc có viết dòng chữ “Mạc thất mạc vương, tiên thọ hằng xương”, làm thành một cặp với dòng chữ khắc trên cái khóa vàng của Bảo Thoa “Bất ly bất khí, phương linh vĩnh kế.” Nhà sư chốc đầu cho Bảo Thoa chiếc khóa chính là Diễu Diễu chân nhân, người hóa phép cho hòn đá hóa thành hòn ngọc. Từ chi tiết trên có thể kết luận Bảo Ngọc – Bảo Thoa chỉ là hai con tốt trong trò chơi nhân duyên mà thôi.
Nói họ là con tốt tình ái không phải để ám chỉ những mưu kế của Vương Hy Phượng, Giả Mẫu, bởi lẽ những người đàn bà tưởng chừng ghê gớm ấy chẳng qua cũng con rối của thời thế, không hơn. Bàn tay của số phận mạnh hơn mưu kế của con người, đủ khiến cho “những con tốt của nhân duyên” tự mua dây buộc mình mà không biết. Xin hãy dành thời gian đọc hai hồi thứ 29 và 35.
Hồi 29: Bảo Ngọc và Đại Ngọc giận dỗi nhau vì chuyện duyên “vàng ngọc”. Đại Ngọc nóng lên cầm kéo cắt vụn cái dây đeo ngọc nàng làm cho Bảo Ngọc.
Đại Ngọc nghe nói, không nghĩ gì đến mình đương ốm, chạy ngay lại cướp lấy cái dây, tiện tay cầm kéo cắt nát ra. Tập Nhân và Tử Quyên muốn giật lại, nhưng đã đứt làm mấy đoạn rồi.
Đại Ngọc khóc:
– Ta thực uổng công, anh ấy không cần đâu, đã có người khác đeo cho cái dây đẹp hơn kia.
Tập Nhân vội cầm lấy viên ngọc nói:
– Làm gì như thế? Đây cũng là lỗi tự tôi hay bép xép.
Bảo Ngọc bảo Đại Ngọc:
– Cô cứ việc cắt đi, tôi không đeo ngọc cũng chẳng sao.
Viên ngọc là bản mệnh của Bảo Ngọc, sợi dây Đại Ngọc làm là mối tình vấn vít buộc lấy cậu ta. Câu nói tưởng như trẻ con của Bảo Ngọc có hàm ý sâu xa: nếu mối dây liên kết của hai người bị hủy hoại thì Bảo Ngọc cũng không cần gì đến tấm thân mình nữa.
Tua nhanh đến hồi thứ 35 – “Ngọc Xuyến được nếm canh lá sen, Oanh Nhi khéo tết dây hoa mai”:
Bảo Thoa vừa hỏi vừa nhìn vào tay Oanh Nhi, thấy Oanh Nhi mới tết được một nửa cái dây, Bảo Thoa cười nói:
– Tết cái này để làm trò gì? Hãy tết cái dây đeo viên ngọc đã
Câu nói ấy làm Bảo Ngọc nhớ ra, vỗ tay cười nói:
– Chị Bảo nói phải đấy, tôi quên đi mất. Nhưng tết màu gì cho đẹp được?
Bảo Thoa nói:
– Các màu thường nhất định không thể dùng được. Màu đỏ lại lẫn màu. Màu vàng thì không nổi, màu đen thì tối quá. Cứ ý tôi, nên lấy chỉ kim tuyến xe lẫn với chỉ đen bóng, sợi nọ xe lẫn sợi kia, tết như thế mới đẹp.
Bảo Ngọc nghe nói mừng lắm, gọi dồn Tập Nhân mang ngay chỉ kim tuyến ra.
Ở hồi này, Bảo Thoa đề nghị dùng sợi kim tuyến để tết dây đeo ngọc cho Bảo Ngọc, tưởng vô tình nhưng hỡi ôi lại chính là sợi dây tơ hồng! Dây kim tuyến chính là dây vàng – nàng đã dùng sợi vàng bản mệnh của mình để trói lấy viên ngọc, cũng từ đó gắn số phận hai người làm một. Kết cục câu chuyện đã diễn ra đúng như vậy: Đại Ngọc chết, sợi dây giữa nàng và người yêu đứt đoạn. Bảo Thoa trói buộc được Bảo Ngọc nhưng bản thân cậu ta lại không cần gì đến bản thân nữa, dứt áo ra đi. Ở hồi sau, khi Bảo Thoa cắm cúi tết sợi dây vàng cho chồng tương lai, nàng liền nghe thấy Bảo Ngọc nói mê:
Bảo Thoa ở trong nhà mới tết được vài ba cái hoa, thấy Bảo Ngọc nằm mê thét lên: “Lời nói hòa thượng và đạo sĩ tin thế nào được? Cái gì là nhân duyên vàng ngọc! Tôi chỉ biết duyên cây và đá thôi!
Đáng tiếc thay, ý muốn của con người không lại được với ý trời, vì đó mà khúc hát của Bảo Thoa có tên Chung thân ngộ (lỡ nhau suốt đời):
Ai rằng vàng ngọc duyên ưa,
Ta quên cây, đá, thề xưa được nào.
Trơ trơ người tuyết trên cao,
Ngoài đời, đường vắng khuây sao được nàng.
Cuộc đời ngán nỗi tang thương,
Đẹp không toàn đẹp, lời càng đúng thay.
Dù cho án đặt ngang mày,
Cuối cùng vẫn thấy lòng này băn khoăn.
Điển tích “án đặt ngang mày” (cử án tề
mi) nói về cặp vợ chồng chuẩn mực Mạnh Quang–Lương Hồng kính nhau như
khách. Quả thực mối quan hệ vợ chồng của Bảo Ngọc và Bảo Thoa nhìn bên
ngoài long lanh nhưng chỉ được cái vỏ, còn bên trong họ vẫn đối đãi với
nhau như… khách, không hơn. Vàng kết hợp với ngọc nhìn bên ngoài đẹp
nhưng thực ra lại vô cùng lạnh lẽo. Ẩn dụ về cái lạnh (lãnh) của Bảo
Thoa được tác giả “cài cắm” trong Hồng Lâu Mộng ngay từ khi nàng xuất hiện.
Ở đầu truyện, Bảo Thoa bị một chứng bệnh
lạ “nhiệt độc từ trong thai,” do đó được hòa thượng chỉ cho thứ thuốc
uống đặc biệt “Lãnh hương hoàn” (thuốc hoàn có mùi hương lạnh).
Vị thuốc này ly kỳ ra sao?
– Đừng hỏi phương thuốc ấy còn hơn, nếu hỏi, có khi làm người ta bực đến chết được. Các vị thuốc phải có đồng cân đồng lạng nhất định, khó nhất là được hai chữ “Vừa khéo”. Phải có mười hai lạng nhụy hoa mẫu đơn trắng nở vào mùa xuân, mười hai lạng nhụy hoa sen trắng nở vào mùa hạ, mười hai lạng nhụy hoa phù dung trắng nở vào mùa thu, mười hai lạng nhụy hoa mai trắng nở vào mùa đông. Đem bốn thứ này phơi vào ngày xuân phân năm sau, rồi tán kỹ với thuốc bột; lại phải có mười hai đồng cân nước hứng giữa trời đúng vào ngày vũ thủy.
– Ối chao! Mất ba năm mới thành thang thuốc! Nếu ngày vũ thủy không mưa thì làm thế nào?
– Nếu không gặp được nước mưa vừa khéo thì đành lại chờ vậy. Còn phải mười hai đồng cân nước móc vào ngày bạch lộ, mười hai đồng cân nước sương vào ngày sương giáng, mười hai đồng cân tuyết vào ngày tiểu tuyết. Đem bốn thứ này hòa với thuốc, thêm mười hai đồng cân mật ong, mười hai đồng cân đường trắng, viên to bằng quả nhãn, để vào trong cái hũ sứ cổ, chôn ở gốc cây hoa, khi nào ốm thì lấy một viên ra uống, sắc một đồng hai phân hoàng bá làm thang.
Vị thuốc của Bảo Thoa toàn sử dụng các thứ hoa màu trắng biểu tượng cho sự thanh khiết, cộng thêm các loại nước sương, nước tuyết khéo hòa trộn mà thành. Như các món ăn khác trong Hồng Lâu Mộng, món thuốc này không thể nhìn dưới lăng kính hiện thực. Cách bào chế mang đậm màu sắc thần thoại ấy nhấn mạnh vào tính chất băng thanh ngọc khiết, cao quý không với tới được của Bảo Thoa, đồng thời diễn tả sự lãnh đạm của nàng. Dùng cái lạnh để tiễu trừ nhiệt độc chính là ẩn dụ cho sự tự giới hạn của Bảo Thoa. Nhiệt độc từ trong thai chính là cái tình nồng nhiệt của nhân gian, là lý do khiến con tim trai gái rung động vì tình yêu, là nghiệp chướng khiến Tần Khả Khanh, Lâm Đại Ngọc, Hạ Kim Quế phải chết. Bảo Thoa dùng cái lạnh để áp chế cái tình khiến cho nàng trở thành nhân vật vô tình, vì thế thoát khỏi phải chết vì tình ái. Tuy nhiên số phận của Bảo Thoa có thể nói là tệ hơn cái chết: nàng sống cuộc đời của một quả phụ dù chồng vẫn sống sờ sờ, trong một thứ “lãnh cung” do chính nàng và thế lực phong kiến nàng ủng hộ nhiệt tình tạo nên. Lần đầu Bảo Ngọc gặp Bảo Thoa, cậu có bị quyến rũ bởi thứ “hương lạnh” của nàng, cũng nhiều lúc Bảo Ngọc gần cô chị mà quên khuấy mất cô em, nhưng rốt cuộc trái tim cậu vẫn quay lại với “ngọc ấm” Lâm Đại Ngọc.
Thử xem chính các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng nhận xét về Bảo Thoa thế nào. Phượng Thư đánh giá Bảo Thoa là người “giữ gìn ý tứ, không phải việc của mình không bao giờ chịu hé răng, hỏi điều gì cứ nguây nguẩy lắc đầu.” Giới hầu cận thì bỗ bã hơn. Sau đây là đoạn thằng Hưng “buôn dưa lê” với mẹ con Vưu nhị thư về sự lạnh lùng của Bảo Thoa.
(…) một cô là con gái bà dì chúng cháu, họ Tiết, tên gọi Bảo Thoa, chừng như ở trong đống tuyết chui lên vậy. Khi gặp các cô ấy đi ra cửa, hoặc lên xe hay chơi trong vườn, chúng cháu sợ quá không dám thở.
Chị Hai cười nói:
– Nhà mày phép tắc lắm, khi trẻ con đi ra ngoài gặp các cô đều phải tránh xa, còn dám thở vào đâu nữa!
Thằng Hưng xua tay nói:
– Không phải thế! Không phải thế! Chính là giữ lễ phải tránh xa, điều đó không cần nói. Mặc dầu đã tránh xa, nhưng ai nấy vẫn phải nín thở vì sợ thở mạnh quá sẽ thổi ngã mất cô Lâm, thở nóng quá sẽ làm tan cô Tiết.
Bất chấp điều đó, Tiết Bảo Thoa vẫn là một nhân vật hết sức phức tạp. Sự lạnh lùng kể trên tuy là tính cách điển hình của Bảo Thoa song không phải là tất cả.
Đại Ngọc-Tình Văn: tuy hai mà một
Trong giới Hồng học, ít ai còn xa lạ với việc Tào Tuyết Cần cố ý xếp đặt cho Tình Văn trở thành phiên bản song sinh của Đại Ngọc. Tuy nhiên nếu độc giả không chú ý thật kỹ thì dễ dàng để những chi tiết lắt léo mà tác giả dày công “cài cắm” trượt khỏi ý thức của mình. Sau khi dành cả đời tận tâm nghiên cứu Hồng học, ông Chu Nhữ Xương cũng phải thốt lên “Hồng Lâu Mộng thật không dễ đọc và càng khó để hiểu.” Điều này khẳng định một lần nữa tài năng trác tuyệt của Tào Tuyết Cần trong việc kiến tạo một tác phẩm đồ sộ nhưng rất tự nhiên, “không có dấu vết của công phu và nhân tạo” như ông Nhật Chiêu đã nhận xét.
Mặt khác, đối với độc giả mê Hồng Lâu Mộng,
tự mình nhặt nhạnh những đầu mối để giải những bài tập Hồng học là một
thử thách thú vị. Thí dụ có người đã ví Tình Văn như “cái bóng” của Lâm
Đại Ngọc vậy. Trong bài này, người viết xin mạn phép hệ thống lại những
điểm tương đồng giữa hai nhân vật Đại Ngọc-Tình Văn nhằm làm sáng tỏ
những thông điệp về “duyên” và “nghiệp” của Hồng Lâu Mộng.
Nếu Tình Văn là cái bóng trong gương của
Đại Ngọc thì Tập Nhân là hình ảnh phản chiếu của Bảo Thoa. Khi xét về
mối tương quan giữa Đại Ngọc-Tình Văn, ta luôn cần so sánh nó với cặp
bài trùng Bảo Thoa-Tập Nhân. Trước hết, về hoàn cảnh xuất thân, Bảo Thoa
và Tập Nhân đều mồ côi cha nhưng vẫn còn mẹ và anh trai thương yêu.
Tình Văn và Đại Ngọc đều mồ côi cha mẹ, bơ vơ không nơi nương tựa. Đây
là điểm khiến họ trở nên vô cùng đáng thương trong con mắt người đọc.
Tuy trẻ tuổi, Đại Ngọc và Tình Văn đều không ảo tưởng về địa vị của họ
trong phủ Giả. Hai cô gái mồ côi gửi gắm thân mình vào nhà họ Giả, tuy
được chiều chuộng từ tấm bé, nhưng họ đều ý thức rõ rằng sự thân thiện
của nhà họ Giả cũng chỉ là “giả” mà thôi, có thể tan biến bất cứ lúc nào
như làn khói mỏng. Quả nhiên khi câu chuyện đến hồi kết, Đại Ngọc và
Tình Văn đều bị chính những kẻ cưu mang họ hắt hủi, đúng với nhận xét
của Bảo Ngọc là như “cây hoa lan bị vứt vào chuồng lợn.” Tình Văn bị
giới quý tộc mà nàng nai lưng hầu hạ rũ bỏ như một miếng giẻ rách, còn
Đại Ngọc bị Giả Mẫu mà nàng yêu thương ruồng bỏ. Đó là bi kịch thứ nhất
của Đại Ngọc và Tình Văn. Ngược lại, Tập Nhân và Bảo Thoa được nhà họ
Giả đối xử tử tế cho đến cùng.
Điểm tương đồng thứ hai được nhắc đi nhắc lại trong Hồng Lâu Mộng là sự giống nhau về hình dáng của Đại Ngọc-Tình Văn. Vương phu nhân nhận xét Tình Văn là “lưng hơi cong, vai hơi thon, lông mày và mắt lại hơi giống em Lâm.” Trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách, Lâm Đại Ngọc đứng đầu, nàng là tiểu thư đẹp và tài năng nhất trong Giả phủ. Trong Kim Lăng thập nhị thoa hựu phó sách, Tình Văn cũng là số một, nàng là người hầu có nhan sắc diễm lệ nhất, khí chất cao đẹp và trong sáng nhất. Tào Tuyết Cần nhắc đi nhắc lại rằng Tình Văn có hình dáng giống Lâm Đại Ngọc, và cùng gắn vẻ đẹp của họ với mỹ nhân số một Trung Hoa: Tây Thi. Một số dẫn chứng:
– Khi Lâm Đại Ngọc lần đầu xuất hiện đã gây ấn tượng bởi vẻ đẹp mong manh, yếu đuối của nàng. Tào Tuyết Cần gọi đó là nét mềm mại “Vẻ thư nhàn, hoa rọi mặt hồ; dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió. Tim đọ Tỉ Can hơn một trăm khiếu, bệnh so Tây Tử trội vài phân.”
– Lâm Đại Ngọc chôn hoa là một trong những hình ảnh lãng mạn nhất trong Hồng Lâu Mộng. Khi Bảo Ngọc ngó thấy Linh Quan vạch vẽ chữ “Tường” trên mặt đất liền đoán rằng con bé học theo Đại Ngọc chôn hoa, và gọi đó là trò Đông Thi vờ nhăn mặt, không có gì hay mà còn đáng chán. (Tây Thi đời Chiến quốc nhan sắc tuyệt vời, khi nhăn mặt lại càng đẹp. Ở phía đông trong làng có một người con gái rất xấu, thấy thế cũng bắt chước. Nhưng khi cô ta nhăn mặt, người giàu trông thấy phải đóng cửa, không dám nhìn, người nghèo trông thấy phải đem cả vợ con trốn đi nơi khác.)
– Đến bọn con hầu, người ở trong nhà cũng lén gọi Lâm Đại Ngọc là “nàng Tây Thi đa bệnh,” vừa vì nàng có nhan sắc hơn người, vừa vì Đại Ngọc ốm đau luôn.
Giống như Đại Ngọc, Tình Văn có nhan sắc đặc biệt trội hơn hẳn các nô tỳ khác trong phủ, khiến nàng bị ghen ghét không ít. Tình Văn cũng thường được/bị ví với Tây Thi:
– Vợ Vương Thiện Bảo khi ton hót với Vương phu nhân có nói rằng Tình Văn “Nó cậy sắc đẹp hơn người, miệng lại khéo léo, ngày nào cũng trang điểm như nàng Tây Thi.” Lời dèm pha này đã bắt đầu quá trình Tình Văn bị ngược đãi.
– Khi Vương phu nhân tới tra hỏi Tình Văn, con mắt giận dữ của bà thấy nàng “đầu tóc bơ phờ, áo quần lõng thõng, có vẻ lẳng lơ như Tây Thi đêm xuân nằm ôm bụng.” Vốn là người mừng giận bất thường, bà ta liền mắng chửi Tình Văn: “Đẹp thật! Thật là giống hệt ‘Tây Thi đương ốm!’ Ngày nào mày cũng giở cái lối trai lơ ấy ra để cho ai xem đấy? Mày cứ tưởng là ta không biết việc mày làm à?”
Trong toàn bộ Hồng Lâu Mộng, ngoài Đại Ngọc và Tình Văn ra, không còn ai được ví với nàng Tây Thi nữa. Nhưng cũng đúng với câu hồng nhan bạc mệnh, số phận của cả hai cũng thật đau xót, đúng như bài vịnh Tây Thi mà Đại Ngọc đã viết trong chùm thơ Ngũ mỹ:
Trôi theo hoa sóng ngán cho đời,
Luống để vua Ngô nhớ thiếp hoài.
Đừng bảo Đông Thi nhăn mặt vụng,
Bạc đầu mà vẫn giặt bên khơi.
Điểm tương đồng thứ ba giữa Đại Ngọc-Tình Văn là tính cách của họ. Nhạy cảm, thông minh vốn sẵn tính trời, cả hai cô gái đều dễ xúc động, hay buông lời trách móc, đùa cợt, trêu chọc người khác. Đúng như lời sấm báo, Tình Văn “tinh khôn, đài các tổ người ghen.” Đại Ngọc thì thường “tinh ranh, nói câu bỡn cợt.” Sở dĩ tính cách Đại Ngọc-Tình Văn như vậy một phần do hoàn cảnh côi cút của họ, một phần do họ đều có lòng yêu Bảo Ngọc, từ yêu đâm ra ghen, càng ghen lại càng mẫn cảm với những bóng hồng xung quanh anh ta. Đối tượng gây hiềm khích của Đại Ngọc-Tình Văn cũng tương ứng với thứ bậc của họ. Đại Ngọc ghen với Bảo Thoa và Tương Văn; chiếc khóa vàng, con kỳ lân vàng, và điềm báo “kim ngọc lương duyên” khiến nàng bứt rứt không thôi.
Tình Văn, với vai trò người hầu cận bên Bảo Ngọc, thường hay soi xét Tập Nhân và Xạ Nguyệt – hai a hoàn thân thiết khác. Với Xạ Nguyệt, nàng chỉ thường trêu chọc, nhưng biết rõ quan hệ “trên mức bình thường” của Bảo Ngọc và Tập Nhân, nàng rất dễ nổi cáu:
Tình Văn nghe thấy hai tiếng “Chúng tôi”, cho ngay là Tập Nhân muốn nói cô ta với Bảo Ngọc, trong bụng đâm ra ghen, liền cười nhạt mấy tiếng:
– Tôi chả biết ai là “Chúng tôi” cả, đừng để tôi phải hổ thẹn thay cho ai! Các người làm những việc thầm kín với nhau, giấu thế nào được tôi! Tôi cứ nói thẳng: ngay các cô nhà này cũng còn chưa với lên được, huống chi chị cũng như tôi, thế mà lại dám gọi “Chúng tôi” à?
Điểm tương đồng thứ tư giữa Đại Ngọc và Tình Văn là biểu tượng hoa phù dung. Những người đẹp trong Hồng Lâu Mộng thường được ví với hoa. Bảo Thoa là hoa mẫu đơn rực rỡ, đài các, đầy đặn, Thám Xuân là hoa hồng đẹp thơm nhưng lắm gai làm đau người khác, Kim Quế là hoa quế sắc sảo tàn nhẫn, Tương Vân là thược dược phóng khoáng, Hương Lăng là củ ấu bình dị, v.v,… Đại Ngọc và Tình Văn đều ứng với hoa phù dung. Phù dung là loài hoa đẹp kiều mị nhưng mong manh, sớm nở tối tàn. Người sao hoa vậy, cả hai cô gái đều lìa đời khi đang ở tuổi hoa đẹp nhất. Những dẫn chứng về Đại Ngọc-Tình Văn và hoa phù dung bao gồm:
– Khi uống rượu rút thẻ hoa với các chị em, Đại Ngọc rút được thẻ hoa phù dung.
Rồi rút được một thẻ vẽ một cành hoa phù dung, có đề bốn chữ “sương gió buồn tênh”. Mặt sau có một câu thơ cổ: “Thương mình nào dám giận gì gió đông”. (…) Mọi người cười nói:
– Hay quá! Trừ cô ấy ra, không còn có ai đáng làm hoa phù dung nữa.
– Khi Bảo Ngọc lên thăm Thái hư ảo cảnh lần thứ hai, nữ thần cai quản hoa phù dung chính là Tiêu Tương phi tử – cùng tên với Đại Ngọc khi còn sống. Đây chính là hậu kiếp của Đại Ngọc.
– Khi Tình Văn qua đời, Bảo Ngọc liền
làm Văn tế nữ thần hoa phù dung để tiễn linh hồn nàng. Về sau câu chuyện
lưu truyền trong Đại Quan viên theo lời Giả Dung rằng Tình Văn đã hóa
thành nữ thần coi hoa phù dung.
Cuối cùng, điểm tương đồng giữa Đại Ngọc-Tình Văn là mối quan hệ của họ với Bảo Ngọc. Không phải ngẫu nhiên mà Tào Tuyết Cần để Tình Văn làm “cánh chim xanh” đưa thư giữa Đại Ngọc-Bảo Ngọc. Bức thư tình đầu tiên Bảo Ngọc gửi cho cô Lâm không có thơ, không có họa, mà chỉ là hai chiếc khăn lụa cũ trơn. Tình Văn nửa tin nửa ngờ nhưng vẫn vâng lời đem tín vật này đến cho Đại Ngọc, đó là thời điểm bước ngoặt của câu chuyện chính thức đánh dấu Bảo Ngọc-Đại Ngọc sa chân vào đường tình ái.
Tập Nhân và Bảo Thoa cũng gần gũi Bảo Ngọc vậy, song vì sao họ không bao giờ chạm được vào trái tim Bảo Ngọc? Đó là vì Tập Nhân, Bảo Thoa ăn mặc giản dị, được lòng trên dưới, đáng kính đáng yêu,… song họ không hiểu được chí hướng của Bảo Ngọc, một mực khuyên chàng học hành, đỗ đạt, làm quan. Họ có biết đâu Bảo Ngọc sinh ra trong trời đất này chỉ để nếm trải thất tình lục dục của con người, để đốt cháy trái tim đến tận cùng, buông thả cho “lửa nhiệt độc” tình ái bẩm sinh dẫn chàng ta đến đâu thì đến. Viên ngọc là hòn đá hóa thành, sau khi mất đi em Lâm, Bảo Ngọc lại quay trở về làm hòn đá lãnh đạm với đời.
Bảo Thoa và Tập Nhân có yêu Bảo Ngọc không? Có. Nhưng họ có sẵn sàng hủy mình vì tình yêu đó chăng? Không. Chỉ có Tình Văn dù ốm yếu vẫn “vùng dậy vá áo cừu” cho Bảo Ngọc không màng đến thân mình, báo trước cho việc Đại Ngọc tự hủy hoại bản thân khi tình yêu tan vỡ. Tình Văn xé quạt, Đại Ngọc cắt dây đeo ngọc chính là những điềm báo số phận của họ. Trong câu chuyện này, chỉ có Đại Ngọc-Tình Văn dám cháy hết mình cho tình yêu, bất chấp kết quả bi đát.
Một điểm cần lưu ý: Đại Ngọc và Tình Văn tuy có tình cảm mãnh liệt với Bảo Ngọc, song mối quan hệ đó hoàn toàn trong sạch, không vướng nhơ bẩn của tình dục. Trong Hồng Lâu Mộng, cả Tình Văn và Đại Ngọc đã cùng nằm chung một giường với Bảo Ngọc (Đại Ngọc khi nằm ngủ trưa, Tình Văn khi cảm lạnh) nhưng họ vẫn là xử nữ băng thanh ngọc khiết. Ngược lại, Tập Nhân và Bảo Thoa là hai người có quan hệ chăn gối với Bảo Ngọc, nhưng mãi là “đồng sàng dị mộng”, nên nực cười thay khi nhà họ Giả nghi ngờ Tình Văn đã quyến rũ Bảo Ngọc vào con đường xằng bậy, khiến nàng khi sắp chết vẫn ôm hận mang tiếng xấu mà chẳng được sống hết mình, quả là “Chịu tiếng ong ve thành tổn thọ, đa tình công tử luống than phiền.”
Tình Văn gạt nước mắt, với lấy con
dao cắt đứt hai móng tay tháp bút, sau lại cho tay vào trong chăn, cởi
chiếc áo lót bằng lụa hồng cũ cùng với móng tay đưa cho Bảo Ngọc và nói:
– Cậu hãy cầm lấy. Sau này trông thấy vật này cũng như thấy tôi vậy. Cậu
cởi ngay áo của cậu ra cho tôi mặc. Tôi dù có nằm trong quan tài thì
cũng như ở viện Di Hồng. Lẽ ra không nên như thế, nhưng trót mang tiếng
hão, tôi không còn cách nào.
Với vai trò “chị em song sinh”, cái chết của Tình Văn báo trước kết cục của Đại Ngọc. Khi qua đời Tình Văn ho dồn, gầy mòn, và mang những dấu vết của bệnh lao. Khi đọc đến đây, người đọc không khỏi ngậm ngùi vì biết số phận Đại Ngọc cũng không mấy tốt đẹp hơn. Hai người con gái đẹp đẽ, trong sáng, lãng mạn bậc nhất Giả phủ đều chết trong cảnh cô độc, không người thân thiết. Tuy nhiên Tình Văn còn đôi phần có hậu hơn vì nàng được gặp Bảo Ngọc trước khi lìa trần, được thổ lộ hết tấm tình chân thật. Đại Ngọc trút hơi thở cuối cùng trong khi người yêu làm lễ hợp cẩn với người con gái khác, âu cũng là số kiếp sinh ra để trả nợ tình kiếp trước bằng nước mắt.
Theo Tào Tuyết Cần, nghiệp chướng ái tình của Lâm Đại Ngọc chính là phải chịu cảnh “hoài công biết nhau” với Bảo Ngọc. Cũng như Tình Văn, Đại Ngọc chia sẻ với Bảo Ngọc mối tình đằm thắm, song tất cả chỉ là uổng phí. Có lẽ đến lúc chết, Đại Ngọc vẫn không thể nhắm mắt được vì những câu hỏi luẩn quẩn:
Bảo rằng chả có duyên đâu,
Thì sao lại được gặp nhau kiếp này?
Bảo rằng sẵn có duyên may,
Thì sao lại đổi thay lời nguyền?
Lâm Đại Ngọc có thể không hiểu, nhưng người đọc không thể không hiểu: chính cuộc tình tưởng chừng như vô thường, “bóng trăng đáy nước, hoa rọi trong gương” đó mới là ái tình thật sự. Vì khi giấc mộng lầu hồng chấm dứt, cát bụi lại trở về với cát bụi, giả và chân dần lộ rõ thì chỉ còn lại mối ơn đằm thắm của Thần Anh với Giáng Châu còn sống lại mãi với nhân gian. Tình chỉ đẹp khi còn dang dở là vậy!
“Hận Phượng Thư, mắng Phượng Thư, không thấy Phượng Thư lại nhớ Phượng Thư”
… đó chính là lời bình luận về nhân vật Vương Hy Phượng của Vương Côn Luân – tác giả cuốn Hồng lâu mộng nhân vật luận đồng thời là Chủ nhiệm Ban cố vấn bộ phim Hồng lâu mộng nổi tiếng. Vương lão gia là nhà Hồng học gạo cội, một câu nhận xét của ông đã khái quát thật chuẩn sức hấp dẫn của “Phượng lạt tử.” Ghét Phượng Thư vì nàng ta thơn thớt lấy lòng Giả Mẫu và Vương phu nhân, vì tính cách tàn độc ám hại Vu tam thư, vì nhẫn tâm bày kế “tráo rường đổi cột” đẩy cô Lâm vào chỗ chết, nhưng mỗi khi “Mặt phấn đầy xuân trông vẻ dịu. Làn son chưa hé miệng như cười” xuất hiện trên trang giấy là cả người đọc lẫn những nhân vật trong truyện đều không thể không dán mắt vào nàng ta, lắng tai nghe xem cái miệng đẹp đẽ mà điêu ngoa kia thốt ra những lời gì!
Trong số những người đẹp như hoa của Hồng Lâu Mộng, có lẽ Phượng Thư là nhân vật được nhắc đến nhiều nhất, chỉ sau Đại Ngọc. Vì sao vậy? Thật đơn giản, bởi trong các nữ nhân của Hồng Lâu Mộng, hai nhân vật này là biểu hiện rõ nhất của sự bứt phá quy củ truyền thống. Đại Ngọc bên ngoài yếu mềm nhưng là người con gái mạnh mẽ trong tình cảm, dám sống dám yêu, còn Phượng Thư là người đàn bà thuộc hàng “nữ lưu hào kiệt” trong Giả phủ, nam nhân không có ai bằng. Chỉ bằng nội hai nhân vật này thôi đã đủ để vinh danh Tào Tuyết Cần là một nhà nữ quyền trong văn học!
Nói về cái giỏi của Phượng Thư thì không kể xiết. Phượng Thư không phải người văn hay chữ tốt nhưng lại rất khôn ngoan, bản thân nàng luôn bô bô tự nhận mình là người tục, nhưng tinh ranh lại chẳng ai bằng. Theo tôi, cái khéo của Phượng Thư thể hiện ngay khi nàng ta xuất hiện những trang đầu tiên:
Hy Phượng cầm tay Đại Ngọc, nhìn kỹ một lúc rồi dắt đến cạnh Giả mẫu, cười nói:
– Trong thiên hạ lại có người đẹp như thế này! Bây giờ cháu mới được thấy! Trông hình dáng con người, ai cũng cho là cháu nội của bà, chứ không phải là cháu ngoại. Chả trách ngày nào bà cũng nhắc đến, chỉ đáng thương là em tôi vất vả, sao cô tôi lại mất sớm thế!
Nói xong lấy khăn mặt lau nước mắt. Giả mẫu cười nói:
– Ta vừa mới khuây đi, mày lại còn gợi ra. Em nó ở xa mới đến, người lại yếu, nên an ủi nó, đừng nói chuyện buồn nữa.
Vương Hy Phượng nghe xong, đổi buồn làm vui, nói:
– Phải đấy! Cháu vừa trông thấy, bụng để cả vào cô em, vừa vui vừa buồn, quên hẳn là. Đáng đánh đòn!
Rồi nắm tay Đại Ngọc nói:
– Em bao nhiêu tuổi? Đã đi học chưa? Hiện đang uống thuốc gì? Ở đây đừng nhớ nhà nhé! Muốn ăn gì, chơi gì em cứ bảo chị. Bọn người nhà có hỗn láo thì mách chị.
Hy Phượng lại hỏi người nhà:
– Những hành lý của cô Lâm đã mang vào chưa? Cô Lâm mang mấy người theo hầu? Các người hãy dọn hai gian buồng cho họ vào nghỉ.
Thật đon đả, ngọt ngào biết bao! Nếu chỉ mới đọc tới đây, người đọc cũng như Lâm Đại Ngọc ắt nghĩ rằng Phượng Thư hiền dịu như cô Tấm vậy. Ai có thể ngờ được đây cũng là con người chua ngoa cay nghiệt đến mức Bình Nhi là người thân tín nhất, trung thành nhất với cô ta cũng từng bị đánh đập không thương tiếc. Bởi vì sao mà Phượng Thư lại thân thiết, chiều chuộng Đại Ngọc, một đứa trẻ mồ côi, không tiền bạc, không quan hệ máu mủ với cô ta? Đơn giản vì Phượng Thư thấy rõ tình thương của Giả Mẫu với đứa cháu ngoại côi cút, mà trong Giả phủ, ý muốn của Giả Mẫu chính là thánh chỉ. Vị trí quản gia của Phượng Thư trong nhà không chỉ dựa vào tài năng mà có, mà chủ yếu là nhờ vào sự tin tưởng của Giả mẫu và Vương phu nhân. Bảo Ngọc vốn là hòn ngọc trong mắt Giả mẫu, Phượng Thư thì hết lòng chiều chuộng Bảo Ngọc. Bây giờ lại có Đại Ngọc xuất hiện, Phượng Thư đánh giá tình huống rất nhanh, đi tắt đón đầu khiến Giả mẫu càng vui lòng. Đó chính là cái tài của nàng ta.
Phượng Thư không chỉ có tài mà còn là người độc ác. Trong mười hai thoa, nàng là kẻ có tâm địa dã man nhất. Vì sao tôi nói Phượng Thư dã man? Vì nàng đem việc hành hạ người khác làm thú vui, kể cả những người không hề có ý hãm hại nàng. Ví dụ rõ nhất có lẽ là cách nàng đối xử với Giả Thụy. Tội lỗi lớn nhất của y là hâm mộ sắc đẹp Phượng Thư. Tội lỗi thứ nhì của y là ngu ngốc, hay còn gọi nôm na là “dại gái.”
Vừa nói, mắt hắn vừa chòng chọc nhìn Phượng Thư.
Phượng Thư là người thông minh, thấy dáng bộ ấy đã đoán được tám chín phần, liền nhìn Giả Thụy, giả cách mỉm cười, nói:
– Không trách anh chú thường nhắc đến chú luôn, bảo chú tốt lắm. Nay
được gặp, nghe nói mấy câu, biết ngay chú là người thông minh hòa nhã.
Bây giờ tôi phải đến chỗ các bà, không tiện nói chuyện. Lúc nào rỗi,
chúng ta lại sẽ gặp nhau.
Giả Thụy nói:
– Tôi muốn đến thăm chị, nhưng sợ chị trẻ tuổi không chịu tiếp khách dễ dàng.
Phượng Thư lại giả cách cười nói:
– Chỗ anh em ruột thịt trong nhà, sao lại nói trẻ tuổi với không trẻ tuổi?
Giả Thụy nghe thế, trong bụng mừng thầm: “Không ngờ hôm nay lại có cuộc
gặp gỡ lạ lùng thế này!” Tình cảnh ấy càng làm cho Giả Thụy ngẩn ngơ ngơ
ngẩn.
Phượng Thư lại nói:
– Thôi, chú vào tiệc ngay đi. Coi chừng họ lại bắt uống phạt đấy!
Giả Thụy nghe xong, tê tái cả người, đi chầm chậm rồi cứ quay đầu lại
nhìn. Phượng Thư cố ý đi thong thả. Thấy hắn đi xa rồi, trong bụng nghĩ:
“Thế mới là: Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Đâu lại có hạng
người chó má như thế! Nếu vậy có lúc nó phải chết với ta cho nó biết
tay!”
Phượng Thư là một người đẹp thuộc hàng nhất trong Hồng Lâu Mộng. Đây quyết không phải lần đầu tiên có nam nhân bị “khổ người óng ả, dáng vẻ phong lưu” của nàng ta quyến rũ. Ở đây có hai vấn đề cần bàn: một là, trong việc Giả Thụy to gan lả lướt với Phượng Thư có phải hoàn toàn là lỗi của y không? Hai là, kể cả y có bị nàng ta mê hoặc thì tội đó có đáng chết không? Vấn đề một, rõ ràng Phượng Thư hoàn toàn có thể nghiêm mặt khước từ Giả Thụy, đảm bảo y có ăn gan hùm cũng không dám làm liều. Rõ ràng Phượng Thư ý thức được hấp lực của mình với một thanh niên trẻ tuổi và thích thú khai thác sự chú ý của hắn. Nếu thay Bảo Thoa, Đại Ngọc, Thám Xuân vào vị trí Phượng Thư, chắc chắn họ sẽ không giả lả đưa đẩy với Giả Thụy như vậy. Vấn đề hai, Giả Thuy là một thanh niên máu nóng, bất chợt gặp một thiếu phụ đẹp lại tỏ ý ưa hắn ta, nếu có mừng rỡ tiến tới thì cũng không thể trách, cùng lắm chỉ đáng bị ăn vài bạt tai. Chính Tào Tuyết Cần cũng tỏ ý “bênh” Giả Thụy trong tên đầu chương (Giả Thiên Tường chết oan, soi gương phong nguyệt). Ý định “cho mày chết” của Phượng Thư đã biểu hiện khía cạnh thích làm người khác đau đớn (sadistic) của nàng. Đây là một điểm khiến người đọc rất khó hoàn toàn thông cảm với số phận bi đát của nàng. Trong mười hai thoa, nàng cũng chỉ xếp thứ chín, sau Xảo Thư (con gái nàng), Lý Hoàn (bà góa), và Tần Khả Khanh (dâm phụ.)
Đây là lá số tiền định của Vương Hy Phượng trong hồi thứ năm:
Chim phượng kìa sao đến lỗi thời
Người đều yêu mến bực cao tài
Một theo hai lệnh, ba thôi cả
Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi
Trong nguyên tác Tào Tuyết Cần viết: “Phàm điểu thiên tòng mạt thế lai,” dùng biện pháp chiết tự ghép hai chữ “phàm,””điểu” thành chữ Phượng. Bản dịch tiếc thay không truyền tải được điều này, làm lộ thiên cơ. Câu thứ ba là một câu sấm ngữ “nhất tòng, nhị lệnh, tam nhân mộc”, đại ý lúc đầu nói gì cũng được người nghe răm rắp, cuối cùng cũng bị bỏ rơi, đây chính là ám chỉ số phận về cuối của Phượng Thư. Lá số của Phượng Thư lại có hình một con chim phượng trên ngọn núi băng – đã là băng thì có cao mấy cũng phải tan chảy. Phượng Thư đứng trên cao uy nghi lộng lẫy nhưng khi ngọn núi băng – Giả phủ tan rã thì nàng cũng bị ruồng bỏ. Có thể coi Phượng Thư là người đầy tớ trung thành của giai cấp phong kiến. Phượng Thư trên đội dưới đạp, hết lòng phục vụ kẻ trên, bắt nạt người dưới, ung dung ở giữa thu lợi, nhưng kết cục của nàng cũng không ra gì. Vì sao Tào Tuyết Cần lại để nhân vật tài năng, sắc sảo như Phượng Thư kết thúc một cách hẩm hiu như vậy?
Lý do thứ nhất, nhân vật Phượng Thư chính là ẩn dụ cho Giả phủ. Khi nàng mới xuất hiện, khí thế chẳng khác gì tướng soái, trang sức như một vị hoàng hậu nương nương:
“Người này trang sức không giống các cô kia, gấm thêu lộng lẫy, trông như một vị thần tiên! Trên đầu, đỡ tóc bằng kim tuyến xâu hạt châu, cài trâm ngũ phượng Triệu Dương đính hạt châu, cổ đeo vòng vàng chạm con ly, mình mặc áo vóc đại hồng chẽn thêu trăm bướm lượn hoa bằng chỉ kim tuyến, ngoài khoác áo màu xanh lót bằng lông chuột bạch viền chỉ ngũ sắc, mặc quần lụa hoa màu cánh trả.”
Đó cũng trùng với giai đoạn thịnh vượng của nhà họ Giả. Nhưng cũng giống như Phượng Thư bên ngoài đẹp đẽ mà bên trong xấu xa, Giả phủ hào nhoáng thực ra cũng thối nát từ bên trong: nào là loạn luân, bóc lột, nào là lừa gạt, tự sát,… Cuối cùng Giả phủ và Phượng Thư đều bị chà đạp bởi chính những nghiệp chướng họ tạo ra. Sự tan vỡ của Giả phủ cũng như cái chết của Phượng Thư là không thể tránh khỏi.
Lý do thứ hai, Phượng Thư là một nhân vật vượt qua lễ giáo. Cái tội lớn nhất của Phượng Thư không phải ghen tuông, đáo để, hay tham lam, mà là quá khôn ngoan tài giỏi. Tào Tuyết Cần cố tình để những người đàn ông trong phủ Giả đều là những kẻ bất tài: kẻ thì mơ mộng như Bảo Ngọc, người thì thiếu thực tế như Giả Chính, kẻ thì dâm ô hưởng lạc như Giả Xá, không có nổi một mống đảm đương nổi việc lớn. Nếu Đại Ngọc là số một về khoản văn chương thì Phượng Thư là kẻ tháo vát nhất Giả phủ. Thế nhưng trong bối cảnh phong kiến thì một người đàn bà mà lại giỏi giang hơn tất thảy đàn ông là một điều không thể chấp nhận nổi. Để cảnh cáo Phượng Thư, tác giả để nàng khốn khổ vì đường chồng con. Giả Liễn là một kẻ đa tình nhưng đối với vợ lại chẳng có chút thương yêu tôn trọng. Phượng Thư cũng không thể sinh con trai và sức lực của nàng bị phá hủy bởi bệnh rong kinh. Như tất cả những điều khác trong Hồng Lâu Mộng, căn bệnh của nàng cũng có ý ẩn dụ. Phượng thư bị mất máu trong nhiều tháng ròng – căn bệnh đó là sự trừng phạt bản thể phụ nữ của nàng, oái oăm thay, chính vì nàng không chịu ngoan ngoãn theo khuôn phép phụ nữ “bất tài mới là có đức.” Bệnh mất máu cũng là biểu tượng cho quá trình dần dần cạn kiệt năng lượng của Phượng Thư và Giả phủ. Ở đầu truyện Phượng thư là con chim phượng rực lửa, đến cuối truyện nàng chỉ còn là cái bóng nhợt nhạt của chính mình.
Học giả Vương Bá Hàng đã so sánh Phượng Thư với Võ Tắc Thiên và Từ Hi thái hậu và kết luận rằng: hệ tư tưởng phong kiến không thể cho phép những người phụ nữ có quyền lực tồn tại một cách bình thường mà phải bằng mọi cách tô vẽ họ thành những nhân vật phản diện. Nói nào ngay, trong thời hiện đại mà chúng ta đang sống cũng có không ít trường hợp những người phụ nữ quá xuất chúng bị chê trách, dèm pha. Sự thoái trào của những triều đại Trung Quốc cũng thường được đổ tại cho Đát Kỷ, Bao Tự. Những truyền thuyết về sự trụy lạc của Võ hậu và Từ Hi, cũng như những khía cạnh tiêu cực Tào Tuyết Cần dành cho Vương Hy Phượng chính là biểu hiện cho nỗ lực “bêu xấu” đó.
Giả Chính: dấu chân trên tuyết của tình phụ tử
Nếu Đại Quan viên là vườn địa đàng thì Bảo Ngọc là Adam duy nhất ở giữa vô vàn Eve. Giới phụ nữ trong Hồng Lâu Mộng là những đóa hoa muôn hồng ngàn tía, mười hai chiếc thoa vàng mỗi người mỗi vẻ khiến người đọc say mê không dứt. Giới đàn ông trong Hồng Lâu Mộng thì ngược lại: đa số đều ti tiện, bạc bẽo, vô tình. Một trong những người đàn ông “ít xấu” nhất trong Hồng Lâu Mộng là Giả Chính, cha đẻ của Bảo Ngọc, song ấn tượng của người đọc với ông ta đại đa số khá mờ nhạt. Hành động đáng nhớ nhất của Giả Chính trong toàn bộ câu chuyện có lẽ là lúc ông đánh Bảo Ngọc một trận thừa sống thiếu chết. Tuy nhiên thông qua nhân vật Giả Chính người đọc có thể ngộ ra nhiều triết lý của Tào Tuyết Cần về tư tưởng Khổng Mạnh, bởi vì Giả Chính là một nhà Nho điển hình.
Giả Chính và Giả Xá là hai anh em ruột. Giống như Cain và Abel trong Kinh thánh, hai anh em nhà họ Giả được xây dựng theo motif trái ngược, người này là đối trọng của người kia. Giả Xá là con người xảo trá, tham lam, hiếu sắc. Giả Chính thì “từ bé ham học, được ông yêu, muốn cháu thi đỗ làm quan.” Khi lớn lên, Giả Chính được thăng làm Viên ngoại lang, con gái lớn Nguyên Xuân được tuyển vào cung làm Hiển Đức phi, coi giữ cung Phượng Tảo. Con trai là Bảo Ngọc thì đẹp đẽ, là hòn ngọc trong mắt Giả mẫu. Những tưởng cuộc đời Giả Chính thế đã là viên mãn. Thế nhưng kết thúc của Giả Chính lại không được như ý: sự nghiệp tiêu tan, gia đình ly tán. Bởi vì sao? Hay lại đổ tại số phận?
Nguồn cơn gây nên những nỗi khổ của Giả Chính chỉ do số phận một phần, phần còn lại do chính bản thân Giả Chính, hay nói rộng ra là tư tưởng Khổng Mạnh bó buộc khiến con người ta không được sống theo xu hướng tự nhiên. Nếu Giả Xá tiêu biểu cho việc để cái tôi tung hoành đến mức lấn át đạo lý, thì Giả Chính là một trường hợp đè nén bản tính con người. Chữ “Chính” trong tên của ông có hai nghĩa, vừa là cai trị, khuôn phép (như chính quyền, nhiếp chính), vừa là chính trực. Người xưa hay nhắc đến mấy việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong mấy việc đó, may ra chỉ có giữ mình trong sạch là Giả Chính làm tròn. Giả Chính quả thực ngay thẳng, nhưng là cái ngay thẳng cứng nhắc và ngô nghê. Việc nhà và việc nước ông đều không thể nào “chính”, đó là sự oái oăm của nhân vật này.
Trước nói về việc nước.
Giả Chính xưa nay làm quan ở kinh, chức lang trung cũng là chức quan rảnh. Dù có lúc ra làm quan ở ngoài nhưng lại là giáo chức, không liên quan gì đến việc cai trị. Vì thế những điều xấu xa như khấu bớt lương gạo, bóp nặn dân đen, tuy có nghe người ta bàn tán, nhưng bản thân chưa hề trải qua, chỉ một lòng muốn làm ông quan tốt. Ông ta liền cùng bọn giúp việc bàn bạc, yết thị nghiêm cấm những điều xấu xa kia, và hiểu thị hễ tra ra thì sẽ trình quan trên trị tội. Ban đầu mới đến, quả nhiên bọn lại dịch đều sợ, liền dùng đủ cách để xoi bói, kiếm chác, nhưng lại gặp phải Giả Chính là người cố chấp. Bọn người nhà theo hầu Giả Chính lúc ở kinh không hề được chút lợi lộc gì cả, trông mong mãi mới được chủ nhà bổ nhậm quan ngoài, bèn mượn tiếng để vay nợ sắm sửa áo quần cho có thể diện. Họ cứ nghĩ hễ đến chỗ làm quan là sẽ kiếm chác dễ dàng. Không ngờ Giả Chính có cái thói ngây ngô, thật thà muốn trừng trị những thói tệ, các quan châu huyện đưa lễ vật đến ông ta nhất thiết không nhận.
Giả Chính không nhận hối lộ, đương nhiên bọn người dưới không có cửa làm ăn. Kẻ có ý xấu bụng lại ngờ Giả Chính muốn bóp nặn thật nhiều nên làm ra vẻ chảnh choẹ. Kết quả là bọn lính hầu vùng vằng hờn giận nghỉ hết, để cho Giả Chính một mình trơ thổ địa ra đấy. Giả Chính ngậm ngùi nhận ra rằng làm một người chính nhân quân tử giữa một xã hội đầy rẫy tiểu nhân là một việc rất khó. Kể từ đó Giả Chính để cho một kẻ điêu ngoa là Lý Thập cai quản công việc. Đây là một hành động “nuôi ong tay áo.”
Từ đó, Lý Thập làm mưa làm gió, cấu kết trong ngoài kéo bè kéo cánh lừa phỉnh Giả Chính làm việc, quả nhiên việc gì cũng chu đáo, việc gì cũng vừa lòng. Vì thế Giả Chính chẳng những không nghi, mà lại tin cậy. Lúc đó cũng có mấy nơi phát giác, nhưng quan trên thấy Giả Chính chất phác trung hậu, nên cũng không tra xét. Riêng có bọn môn khách giúp việc giấy tờ là nhìn xa thấy rộng, gặp dịp cũng có đem lời khuyên can. Nhưng Giả Chính không tin, nên cũng có người từ việc mà đi; cũng có người thân thiết với Giả Chính thì ở trong giúp đỡ. Nhờ vậy việc chuyên chở xong xuôi, không bị thiệt hại và quá thời hạn.
Sự nghiệp của Giả Chính thế rồi tiêu tùng, nếu không có Bắc Tĩnh Vương ra tay can thiệp thì chắc đã bị tù mọt gông. Về việc này quả thực không thể trách Lý Thập, bởi không có hắn ta thì cũng sẽ có Lý Tam, Lý Tứ lợi dụng Giả Chính làm càn.
Giả Chính tuy rằng dạy con có phép, trị nhà rất nghiêm, nhưng một là họ to, người nhiều, trông nom không xuể, hai là Giả Trân là cháu trưởng phủ Ninh, hiện đương tập chúc, bao nhiêu việc đều thuộc chi trưởng trông nom hết, ba là việc công, việc tư bề bộn, mà tính Giả Chính lại khoáng đãng, không thích chăm lo việc đời, lúc nhàn rỗi, thư thái chỉ đánh cờ, xem sách, ngoài ra không để ý đến việc gì.
Việc nước đã không xong, việc nhà ông cũng hết sức mù mờ. Những việc dối trá, hoang phí, cho vay nặng lãi, vv,… do hai vợ chồng Giả Liễn-Phượng Thư gây ra, ông đều không hay. Giả Trân thì “quyến rũ con nhà thế gia đánh bạc, cường chiếm vợ lương dân làm lẽ, người ta không theo, liền áp bức người ta chết”, Giả Chính cũng không hề biết mảy may! Người đọc đến đây không khỏi thắc mắc: Giả Chính là một con người thông minh, tại sao lại để cho bao nhiêu việc tày trời diễn ra ngay dưới mũi mình? Tôi nghĩ lý do chính là bởi Giả Chính có một niềm tin mù quáng vào Nho giáo, ông nghĩ rằng ai ai cũng tam cương, ngũ thường (nhân lễ nghĩa trí tín) như mình! Trên thực tế, lý thuyết thì màu xám còn cây đời mãi mãi xanh tươi, phàm là con người thì đều có dục vọng. Xã hội mà Giả Chính sống là một xã hội ca tụng đạo Khổng, ra rả những điều hay lẽ phải, nhưng thực tế ai cũng chăm chăm thu vén cho mình, sống chết mặc bay. Giả Chính những tưởng mình là “xu hướng chung,” ai ngờ lại là nằm trong nhóm “dân tộc thiểu số.” Sự sụp đổ của nhà họ Giả có thể gọi là một ví dụ của “tragedy of the commons”, nhưng cũng một phần do sự yếu kém trong quản lý của Giả Chính.
Thế nhưng bi kịch lớn nhất của Giả Chính nằm ở mối quan hệ với con trai ông ta – Giả Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc không phải là con trai duy nhất của Giả Chính. Trước cậu ta có Giả Châu – người con trai ngoan ngoãn đã chết non. Có thể trong tiềm thức, Giả Chính luôn so sánh Bảo Ngọc và Giả Châu, phần nào dẫn đến cảm giác xa lạ và thất vọng. Mầm mống gây nên sự không ưa của Giả Chính đối với Bảo Ngọc bắt đầu từ khi cậu ta còn thơ bé:
Khi đầy năm, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau thế nào, mới đem những đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu nó chẳng lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy phấn sáp, trâm vòng. Giả Chính không vui, bảo sau này chỉ là đồ tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm.
Nếu nhìn nhận sự kiện này dưới góc độ duy lý, liệu việc Giả Chính căn cứ sự yêu ghét với đứa trẻ ngây thơ dựa trên một trò chơi vô hại có hợp lý không? Một người bình thường, nếu vốn có lòng thương con, kể cả nó có phạm tội tày trời cũng không vì thế mà chán ghét. Đằng này Bảo Ngọc lúc đó chỉ là đứa bé một tuổi. Dẫu sự kiện “chọn phấn sáp, trâm vòng” được cài đặt nhằm báo trước tính cách nâng niu phụ nữ của Bảo Ngọc, ta có thể suy đoán Giả Chính rõ ràng đã có định kiến về Bảo Ngọc, ngoài ra còn ương ngạnh cố chấp. Trong gia đình, thái độ của con trẻ thường là hình ảnh phản chiếu lại cách đối xử của cha mẹ chúng. Khi tiếp xúc với Bảo Ngọc, Giả Chính không đơn thuần là nghiêm khắc mà rõ ràng là căm ghét. Bảo Ngọc vì thế lại càng sợ sệt cha. Mối quan hệ này chỉ có khả năng trở nên xấu đi chứ không có tốt lên.
Thấy Bảo Ngọc đến chào và nói xin đến trường học, Giả Chính cười nhạt:
– Mày nói đến hai chữ đi học làm tao xấu hổ chết đi được. Cứ như ý tao thì mày đi chơi là đúng hơn. Coi chừng đấy, đừng đứng bẩn đất tao, dựa bẩn cửa tao!
Giả Chính nhìn ra, thấy con trai vú nuôi Bảo Ngọc là Lý Quí, bèn hỏi:
– Ngày thường theo hầu nó đi học, thấy nó học đến sách gì rồi? Hay là chỉ học những câu lếu láo, những lối ngỗ nghịch tinh ranh? Lúc nào rỗi, ta sẽ lột da mày và sửa tội cho cái thằng hư thân kia!
Giả Chính quát to:
– Thằng súc sinh ngu ngốc kia, mày biết được mấy vị cổ nhân, nhớ được mấy bài thơ cũ, đã dám múa mép trước các vị tiền bối? Vừa rồi cho phép mày nói bừa, chẳng qua ta thử xem mày hay dở thế nào, để làm trò cười đấy thôi. Mày cứ tưởng thực đấy à?
– Kể ra cũng chẳng hại gì, không cần phải đổi. Nhưng xem thế đủ biết nó không chăm lo việc chính, chỉ thích những lời văn trai lơ phù phiếm thôi.
Ông ta quát to một tiếng:
– Đồ súc sinh, sao không bước đi!
Tham vọng của Giả Chính là biến Bảo Ngọc thành một nhà Nho chân chính – đi học thành tài, không ham nữ sắc, nói cách khác là một bản sao thu nhỏ của ông. Nhưng Bảo Ngọc làm trái ngược tất cả. Đó là một cái vòng luẩn quẩn: con hư – cha ghét-con càng chống đối-cha càng ghét. Có thể nói Bảo Ngọc có một mặc cảm Oedipus điển hình. Oedipus giết cha lấy mẹ. Bảo Ngọc thì sợ cha và quấn quít mẹ. Trạng thái tâm lý này của Bảo Ngọc ứng vào mọi quan hệ xã hội của cậu – Bảo Ngọc chán ngán, không tin tưởng giới đàn ông, cậu tránh xa những tên phàm phu tục tử trong phủ, ngược lại tìm sự yêu thương an ủi từ những người phụ nữ, trước hết là Giả mẫu, Vương phu nhân và các chị em, rồi cả những a hoàn. Những người đàn ông thân cận với Bảo Ngọc như Tần Chung, Tưởng Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương đều có xu hướng đồng tính. Khi bị cha hành hạ, phản xạ đầu tiên của Bảo Ngọc là cầu cứu mẹ và bà. Những chị em ruột thì cùng chung tay viết chữ để giúp cậu nộp đủ số bài Giả Chính đòi. Các a hoàn thì bao che, dỗ dành, an ủi. Có thể nói Bảo Ngọc đã ly khai khỏi giới tính của mình, cũng là chối bỏ mối dây liên kết với người cha. Sự uỷ mị, thiếu tính nam nhi khí khái đó là không thể chấp nhận với Giả Chính. Trong tư tưởng của ông, Bảo Ngọc là một kẻ phản bội tư tưởng Nho giáo.
Người kia quát to “Đứng lại”, Bảo Ngọc giật nảy mình, ngẩng đầu lên nhìn, té ra là Giả Chính. Bảo Ngọc lạnh hẳn người đi, đành chắp tay đứng bên cạnh.
Giả Chính nói:
– Mày làm sao mà cúi đầu ủ rũ như vậy? Vừa rồi ông Vũ Thôn đến chơi, muốn gặp mày, gọi mãi mày mới chịu đến. Khi đến thì ăn nói toàn là những chuyện vụn vặt, nhỏ nhặt, không có một chút khoát đạt lưu loát nào. Tao xem mày vẻ mặt lúc nào cũng đầy rẫy những lo phiền, tình dục. Bây giờ làm gì mày lại than dài thở ngắn? Như thế này vẫn chưa được đủ, chưa được hả dạ hay sao?
Bảo Ngọc vốn tay lém lỉnh. Nhưng vì lúc này thương nhớ Kim Xuyến quá, đang băn khoăn không thể chết theo nó được nên cha quở mắng thế nào cũng mặc, cứ đứng đờ người ra.
Giả Chính đáng ra cũng không bực. Nhưng thấy Bảo Ngọc sợ quá, ăn nói khác hẳn ngày thường, nên đã nổi giận đôi phần. Giữa lúc ấy có người gác cửa vào trình:
– Có người bên phủ Trung Thuận Thân Vương xin vào hầu cụ lớn.
[…]
Quan trướng phủ cười nhạt:
– Không phải làm gì cả, chỉ xin ngài nói cho một câu là xong. Trong phủ chúng tôi có một con hát đóng vai nữ tên là Kỳ quan, mấy hôm nay không thấy về, cho đi tìm cũng không thây nó ở đâu. Chúng tôi phải cho người đi dò các nơi. Ở trong thành mười người thì tám người nói: Gần đây nó chơi thân với cậu em ngậm ngọc ở đây. Vì tôn phủ không phải như các nhà thường, nên không dám thiện tiện đến bắt. Bởi vậy hạ quan phải vào trình đức Vương. Ngài nói: “Con hát khác mất trăm đứa cũng không cần, nhưng tên Kỳ quan này là người cẩn thận, chắc chắn, biết lựa dịp ứng đáp, rất hợp ý già này, không thể nào bỏ nó được”. Vì thế, chúng tôi đến nhờ ngài bảo cậu Hai cho tên Kỳ quan về, để thỏa lòng Vương gia chúng tôi thiết tha mong đợi, và chúng tôi cũng đỡ phải đi tìm vất vả.
Nói xong, hắn liền vái một cái.
Giả Chính nghe nói, vừa sợ vừa giận, liền cho gọi Bảo Ngọc, Bảo Ngọc không biết là việc gì, vội chạy ra ngay.
Giả Chính hỏi:
– Thằng đáng chết kia! Mày ở nhà đã không chịu học hành thì thôi, lại còn dám càn bậy, làm những việc trái phép à? Tên Kỳ quan là người hầu thân của đức vua Trung Thuận. Mày là hạng người hèn hạ, dám quyến rũ nó, làm vạ lây đến ta!
Bảo Ngọc nghe nói giật mình, vội thưa:
– Thực con không biết việc này! Ngay hai chữ “kỳ quan” con cũng chẳng hiểu là cái gì, huống chi lại buộc cho con tiếng quyến rũ nữa.
Nói xong rồi khóc.
[…]
Giả Chính nghe xong, tức quá, mắt trợn lên, mồm xệch ra, vừa tiễn viên quan trưởng phủ ra, vừa ngoái lại quát Bảo Ngọc: “Không được đi đâu! Trở về tao sẽ bảo mày!” Đưa viên quan kia ra rồi, Giả Chính quay về, thấy Giả Hoàn dẫn mấy tên hầu nhỏ rối rít chạy đến. Giả Chính quát:
– Đánh chết những đứa kia đi cho tao!
[…]
Giả Hoàn nói khẽ:
– Đẻ con nói: “Hôm nọ anh Bảo ở nhà mẹ con, kéo chị a hoàn là Kim Xuyến định cưỡng gian nhưng không được, rồi đánh chị ấy một trận, chị ấy tức quá đâm đầu xuống giếng chết!”
Chưa nghe dứt lời, Giả Chính giận quá, mặt xám lại, quát to: “Lôi thằng Bảo Ngọc đến đây!” Ông ta vừa nói vừa chạy vào thư phòng, quát lên:
– Hôm nay ai còn đến ngăn, thì ta sẽ mang hết cả mũ áo, cân đai và gia tài giao cho người ấy với thằng Bảo Ngọc. Ta đành chịu là người có tội, cạo trọc mớ tóc phiền não này đi, tìm đến nơi thanh vắng để khỏi nhục đến tiền nhân, vì đã đẻ đứa con ngỗ nghịch này!
Những môn khách và người hầu thấy Giả Chính như thế, biết ngay là vì ông ta giận Bảo Ngọc, nên ai nấy đều trợn mắt lè lưỡi, chạy đi ra ngoài cả. Giả Chính thở hồng hộc, ngồi ưỡn người trên cái ghế tựa, nước mắt giàn giụa, quát lên mấy tiếng: “Lôi thằng Bảo ra đây! Mang thừng gậy ra đây! Đóng hết cả các cửa lại! Hễ đứa nào mà báo tin cho nhà trong biết, thì ta đánh chết ngay lập tức!”
Bọn người hầu thấy vậy, đành phải vâng lời đứng yên. Có mấy người chạy đi bắt Bảo Ngọc.
[…]
Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc, mắt đỏ ngầu lên, không kịp hỏi đến những tội, như đi ra ngoài thì đùa bỡn bọn chèo hát, trao tặng của riêng, ở trong nhà thì bỏ học hành, cưỡng gian đầy tớ gái của mẹ, chỉ thét: “Khóa miệng nó lại, đánh cho chết đi!”
Bọn người hầu không dám trái lệnh, đành phải dằn Bảo Ngọc xuống cái ghế dài, cầm gậy to, đánh độ mười cái. Bảo Ngọc biết rằng mình có van cũng chẳng tha nào, đành khóc rống lên. Giả Chính cho là đánh khẽ quá, đá thằng cầm gậy, rồi giật lấy gậy, đánh thật mạnh mấy cái.
Bảo Ngọc xưa nay chưa từng chịu đau đớn như thế bao giờ, lúc đầu còn biết đau, khóc ầm lên; đến sau hơi thở dần dần yếu đi, kêu không ra tiếng. Những môn khách thấy thế, sợ xảy ra chuyện không hay, liền chạy cả đến khuyên ngăn. Nhưng Giả Chính khi nào chịu nghe? Ông ta nói:
– Các người hỏi xem những việc nó làm có đáng tha hay không? Tội ở các người ngày thường cứ hay nuông nó để nó hư hỏng thế này, lại còn đến khuyên ngăn à. Mai đây nó phạm tội giết cha giết vua, thì các người còn can vào lối nào?
Mọi người thấy câu nói dữ ấy, biết là Giả Chính bực lắm rồi, liền nhao lên đi tìm người vào báo nhà trong.
Vương phu nhân nghe nói, không kịp đến trình Giả mẫu, liền mặc áo, bất chấp có người hay không, vịn vào một a hoàn xăm xăm chạy thẳng vào thư phòng. Bọn môn khách và người hầu đều tránh không kịp.
Giả Chính đương muốn đánh nữa, thấy Vương phu nhân đến, cơn giận lại càng như lửa cháy đổ dầu thêm. Cái gậy cứ lia lịa vụt xuống càng nhanh càng mạnh. Hai đứa đè Bảo Ngọc vội buông tay ra. Bảo Ngọc đã nằm sóng sượt, không cựa quậy được nữa.
[…]
Giả Chính cười nhạt:
– Thôi đừng nói những câu ấy nữa. Đẻ ra cái giống ác nghiệt này, thì tôi cũng mang tội bất hiếu rồi! Ngày thường hễ tôi quở phạt nó lần nào, là y như có người đến bênh nó. Chi bằng nhân ngày hôm nay kết liễu cái đời thằng chó chết này đi để khỏi tai vạ về sau.
[…]
Giả Chính thấy thế, lại nước mắt ròng ròng chảy xuống. đương lúc nhốn nhao, thì a hoàn vào trình: “Cụ đã đến”. Nói chưa dứt lời, đã nghe ở ngoài cửa sổ có tiếng nói run run:
– Đánh chết ta trước đã, rồi hãy đánh chết nó, thế là yên chuyện!
Giả Chính thấy mẹ sang, vừa hoảng sợ vừa thương xót, vội chạy ra đón. Giả mẫu vịn vào một a hoàn đi đến, đầu lắc lư, hơi thở hổn hển.
[…]
Giả mẫu nghe nói nhổ toẹt một cái nói:
– Ta mới nói có một câu, anh đã không chịu được, thế thì anh vác gậy đánh vùi đánh dập thằng Bảo như thế kia, liệu nó có chịu được không? Anh nói rằng anh dạy dỗ con cái để làm rạng vẻ ông cha thế thì ngày trước cha anh đã dạy anh như thế nào?
Nói xong, tự nhiên nước mắt ròng ròng, Giả Chính gượng cười nói:
– Xin mẹ đừng thương cảm làm gì, chỉ vì lúc nãy con nóng tính quá. Từ giờ trở đi con không dám đánh nó nữa.
Giả mẫu cười nhạt:
– Anh không cần giận lây với tôi. Nó là con anh, muốn đánh thế nào anh cứ đánh. Chắc rằng mẹ con bà cháu chúng tôi ở đây chỉ làm phiền anh thôi, chi bằng xa anh ra là hết chuyện.
Nói xong liền sai người: “Sắp sẵn kiệu, ta cùng bà mày và thằng Bảo đi về Nam Kinh ngay”… Người nhà đành phải vâng lời.
[…]
Trên là một đoạn dài, tôi xin trích những phần quan trọng để giúp người đọc hình dung một cách tương đối toàn vẹn quang cảnh sự việc. Đây là phần có tính chất bước ngoặt trong mối quan hệ cha con. Có một số điểm cần lưu ý:
– Giả Chính tức giận vì Bảo Ngọc quyến rũ tên người hầu của đức vua Trung Thuận (Tưởng Ngọc Hàm.) Lý do ở đây không phải vì Bảo Ngọc có khuynh hướng tình yêu đồng giới (chuyện nam giới quý tộc cặp kè với các con hát nam mỹ miều là chuyện khá phổ biến) mà bởi Bảo Ngọc có gan đụng chạm đến “tài sản” của một người có địa vị rất cao. Đây là một hành động có màu sắc đảo lộn tôn ti trật tự – điều Giả Chính không thể nào chấp nhận.
– Trong tiềm thức Giả Chính có nỗi sợ Bảo Ngọc “giết cha giết vua.” Tôi không biết Tào Tuyết Cần có biết đến truyền thuyết về Oedipus hay không, nhưng có lẽ nỗi dè chừng nghi kỵ của người cha với con trai ruột của mình, như Cronus với Zeus, là một nỗi sợ căn bản của nhân loại?
– Người Trung Quốc nghiêm khắc với con cái, nhưng lại chiều chuộng cháu. Có lẽ áp lực nuôi dạy con cái nên người theo tiêu chuẩn Khổng Mạnh quá khắc nghiệt, nặng nề, khiến cho người cha không thể và không dám bộc lộ lòng thương yêu với con, để lâu ngày dẫn đến chai sạn đi. Chỉ đến khi được giải phóng khỏi nghĩa vụ đó họ mới có thể bày tỏ tình cảm dồn nén với cháu mình. Trong một gia đình, người cha nghiêm khắc, người bà từ bi là một hình ảnh đẹp, nhưng ở đây cả hai trạng thái đó đã bị đẩy đi quá xa: Giả Chính biến thành một ông thần ác, còn Giả mẫu chiều chuộng cháu quá đà, cái tình yêu dạt dào đối với cháu của Giả mẫu biến tướng thành sự ích kỉ và nhẫn tâm với người khác (ruồng rẫy Đại Ngọc.)
Có nhiều tranh cãi về 40 hồi cuối của Hồng Lâu Mộng. Bản thân tôi cũng có nhiều điểm lấn cấn về 40 hồi này, nhưng cách xử lý mối quan hệ cha con giữa Giả Chính-Bảo Ngọc ở đây tôi cho là toàn vẹn. Nhìn trên bề mặt, Giả Chính đã hoàn toàn thất bại dưới tư cách một người cha nói riêng và một nhà Nho nói chung. Nhưng chỉ bằng một đoạn ngắn ngủi trong hồi cuối cùng, Giả Chính đã làm thay đổi hoàn toàn cách nhìn của người đọc:
Một hôm đi đến trạm Côn Lăng, trời rét, tuyết xuống, thuyền đậu ở chỗ vắng vẻ. Giả Chính sai người lên bộ, đưa danh thiếp đi từ tạ bầu bạn, nói thuyền sẽ đi ngay, không dám phiền ai đến thăm hỏi. Khi ấy đầu thuyền chỉ để lại một đứa nhỏ để hầu. Giả Chính ở trong thuyền viết thư, định cho người đi bộ đem về nhà trước. Khi viết đến việc Bảo Ngọc, liền dừng bút lại, ngẩng đầu lên, bỗng thấy đầu thuyền lờ mờ có dáng một người trong bóng tuyết, đầu trọc chân trần, mình khoác chiếc áo đi mưa bằng lông vượn màu đại hồng, ngoảnh vào Giả Chính và sụp xuống lạy. Giả Chính chưa nhìn được rõ, vội ra đầu thuyền, muốn đến đỡ dậy để hỏi. Người ấy lạy bốn lạy, rồi đứng dậy chào theo lối nhà Phật. Giả Chính còn muốn vái đáp, chợt nhìn thấy trước mặt mình không phải ai lạ mà chính là Bảo Ngọc. Giả Chính kinh ngạc vô cùng, vội hỏi:
– Có phải Bảo Ngọc không ?
Người ấy không nói gì, như mừng như tủi. Giả Chính lại hỏi:
– Nếu mày là Bảo Ngọc, thì sao lại ăn mặc như thế mà đến chỗ này ?
Bảo Ngọc chưa kịp trả lời, bỗng thấy một nhà sư, một đạo sĩ đến đầu thuyền. Hai người nắm tay Bảo Ngọc nói:
– Tục duyên đã hết, không đi nhanh lên à ?
Nói rồi, ba người vùn vụt lên bờ đi. Giả Chính không kể đất trơn, vội vàng chạy theo. Thấy ba người đi trước, nhưng không sao theo kịp. Chỉ nghe một người nào trong bọn họ hát:
Chỗ ta ở chừ, đỉnh núi thanh u,
Chỗ ta chơi chừ, cõi không mịt mù;
Ai đi cùng ta chừ, ta đi theo với ?
Mênh mông mù mịt chừ, về nơi Đại hoang !
Giả Chính chạy đuổi theo, đến một cồn đất nhỏ, bỗng không thấy nữa. Giả Chính thở dốc lên, trong lòng ngờ vực. Lúc quay lại thì thấy tên hầu nhỏ cũng chạy theo sau. Giả Chính hỏi:
– Mày có trông thấy ba người vừa rồi không ?
– Có trông thấy. Vì cháu thấy ông lớn chạy theo, nên cháu cũng chạy. Nhưng rốt cuộc chỉ thấy ông lớn, chứ không thấy ba người kia nữa.
Giả Chính còn muốn chạy theo, nhưng chỉ thấy một cánh đồng tuyết tùng mênh mông, không có người nào, Giả Chính lấy làm kỳ lạ, đành trở về.
[…]
Giả Chính thở dài:
– Chúng mày không hiểu rõ ! Đó là chính mắt ta trông thấy, chứ có phải ma quỷ gì đâu. Vả lại nghe tiếng ca, có vẻ rất huyền diệu ? Bảo Ngọc khi sinh ra, ngậm viên ngọc… cũng đã kỳ lạ. Ta vẫn biết trước là điềm không tốt, chỉ vì cụ bà thương yêu nó, nên mới nuôi nó đến ngày nay. Còn vị hòa thượng và vị đao sĩ ấy, ta đã gặp ba lần, lần thứ nhất hai người ấy đến nói về sự linh thiêng của viên ngọc; lần thứ hai, lúc Bảo Ngọc ốm nặng, vị hòa thượng đến, cầm viên ngọc tụng niệm một hồi, thì Bảo Ngọc lành; lần thứ ba, ông ta đưa viên ngọc đến trả, ngồi ở nhà khách, ta vừa ngoảnh đi một cái, bỗng không thấy đâu. Trong bụng ta lấy làm lạ. Nhưng cho là Bảo Ngọc thực có phúc phận, nên các bậc cao tăng tiên đạo đến phù hộ cho nó. Ngờ đâu nó là người đổi kiếp xuống cõi trần. Rốt cục lừa dối cụ bà suốt mười chín năm, đến nay ta mới biết rõ!
Ông ta nói đến đấy, nước mắt ròng ròng. Mọi người thưa:
– Cậu Bảo nếu quả là một vị hòa thượng xuống trần gian, thì không nên đậu cử nhân. Vì sao thi đậu rồi mới bỏ đi ?
– Các người biết sao được ? Phàm các tinh tú trên trời, các cao tăng trên núi, hay những tinh linh trong động, đều có một tánh tình riêng. Các ngươi thử xem Bảo Ngọc thường có chịu đọc sách đâu; nhưng hễ nó để bụng đến thì không có cái gì là không làm được. Còn tính khí của nó cũng không giống người ta !
Ông ta nói xong, lại than thở.
Lúc này Bảo Ngọc đã ngộ ra trước sau, rũ bỏ bụi trần và lòng si, trở lại bản thể của mình là hòn đá. Việc Bảo Ngọc đi thi đỗ làm rạng danh tổ tiên là một hành động mang tính chất tượng trưng – sự báo hiếu cuối cùng của Bảo Ngọc với cha mẹ. Cùng lúc đó, Giả Chính thoát khỏi lớp vỏ cứng nhắc lạnh lẽo – tình cảm với đứa con trai rốt cuộc đã sưởi ấm trái tim Giả Chính, biến ông ta từ một “hòn đá” thành một người cha đích thực. Hồng Lâu Mộng là một câu chuyện tình viết bằng nước mắt. Nhưng mấy chữ ngắn ngủi: “Giả Chính không kể đất trơn, vội vàng chạy theo.” khiến tôi xúc động hơn những bài thơ bi luỵ trong truyện. Đối với tôi, cảnh tượng kinh tâm động phách nhất trong Hồng Lâu Mộng không phải là lúc Đại Ngọc mất hay Bảo Ngọc đi tu, mà là khi Giả Chính chạy theo ‘nghịch tử’ trên tuyết trong một nỗ lực tuyệt vọng. Người xưa bảo ‘Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật’ có nghĩa là buông dao đồ tể thì lập tức thành Phật. Chỉ trong một giây phút, Giả Chính đã giác ngộ. Ông ta đã được cứu rỗi bởi tình yêu.
Hồng Lâu Mộng khép lại ở đây. Người đọc không biết, người viết cũng không cách nào biết được số phận của các nhân vật sẽ tiếp diễn ra sao. Giả Chính đã gần sáu mươi tuổi, quá già để “xét lại” nhân sinh quan của bản thân mình. Có lẽ Giả Chính sẽ không bao giờ hiểu rằng chính hệ tư tưởng Nho giáo đè nén tự nhiên là thứ bóp (gần) chết quan hệ cha con của ông và Bảo Ngọc. Tình cảm cha mẹ dành cho con cái là thứ tự nhiên nhất trên đời, nó không thể bị chịu sự sai khiến của bất kỳ thứ giáo lý nào, cũng không thể bị dập tắt. Những dấu chân trên tuyết của Giả Chính còn mãi trên trang sách Hồng Lâu Mộng là minh chứng cho sức sống mạnh mẽ của tình thương đó.
Diệu Ngọc: miễn cưỡng diệt dục, sư chả phải sư, tục không phải tục
Diệu Ngọc trong Hồng Lâu Mộng là một nhân vật có thân phận cực kì đặc biệt. Trong 80 hồi đầu nàng chỉ ra mặt chính thức trong có hai hồi 41 và 76. Người đọc khi nghĩ tới nàng thường chỉ có “à, ni cô xinh đẹp trong Đại Quan Viên”, nhưng ít ai nhận ra rằng nàng là có trái tim nồng cháy chỉ kém Bảo Ngọc và Đại Ngọc.
Cuộc đời Diệu Ngọc là một cuộc đấu tranh vật lộn với cám dỗ, số phận của nàng bi thảm suy cho cùng cũng chỉ tại một chữ “tình”. Một ni cô, theo lẽ thường đã rũ bỏ hết tục lụy mà lại đa tình đến vậy sao?
Vài lời về thân thế của Diệu Ngọc:
Ngoài ra có một vị sư cô để tóc, tên Diệu Ngọc, là người Tô Châu. Cô này dòng dõi nhà quan, khi bé lắm bệnh, phải làm bao nhiêu hình nhân thế mạng, vẫn không khỏi; sau cùng phải xuất gia vì thế đi tu mà vẫn để tóc. Năm nay cô ta mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, chỉ còn có hai người vú và một a hoàn hầu hạ. Cô này chữ nghĩa rất thông, kinh kệ thuộc lòng, người lại đẹp.
Mới nghe qua, tưởng chừng Diệu Ngọc là một tấm gương sáng trong Phật môn, nhưng nhìn kỹ thì không hẳn. Một, mục đích tu hành của Diệu Ngọc không vì đam mê kinh kệ, càng không vì yêu mến cửa thiền, mà để cầu sức khỏe – một mục đích mang tính cá nhân và… chẳng liên quan gì đến Phật pháp lắm. Hai là, người đi tu phải “một hạt gạo cũng nhặt bỏ mồm, một sợi tơ cũng khoác che thân” nhưng Diệu Ngọc lại có đến ba, bốn kẻ hầu người hạ, vẫn giữ lối sống con nhà tiểu thư. Ngoài ra, đã tu hành thì nên coi mọi thứ là không, thân thể chỉ là cái túi da, nhưng Diệu Ngọc vẫn gắn bó với mái tóc của mình. Bộ tóc mây mượt mà là nét đẹp của người phụ nữ, Diệu Ngọc rõ ràng vẫn còn sân si với đời nên không nỡ từ bỏ nhan sắc của mình. Nhìn một cách rộng hơn, mái tóc mỗi người biểu tượng cho sợi dây liên kết với thế giới trần tục. Khi Liễu Tương Liên và Uyên Ương thề dứt bỏ tình ái đều cắt tóc. Bảo Ngọc khi đi tu thì cạo trọc đầu. Diệu Ngọc thân nhờ cửa Phật nhưng vẫn giữ mái tóc, chứng tỏ nàng ta vẫn “chân trong chân ngoài,” chưa một lòng một dạ với việc tu hành, đúng như Hình Tụ Yên nhận xét, “Thực đúng như tục ngữ nói: ‘Sư không phải sư, tục không phải tục, gái không phải gái, trai không phải trai’, chẳng ra nghĩa lý gì cả! “
Điều đáng nói thứ hai về Diệu Ngọc là tính cách kiêu kỳ, cao ngạo. Diệu Ngọc tự nghĩ mình là con gái nhà quan, không chịu lời hiệu triệu của kẻ khác, khiến Vương phu nhân phải đích thân viết thư mời mới chịu đến, bản thân lại ưa sạch sẽ đến mức bệnh hoạn. Xin đọc đoạn sau:
Giả mẫu uống nước xong, dẫn già Lưu đến am Lũng Thúy. Diệu Ngọc đón chào. Mọi người vào đến sân, thấy hoa tươi cây tốt, Giả mẫu cười nói:
– Bọn họ tu hành rỗi việc, hay sửa sang, trông đẹp hơn các nơi nhiều.
Vừa nói vừa đi lên thiền đường bên đông. Diệu Ngọc cười mời vào trong nhà, Giả mẫu nói:
– Chúng tôi vừa uống rượn, ăn thịt xong, trong nhà thờ Phật vào sợ mắc tội; ngồi ở đây thôi. Người cứ mang trà ngon ra, chúng tôi uống một chén rồi đi.
Bảo Ngọc để ý xem cách tiếp đãi của Diệu Ngọc như thế nào, thấy Diệu Ngọc mang cái khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng “vân long hiến thọ”, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu dâng lên.
[…]
Diệu Ngọc kéo áo Bảo Thoa và Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc cũng khe khẽ đi theo. Diệu Ngọc mời hai người vào buồng bên cạnh. Bảo Thoa ngồi ở trên giường, Đại Ngọc ngồi ở chiếu tụng kinh của Diệu Ngọc. Diệu Ngọc lấy bếp lò đun nước, pha một ấm trà khác. Bảo Ngọc khẽ chạy đến, cười nói:
– Các cô uống trà riêng đấy à?
Hai người đều cười nói:
– Anh lại đến uống gạ! Đây không có trà cho anh uống đâu.
Diệu Ngọc đang định ra lấy chén, thấy bà già đã thu dọn ấm chén ở ngoài sân. Diệu Ngọc vội nói:
– Đừng cất cái chén sứ Châu Thành vội, hãy để ở ngoài ấy.
Bảo Ngọc hiểu ý, biết là già Lưu uống chén ấy, sợ bẩn nên cô ta không dùng nữa. Sau Diệu Ngọc lại mang hai cái chén khác ra, một cái có quai, trên khắc ba chữ lệ “cô kiều trác”(2), bên cạnh có một hàng chữ nhỏ, viết chân phương “Vương Khải trân ngoạn”(3); lại có một hàng chữ nhỏ nữa viết “Tống Nguyên Phong ngũ niên tứ nguyệt My Sơn Tô Thức kiến ư bí phủ”(4). Diệu Ngọc rót một chén đưa cho Bảo Thoa. Còn một chén dáng như cái bát nhưng mà nhỏ, cũng có ba chữ “điểm tế kiều”(5) khắc lối triện. Diệu Ngọc pha trà vào chén và đưa mời Đại Ngọc, rồi lấy cái chén ngọc xanh của mình thường dùng pha cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:
– Người ta thường nói “thế pháp bình đẳng”(6), sao hai cô được dùng đồ cổ quý, mà tôi lại phải dùng đồ tục này?
Diệu Ngọc nói:
– Thế là đồ tục à? Không phải tôi nói liều đâu, nhà cậu chưa chắc đã tìm ra được cái đồ tục này!
– Tục ngữ nói “Vào làng phải theo làng”, đến đây thì nhưng đồ vàng ngọc châu báu đều cho là tục cả.
Diệu Ngọc nghe nói thích lắm, lại lấy ra một cái chén lớn làm bằng gốc trúc chạm rồng cuộn ngoằn ngoèo nhiều khúc, cười nói:
– Chỉ còn có một cái chén nhớn này thôi, cậu có thể uống hết được không?
– Uống hết được.
– Dù uống hết, cũng chẳng phí trà đâu cho cậu uống. Cậu không nghe người ta nói: “Uống chén thứ nhất là để thưởng thức mùi vị trà, chén thứ hai là phường ngu xuẩn uống cho khỏi khát, đến chén thứ ba là con trâu con lừa uống rồi”. Bây giờ cậu uống cả một chén lớn này còn ra cái gì nữa.
Bảo Thoa, Đại Ngọc và Bảo Ngọc nghe xong đều cười ầm lên. Diệu Ngọc cầm bình nước chỉ rót độ một chén con vào chén lớn, Bảo Ngọc nhấm nháp từng tí, thấy hương vị mát nhẹ, khen ngợi không ngớt. Diệu Ngọc nghiêm nét mặt nói:
– Cậu nhờ phúc của hai cô mới được uống trà này, chứ một mình cậu thì tôi không mời đâu.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi biết lắm, vì thế tôi không cám ơn người, chỉ cám ơn hai cô thôi.
Diệu Ngọc nói: “Đúng đấy”.
Đại Ngọc hỏi:
– Đây cũng là nước mưa năm ngoái phải không?
Diệu Ngọc cười nhạt:
– Cô mà lại là người rất tục, ngay nước uống không biết nếm. Đó là tuyết ở trên hoa mai mà năm năm về trước tôi lấy ở chùa Huyền Mộ Bàn Hương đấy, chỉ chứa được đầy một lọ hoa màu xanh thôi. Tôi chôn xuống đất để dành mãi, không uống, đến hè năm nay mới đào lên. Tôi chỉ uống một lần, nay là lần thứ hai cô nếm cũng không biết à? Nước mưa năm ngoái làm gì có hương vị mát dịu như thế? Uống thế nào được?
Bảo Thoa biết Diệu Ngọc có tính dở hơi, không thích nói nhiều, cũng không thích ngồi lâu; uống nước xong, rủ Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc nói với Diệu Ngọc:
– Cái chén bà già uống lúc nãy, tuy bẩn, nhưng vất đi thật đáng tiếc! Cứ ý tôi, nên cho bà già nghèo ấy đem bán cũng có thể sống qua ngày. Người thấy có được không?
Diệu Ngọc nghĩ một lúc gật đầu nói:
– Thôi được. May tôi chưa uống đến cái chén ấy bao giờ. Đã uống rồi thì tôi đập đi, không khi nào đem cho bà ấy. Cậu muốn cho bà ấy, xin mang ngay đi.
– Như thế là phải. Khi nào người lại thèm nói chuyện với bà ấy? Nếu nói chuyện với bà ta thì người cũng bị bẩn lây. Cứ đưa cho tôi là được.
Diệu Ngọc sai người mang cái chén đưa cho Bảo Ngọc, Bảo ngọc cầm lấy rồi nói:
– Khi chúng tôi ra về, sẽ bảo mấy đứa hầu nhỏ ra sông gánh mấy thùng nước rửa nhà, có được không?
– Thế thì tốt. Nhưng cậu dặn họ, gánh nước về cứ để ở chân tường ngoài cửa thôi, đừng mang vào đây.
– Đúng thế.
Rồi Bảo Ngọc cầm lấy cái chén đưa cho người nhà Giả mẫu và bảo:
– Ngày mai già Lưu về, mày đưa cái này cho già ấy.
Ngay lúc đó, Giả mẫu đã ra, muốn về. Diệu Ngọc cũng không giữ lại, đưa Giả mẫu ra đến cửa ngoài, rồi quay lại đóng cửa.
Đoạn này quả thật rất thú vị. Ở hồi 40, khi Giả mẫu đến thăm Hành Vu uyển của Bảo Thoa thì thấy: “Những cỏ lạ dây tiên, càng lạnh bao nhiêu thì lại càng xanh tốt bấy nhiêu…Vào đến trong nhà, thấy trắng tinh không có một thứ đồ chơi nào cả.” Tào Tuyết Cần vốn khéo mượn cảnh để nói người, ông tả Hành Vu uyển để khắc hoạ đươc tính cách lãnh đạm của Bảo Thoa. Ở đây thì ngược lại, Diệu Ngọc tuy là ni cô nhưng “hoa tươi cây tốt” trong nhà thì có “khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng ‘vân long hiến thọ’, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu”, loè loẹt chẳng khác gì nhà trưởng giả. Rồi Diệu Ngọc không để bà già uống chén của mình, nhưng lại uống cùng chén với Bảo Ngọc, chứng tỏ nàng đã có cảm tình đặc biệt với cậu ta. Diệu Ngọc tu nhưng chỉ là tu… ngoài miệng chứ còn lâu đạt đến độ tiêu diêu thoát tục. Thế nhưng nàng ta lại rất thích tỏ ra hơn đời, rằng ta đây thanh sạch hơn người, cư xử khác thường. Sự giả dối của Diệu Ngọc không qua được mắt Bảo Thoa, nên nàng không ưa Diệu Ngọc cũng phải. Cả Lý Hoàn cũng từng nói là ghét Diệu Ngọc. Sự kỳ thị của Diệu Ngọc với già Lưu tội nghiệp càng khiến người đọc thấy Diệu Ngọc cao quý thì ít mà hợm hĩnh thì nhiều. Già Lưu là một bà già nghèo khổ nhưng tấm lòng rất trong sạch, tuy nhiên Diệu Ngọc chỉ nhìn thấy vẻ ngoài lam lũ của bà mà coi thường; đây là chỗ chưa giác ngộ của nàng ta.
Bi kịch thật sự của Diệu Ngọc bắt đầu khi nàng ta bắt đầu động lòng phàm trần. Bảo Ngọc chính là làn gió xuân thổi vào mặt ao phẳng lặng của nàng. Những người không tin rằng Diệu Ngọc có một tâm hồn yêu đương cuồng nhiệt chỉ cần nhìn vào loài hoa biểu trưng cho nàng. Đại Ngọc nhìn hoa đào rụng thì thương hoa rồi liên tưởng đến thân phận của mình mà làm bài “Táng hoa từ“, màu hồng nhạt của hoa ứng với tâm tình thiếu nữ vừa rung động của cô lâm. Diệu Ngọc thì sao?
Bảo Ngọc đi đến dưới dốc núi vừa vòng qua chân núi, đã ngửi thấy mùi hương lạnh. Quay lại, am Lũng Thúy của Diệu Ngọc ngay đó có mấy chục cây hồng mai, đỏ thắm như son, chiếu xuống màn tuyết càng thêm chói lọi, trông rất đẹp mắt.
Trong Hồng Lâu Mộng một bông hoa một chiếc lá cũng có tình là vậy. Diệu Ngọc tuy thân ở chốn tu hành lạnh lẽo (tuyết) nhưng cảm xúc trai gái trong lòng nàng đã bắt đầu trỗi dậy cuồng nhiệt chẳng khác nào những cây hồng mai rực rỡ kia, không cách nào ngăn nổi. Màu hồng mai đỏ đậm hơn màu hoa đào là hàm ý rằng Diệu Ngọc còn khao khát yêu đương hơn Đại Ngọc. Tên Diệu Ngọc có nghĩa là viên ngọc kì diệu, nhưng chữ Ngọc (玉) lại đồng âm với chữ Dục (慾). Tào Tuyết Cần gửi Diệu Ngọc vào chốn thiền môn, nhưng vẫn để nàng mang trong mình dục vọng. Khi Bảo Ngọc nằm mộng tới Thái Hư ảo cảnh có thấy gặp bốn nàng tiên – Si Mộng tiên cô, Chung Tình đại sĩ, Dẫn Sầu kim nữ, Độ Hận bồ đề. Bốn người này chính là hiện thân trên trời của bốn tiểu thư bầu bạn với Bảo Ngọc dưới cõi trần: Đại Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Diệu Ngọc. Danh hiệu “Độ Hận bồ đề” chính dành cho người đi tu Diệu Ngọc.
Các chị em trong Đại Quan viên đã bắt Bảo Ngọc đi “phỏng Diệu Ngọc khất hồng mai.” Tào Tuyết Cần không mô tả cuộc gặp gỡ xin cành hồng mai của Bảo Ngọc với Diệu Ngọc ra sao, người đọc chỉ có thể… đoán mò. Nhưng một điều chắc chắn: sau cuộc gặp gỡ lần thứ hai đó, tình cảm Diệu Ngọc dành cho Bảo Ngọc đã phát triển lên một tầng cao mới, khiến nàng ta đường đột gửi thiệp mừng sinh nhật Bảo Ngọc.
Tình Văn vội nhấc cái nghiên ra, thấy một tờ thiếp, đưa cho Bảo Ngọc xem, một tờ giấy hoa tiên màu phấn hồng, có viết: “Người ngoài cửa là Diệu Ngọc kính chúc ngày sinh nhật”. Bảo Ngọc xem xong, nhảy lên hỏi:
– Ai nhận được giấy này lại không cho tôi biết?
Nếu người đọc hiện đại tặc lưỡi, “có sao đâu nhỉ?” thì xin hãy nhớ đó là thời nào, trật tự phong kiến ra sao, và Diệu Ngọc là ai! Diệu Ngọc tự xưng là “người ngoài cửa,” ý rằng mình nằm ngoài cuộc sống xô bồ, nhưng tâm hồn nàng thì lại ngập tràn hình ảnh Bảo Ngọc. Chỉ có cậu ngốc Bảo Ngọc mới khờ khạo cho rằng “cô ấy không phải là người trong đám trần tục, mà là đứng ngoài cuộc đời” chứ Hình Tụ Yên là người kín đáo hiểu đời thì đã biết tỏng:
Tụ Yên nghe vậy, đưa mắt ngắm nghía Bảo Ngọc một lúc, cười bảo:
– Tục ngữ nói: “Tai nghe không bằng mắt thấy”, không trách được Diệu Ngọc lại đưa cái thiếp này cho cậu, cũng không trách được năm ngoái cô ấy cho cậu cành hoa mai.
Tụ Yên biết rõ đầu đuôi Diệu Ngọc tự xưng “người ngoài cửa” vì yêu thích hai câu thơ “Cửa sắt nghìn năm dầu vững chắc, Đốt bùn một nắm cũng chôn vùi.” nhưng một khi được diện kiến tướng mạo phong lưu của Bảo Ngọc, Tụ Yên hiểu ngay Diệu Ngọc đã đem lòng tương tư cậu ta. Cái nghiệp của Diệu Ngọc là đi tu mà chưa trót đời, yêu người mà không dám nói. Tình cảnh hôm nàng cùng hoạ thơ với Đại Ngọc và Tương Vân diễn tả rất hay nội tâm Diệu Ngọc:
“Diệu Ngọc cười nói:
– Thấy các người thưởng trăng, lại nghe tiếng sáo thổi, tiện đường tôi cũng đến đây ngắm cảnh nước trong trăng sáng một chút.
[…]
Hai người cầm lấy xem, thấy Diệu Ngọc làm tiếp:
Đỉnh vàng nghi ngút huơng nồng,
Long lanh châu ngọc như lồng màu son.
Nghe tiêu gái góa nỉ non,
Ôm chăn nhờ có a hoàn ủ cho.
Màn không, phượng những thẫn thờ,
Bình phong quạnh quẽ, uyên vơ vẩn hồn.
[…]“
Trong Đại Quan viên có am Thủy Nguyệt là nơi các ni cô tình tứ với Giả Cần, là nơi Trí Năng hẹn hò cùng Tần Chung. Thuỷ Nguyệt là bóng trăng trong nước, nhìn thì đẹp đẽ nhưng không có thực, ngoài ra động cái là tan vỡ. Trăng trên bầu trời, bóng trong làn nước, tuy nhìn thấy, nhưng mò không thấy. Rốt cuộc vẫn là không. Tu hành như Diệu Ngọc chẳng khác nào tìm trăng đáy nước. Nửa đêm nàng vẫn chưa ngủ, lại ra ngoài ngắm trăng gió vẩn vơ, phải chăng có tâm sự gì kín đáo? Nếu bạn đọc nghĩ tôi quá đa nghi thì xin mời đọc bài thơ Diệu Ngọc làm sau đó. Một ni cô mà lại nhắc đến đỉnh vàng, hương nồng, châu ngọc, phấn son, lại thấy chăn gối lạnh đến mức thẫn thờ, nỉ non ai oán thì có lẽ ni cô đó nên hoàn tục sớm thôi!
Cành hồng mai đi trước, thiệp sinh nhật theo sau. Đến khi giáp mặt Bảo Ngọc lần cuối cùng, Diệu Ngọc đã không còn có thể che giấu được tình cảm của mình.
Vừa nói, vừa chào Diệu Ngọc, lại cười hỏi:
– Cô Diệu không mấy khi ra khỏi cửa thiền, hôm nay có duyên nợ gì lại xuống trần chơi thế?
Diệu Ngọc nghe nói bỗng dưng đôi má ửng đỏ, cũng không trả lời, chỉ cúi đầu xuống nhìn bàn cờ.
Bảo Ngọc tự nghĩ mình láu táu quá, liền cười và nói lấy lòng:
– Con nhà tu hành thật không giống như bọn người trần tục chúng tôi. Trước hết là giữ lòng cho yên tĩnh; yên tĩnh thì thông minh; thông minh thì sáng suốt.
Bảo Ngọc nói chưa xong, thấy Diệu Ngọc nhè nhẹ ngước mắt lên, nhìn Bảo Ngọc một cái, rồi lại cúi đầu xuống, đôi má dần dần ửng đỏ. Bảo. Ngọc thấy cô ta không để ý gì đến mình, liền thẫn thờ ngồi xuống một bên.
Tích Xuân còn muốn đánh cờ nữa, Diệu Ngọc chậm chạp nói:
– Chốc nữa hãy đánh.
Cô ta liền đứng dậy sửa lại xiêm áo rồi lại ngồi xuống, vơ vẩn hỏi Bảo Ngọc:
– Cậu ở đâu lại đây?
Bảo Ngọc đang cố chờ Diệu Ngọc lên tiếng hỏi để chống chế câu nói của mình lúc trước, bỗng lại nghĩ: “Hay là câu hỏi của Diệu Ngọc có mưu mô gì chăng?” Liền đỏ mặt lên, nói không ra lời. Diệu Ngọc mỉm cười đoạn nói chuyện với Tích Xuân. Tích Xuân cũng cười, nói:
– Anh Hai này, điều đó có gì khó trả lời? Anh lại không nghe người ta thường nói: “Ở chỗ mình mà đến” à? Thế mà cũng đỏ mặt lên, giống như thấy người lạ ấy?
Diệu Ngọc nghe câu ấy, nghĩ thầm đến bộ dạng mình lúc vừa rồi, động lòng nóng má, tất nhiên là má cũng đỏ, cô ta cảm thấy ngượng, liền đứng dậy nói:
– Tôi đến lâu rồi, phải về am đây.
Đến đoạn này thì Bảo Ngọc có khờ đến mấy chắc cũng phải chột dạ. Cảnh tượng éo le vừa rồi khiến Tích Xuân đã ngầm hiểu và trong bụng có sự so sánh rằng mình đi tu thì hợp lý hơn nhiều. Tích Xuân sau này nghĩ: “Diệu Ngọc tuy là trong sạch, nhưng trần duyên chưa dứt. Tiếc thay mình lại sinh ở nhà này, tu hành không tiện; nếu mình được tu hành, làm gì có tà ma nhiễu hại! Chắc chắn sẽ lửa lòng lạnh tắt, duyên nghiệp sạch không.” Sau đó Bảo Ngọc đưa Diệu Ngọc ra về, trên đường hai người lại tình cờ nghe bản đàn não nùng đến mức đứt dây của Đại Ngọc, (“Định sẵn chừ, hoài công lo lắng, Sao bằng trăng giữa trời kia lòng trong trắng“) khiến Diệu Ngọc “thất sắc, đứng dậy vội vàng chạy đi.” Có thể nói những lời này đã chạm đến chỗ sâu kín trong tâm sự của Diệu Ngọc, lại cộng thêm sự có mặt của Bảo Ngọc, khiến tâm thần cô ta bị kích động mạnh mẽ. Đêm hôm đó Diệu Ngọc về Chùa đọc kinh phật, nhưng ác thay lại có hai con mèo động tình ở đâu đến gù nhau, khiến cô ta bị khêu gợi. Chả trách ông Lâm Ngữ Đường đã khinh bỉ gọi Diệu Ngọc là người đàn bà cuồng dâm.
Diệu Ngọc sực nhớ lời nói Bảo Ngọc lúc ban ngày, bỗng thấy động lòng nóng tai, vội vàng ổn định lại tâm thần, đi vào buồng thiền, lại lên giường ngồi. Nhưng khốn nỗi thần hồn bất định, hình như muôn ngựa ruổi rong, rồi cảm thấy như là cái giường cứ lắc lư, thân mình không còn ở trong am nữa. Cô thấy có rất nhiều vương tôn công tử đòi cưới mình làm vợ; lại thấy có nhiều bà mối lôi lôi kéo kéo, đẩy mình lên xe, mà mình thì không chịu đi. Một chốc lại thấy kẻ cướp, kẻ trộm cầm dao vác gậy đến bức bách mình. Diệu Ngọc đành phải khóc rầm lên và kêu cứu.
Bọn ni cô, đạo bà trong am nghe tiếng, đều thắp đèn đuốc tới xem, thì thấy Diệu Ngọc hai tay duỗi ra, miệng sè nước bọt. Họ vội vàng gọi tỉnh lại, thấy hai mắt Diệu Ngọc trừng lên, hai má đỏ thắm, miệng mắng:
– Tao có bồ tát phù hộ, bọn kẻ cướp chúng bay dám làm gì?
Mọi người nghĩ Diệu Ngọc bị âm hồn quấy nhiễu, ai ngờ chính tâm ma của cô ta là ngọn núi lửa phun trào, cuốn Diệu Ngọc vào vòng xoáy dục vọng. Căn bệnh của Diệu Ngọc được miêu tả mang nhiều tính ẩn dụ hơn là bệnh thật. Ông thầy lang bảo Diệu Ngọc bị “tà hỏa nhập vào tim”, hoả là lửa, chính là ý nói Diệu Ngọc có trái tim nóng bỏng.
Tin này đồn ra ngoài, bọn chơi bời lêu lổng nghe được, liền bịa đặt ra nhiều chuyện không đâu. Chúng nói:
– Người chừng ấy tuổi, chịu làm sao được? Vả lại hình dáng phong lưu, tính tình linh lợi, sau này chẳng biết lọt vào tay ai, thì người ấy tốt phúc.
Cuối cùng số phận của Diệu Ngọc đã lọt vào tay ai? Số phận Diệu Ngọc đến hồi kết ở chương “Sống đầy oan nghiệt. Diệu Ngọc bị giặc cướp đi.” Nhan sắc xinh đẹp mà nàng ra sức bảo vệ đã khiến một tên cướp động lòng khi nhìn trộm nàng đánh cờ cùng Tích Xuân. Không kìm được, y bèn dùng muội hương lẻn tới am Lũng Thúy để bắt cóc nàng.
Lúc bấy giờ Diệu Ngọc vẫn tỉnh táo, chỉ không cử động được, nghĩ bụng: “Nó muốn giết mình chăng? Nhưng đã quyết liều mạng, nên cũng không sợ”. Nào ngờ tên kia giắt dao vào sau lưng, giơ tay ra, nhẹ nhàng ôm Diệu Ngọc dậy, đùa cợt một hồi rồi cõng lên trên lưng. Lúc bấy giờ Diệu Ngọc mê man ngây ngất. Thương thay! Một người con gái trong sạch, bị kẻ cướp dùng muội hương làm cho mê mẩn, để mặc cho nó trêu đùa. Tên giặc kia cõng Diệu Ngọc đến bên tường sau vườn, dùng thang dây leo qua. Bên ngoài đã có đồ đảng của nó đem xe chờ sẵn. Người kia để Diệu Ngọc vào trong xe, ngoài treo một chiếc đèn lồng có dấu hiệu quan chức rồi vội vàng đi đến cửa thành. Lúc ấy chính là giờ mở cửa. Quan coi thành chỉ nghĩ là người có việc quan đi ra ngoài nên cũng không kịp tra hỏi. Ra khỏi thành rồi, tên kẻ cướp giục ngựa đi, chừng hai mươi dặm, đến một nơi cùng bọn đồ đảng gặp mặt rồi chia đường đi về miền biển Nam Hải. Không biết sau khi Diệu Ngọc bị cướp đi, có cam chịu nhơ nhớp hay không chịu khuất phục mà chết, chẳng rõ ra sao, khó lòng đoán ra được.
Theo như ông Dư Anh Thời đã nhận xét, “Diệu Ngọc là một người thanh sạch đệ nhất trong thế giới lí tưởng Đại Quan Viên, và sau khi thế giới đó tan vỡ lại là người lưu lạc vào chốn ô uế nhất của thế giới hiện thực.” Trong Hồng Lâu Mộng người ta đồn đại “Diệu Ngọc động lòng tình dục, bỏ đi theo người” liệu có oan uổng? Bảo Ngọc thì đau buồn, phân vân tự hỏi: “Con người như thế, thường tự xưng là “Người ngoài cửa”, sao mà kết cục lại như thế?” Thái độ của những người khác trong Giả phủ với Diệu Ngọc thì không mấy tốt đẹp:
– Hôm trước nghe nói sư phụ Diệu Ngọc ở am Lũng Thúy đã đi theo người ta phải không?
– Câu nói ấy ở đâu ra thế? Ai nói coi chừng sẽ bị cắt lưỡi đấy? Người ta bị kẻ cướp bắt đi, sao lại nói bậy như vậy?
– Sư phụ Diệu Ngọc là người kỳ quặc, chúng tôi sợ cô ta bày đặt ra thôi. Trước mặt cô, nói ra thì không tiện, chứ cô ta có phải như bọn quê mùa chúng tôi đâu. Chúng tôi chỉ biết tụng kinh niệm Phật, sám hối cho người khác, và cũng tu lấy thiện quả cho mình.
Nhưng đã tu thì phải tu cho đứng đắn. Sư phụ Diệu Ngọc cứ cho mình tài giỏi hơn chúng tôi, cứ chê bọn chúng tôi là tục. Biết đâu có tục mới có “duyên lành”. Còn mình, rốt cuộc lại gặp phải điều khổ lớn!
Nay cô Diệu Ngọc không biết đi đâu rồi. Bao nhiêu nhà cửa ở đó, ni cô giữ nhà cho Diệu Ngọc. không dám làm chủ, chỉ mong có một người trong phủ đến trông coi.Mọi người nói:
– Cái cô Diệu Ngọc nào đó tu ở trong am Lũng Thúy của phủ ta, chẳng phải đã bị người nào bắt đi đấy sao? Có phải người con gái bị bất ấy chính là cô ta không!
Giả Hoàn nói:
– Chắc là cô ta!
– Sao cậu biết được?
– Cái con Diệu Ngọc ấy thực đáng ghét. Suốt ngày nó hay làm bộ, nhưng hễ thấy anh Bảo Ngọc là nó vui tươi hớn hở; có gặp tôi thì nó không thèm nhìn. Nếu quả thực nó bị giết thì tôi cũng thỏa lòng! Giả Vân nói:
– Cũng có phần đáng tin. Hôm trước có người nói một đạo bà trong am ấy nằm mộng thấy Diệu Ngọc bị người ta giết chết rồi.”
Lá số tiền định của Diệu Ngọc đã định cho nàng là viên ngọc quý lấm bùn:
“Muốn sạch mà không sạch
Rằng không chửa hẳn không
Thương thay mình vàng ngọc
Bùn lầy sa vào trong.”
Số phận Diệu Ngọc là phải chịu ô nhục, vừa không thể giữ tấm thân trong sạch, vừa không thể giữ tâm hồn không vướng bụi trần, miễn cưỡng diệt dục, yêu Bảo Ngọc mà lại thất thân với kẻ cướp, cuối cùng lênh đênh không biết về đâu. Hoàn cảnh sống nơi phồn hoa, chết trong loạn lạc này có chút điểm tương đồng với Tào Tuyết Cần. Ông chỉ miêu tả Diệu Ngọc, nhường phần phán xét nàng cho người đọc. Nhưng một thân phận bị giày xéo phũ phàng làm vậy, chúng ta nỡ lòng nào không thương xót sao?
Đại Ngọc vs Bảo Thoa: viên ngọc đen vs chiếc thoa vàng, ai hơn ai kém?
“Rốt lại thì Đại Ngọc-Bảo Thoa ai hơn ai kém?” là một trong mười công án lớn của Hồng Lâu Mộng. Thật khó có thể trả lời thoả đáng đến tận cùng, bởi Tào Tuyết Cần đã cố tình cho hai nhân vật này làm đối trọng trong tam giác tình yêu, ắt không cho phép có sự chênh lệch quá xa. So bề tài sắc thì chẳng có ai trội hơn ai, người là chiếc thoa vàng, người là viên ngọc đen (chữ “đại” trong tên Đại Ngọc là chỉ màu huyền của loại đá dùng vẽ lông mày, không phải là to lớn). Càng đi vào tiểu tiết lại càng khó phân định rạch ròi, đơn giản là người thích cô Lâm, người yêu cô Bảo, cũng như anh thích làm toán, tôi thích viết văn, không có ai đúng ai sai. Vậy so sánh Đại Ngọc và Bảo Thoa phải chăng là một việc làm vô ích?
Hoàn toàn không phải như vậy. Giữa cõi mịt mù hỗn độn lại có thể nhận ra một số đặc điểm và bản chất, ấy chính là Hồng Lâu Mộng. Trên thực tế, không thể nói đến Đại Ngọc mà không kể đến Bảo Thoa, và ngược lại. Người Trung Quốc quan niệm thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa, câu đối lại là tinh hoa của thơ văn. Câu đối gồm hai vế sóng đôi để tôn vinh cái hay của nhau, cả hai cùng tề chỉnh, không cái nào xuất sắc hơn cái nào mới là câu đối hay. Quan hệ giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa đại khái cũng gần giống như hai vế của câu đối vậy.
Số phận của Đại Ngọc và Bảo Thoa có gắn kết chặt chẽ với Bảo Ngọc, một bên là “mộc thạch tiền minh,” một bên là “kim ngọc lương duyên”. Bảo Ngọc có lúc ngả sang người này, có lúc lại rung động với người kia, kết cục làm cho một người chết uống, một người sống uổng. Nhìn qua thì có vẻ là một câu chuyện tình tay ba điển hình, nhưng nếu đi sâu hơn thì mối quan hệ này có ý nghĩa tượng trưng rất mạnh mẽ. Tên của Bảo Ngọc chính là ghép giữa chữ “Bảo” trong Bảo Thoa và chữ “Ngọc” trong Đại Ngọc – từ bản thể sâu kín nhất, Bảo Ngọc đã không thể tồn tại mà thiếu một trong hai nàng. Đứng giữa hai tiểu mỹ nhân yêu kiều, các chàng thường trộm nghĩ “thân này ví xẻ làm đôi…”, còn Bảo Ngọc thì lại mơ hai nàng hợp thành một. Trong giấc mộng ở Thái Hư ảo cảnh, Bảo Ngọc đã gặp ai?
Tiên cô truyền bảo dọn bàn tiệc đi, đưa Bảo Ngọc vào một buồng thêu thơm tho. Trong đó trang hoàng nhiều đồ xưa nay chưa từng thấy. Đáng sợ nhất là có một nàng tiên ngồi đấy, tươi đẹp nhu mì, giống hệt Bảo Thoa, dịu dàng phong lưu lại như Đại Ngọc.
Đây là giấc mộng đánh dấu bước đầu sự trưởng thành về tình, tính, và dục của Bảo Ngọc, hay như Tào Tuyết Cần gọi là “phong lưu gây lấy nợ vào thân”. Từ giây phút ân tình với nàng tiên đó, Bảo Ngọc không còn là một đứa trẻ chưa biết mùi đời. Về mặt sinh lý là vậy, còn trong tiềm thức, rõ ràng Bảo Ngọc đã hình thành một “ideal type” (mẫu hình lý tưởng). Người phụ nữ hoàn hảo của cậu Bảo (cũng của Tào tiên sinh) không phải ai cụ thể, mà là một nàng Pandora “lắp ghép” từ Bảo Thoa và Đại Ngọc. Sự kết hợp giữa Bảo Thoa và Đại Ngọc là sự vẹn toàn thập toàn thập mỹ, là một thứ “fantasy”… bất khả thi, vì thế mà nàng tiên chỉ xuất hiện trong giấc mơ chứ không thể tồn tại ngoài đời thực. Tuy nhiên, qua chi tiết giấc mơ có thể thấy triết lý của Tào Tuyết Cần về hai nửa cấu thành nữ tính Trung Hoa. Nữ tính huyền bí đó là một mẫu mực lý tưởng xuất hiện trong giấc mơ của Bảo Ngọc – một giấc mộng nhỏ lồng trong giấc mộng lầu hồng, rồi thiên hạ chẳng qua cũng chỉ là một trường đại mộng. Vậy phải chăng Đại Ngọc và Bảo Thoa đơn giản là hai mảnh của trí tưởng tượng mà thôi?
Nếu chỉ có vậy thì cuộc tranh luận về Bảo Thoa-Đại Ngọc có thể đi đến hồi kết ở đây rồi. Nhưng trong số mười công án của Hồng học, còn có một câu hỏi lớn:
Hồng lâu mộng có chứa đựng tư tưởng phản Mãn Thanh hay không?
Thời Trung Hoa dân quốc, các nhà Hồng học bắt đầu mạnh dạn hơn trong việc phân tích yếu tố chính trị của Hồng Lâu Mộng, kể từ đó nảy sinh ra nhiều học thuyết mới, trong đó có một thuyết cho rằng hai người đẹp của Hồng Lâu Mộng là đại biểu của hai thời Minh, Thanh.
Tào Tuyết Cần viết Hồng Lâu Mộng vào thời điểm vận nhà và vận nước đều đang suy. Thời Ung Chính, Càn Long, người Mãn Châu đã chiếm được giang sơn gấm vóc của nhà Hán được một thời gian khá dài. Đất nước thái bình thịnh trị, tuy nhiên không ít người vẫn còn nuối tiếc tiền triều. Những tổ chức nửa tôn giáo nửa chính trị kiểu Thiên Địa hội mang tư tưởng phản Thanh phục Minh có không ít người tham gia. Khởi nghĩa lật đổ triều chính trong nội bộ Hán tộc có đầy rẫy trong lịch sử, nhưng người Hán đặc biệt căm hận việc đất nước bị di địch xâm lược. Người Mãn Châu, cũng như người Hung Nô, Khiết Đan,… đều bị coi là man di. Nhà Nguyên (Mông Cổ) đã một lần công diệt Nam Tống, chiếm lấy Trung Hoa, rồi lại bị Chu Nguyên Chương cướp về, lên làm Minh Thái tổ. Triều Minh là triều đại cuối cùng do người Hán cai trị. Về sau Ngô Tam Quế mở cửa cho người Mãn Châu vào lãnh thổ Trung Hoa, cướp lấy chính quyền, lập ra nhà Thanh. Nỗi nhục bị những kẻ “mọi rợ” chiếm lấy đất nước đã ám ảnh không ít thế hệ văn sĩ người Hán. Hồng Lâu Mộng ra đời không sớm không muộn, đúng lúc kinh tế thịnh vượng nhưng tư tưởng phục quốc vẫn còn dai dẳng. Bởi vậy có nhiều người cho rằng Tào Tuyết Cần đã kín đáo gửi gắm vào hai nhân vật Đại Ngọc-Bảo Thoa xu hướng chính trị của ông, và Hồng Lâu Mộng chưa bao giờ là một tiểu thuyết tình ái đơn thuần.
Xét về gia thế, Đại Ngọc mồ côi cả cha lẫn mẹ, có thể nói là gần như “vô sản”. Bảo Thoa thì có cả anh và mẹ, gia thế giàu có bậc nhất, là một trong bốn nhà giàu ở Kim Lăng, “ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi”. Tình cảnh bơ vơ của Đại Ngọc liệu có khác gì nhà Hán mất cả giang sơn, chẳng còn mảnh đất cắm dùi? Đương nhiên người Mãn Châu thứ nhất là số lượng không đông đảo, thứ hai là muốn thu phục nhân tâm, nên vẫn để quan lại người Hán giữ chức trong triều, nhưng những lời xì xào thiên vị người Mãn, chèn ép người Hán quả thật không ít. Tâm lý giận dỗi, so bì của Đại Ngọc trong Hồng Lâu Mộng thật chẳng khác gì thái độ uất ức của những sĩ phu vong quốc thời bấy giờ.
Đại Ngọc ghé vào tay Bảo Ngọc xem và hỏi:
– Chỉ đưa cho mình tôi thôi, hay các cô khác cũng có cả.
Bà Chu nói:
– Các cô đều có, hai cành hoa này là của cô đấy!
Đại Ngọc cười nhạt:
– Tôi biết rồi, thừa người mới đến phần tôi.
Xét về hình dáng, Đại Ngọc mong manh sương gió, là nàng Tây Thi đa bệnh, “người yếu như không mang nổi áo, nhưng lại có một vẻ yêu kiều yểu điệu riêng.” Bảo Thoa thì ngược lại, “mặt tròn mâm bạc”, cơ thể phốp pháp giống như Dương Quý phi, mang vẻ đẹp vượng phu ích tử. Người Mãn Châu vốn xuất thân từ du mục, sống trên lưng ngựa, tự nhiên là hay giễu nhại những văn sĩ người Hán “trói gà không chặt”. Nhìn rộng hơn, thể lực kiệt quệ, thường xuyên đau ốm của Đại Ngọc ngụ ý cho vận khí yếu ớt của nhà Minh, trái ngược với nhà Thanh đang đà sung sức. Về cuối truyện Đại Ngọc qua đời là cái kết có thể dự đoán trước, bởi nó ứng hợp với sự rệu rã của nhà Minh. Cái chết của Đại Ngọc cho thấy cái nhìn bi quan của người viết. Thực ra triều đại nào cũng có giai đoạn cường thịnh rồi chuyển sang suy vi. Nhà Thanh đến cuối thế kỷ 19 cũng chỉ còn là một cái bóng của thời Khang Hy, Càn Long.
Xét về nguyện vọng, hành vi trốn mình trong những áng văn mơ mộng kiểu Tây Sương ký, hoặc khóc thương hoa chết trong Táng Hoa từ của Đại Ngọc chính là ẩn dụ cho căn bệnh thoát ly thực tại (escapism) của nhiều người Hán dưới thời cai trị của nhà Thanh. Thương thân trách phận (mồ côi), tiếc nuối quá khứ (được cha mẹ bảo bọc), sợ hãi tương lai (bị bỏ rơi), Đại Ngọc có tâm bệnh rất nặng. Bảo Thoa thì mang nặng tư tưởng phong kiến, luôn khuyên Bảo Ngọc ra làm quan, rõ ràng là có ý đồ chính trị, nếu không thì cũng rất thực tế, nếu chưa nói là xu thời. Bảo Thoa suy nghĩ mạch lạc, thực dụng, có việc đến thì bình tĩnh giải quyết, không mở miệng oán thán. Đại Ngọc coi chốn quan trường là nơi bẩn thỉu, Bảo Thoa cho rằng những áng văn mơ mộng là độc hại. Sự trái ngược này đã phản ảnh thế giới quan khác nhau giữa (một số không nhỏ) người Hán và người Mãn Châu dưới thời nhà Thanh.
Xét về tính cách, Đại Ngọc có tư thế ngạo nghễ khinh đời, còn Bảo Thoa thì mềm mại và khéo léo. Điều này tưởng chừng ngược đời nhưng thực ra lại rất hợp lý. Trong truyện đã nói rõ:
Bảo Thoa lại cư xử khoát đạt, tùy phận theo thời; không giống như Đại Ngọc có tính kiêu kỳ tự phụ, chẳng chịu kém ai, cho nên rất được lòng người dưới.
Nếu sự khiêm nhường của Bảo Thoa xuất phát từ tâm lý tự tin của kẻ thắng thì sự tự phụ của Đại Ngọc lại mang nặng màu sắc tự ti, tư thế thua cuộc. Tào Tuyết Cần có thể nói là bậc thầy tâm lý, ông không lạ gì trước những thái độ tiêu cực, oán trách thời cuộc của người Hán, dựa vào đó miêu tả sự dằn vặt, oán trách của Đại Ngọc rất tinh diệu. Trong suốt cả câu chuyện, Đại Ngọc không ngừng ghen tuông, lo sợ Bảo Ngọc yêu Bảo Thoa, chẳng khác nào người Hán cố gắng níu kéo những hồi ức và hào quang của tiền triều. Kết cục thì Đại Ngọc vẫn đánh mất Bảo Ngọc, và dòng chảy của thời cuộc cũng mau chóng chôn vùi nhà Minh dưới cát bụi thời gian, bởi những nỗ lực manh mún giành lại thiên hạ từ tay người Mãn Thanh đều không thành công.
Xét về kết cuộc, Bảo Thoa và Đại Ngọc đều không thành công trong tình cảm với Bảo Ngọc. Một người có được trái tim cậu ta, nhưng rốt cục chỉ còn một khối tình hận. Người còn lại có được Bảo Ngọc bằng xương thịt, nhưng chỉ là cái vỏ rỗng tuếch. Nếu coi Bảo Ngọc là hình ảnh đại diện cho trí thức người Hán thì hành trình yêu đương của Bảo Ngọc chính là đi tìm cái tôi chung. Bảo Ngọc xuất hiện đã sống chết yêu Đại Ngọc như quen từ kiếp trước, có điểm giống với tình cảm dân tộc không dễ gì cắt đứt. Rốt cuộc tình yêu đó bị chứng tỏ là không thực tế, thậm chí là có hại và bị ngăn cản, Bảo Ngọc tiếc nuối dằn vặt nhưng vẫn phải thuận theo thời cuộc, kết hôn cùng Bảo Thoa. Về sau Bảo Ngọc hoàn thành nhiệm vụ với gia đình, lấy vợ sinh con đi thi đỗ, nhưng tâm hồn cậu ta đã vĩnh viễn rời khỏi thế giới trần tục, chẳng khác nào những sĩ phu người Hán ra làm quan cho nhà Thanh nhưng trong lòng trống rỗng và đau khổ. Bảo Ngọc còn có thể về cõi Đại Hoang, còn người sĩ phu thì biết về đâu?
Tào Tuyết Cần vốn dòng dõi người Hán ở Liêu Dương, về sau tổ tiên ông đầu hàng nhà Thanh, nhập tịch Mãn Châu. Nhà họ Tào có uy danh cực lớn, tiền của nhiều như nước, được nhà Thanh sủng ái. Trong gia tộc có ít nhất hai người làm phi tần trong cung, giống với Nguyên Xuân trong truyện. Về sau, khi Ung Chính lên ngôi, những chuyện ăn của đút, bòn rút bị lôi ra ánh sáng, nhà họ Tào liền bị thất sủng, có thể nói là y hệt như tình cảnh nhà họ Giả. Tào Tuyết Cần sinh ra lúc vận nhà khó khăn, thân mang tài nghệ nhưng không thể thỏa chí bình sinh, quả thực đã mang một nỗi uất ức lớn. Tình cảm phức tạp của ông với nhà Minh và nhà Thanh ra sao, ta chỉ có thể phỏng đoán dựa vào những chi tiết ít ỏi, và tác phẩm duy nhất còn lại của ông – Hồng Lâu Mộng.
Tào Tuyết Cần liệu có thực sự ủng hộ phản Thanh phục Minh thì không thể biết chắc, nhưng dựa vào một chi tiết nhỏ như mắt muỗi, có thể suy ra cách ông xếp hạng Đại Ngọc và Bảo Thoa. Chi tiết đó nằm ở hồi Giả Chính vào thăm vườn Đại Quan:
Mọi người níu dây vịn cây đi lên, thấy mặt nước hoa rụng man mác, dòng suối trong vắt rập rờn quanh co; hai hàng liễu rủ bên bờ, những cây đào, cây mận, mọc chen nhau che rợp cả bóng mặt trời. Khắp nơi, không có một chút đất bụi. Trong rặng liễu nhô ra một nhịp cầu, lan can sơn đỏ.
Qua cầu, đường thông các ngả; xa xa, có một tòa nhà ngói mát mẻ và một dãy tường hoa. Ở đây mạch núi chính đều xuyên qua tường chia đi các ngả.
Giả Chính nói:
– Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì! (*)
Nơi này về sau chính là Hành Vu uyển, nơi ở của Bảo Thoa.
Bước vào cửa là một dãy hành lang quanh co. Nước đượm mùi thơm.Dưới thềm có con đường đá. Mặt trước ba gian nhà nhỏ, sạch sẽ, cửa khép, cửa mở. Trong nhà kê bàn ghế giường chiếu ngay ngắn gọn gàng. Từ phía trong có cửa con đi ra sân sau. Có mấy cây lê cao lớn, mấy cụm chuối um tùm. Lùi về phía sau, lại có vài gian nhà nhỏ. Chân tường có một dòng suối rộng chừng một thước quanh co theo thềm đến dãy nhà đằng trước, rồi từ trong những khóm trúc róc rách chảy ra..
Giả Chính cười nói:
– Chỗ này thú đấy. Đêm trăng mà ngồi dưới cửa sổ đọc sách, cũng không uổng một đời.
Nơi này về sau chính là Tiêu Tương quán, chỗ ở của Đại Ngọc.
Về điểm này, ông Dư Anh Thời đã nhận xét “đây có thể nói tác giả mượn mồm Giả Chính để biểu hiện thái độ của mình.” Nói rõ hơn về vấn đề phân loại người và cảnh trong Đại Quan Viên, ông Du Bình Bá cho rằng lời bình ở đây đã nói rõ ý đồ của chính tác giả tiểu thuyết: “Đây là phép chưa khen (bên kia) hẵng chê (bên này) trước đã. Bảo Thoa với Đại Ngọc chưa so đã thấy hơn kém. Khắc họa cảnh và người trong tiểu thuyết như vậy không phải là dễ”. Rốt cuộc thì tình cảm của Tào Tuyết Cần trước sau vẫn nghiêng về Đại Ngọc, chẳng khác nào Bảo Ngọc khi sắp rũ bỏ nợ trần gian vẫn si mộng hình bóng từ kiếp trước của nàng Giáng Châu!
(*) bản dịch mới dịch câu này là “Nhà cửa ở đây vô vị quá!”
Giả Bảo Ngọc: “một nửa đàn ông là đàn bà”, lại là “nửa dôi”
Có người đã nhận xét với tôi rằng, dù tôi chưa viết một bài nào chỉ bàn riêng về nhân vật Giả Bảo Ngọc nhưng họ vẫn không cảm thấy thiếu, bởi bài nào cũng có nhắc đến nhân vật này, không ít thì nhiều! Quả thật Bảo Ngọc vừa là nhân vật chính, vừa là chứng nhân cho hầu hết những sự kiện xảy ra trong Hồng Lâu Mộng. Số phận già trẻ trai gái trong truyện từ con hầu Kim Xuyến, con hát Tưởng Ngọc Hàm, trai đẹp Tần Chung,… cho chí ni cô Diệu Ngọc, tiểu thư Bảo Thoa, a hoàn Tình Văn,… đều có gắn bó mật thiết với Bảo Ngọc. Nếu các cô gái trong truyện là những sợi chỉ thêu nhiều màu sắc thì có lẽ Bảo Ngọc chính là cây kim xuyên suốt, nối kết để dệt lên bức tranh Hồng Lâu Mộng muôn vẻ. Sở dĩ tôi trù trừ chưa muốn viết về Bảo Ngọc cũng một phần vì muốn các bạn đọc có thời gian cảm nhận sự hiện diện của cậu ta qua các nhân vật khác. Rốt cuộc thì cũng đã đến lúc chúng ta dành thời gian cho “hòn đá vô tích sự” này. Tuy nhiên nhân vật này có nội hàm rất rộng, vì thế ở bài này, để tránh lan man, sa đà, chúng ta chỉ bàn về tính nữ của Bảo Ngọc.
Trong những nỗ lực cảm nhận nhân vật Bảo Ngọc, có lẽ sai lầm lớn nhất là nhìn cậu ta dưới lăng kính của hiện thực. Nếu chúng ta phán xét Bảo Ngọc như một người bình thường, ắt hẳn đa số người đọc sẽ không có mấy thiện cảm: nhân vật này tính tình không quyết đoán, ít có khí độ của bậc tu mi nam tử, tối ngày lại kề cận đám phấn son, quả thật không có gì hay. Nhưng vì không thích Bảo Ngọc mà kết luận Hồng Lâu Mộng không có giá trị văn học hoặc Tào Tuyết Cần hồ đồ thì thật nhầm lẫn. Hồng Lâu Mộng hoàn toàn không phải một cuốn sách giáo khoa dạy đạo đức. Tào Tuyết Cần xây dựng lên Bảo Ngọc, cũng như Lỗ Tấn viết về AQ với phép thắng lợi tinh thần, Emily Bronte mô tả Heathcliff yêu cuồng dại, càng không nhằm mục đính biến đứa con tinh thần của mình thành hình mẫu lý tưởng đáng học tập. Với Bảo Ngọc, Tào Tuyết Cần cố tình khắc hoạ tính “lưỡng cực” (bipolarity): Bảo Ngọc vừa già (xuất hiện từ buổi khai thiên lập địa) vừa trẻ (trong truyện là cậu thiếu niên), vừa sống ở hiện tại vừa đặt một chân vào cõi ảo mộng, vừa là người vừa là thần, vừa có phong thái của Đạo gia vừa theo Phật pháp. Tính nữ của Bảo Ngọc chính là đối trọng của tính nam trời sinh, cấu thành một phần không thể thiếu trong con người Bảo Ngọc.
Trước hết, khi Bảo Ngọc xuất hiện, hình dáng ra sao?
Khi vào, thoạt nhìn thì thấy một thanh niên công tử: đầu đội mũ kim quan dát ngọc, khăn bịt trán có đính hai con rồng bằng vàng vờn hạt châu, mặc áo chẽn màu đại hồng thêu trăm con bươn vờn hoa, thắt lưng dây tơ ngũ sắc tết hoa, áo khoác ngoài bằng đoạn hoa màu thạch thanh, đi đôi hài bằng đoạn xanh, đế trắng, mặt như trăng rằm mùa thu, sắc như hoa xuân buổi sớm, mái tóc bằng như dao xén, lông mày rõ như mực kẻ, má như cánh hoa đào, mắt như làn sóng gợn. Lúc giận cũng như cười, dù trừng mắt vẫn có tình tứ. Cổ đeo khánh vàng chạm con ly và một dây ngũ sắc buộc viên ngọc.
Đây là lần đầu tiên người đọc được diện kiến Bảo Ngọc, ấn tượng có thể nói là rất mạnh mẽ. Tổng cộng, Tào Tuyết Cần dụng công miêu tả tám thứ phục sức trên người Bảo Ngọc (mũ, khăn, áo chẽn, thắt lưng, áo khoác, hài, khánh, dây buộc ngọc) và tám nét nổi bật trên gương mặt cậu ta (mặt, sắc diện, mái tóc, lông mày, má, mắt, vẻ mặt khi giận, khi cười.) Quả thật là người đẹp như ngọc không sai! Nhưng thử đọc kỹ mà xem, những so sánh ước lệ trăng rằm, hoa xuân, hoa đào, làn sóng dường như phù hợp để miêu tả một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành hơn là đấng mày râu. Và trang phục màu đại hồng, thạch thanh đầy nữ tính được thêu bướm, kết hoa càng khiến ý đồ của tác giả “rõ đến không thể rõ hơn”. Hình dáng Bảo Ngọc chính là của một cô gái xinh đẹp thướt tha, hơn nữa còn có hơi hướm giống món đồ vật trang trí. Tào Tuyết Cần cố tình cho Bảo Ngọc ăn mặc thật xúng xính, dường như qua đó “objectify” Bảo Ngọc như một con búp bê vậy. Vẻ ngoài của Bảo Ngọc còn mang đầy màu sắc hưởng lạc và ẻo lả, hoàn toàn trái ngược với lý tưởng của Nho giáo. Tào Tuyết Cần ngạo nghễ dựng lên một nhân vật chính đi ngược lại hoàn toàn hình ảnh nam nhi đại trượng phu, phải chăng là để thách thức lễ giáo truyền thống?
Hình dáng bên ngoài thì như vậy, còn giọng nói, dáng đi của Bảo Ngọc cũng dễ khiến người ta nhầm lẫn. Trong truyện có rất nhiều ví dụ ẩn ý về sự nhập nhằng giới tính của cậu Bảo, đơn cử như:
Già lưu say rượu loạng quạng đến ngủ ở Di Hồng viện của Bảo Ngọc, khi tỉnh dậy:
Già Lưu vâng lời. Tập Nhân lại cho uống hai chén nước trà, già Lưu mới tỉnh rượu, liền hỏi:
– Chỗ ấy là buồng thêu của cô nào mà lịch sự thế? Khác nào được lên trời vậy!
Tập Nhân mỉm cười nói:
– Buồng ấy à? Là buồng ngủ của cậu Bảo đấy.
Giả Mẫu cũng bị nhầm:
Nói chưa dứt lời, thấy phía sau Bảo Cầm có một người mặc áo da vượn màu đỏ đi đến. Giả mẫu hỏi:
– Lại cô ả nào nữa đấy?
– Chúng cháu ở đây cả, chắc là cậu Bảo Ngọc.
– Ta càng ngày càng sinh lóa mắt.
Hai người đi đến, chính là Bảo Ngọc và Bảo Cầm.
Vưu Tam Thư khi nói về Bảo Ngọc:
Xem cách ăn nói, cách xử sự của cậu ấy có vẻ hơi giống con gái. Đó là vì ngày nào cậu ấy cũng ở chung trong đám chị em, thành ra thói quen, chứ hồ đồ ở chỗ nào?
Dính Yên thắp hương cầu nguyện:
Người ở cõi âm, phù hộ cho cậu Hai tôi kiếp sau sinh làm con gái, để cùng chị em các người vui đùa một nơi, không còn là hạng mày râu nhơ bẩn nữa.
Giả Mẫu nhận xét về Bảo Ngọc:
Ta không hiểu sao và cũng chưa thấy đứa trẻ con nào như thế cả. Đối với người khác thì nó bướng bỉnh đấy, nhưng riêng đối với bọn a hoàn lại rất tử tế. Khó thấy có ai được như nó. Vì vậy ta sinh nghi, thường để ý xem xét, thấy nó cứ đùa với bọn a hoàn, chắc là người lớn thì tính tình cũng lớn, đã biết chuyện trai gái, nên mới gần gũi bọn chúng. Nhưng dò xét kỹ, lại hóa không phải. Thế mới lạ chứ? Có lẽ nó là một con a hoàn đầu thai lầm cũng nên.
Ở đây lại phải làm rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm “sex” – giới tính sinh học, và “gender” – giới tính xã hội. Về mặt sinh học thì Bảo Ngọc rõ ràng là nam giới, điều này không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng về mặt tâm lý, tính cách, hành vi, cử chỉ thì mù mờ hơn. Sự rối loạn giới tính của Bảo Ngọc xảy ra từ khi cậu ta còn rất nhỏ:
Khi đầy năm, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau thế nào, mới đem những đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu nó chẳng lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy phấn sáp, trâm vòng. Giả Chính không vui, bảo sau này chỉ là đồ tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm.
Số đông mọi người khi đọc đến đây thì cũng như Giả Chính và Tử Hưng, cho rằng Bảo Ngọc lớn lên sẽ trở thành con quỷ hiếu sắc. Đấy là một suy luận thiển cận. Trên thực tế, hành vi chọn phấn son, trâm vòng của Bảo Ngọc là báo trước nữ tính tiềm ẩn của cậu ta. Nói theo cách khác, Bảo Ngọc chọn chúng vì bản thể chàng có một nửa là nữ, chứ không phải vì cậu ta ham muốn phụ nữ. Giả Chính bắt Bảo Ngọc lựa đồ chơi, qua đó gián tiếp ép buộc cậu ta đối mặt với hai giới tính đối chọi nhau, đó là điềm báo trước bi kịch của Bảo Ngọc. Trong truyện, cậu ta thường xuyên phải ra quyết định: chọn giữa mộng ảo và đời thực, giữa Nho giáo và Phật giáo, giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa. Khuynh hướng lưỡng tính chỉ là một trong số vô vàn cuộc đấu tranh mà Bảo Ngọc phải trải qua, như là đánh đổi cho việc trải nghiệm cuộc sống phù hoa dưới trần thế.
Như đã nhắc đi nhắc lại, nơi ở của các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng có ý nghĩa không thể xem thường. Trong Đại Quân viên, Bảo Ngọc chọn viện Di Hồng làm chỗ trú ngụ. Di Hồng viện tên vốn đã mang đậm mùi son phấn, lại là rút gọn của “di hồng khoái lục”, hay “hồng hương lục ngọc”. Bảo Ngọc có cả hồng (màu đỏ) và lục (màu xanh) tức là có cả tính nữ và tính nam, nhưng lại nghiêng về hồng nhiều hơn là lục.
Trong truyện, Bảo Ngọc gắn bó sâu sắc với màu đỏ. “Hồng lâu” là nơi “êm đềm trướng rủ màn che” cậu ta ở đã đành, Bảo Ngọc còn đam mê phấn sáp, thích thú son môi.
Nhân thấy hai bên tủ gương có nhiều đồ phấn sáp, tiện tay lấy ra ngắm nghía. Khi thấy một hộp sáp bôi môi, Bảo Ngọc muốn bỏ vào miệng ăn, lại sợ Tương Vân cười.
Còn sau đây là cảnh Bảo Ngọc dỗ dành Bình Nhi sau khi nàng bị Phượng Thư đánh ghen, chẳng hề đượm màu tán tỉnh sắc dục trai gái, mà giống như bạn gái giúp nhau trang điểm thì đúng hơn!
Bình Nhi nghe nói có lý, liền đi tìm phấn, nhưng không thấy. Bảo Ngọc vội chạy đến đài trang, mở cái hộp sứ Châu Tuyên ra, trong hộp đựng một lượt mười thoi phấn hoa ngọc trâm, lấy ra một thoi đưa cho Bình Nhi, cười nói:
– Đây không phải là phấn thường đâu, là giống hoa dạ hương nghiền nát ra, chế với thứ bột thượng hảo hạng đấy.
Bình Nhi để lên trên tay xem, quả nhiên vừa nhẹ, vừa trắng, vừa đỏ, vừa thơm, xoa lên mặt thấy da mịn và mát, không bết như thứ phấn khác. Sau thấy một cái hộp ngọc trắng nhỏ, trong đựng một hộp sáp màu đỏ tươi như cao văn khôi, chứ không phải từng tờ một. Bảo Ngọc cười nói:
– Sáp bán ở hiệu không sạch, màu lại chóng bay. Đây là hạng sáp tốt nhất, vắt nước ra, lọc sạch rồi hòa lẫn với sương ở trong hoa, đem nấu lên. Chỉ lấy cái trâm nhỏ khêu một tí xát vào môi; lại lấy một giọt hòa lẫn nước với sáp vào lòng bàn tay rồi xoa lên mặt cũng đủ.
Bình Nhi cứ theo thế trang điểm, thấy tươi đẹp khác thường và mùi thơm ngào ngạt. Bảo Ngọc lại lấy một cành hoa huệ ở trong chậu dùng dao tre cắt đem cắm lên đầu cho Bình Nhi.
Hay đoạn Hương Lăng nói Bảo Ngọc quay mặt đi để thay quần:
Bảo Ngọc cúi đầu nhìn, “úi chà” một tiếng nói:
– Tại sao chị lại bị kéo xuống bùn thế này? Đáng tiếc! Lụa đỏ thạch lựu này dễ bẩn lắm!
[…]
Hương Lăng đỏ mặt cười nói:
– Cám ơn chị lắm, không ngờ bọn quỷ sứ ấy nó làm ác.
Nói xong cầm lấy cái quần, giở ra xem, quả nhiên giống hệt cái quần của mình, liền bảo Bảo Ngọc quay mặt đi chỗ khác rồi ngoảnh vào phía trong cởi quần bẩn ra, mặc quần mới vào.
Đến đây chúng ta đã gần chạm tới cội rễ vấn đề sâu xa của Bảo Ngọc. Bảo Ngọc coi trọng phụ nữ, cho rằng “Xương thịt của con gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy” không xuất phát từ vị thế nâng niu gái đẹp của đàn ông, mà là đồng bệnh tương liên. Bảo Ngọc có một nửa nữ tính, thậm chí “nửa dôi” là đằng khác, nên sự yêu mến, âu yếm, thương xót của cậu ta với các chị em chính là sự đồng cảm của nữ giới. Trong Hồng Lâu Mộng, ta chứng kiến sự bảo vệ che chắn kỹ lưỡng của mọi người trong phủ với Bảo Ngọc, từ Giả Mẫu, Vương phu nhân, Phượng Thư cho đến các a hoàn, đến mức cậu ta phàn nàn với Tần Chung rằng mình chẳng được bước chân ra khỏi cửa! Kiểu kín cổng cao tường đó vốn chỉ dành cho các tiểu thư, nhưng Bảo Ngọc đã bị đồng hóa với những cô gái trong phủ nên dường như không ai lấy đó làm điều kỳ dị.
Nếu về mặt “gender”, Bảo Ngọc là người lưỡng tính, thì “sexuality” (xu hướng tình dục) của Bảo Ngọc có thể được phân loại là song tính luyến ái (bisexual.) Tạm chưa bàn đến những mối tình với nữ giới của Bảo Ngọc vội. Trong những nhân vật nam của Hồng Lâu Mộng có ba dạng chính:
– Loại đàn ông theo tư tưởng Khổng Mạnh một cách khuôn phép (Giả Chính, Chân Bảo Ngọc) hoặc Đạo giáo (Giả Kính ham mê luyện đan để trường sinh bất lão), lạnh nhạt, không gần nữ sắc, bất cận nhân tình. Với những người này Bảo Ngọc có quan hệ rất hời hợt, bởi cậu ta không có cùng chí hướng, quan điểm với họ.
– Loại đàn ông thích hưởng lạc, ham mê dục tình. Những người này rất đông, phần lớn đều là anh em chú bác của Bảo Ngọc: Giả Trân, Giả Xá, Giả Liễn, Giả Dung, Tiết Bàn,… Đối tượng ham muốn của những kẻ này cũng bao gồm của nam và nữ, cách cư xử thì rất hèn hạ. Với những nhân vật này Bảo Ngọc muốn tránh xa, thâm tâm cậu coi thường và ghê sợ họ. Trong mắt Bảo Ngọc, những đối tượng này chỉ có “dâm” mà không có “tình”, vì thế họ nhơ nhớp và xấu xa.
– Loại đàn ông mềm mại, đẹp đẽ, có tâm hồn lãng mạn, trong sáng. Những người này gồm Tần Chung, Tưởng Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương, Liễu Tương Liên… Đặc điểm nổi bật của họ là khuynh hướng bị nữ tính hóa giống như Bảo Ngọc. Mối giao lưu thân cận của Bảo Ngọc với những nhân vật này ngả sang xu hướng tri kỉ-tình yêu, thậm chí gần với tình dục. Những mối quan hệ này được khắc hoạ thanh cao, trong sáng bởi nó không gắn với mục đích sinh sản mà dựa trên sự tương hợp giữa hai tâm hồn, giống như người Hy Lạp cổ nhìn nhận tình yêu nam-nam (pederasty.)
Một số trích đoạn trong sách:
Từ khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, xem ra dáng điệu tươi đẹp như hoa; Tần Chung thì bẽn lẽn nhu mì, chưa nói đã đỏ mặt, ngượng nghịu như con gái; Bảo Ngọc thì nhũn nhặn dịu dàng, nói năng hòa nhã. Vì hai người thân mật với nhau như thế nên tránh sao khỏi sự ngừ vực của một số học trò. Lúc vắng mặt thì người nói thế này, kẻ nói thế khác, giễu cợt, gièm pha khắp cả trong và ngoài lớp học.
Có hai đứa không biết con cái nhà ai, tên tuổi là gì, chỉ vì thấy chúng có vẻ lẳng lơ, nên cả trường đặt tên cho một đứa là Hương Lân, một đứa là Ngọc ái. Có nhưng người mến thích chúng, định đem lòng không tốt đối với lũ trẻ nhưng lại sợ uy thế Tiết Bàn, nên không ai dám vương vào. Từ khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, thấy hai đứa ấy trong bụng cũng vấn vương trìu mến, nhưng biết là bạn tương tri của Tiết Bàn, nên cũng không dám động chạm đến. Hai đứa Hương Lân, Ngọc ái đều để ý đến Tần Chung và Bảo Ngọc. Bốn người sẵn có tình ý với nhau, nhưng chưa dám lộ ra ngoài. Mỗi khi vào học, họ ngồi riêng bốn chỗ, nhưng tám mắt vẫn liếc nhau, hoặc đặt lời mượn ý, vịnh dâu ngắm liễu, xa tỏ nỗi lòng.
[…]
Một chốc, Bảo Ngọc ra ngoài đi giải, Tưởng Ngọc Hàm theo ra. Hai người đứng ở dưới thềm, Tưởng Ngọc Hàm lại xin lỗi một lần nữa. Bảo Ngọc thấy hắn mềm mại nhu mì, liền nắm chặt lấy tay nói:
– Lúc nào rỗi sang chơi tôi nhé. Tôi muốn hỏi một điều, trong ban hát ta có một người tên là Kỳ Quan, nổi tiếng nhất thiên hạ, tiếc tôi vô duyên, không được gặp.
Ngọc Hàm cười đáp:
– Đó là tên tục của tôi đấy.
Bảo Ngọc mừng lắm, giậm chân cười nói:
– Thực là may, thực là may! Quả nhiên tiếng đồn không sai. Giờ mới gặp lần đầu, biết làm thế nào đây.
Nghĩ một lúc rồi lấy cái quạt ở trong tay áo ra, cởi viên ngọc ở dây quạt đưa cho Kỳ Quan và nói:
– Vật nhỏ này không đáng bao nhiêu, gọi là tỏ mối tình ngày hôm nay.
Kỳ Quan cầm lấy, cười nói:
– Tôi không có công gì, đâu đáng nhận đồ tặng. Nhưng thôi, tôi cũng có một vật lạ, sáng hôm nay mới thắt vào người, hãy còn mới nguyên, xin tặng lại cậu, để tỏ lòng quý mến của tôi.
Nói xong hắn vén áo lên, cởi cái thắt lưng lụa màu hồng, thắt trong áo lót, đưa tặng Bảo Ngọc và nói:
– Cái thắt lưng này là đồ cống của nữ quốc vương nước Phiến Hương, mùa hè thắt vào, da thịt thơm nức, không có mồ hôi. Hôm nọ Bắc Tĩnh vương cho, tôi vừa mới thắt vào người. Tôi không bao giờ định tặng ai. Xin cậu cởi cái thắt lưng của cậu ra cho tôi.
Bảo Ngọc nghe nói mừng quá, vội nhận ngay, và cởi thắt lưng màu hoa tùng của mình đưa cho Kỳ Quan.
Việc con nhà quyền quý có tình nhân ở cả hai giới không phải điều gì kỳ lạ lắm, thậm chí nó còn là một cách biểu lộ quyền lực là đằng khác. Mấu chốt ở đây là những người đàn ông quý tộc kia luôn đứng ở vị trí săn đuổi trong hành trình tìm kiếm khoái lạc. Mỹ nữ hay mỹ nam cũng chỉ là một món đồ chơi trong tay họ. Tiết Bàn chính là một kẻ như vậy. Còn Bảo Ngọc tuy thân đường đường con nhà dòng dõi mà lại mang dáng vẻ yếu mềm, óng ả như vậy thì thật không thể hiểu nổi! Sự thanh nhã, tú lệ của Bảo Ngọc tương phản hẳn với vẻ rượu thịt, thô bỉ của Tiết Bàn. Trong thực tế, điều duy nhất bảo vệ Bảo Ngọc khỏi sự tấn công tình dục của Tiết Bàn là địa vị tôn quý của Bảo Ngọc, ngang hàng – thậm chí cao hơn Tiết Bàn. Nếu Bảo Ngọc chỉ là tiểu đồng nhỏ thì chắc đã bị Tiết Bàn vồ lấy như diều hâu quắp gà con.
Chi Nghiễn Trai có liệt kê mười hai nhân vật đa tình nhất trong Hồng Lâu Mộng, trong đó Bảo Ngọc đứng đầu tình bảng, còn Đại Ngọc đứng thứ hai. Đại Ngọc là “tình tình,” còn Bảo Ngọc là “tình bất tình,” nghĩa là luyến ái cả những người không yêu mình (Bảo Thoa không có mặt trong danh sách này, nên thường bị gọi là “lãnh tình”.) Trong tình bảng thì Bảo Ngọc là nhân vật nam duy nhất, nhưng trong yêu đương lại mang nhiều tính nữ hơn cả. Bảo Ngọc không chỉ có xu hướng đồng tính nam mà trong quan hệ ái ân nam nữ, cậu ta cũng thường đóng vai trò thụ động. Người khác hời hợt nhìn vào có thể nghĩ Bảo Ngọc là kẻ khinh bạc vô hạnh, hay buông lời gió trăng, cử chỉ không đúng đắn với các chị em. Nhưng trên thực tế những hành động của Bảo Ngọc đa phần đều bị thúc đẩy bởi tình yêu cái đẹp, sự đồng cảm, gần gũi hơn là bản năng của một “con đực.” Khi gặp sự tấn công ồ ạt của tình dục, Bảo Ngọc co lại sợ hãi:
Chợt chị dâu Tình Văn cười hì hì vén màn đi vào nói:
– Giỏi nhỉ! Hai người trò chuyện với nhau, tôi nghe thấy cả rồi! – Chị ta quay lại nói với Bảo Ngọc: – Cậu là chủ nhà, vào buồng đầy tớ làm gì? Thấy tôi xinh đẹp, cậu định đến đây ghẹo tôi hay sao?
Bảo Ngọc nghe nói, sợ quá, vội cười van xin:
– Chị ơi, xin đừng nói to. Chị ấy lâu nay hầu hạ tôi, giờ tôi lẻn đến đây thăm chị ấy.
Cô “Đa” liền kéo Bảo Ngọc vào nhà trong, cười nói:
– Cậu không muốn tôi kêu thì cũng dễ thôi, cậu chỉ nghe tôi một điều này.
Nói xong, chị ta ngồi ngay lên trên giường, kéo Bảo Ngọc vào trong lòng, hai đùi cặp chặt lấy. Bảo Ngọc xưa nay chưa thấy thế bao giờ, tim đập thình thịch, người thấy rạo rực, cuống quá, mặt đỏ bừng, vừa thẹn vừa nói:
– Chị ơi, đừng đùa thế.
Cô “Đa” lẳng lơ con mắt, cười nói:
– Hừ! Ngày thường, nghe nói cậu vẫn quen sống trong trường trăng gió, sao hôm nay lại nhút nhát thế?
Bảo Ngọc càng đỏ mặt, cười nói:
– Chị buông tay ra, có chuyện gì chúng ta sẽ tử tế nói với nhau, để cho bà già bên ngoài nghe thấy thì còn ra làm sao nữa?
Cô “Đa” cười nói:
– Tôi về đây từ lâu, đã bảo bà già ấy đứng chờ ở ngoài vườn rồi. Tôi hàng ngày ao ước biết nhường nào, bây giờ mới được gặp, nhưng đúng như câu: “Nghe tiếng không bằng gặp mặt”. Tôi trông dáng người cậu đẹp thế này, mà lại là cái xác pháo rỗng ruột, chỉ có cái vẻ thôi, coi chừng nhút nhát e lệ hơn người ta nhiều. Đủ biết miệng người ta nói có khi không đáng tin. Như lúc nãy, tôi cứ tưởng chắc chắn hai người ngày thường thế nào cũng thầm vụng với nhau. Khi tôi đứng ở dưới cửa sổ nghe ngóng một lúc lâu trong nhà chỉ có cậu với cô ấy, tôi chắc rằng sẽ nói đến nhiều chuyện thậm thụt với nhau. Nhưng xem ra, thì hai người thật chưa có gì dan díu cả. Thật là ở đời có nhiều sự oan uổng. Bây giờ tôi rất ăn năn đã ngờ cho cậu. Đã vậy cậu cứ yên tâm, cứ việc đến, tôi không dám to tiếng.
Ngoại trừ lần đầu tiên với Tập Nhân, Bảo Ngọc không có mối quan hệ tiền hôn nhân nào khác, bất chấp rất nhiều cơ hội. Nếu không có cô “Đa” minh oan cho, có lẽ người đọc chắc vẫn còn nghi oan cho Bảo Ngọc! Đoạn trên cũng khắc hoạ sự ngượng nghịu, e dè của Bảo Ngọc trước dục vọng mãnh liệt của người đàn bà từng trải. Xét một cách tổng thể, từ cử chỉ, hành vi, tính tình, Bảo Ngọc chính là một ví dụ tiêu biểu cho cái gọi là “một nửa đàn ông là đàn bà.”
Vậy thì mục đích của Tào Tuyết Cần trong việc mô tả một Bảo Ngọc nửa nam nửa nữ, ái nữ ái nam là gì? Nếu coi bản thể nam giới là “cái tôi”, thì bản thể nữ giới là “cái bên ngoài cái tôi”. Thông qua Bảo Ngọc, Tào Tuyết Cần đã đề ra một giải pháp dung hòa giữa cái tôi cá nhân và thế giới. Vì biểu lộ đồng thời cả tính nam và tính nữ, Bảo Ngọc không tránh khỏi bị gắn mác lập dị, bị cả hai giới từ chối cho gia nhập. Đó là bi kịch khi cá nhân không được sự chấp nhận của tập thể. Bảo Ngọc là nhân vật duy nhất đạt tới cảnh giới giác ngộ, vượt khỏi bể trầm luân, điều đó tốt hay xấu? Tôi nghĩ đó là một cái kết khá bi quan, bởi cái tôi cá nhân đã không thể hòa hợp với thế giới bên ngoài, chỉ còn cách trốn chạy. Jacques Derrida đã miêu tả một xã hội utopia, nơi những cá thể như Bảo Ngọc có thể sống tự do, hạnh phúc mà không sợ khuôn khổ áp đặt. Có điều Hồng Lâu Mộng chưa bao giờ là một utopia…
Giả mẫu : đầu tiên là chuyện giàu sang
Giả mẫu là một nhân vật được tạo hình đặc sắc vào bậc nhất trong Hồng Lâu Mộng. Giả mẫu có vị trí đứng đầu Giả phủ, tầm ảnh hưởng bao trùm cả hai nhà Ninh, Vinh. Gầu như toàn bộ các cô gái trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách (ngoại trừ Diệu Ngọc) đều là cháu chắt của Giả mẫu, nếu không do huyết thống trực hệ thì cũng thông qua quan hệ hôn nhân. Vì vậy Tào Tuyết Cần bỏ nhiều tâm sức miêu tả Giả mẫu cũng là điều dễ hiểu. Nếu chỉ nhìn bên ngoài, Giả mẫu quả là một bà cụ bao dung, hiền từ, thích an nhàn như … bà nội của chúng ta vậy! Vì vậy e rằng nhiều người sẽ không đồng tình khi tôi cho rằng: những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nhà họ Giả có một phần lỗi của Giả mẫu.
Tào Tuyết Cần để Giả mẫu lần đầu xuất hiện qua lời kể của Lãnh Tử Hưng ở hồi thứ hai, chính là áp dụng biện pháp “chưa nhìn thấy người đã nghe thấy tiếng.” Giả mẫu sinh ra trong nhà họ Sử – một trong bốn gia đình cự phú ở Kim Lăng (Cung A phòng xây lên ba trăm dặm đã đủ chưa? Họ Sử đất Kim Lăng vẫn ở không vừa.) Lớn lên Sử tiểu thư kết hôn với Giả Đại Thiện ở Vinh Quốc phủ, sinh ra Giả Chính và Giả Xá. Lang quân bà chẳng may mất sớm, nhưng hai con trai Giả mẫu nhờ phúc ấm của ông cha mà đều được đặc cách phong quan, tập tước. Giả mẫu cũng vì thế mà được hưởng thụ cuộc sống viên mãn, xa hoa không kể xiết. Người ta còn gọi bà là Sử thái quân.
Trước hết, hãy bàn về khía cạnh vinh hoa phú quý của nhân vật này. Truyện có nhiều chi tiết nhỏ được cài đặt rất khéo léo, tôi xin chỉ ra bốn ví dụ nho nhỏ.
Thứ nhất là khi một thầy thuốc được mời vào thăm bệnh Giả mẫu.
Một lúc, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung đưa thày thuốc họ Vương vào. Thày thuốc không dám đi đường giữa, chỉ đi bên cạnh, theo Giả Trân bước lên thềm, có hai bà già đứng hai bên vén rèm, hai bà già nữa dẫn vào. Bảo Ngọc ra đón. Giả mẫu mặc chiếc áo khoác bằng da dê trắng, trong lót nhiễu xanh, ngồi trên sập. Hai bên có bốn a hoàn bé chưa để tóc, cầm phất trần, ống nhổ đứng hầu; lại có năm, sáu bà già đứng xếp hàng hai bên; đằng sau cái tủ bích sa, thấp thoáng có nhiều người mặc đồ xanh đỏ và đeo vàng ngọc. Thày thuốc không dám ngẩng đầu lên, chạy lại cúi chào.
Thế mới nói, muốn giàu chỉ cần một đời, nhưng muốn sang phải ít nhất ba đời mới đặng. Giả mẫu chẳng bộn bề trang sức trên người nhưng vẫn uy nghi như một vị thái hậu. Từ kiểu cách đón tiếp, a hoàn bà già hầu hạ vây quanh, cho đến những người “đeo vàng ngọc” đứng sau (Phượng Thư, Lý Hoàn, Vương phu nhân) – tất cả đều đóng vai trò bức nền làm toát lên vị trí cao quý của Giả mẫu.
Thứ nhì là ngày mừng thọ tám mươi tuổi của Giả mẫu. Hồng Lâu Mộng có nhiều bữa tiệc xa xỉ đến hoa cả mắt, song chúng ta chỉ cần chú ý đến chi tiết này:
Từ đầu tháng bảy, người đưa lễ thọ đến mừng liên tiếp không dứt. Bộ Lễ vâng chỉ ban cho một cái gậy bằng vàng dát ngọc, bốn súc đoạn màu, chén vàng bốn cái, bạc năm trăm lạng. Nguyên phi lại sai Thái giám đưa đến một tấm thọ tinh bằng vàng, một cái gậy trầm hương, một chuỗi hạt dà nam, một hộp hương phúc thọ, hai nén vàng, tám nén bạc, mười hai tấm đoạn màu, bốn cái chén ngọc. Ngoài ra từ thân vương, phò mã đến các quan văn võ lớn, nhỏ đi lại xưa nay đều có lễ mừng, không thể kể xiết được. Trong nhà đặt một cái bàn lớn trải thảm đỏ bày hết những đồ quý giá bên trên rồi mời Giả mẫu đến xem. Mấy hôm đầu, Giả mẫu còn cao hứng đến nhìn qua, sau chán không xem nữa, chỉ nói: “Bảo cháu Phượng nhận cả, hôm nào rảnh ta sẽ lại xem”.
Chỉ một con người đã quen sống trong sự giàu có, thừa thãi đến cùng cực mới có thể bộc lộ một thái độ “phớt tỉnh” như thế trước của cải. Có lẽ trong tám mươi năm cuộc đời, số lượng châu báu Giả mẫu nhìn qua đã quá nhiều, tới mức chúng không còn đem lại cảm giác ngạc nhiên hay thích thú gì cho bà nữa.
Thứ ba là tên gọi các a hoàn của Giả mẫu. Ngoại trừ Uyên Ương, tên bốn cô còn lại lần lượt là: Hổ Phách, Trân Châu (sau đổi thành Tập Nhân,) Phỉ Thúy, Pha Lê. Chi tiết này là ẩn dụ cho thân phận tôn quý của Giả mẫu – người chủ sở hữu tất cả những viên ngọc kia. Vinh hoa phú quý không dồn vào bà thì còn ai nữa.
Thứ tư là lần Giả mẫu cùng mọi người tới thăm Tiết phu nhân. Chỉ qua cách chọn màn cửa, Giả mẫu đã bộc lộ từ khiếu thẩm mỹ, biết người biết của, cho đến kiến thức sâu rộng:
Giả mẫu nhân trông thấy bức màn the treo trên cửa sổ đã cũ, liền bảo Vương phu nhân:
– Bức màn này khi mới treo, trông đẹp đấy, nhưng để lâu phai màu. Ngoài sân không có cây đào cây hạnh nào, mà trúc đã có lá xanh rồi. Cứ treo màn xanh không ăn màu. Ta nhớ nhà ta có những bức màn treo cửa sổ bốn năm màu kia mà. Ngày mai, bảo lấy thay bức màn này đi.
Phượng Thư nói:
– Hôm nọ cháu mở buồng kho, thấy trong hòm lớn có mấy tấm the “thuyền dực” (the mỏng như cánh ve sầu): màu ngân hồng, tấm thì dệt lối hoa chiết chi, tấm thì lưu vân biển bức (dơi bay theo đám mây), tấm thì bách điệp xuyên hoa (trăm con bướm hút nhuỵ hoa), màu vừa tươi, lại nhã, nhũn nhẹ. Nhưng không thấy thứ the như bà nói. Nếu có thứ ấy, đem ra làm nệm gấm thì chắc đẹp lắm.
Giả mẫu cười nói:
– Hừ! Người ta bảo mày cái gì cũng biết, cái gì cũng từng trải cả. Thế mà ngay thứ the ấy mày cũng không nhận ra được, rồi lại còn nói láo!
Mọi người đều cười, nhân nói:
– Chị đã từng trải đến mấy cũng còn kém cụ? Sao cụ không dạy bảo chị ta để cho chúng tôi cũng được nghe nhờ?
Phượng Thư cười nói:
– Bà ơi. Bà dạy cháu với!
Giả mẫu cười nói với Tiết phu nhân và mọi người:
– Loại the này có từ khi các người chưa đẻ kia. Chẳng trách được nó cho là thứ the “thuyền dực”, vì hai thứ gần giống nhau. Ai không biết thì bảo là the “thuyền dực”, nhưng tên nó là “nhuyễn yên la” (the mềm và mỏng như làn khói) kia.
Phượng Thư nói:
– Cái tên ấy cũng dễ nghe. Cháu đã lớn bằng này rồi, kể ra cũng đã được xem hàng mấy trăm thứ the, nhưng chưa được nghe tên ấy bao giờ.
Giả mẫu cười nói:
– Mày đã bao nhiêu tuổi? Biết được bao nhiêu thứ the? Lại dám nói láo! Loại nhuyễn yên la này chỉ có bốn màu: một là vũ quá thiên thanh (mưa tạnh trời xanh), hai là thu hương sắc (màu hoa mùa thu), ba là tùng lục, bốn là ngân hồng. Nếu đem ra làm màn hay che cửa sổ, trông xa như khói mù ấy, cho nên gọi là nhuyễn yên la. Màu ngân hồng lại có tên là hà ảnh sa (màu ráng trời) nữa. Bây giờ ngay the trong nội phủ nhà vua thường dùng, cũng không có thứ nào như thế.
Tiết phu nhân cười nói:
– Không cứ chị Phượng, chính tôi cũng chưa nghe thấy bao giờ.
Qua đoạn trên, không chỉ Phượng Thư mà tất cả người đọc đều nhờ Giả mẫu mà được mở rộng tầm nhìn. Ai ngờ chỉ mấy miếng the mỏng manh mà chứa cả một bề dày văn hóa! Qua nhân vật Giả mẫu, Tào Tuyết Cần đã khắc họa sự cầu kỳ, tinh tế trong cách thưởng ngoạn của giai cấp quý tộc nhà Thanh. Cái đẹp của Hồng Lâu Mộng nằm chính ở những chi tiết nhỏ như vậy.
Thế nhưng nếu Giả mẫu chỉ có giàu sang, sành sỏi thì quá đơn giản. Sự thực là Tào Tuyết Cần đã dựng lên một Giả mẫu đáng yêu, đáng kính, nhưng cũng đôi lúc đáng ghét và cả đáng thương nữa. Sở dĩ có nghịch lý đó là bởi Giả mẫu luôn cư xử như một đứa trẻ được nuông chiều, bất chấp việc bà đã lên chức cụ và có các chắt riêng (Giả Lan, Xảo Thư.) Dựa vào đâu để nói rằng Giả mẫu vẫn giữ tính cách trẻ con?
Giả mẫu: đứa trẻ bất chấp và thiên vị
Thứ nhất, Tào Tuyết Cần đã tóm lược tính cách Giả mẫu một cách chính xác: “Giả mẫu tuy có tuổi, nhưng vẫn thích các cuộc vui”. Đọc Hồng Lâu Mộng là thấy rõ Giả mẫu hầu như luôn là người khởi xướng các buổi liên hoan, tiệc tùng, xướng ca,… Bà thích tụ họp đông người, nếu không “đánh bài với vợ bọn quản gia,” thì cũng lịch kịch dẫn mọi người đi thăm các cháu gái, thăm bà dì, thăm cô Diệu Ngọc,…
Ưa xôm tụ, sợ cô đơn là tính cách thường thấy ở người già, nhưng trong cái ham vui của Giả mẫu còn có sự tùy hứng và vô tư của trẻ thơ. Quý phi Nguyên Xuân gửi về nhà câu đố đèn ngày Nguyên tiêu, Giả mẫu cũng sai làm gấp một cái đèn lồng to đẹp để mở hội, lại bày chè thơm, quả tươi, đồ chơi làm phần thưởng. Thấy Bảo Cầm mặc áo đỏ đứng cạnh hoa mai lộng lẫy quá, bà lập tức ra lệnh cho Tích Xuân phải họa lại cảnh tượng đó bằng được, để cô cháu thừ ra chẳng biết vẽ sao. Nhân dịp cây hải đường trổ hoa trái mùa, bà đòi bày tiệc thưởng hoa dù cảnh nhà đang khó khăn. Ngay cả khi gia đình đã lụn bại đến cùng kiệt, bà vẫn khăng khăng tổ chức sinh nhật cho cháu dâu là Bảo Thoa, và giận dỗi khi mọi người tỏ vẻ buồn! Như một đứa trẻ hay đòi hỏi, Giả mẫu muốn tất cả những ước muốn (nhiều khi là ích kỉ của bà) được thực thi, bất chấp hoàn cảnh thực tế có cho phép hay không.
Thứ hai, Giả mẫu lớn tuổi song cách bà đối xử với con cháu lại không công bằng như một người từng trải lẽ ra phải thế. Có con yêu, con ghét cũng là thường tình, song Giả mẫu dường như không buồn giấu giếm sự thiên vị của mình. Khi bà cưng ai (Bảo Ngọc, Tương Vân, Bảo Thoa,…) thì đối xử với họ như thiên thần, khi bà hắt hủi ai thì người đó phải chịu ấm ức. Sự lệch lạc trong cách Giả mẫu chia sẻ tình cảm không qua mắt được các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng. Cô nàng Phượng Thư cũng ỷ mình được Giả mẫu yêu chiều nên mới có thể pha trò trêu bà, mặc dù trong sự đùa cợt có hàm ý nói Giả mẫu biệt đãi Bảo Ngọc:
– Bà làm lễ sinh nhật cho các cháu, thế nào không được, còn ai dám nói? Nhưng bà lại sửa cả tiệc rượu nữa kia à? Muốn cho bữa tiệc vừa vui vừa nhộn, bà cũng nên bỏ ra một số tiền nữa! Nay chỉ trơ có hai mươi lạng bạc mốc meo này chi vào tiệc rượu, ý chừng bà muốn bắt các cháu phải bù nữa chăng? Nếu quả không có tiền đã đành, nhưng vàng bạc, thoi tròn, thoi dài, để phũng cả đáy hòm, chỉ tội làm phiền cho các cháu. Bà thử nghĩ xem, ai chẳng là cháu? Sau này chẳng lẽ chỉ có một mình chú Bảo rước bà lên Ngũ Đài Sơn thôi à? Sao cái gì bà cũng ki cóp để dành cho chú ấy! Chúng cháu tuy không đáng được dùng của này, nhưng bà cũng không nên làm rầy chúng cháu. Món tiền này liệu có đủ sửa tiệc rượu và bày trò chơi không?
Thế nhưng đối với ông cả Giả Xá thì khác. Mẹ yêu em trai Giả Chính hơn ông ta, lại yêu con trai Giả Chính (Bảo Ngọc) hơn con trai ông ta (Giả Liễn). Sự uất ức của Giả Xá được giấu rất kín, thậm chí chưa chắc Giả Xá đã dám tự thừa nhận với bản thân. Người đọc chỉ thấy nỗi niềm của Giả Xá được hé lộ qua câu chuyện vui ông ta kể nhân một buổi tiệc:
– Một nhà có một đứa con rất là hiếu thuận. Không may bà mẹ bị bệnh, tìm thầy chạy thuốc các nơi không được. Người con mời ngay một bà biết châm cứu đến. Bà này không biết xem mạch, chỉ bảo là bệnh tâm hỏa, châm một mũi là khỏi thôi. Người con sợ quá, hỏi: “Tim mà gặp phải sắt thì chết, châm thế nào được?” Bà lang nói: “Không cần phải châm vào tim, chỉ châm vào bên hông là được rồi”. Người con nói: “Hông cách tim xa, châm vào đó khỏi thế nào được?” Bà lang nói: “Không việc gì đâu. Anh không biết thiên hạ làm bố mẹ, nhiều tim rất là thiên lệch.”
Mọi người nghe nói đều cười lên. Giả mẫu cũng phải uống nửa chén rượu, ngồi một lúc rồi cười bảo:
– Nếu ta được bà lang ấy châm cho một cái thì cũng tốt đấy.
Giả Xá nghe vậy, biết là mình nói sỗ sàng để Giả mẫu nghi ngờ, liền đứng dậy cười, dâng chén mời Giả mẫu rồi nói lảng sang chuyện khác. Giả mẫu cũng không tiện nhắc, lại làm luôn tửu lệnh.
Đối với Đại Ngọc thì còn bi kịch hơn thế, bởi khi mới về nhà họ Giả nàng được Giả mẫu vô cùng thương yêu. Chính truyện đã viết:
Nay nói Lâm Đại Ngọc từ khi đến phủ Vinh, được Giả mẫu thương yêu muôn phần, ăn ở đi đứng, nhất nhất đều như Bảo Ngọc, ngay Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân cũng không bằng.
Thế nhưng vật đổi sao dời, Đại Ngọc dần rớt khỏi vị trí được cưng chiều trong tim Giả mẫu. Giả mẫu không thẳng thắn hắt hủi cô cháu gái, nhưng thái độ lạnh lùng, xa cách của bà đủ khiến tâm hồn nhạy cảm của Đại Ngọc rỉ máu. Đại Ngọc lại càng không thốt ra nửa lời oán trách, nhưng nỗi ê chề, tủi hổ chất chứa trong tâm nàng không có chỗ giải toả đã hóa thành một cơn ác mộng, khiến cho người đọc không khỏi xót xa thương cảm:
Đại Ngọc vội vàng qùy xuống, ôm lấy chân Giả mẫu mà nói:
– Bà cứu cháu với! Về Nam thì chết cháu cũng không về. Vả lại đó là kế mẫu không phải mẹ đẻ cháu. Cháu xin ở đây với bà thôi.
Nhưng thấy Giả mẫu mặt mày lạnh lùng cười nói:
– Cái đó không can gì đến ta.
Đại Ngọc khóc nói:
– Bà ơi, sao lại thế?
– Làm vợ kế cũng tốt, lại được thêm một bộ đồ nữ trang.
– Cháu ở đây với bà, quyết không tiêu pha quá đáng đâu, chỉ xin bà cứu cháu.
– Không ăn thua đâu! Làm con gái nhất định là phải đi lấy chồng, cháu còn bé không biết đấy thôi, không thể ở đây mãi được đâu cháu ạ.
– Cháu ở đây tình nguyện làm người con hầu làm lấy mà ăn, cũng cứ vui lòng, xin bà làm chủ cho.
Thấy Giả mẫu không nói gì cả. Đại Ngọc lại ôm lấy Giả mẫu mà khóc:
– Bà ơi xưa nay bà rất từ bi, lại rất yêu cháu, sao đến khi nguy cấp bà lại bỏ cháu đi như thế? Cháu tuy là cháu ngoại bà, đã cách một tầng, nhưng mẹ cháu là con đẻ của bà, bà nghĩ đến mẹ cháu xin bà bênh vực cho cháu với.
Đại Ngọc vừa nói vừa đâm đầu vào lòng Giả mẫu, khóc lóc thảm thiết. Nghe Giả mẫu gọi: “Uyên Ương, mày đưa cô đi nghỉ, nó quấy tao mệt quá”.
Vậy thì nhà họ Giả có một bà cụ thích vui chơi hội họp, trong đám con cháu có thiên vị đứa này đứa kia, đôi lúc còn trẻ trung yêu đời đến mức “chọn một cành cúc đỏ cài lên mái tóc” (hồi 40.) Xét cho cùng, đấy cũng không phải bi kịch gì lớn lắm. Vấn đề của gia đình này nằm ở chỗ: từ ông trưởng tộc cho đến đứa hầu, đều răm rắp làm theo mọi ý nguyện của bà. Mọi ý muốn to nhỏ của bà đều được coi là thánh chỉ. Nói có sách mách có chứng, tôi có thể chỉ ra vô số trường hợp Giả mẫu được o bế chiều chuộng như một “Lão phật gia.”
Giả mẫu hỏi Bảo Thoa thích nghe vở hát gì? Muốn ăn thức ăn gì? Bảo Thoa vốn biết Giả mẫu tuổi già, thích nghe những vở hát vui nhộn, thích ăn những đồ ăn nhừ, ngọt, liền chọn cái gì Giả mẫu thường thích, kể ra một lượt. Giả mẫu lại càng vui.
Khi chấm vở, Giả mẫu bảo Bảo Thoa chấm. Từ chối mãi không được, Bảo Thoa đành phải chấm một hồi trong vở Tây Du Ký. Giả mẫu vui lắm, lại bảo Phượng Thự. Phượng Thư biết Giả mẫu thích vui, thích cười đùa, nên chấm ngay vở “Lưu Nhị đương ỳ”. Giả mẫu lại càng vui.
Giả mẫu đã già, nhưng sở thích “vở hát vui nhộn, ăn đồ nhừ ngọt” của bà rõ ràng là ám chỉ cho tính cách trẻ thơ. Bảo Thoa tính tình khôn ngoan đã sớm nắm rõ điều này, đó là lý do nàng dễ dàng chiếm được cảm tình Giả mẫu, trở thành một ứng cử viên nặng ký cho ngôi vị nguyên phối của Bảo Ngọc.
Giả Chính vội cười:
– Vâng, xin chịu phạt; nếu đoán đúng, xin bà thưởng cho.
– Cái ấy cố nhiên.
Rồi giả mẫu đọc luôn:
– Con khỉ lơ lửng bám trên cành (Đố tên một thứ quả).
Giả Chính biết ngay là quả vải, nhưng cố ý đoán sai, để chịu phạt mấy thứ rồi mới đoán đúng. Giả mẫu lại thưởng cho mấy thứ. Sau Giả Chính lại đọc một câu đố để Giả mẫu đoán:
– Mình thì vuông vắn, chất thì cứng rắn, tuy không biết nói, trả lời đúng đắn. (Đố một thứ đồ dùng).
Ông ta đọc xong, rồi khẽ bảo Bảo Ngọc. Bảo Ngọc biết ý, khẽ đến gà Giả mẫu. Giả mẫu nghĩ một lúc cho là đúng, liền nói:
– Đó là cái nghiên.
Giả Chính cười nói:
– Bà đoán một lần đúng ngay.
Rồi quay lại bảo đem đồ mừng đến. Bọn hầu vâng lời mang hết khay lớn, khay nhỏ lên. Giả mẫu xem từng cái một, đều là đồ mới đẹp, để dùng vào ngày hội hoa đăng cả, trong bụng rất vui.
Đây là một đoạn đặc biệt thú vị. Chỉ là một trò đố vui giữa người nhà thôi mà đã lắm trò giả vờ như vậy! Xuất phát từ lòng hiếu thảo, Giả Chính đã vô tình đối xử với Giả mẫu như một đứa trẻ cần được che chở, lại lôi kéo cả Bảo Ngọc vào. Hành vi bợ đỡ Giả mẫu rõ ràng có tính chất “cha truyền con nối,” nên không có gì lạ khi nó bao trùm luôn cả câu chuyện. Qua sự kiện này, việc người nhà họ Giả bao che, giấu giếm, lừa dối Giả mẫu khi gia cảnh suy sụp không còn đáng ngạc nhiên nữa. Đến tận khi gia tộc gặp cảnh kiệt cùng nhất, Giả mẫu mới ngỡ ngàng:
Giả mẫu thấy chức tước của cha ông để lại bị cách mất, con cháu đang bị giam, chờ ngày tra hỏi. Hình phu nhân và Vưu thị đêm ngày khóc lóc. Phượng Thư bệnh tình nguy cấp, tuy có Bảo Ngọc, Bảo Thoa ở bên cạnh, nhưng chỉ có thể khuyên giải chứ không thể chia nỗi lo âu được. Vì thế, đêm ngày phiền muộn, lo trước nghĩ sau, nước mắt không bao giờ khô.
[…]
Giả mẫu nghe nói hoảng hốt, chảy nước mắt, và nói:
– Làm sao thế? Nhà mình mà đến nông nỗi ấy à. Ta tuy chưa từng trải, nhưng nghĩ bên nhà ta ngày trước so với bên này còn hơn gấp mười. Cũng chỉ vì lo tô điểm hảo bộ mặt bề ngoài, nên sau mấy năm không xảy ra việc như ở bên này. Nhưng cũng đã suy sụp. Không đầy hai năm là sạch cả! Theo như anh nói, thì nhà mình không thể chèo chống được một vài năm nữa à.
*
Giả mẫu : may còn được người viết về cuối rủ lòng thương
Giả mẫu tính tình trẻ con chưa nguy hại bằng việc người nhà dung túng điều đó. Nếu Giả mẫu chỉ ngồi một chỗ tĩnh dưỡng, thi thoảng bày cuộc vui chơi thì có lẽ cũng chưa đến nỗi. Điều đáng nói là Giả mẫu còn trực tiếp nhúng tay, gây ảnh hưởng đến việc vận hành của gia tộc. Thử nghĩ mà xem, một người già dù có minh mẫn sáng suốt đến mấy cũng khó có đủ trí lực để quyết định những việc lớn trong nhà, nữa là một bà cụ nông nổi như Giả mẫu. Việc này để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Thứ nhất, trong nhà, Giả mẫu yêu thích và giao phó hết việc nhà cho Phượng Thư cũng bởi nàng có cái miệng giỏi bông đùa, biết cách làm Giả mẫu bật cười. Nàng lại khéo đón ý, đưa đẩy, bày trò, tỷ như lúc mời già Lưu vào nói chuyện với Giả mẫu… Phượng Thư lợi dụng sự yêu chiều, tin cậy của Giả mẫu để lạm quyền, góp phần đưa nhà họ Giả lâm vào cảnh bi đát thế nào thì không cần nói nữa.
Thứ hai, Giả mẫu quá yêu chiều Bảo Ngọc đến mức bất chấp cả
những quy tắc ứng xử thông thường. Bảo Ngọc từ nhỏ đã sống ở cạnh các
chị em, điều này đến khi cậu ta lớn vẫn không thay đổi. Giả Chính,
Nguyên Xuân đều thấy điều này không hợp tình hợp lý, nhưng mấu chốt là
họ vẫn muốn chiều ý Giả mẫu, thế nên mới có cảnh một cậu công tử dọn vào
Đại Quan viên ở với một dàn tiểu thư:
(Nguyên Xuân) Lại nghĩ đến Bảo Ngọc không như các anh em khác, từ bé đến lớn vẫn ở luôn với đám chị em; nếu không cho sang đây, sẽ làm cho cậu ta buồn, mà Giả mẫu và Vương phu nhân cũng không được vui. Vậy nên cho Bảo Ngọc ở luôn đấy mới phải.
Giả Chính chẳng ưa Bảo Ngọc, nhưng không có nghĩa ông ta hoàn toàn phó mặc đứa con trai này. Trong lòng Giả Chính luôn canh cánh nỗi lo sợ Bảo Ngọc sẽ đi vào con đường sai, vì thế ông thường xuyên tìm cách uốn nắn Bảo Ngọc mỗi khi có cơ hội. Nhưng sự dạy dỗ của ông luôn vướng phải sự cản trở của Giả mẫu. Khi Giả Chính bắt Bảo Ngọc làm một việc đơn giản (đặt câu đối), ông cũng không dám giữ cậu ta lại lâu vì sợ Giả mẫu “không yên lòng”. Mỗi khi Giả Chính tìm gọi Bảo Ngọc thì một tấn trò hề sẽ xảy ra như sau:
Bảo Ngọc sa sầm nét mặt, mất vui, ngồi ngẩn ra một lúc, rồi uốn éo níu chặt lấy Giả mẫu, không chịu đi.
Giả Mẫu an ủi:
– Của quí của bà này! Cháu cứ đi, đã có bà. Cha cháu không dám làm rầy rà cháu đâu.
Giả mẫu nói xong, gọi hai bà già đến dặn: “Đưa cậu Bảo sang, và chớ để ông làm cho cậu ấy sợ”.
Lần duy nhất Giả Chính dùng đòn roi để răn đe Bảo Ngọc thì vấp phải sự cản trở quyết liệt bằng… nước mắt của Giả mẫu. Kết quả là Giả Chính, Giả Xá sợ Giả mẫu khóc lóc sinh ốm, vừa tốn công lại mất của, quá trình dạy con của Giả Chính lại một lần nữa trở thành công cốc công cò. Ngay cả khi Bảo Ngọc bị ốm, bị đau, nỗi lo đầu tiên của Vương phu nhân không phải sự an nguy của con trai mà là sợ Giả mẫu biết! Sự nâng niu của Giả mẫu với Bảo Ngọc khiến cậu ta bị Giả Hoàn căm ghét, rồi bị dì Triệu thuê phù thủy hãm hại đã đành, nó còn tạo ra một khoảng cách không thể cứu vãn với Giả Chính, khiến Bảo Ngọc mãi mãi không thể trưởng thành về mặt nhận thức. Mà đây lại là niềm hy vọng của cả nhà họ Giả! Đủ biết Giả phủ người tuy nhiều nhưng đã không còn ai nữa rồi.
Cuối cùng, văn hóa sùng bái cá nhân (Giả mẫu) trong xã hội nhỏ (Giả phủ) đã tạo nên sự chia rẽ không hề nhỏ. Trong số những người xu nịnh, chiều chuộng Giả mẫu, mấy ai thực sự yêu quý bà? Số đông vây quanh Giả mẫu chỉ vì muốn nâng cao địa vị bản thân, nhân đó o ép người khác. A hoàn Uyên Ương lúc sống gắn bó với Giả mẫu, lại tự tử sau khi Giả mẫu qua đời, nhưng lý do thực là nàng sợ Giả Xá không còn úy kị mẹ già sẽ nhân đó làm ô uế thân nàng. Những kẻ bị “ra rìa” lại càng không tránh khỏi bị cô lập, ghẻ lạnh, thậm chí ngược đãi (Hình phu nhân, Vưu nhị thư). Ta thấy một gia tộc bề thế, giàu có, “tứ đại đồng đường,” nhưng bên trong rặt những mưu mô, xảo trá, đố kỵ lẫn nhau, chẳng hề thấy tinh thần đoàn kết hay sự quan tâm thực lòng. Dù Giả mẫu không hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc này, nhưng khi hệ thống thưởng-phạt và bộ máy vận hành của một gia tộc đều dựa trên sự chiếu cố của một bà lão thì gia tộc đó chỉ là hữu danh vô thực.
Cuối truyện, Giả mẫu đã “bù đắp” lại cho gia đình lụn bại bằng cách phân phát hết tài sản ki cóp cho con cháu. Có thể nói đây là một sự chuộc tội nhằm cân bằng lại những thiếu sót trong tính cách của nhân vật này:
Giả mẫu gọi Hình phu nhân và Vương phu nhân cùng bọn Uyên Ương mở rộng đổ hộp lấy ra hết cả những đồ vật dành dụm từ khi làm dâu đến nay, lại gọi bọn Giả Xá, Giả Chính, Giả Trân đến chia cho từng phần rõ ràng. Giả mẫu cấp cho Giả Xá ba ngàn lạng và nói:
– Số bạc hiện có ở đây, anh đem đi hai ngàn làm tiền tiêu để một ngàn cho chị ấy tiêu riêng. Đây có ba ngàn lạng cho cháu Trân, nhưng chỉ được đưa đi một ngàn lạng, để lại hai ngàn lạng cho vợ cháu giữ lấy. Ai nấy tự lo lấy sinh sống. Nhà cửa thì ở chung với nhau, cơm nước thì ăn riêng. Việc hôn nhân của con Tư sau đây cũng là việc của ta. Tội nghiệp con Phượng lo liệu bấy lâu bây giờ sạch không, cũng cho nó ba ngàn lạng, giao cho nó giữ lấy không cho cháu Liễn tiêu. Giờ đây nó còn ốm mê mệt thì bảo con Bình đến mà nhận về. Đây là xiêm áo của cha ông để lại cả áo quần và đồ trang sức của ta dùng khi còn nhỏ, nay ta không dùng đến. Đồ đàn ông thì bảo ông Cả, cháu Liễn, cháu Trân, cháu Dung đem ra mà chia nhau. Đồ đàn bà thì bảo bà Cả, vợ cháu Trân và con Phượng đem mà chia nhau. Đây có năm trăm lạng bạc giao cho cháu Liễn, sang năm đưa linh cữu con Lâm về Nam.
Giả mẫu phân phát xong, lại nói với Giả Chính:
– Anh nói còn mắc nợ người ngoài, việc đó cũng không thiếu được. Anh bảo đem số vàng này bán đi mà trả cho người ta. Đó là bọn chúng nó phá mất của ta đấy. Anh cũng là con ta, ta không hề có thiên vị. Bảo Ngọc đã nên cửa nên nhà, những vàng bạc và đồ vật còn lại đây ước chừng mấy ngàn lạng, đều đã cho nó cả. Vợ cháu Châu xưa nay ăn ở hiếu thuận với ta, thằng chắt Lan cũng tốt, ta cũng chia cho mẹ con nó ít nhiều. Thế là công việc của ta xong xuôi.
Bọn Giả Chính thấy Giả mẫu phân xử sáng suốt như thế, đều quỳ xuống khóc và nói:
– Tuổi già như thế, bọn chúng con chưa có chút gì hiếu thuận. Giờ đây lại chịu ơn của người thế này. Thật bọn chúng con lấy làm xấu hổ!
Phải nói người viết đã rủ lòng thương Giả mẫu, vẫn để cho bà được lần cuối sưởi ấm trong sự kính trọng (lần này mới tự đáy lòng) của con cháu. Chúng ta cũng vì cử chỉ đẹp ấy mà quên đi những sai lầm của Giả mẫu. Nếu không vì chi tiết này, có lẽ hình ảnh của Giả mẫu đọng lại trong người đọc chỉ là sự tủi hổ của tuổi già!
*
Giả Nghênh Xuân : rúc đầu vào sách, bịt mắt bưng tai
“Giả phủ tứ xuân” trong Hồng Lâu Mộng giống như một bộ tranh tứ quý: Nguyên Xuân phong lưu quý phái, Nghênh Xuân văn nhã ôn nhu, Thám Xuân sắc sảo khôn ngoan, Tích Xuân thanh tịnh khác đời. Thế nhưng chữ đầu của bốn cái tên hợp lại (Nguyên Nghênh Thám Tích – 元迎探惜) lại hài âm với cụm từ “đáng phải thở than” (Nguyên Ưng Thán Tức – 原应叹息) đủ thấy cuộc đời họ trước sau đều không có hậu.
Trong bốn cô Xuân thì Nghênh Xuân là người có tính cách hiền lành nhất. Những tưởng ông trời sẽ rộng lòng cho nàng được bình an, nhưng Nghênh Xuân lại chết trong cô đơn và đau đớn. Số phận Nghênh Xuân quả thật dễ khiến người ta chán ngán và mất niềm tin vào cuộc đời.
Nghênh Xuân là con gái của ông cả Giả Xá với nàng hầu, lại là phận nữ, thế nên địa vị của nàng kém xa người anh cùng cha khác mẹ Giả Liễn và cô vợ đanh đá Vương Hy Phượng. Nhưng điều đó không khiến Nghênh Xuân phải bận lòng. Trong ba người chị em họ của nàng, Nguyên Xuân “số đẻ bọc điều” nhưng lại muốn từ bỏ sự xa hoa, Thám Xuân là con phượng hoàng cao quý bất mãn với số phận, Tích Xuân coi tất cả danh lợi đều là không. Chỉ có Nghênh Xuân thực sự hài lòng với những gì mình có, không hề buông lời ca thán. Ngay từ vẻ bên ngoài, Nghênh Xuân đã tạo cho người đối diện cảm giác gần gũi dễ chịu:
Cô thứ nhất, người nở nang, tầm thước, nước da nõn nà, má đỏ hồng hào như quả vải tươi, mũi loáng như xoa mỡ, tính nết ôn hòa kín đáo, thoạt nhìn đã thấy mến.
Bề mặt Giả Phủ tưởng chừng sóng yên gió lặng nhưng bên trong đầy cạm bẫy. Từ tiểu thư bà lớn đến con hầu người ở đều giành giật, đấu đá, trên đội dưới đạp hòng nâng cao địa vị. Đến cả Đại Ngọc cao quý là thế vẫn ngấm ngầm so sánh ghen tuông với Bảo Thoa, Tương Vân. Riêng Nghênh Xuân đứng ngoài tất cả. Giả Xá và Hình phu nhân thờ ơ bỏ bê nàng, nàng cũng không màng tới. Các chị em trong Đại Quan viên đều có tài riêng: Đại Ngọc, Bảo Thoa văn hay chữ tốt, Tích Xuân có năng khiếu hội hoạ, Thám Xuân tính toán khôn ngoan,… riêng Nghênh Xuân mờ nhạt. Mỗi khi tụ tập thi xã nàng thường lép vế, khi Quý phi truyền các chị em làm câu đố gửi vào cung nàng cũng xếp hạng chót. Thế nhưng Nghênh Xuân cũng không vì thế mà ấm ức phiền muộn. Dường như Nghênh Xuân đã đạt đến mức “vô vi.” Sau đây là nhận xét của bọn người dưới về Nghênh Xuân:
Còn cô Hai thì gọi đùa là “cô hai gỗ”, châm kim vào người cũng không biết “ái” lên một tiếng.
[…] Nghênh Xuân… một người thì có xác không hồn, tự mình không trông nom chu tất nổi mình, còn trông nom người khác sao được.
Nghênh Xuân lựa chọn cách sống như vậy, thật ra cũng chẳng có hại gì tới ai. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, thấy nàng như con cừu non yếu đuối nên kẻ dưới bèn tự tung tự tác. Dấu hiệu “có vấn đề” đầu tiên là khi bà vú nuôi của Nghênh Xuân ăn cắp đồ trang sức của nàng để đi đánh bạc.
Vì vú nuôi bị tội, Nghênh Xuân trong bụng khó chịu, thấy mẹ đến, liền ra mời vào. Uống nước xong, Hình phu nhân nói:
– Con đã lớn rồi, vú nuôi của con làm bậy như thế, sao con không răn bảo. Hiện giờ người ta đều tử tế cả, riêng người nhà mình là xấu thôi. Thế là nghĩa thế nào?
Nghênh Xuân cúi đầu mân mê tà áo, một lúc mới thưa:
– Con đã bảo bà ấy hai lần, nhưng bà ấy không nghe, con cũng chẳng biết làm thế nào cả. Vả chăng bà ấy là vú nuôi, chỉ có bà ấy bảo được con thôi, chứ con không thể bảo được bà ấy.
Hình phu nhân nói:
– Nói nhảm! Con có điều không phải thì vú ấy bảo con; nhưng vú ấy phạm pháp, thì con phải lấy tư cách là cô mà răn bảo. Nếu vú ấy không nghe, con trình mẹ biết mới phải. Bây giờ vỡ lở ra, người ngoài biết, còn ra làm sao nữa! Hơn nữa vú ấy là nhà gá bạc, cũng đã nói khôn nói khéo, mượn trâm vòng quần áo của con đi cầm để làm tiền vốn. Con là người nhẹ dạ cả nể, chắc đâu không giúp đỡ ít nhiều. Nếu bị vú ấy lừa mất, thì ta một đồng không có, rồi đây ngày tết, con lấy gì mà ăn mặc?
Nghênh Xuân cúi đầu mân mê tà áo không nói gì cả.
Thừa dịp vú nuôi Nghênh Xuân bị tội, Hình phu nhân bèn tranh thủ nói xấu một loạt từ Giả Liễn, Phượng Thư, Thám Xuân, nhân tiện chửi xéo cả dì Triệu. Hình phu nhân vốn là người nhỏ nhen, đứa hầu bên cạnh lại thừa dịp đổ thêm dầu vào lửa:
[…]
Hình phu nhân thấy vậy cười nhạt:
– Rút cuộc, chỉ có anh con, chị dâu con là tiếng tăm lừng lẫy thôi! Cậu hai Liễn! Mợ Phượng! Cả hai làm trời làm đất, việc gì cũng thu xếp đâu vào đấy, nhưng có một cô em thì lại chả để ý gì đến. Nếu như con ta đẻ ra, thôi thì mặc kệ chúng. Nhưng con lại không phải con đẻ của ta. Con với anh con, dù khác mẹ, vẫn là cùng cha, phải nên chăm sóc lẫn nhau một chút, đừng để người ngoài chê cười. Ta nghĩ, việc đời khó mà liệu định được. Con là con nàng hầu của ông Cả, con Thám Xuân là con nàng hầu của ông Hai. Hai đứa đều như nhau cả. Mẹ con đã chết rồi. Nhưng kể ra, mẹ con còn giỏi gấp mười dì Triệu, đáng lẽ con cũng phải hơn con Thám Xuân mới phải.
Một người đứng hầu bên cạnh thừa dịp nói:
– Cô tôi hiền lành phúc hậu, có đâu như cô Ba là người mồm mép láu lỉnh, làm em lại cứ đành hanh. Biết chị như vậy, cô ấy chẳng vị nể chút nào.
Hình phu nhân nói:
– Anh chị ruột còn như vậy, trách gì người ngoài.
Một đoạn ngắn ngủi ấy đủ cho ta thấy tình trạng hằn thù ganh ghét, “thập diện mai phục” trong Giả phủ như thế nào, nhưng Nghênh Xuân vẫn kiên quyết đứng ngoài. Đỉnh điểm của vụ lùm xùm này là khi nhà bà vú Nghênh Xuân to gan… kiện ngược lại Nghênh Xuân, vu oan rằng nàng vay tiền của họ. Chứng kiến sự láo xược đó không ai khỏi tức đầy trong ruột, nhưng Nghênh Xuân lại vẫn bình chân như vại. Đoạn sau thật là một vở bi hài kịch:
Ngờ đâu nàng dâu vú nuôi Nghênh Xuân là vợ Ngọc Trụ, vì mẹ chồng có tội, đến nhờ Nghênh Xuân xin hộ. Thấy họ đương nói chuyện mất dây vàng, nên chưa vào vội. Biết Nghênh Xuân ngày thường là người nhu nhược, nên chúng không coi vào đâu.
[…]
Nghênh Xuân nói:
– Chị ơi, chị đừng có nghĩ mơ hồ như thế! Nếu đợi tôi đi xin hộ, thì chờ đến sang năm cũng chẳng ăn thua gì. Vừa rồi chính chị Bảo và cô Lâm đến xin hộ, cụ còn chẳng nghe nữa là nữa tôi. Tự tôi đã thấy ngượng rồi, lại đi mua thêm lấy cái ngượng nữa sao?
[…]
Vợ Ngọc Trụ thấy Nghênh Xuân dứt khoát từ chối, Tú Quất nói lại đanh thép, không biết trả lời ra sao, bị bẽ mặt quá, nhưng biết rõ Nghênh Xuân xưa nay là người dễ dãi, liền quay lại bảo Tú Quất:
[…]
Nghênh Xuân nghe thấy vợ Ngọc Trụ nói lộ việc riêng của Hình phu nhân, liền gạt đi, nói:
– Thôi, thôi! Không đòi được dây vàng về thì thôi, chị đừng có vơ quàng vơ xiên làm ầm lên nữa. Tôi cũng chẳng cần đến dây vàng. Nếu các bà có hỏi, tôi chỉ nói là đánh mất, cũng chẳng can hệ gì đến chị. Chị về nghỉ thôi.
Rồi cô ta sai Tú Quất đi pha nước. Tú Quất tức giận, nói:
– Cô tuy không sợ, nhưng còn cháu đây để làm gì? Họ đã làm mất đồ vật của cô, lại còn nói bậy là cô tiêu tiền của họ, bây giờ phải khấu trừ đi. Nếu bà Hai hỏi cô tại sao tiêu hết bấy nhiêu tiền và cho là chúng cháu nhờ bão bẻ măng, ăn bớt xén gì chăng? Như vậy sao được.
Tú Quất vừa nói vừa khóc. Tư Kỳ nghe thấy không chịu được cố gượng dậy, bênh vực Tú Quất, hỏi vặn lại vợ Ngọc Trụ. Nghênh Xuân không can nổi, đi lấy quyển “Thái thượng cảm ứng thiên” ra xem.
“Thái thượng cảm ứng thiên” là pho sách dạy chúng sinh bỏ ác hướng thiện, câu đầu tiên như sau: Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình. (Họa và phúc đều không có cửa mà là do lòng người tự gây, làm ác thì gặp họa, làm lành thì được phúc, sự báo ứng như hình đi với bóng, không sai một mảy may.) Nghênh Xuân tin vào quy luật rạch ròi trong sách, nàng cho rằng chỉ cần mình một lòng hướng thiện ắt sẽ được báo đáp như vậy. Mỗi khi có chuyện xảy ra, phản ứng duy nhất của Nghênh Xuân là bưng tai bịt mắt, không nghe không thấy, chúi vào đọc sách như con đà điểu rúc đầu trong cát. (Thám Xuân nhìn qua cửa sổ, thấy Nghênh Xuân ngồi tựa trên giường xem sách, như không nghe thấy gì. Thám Xuân cũng buồn cười). Nếu Thám Xuân không xắn tay vào can thiệp thì chẳng ai biết sự việc sẽ đi tới đâu. Sau khi mọi việc đã được giải quyết êm đẹp, Nghênh Xuân vẫn điềm tĩnh như không:
Nghênh Xuân vẫn ngồi xem “Thiên cảm ứng” với Bảo Thoa, không để ý đến những câu nói của Thám Xuân. Thấy Bình Nhi nói thế, liền cười:
– Chị hỏi tôi à, tôi cũng chẳng có cách gì cả. Họ làm bậy thì họ phải chịu lấy tội, tôi không thể xin hộ được. Tôi chẳng đi xin ai và cũng chẳng trách họ là được rồi. Những vật ăn cắp, đưa trả thì tôi nhận, nếu không trả tôi cũng chẳng cần. Các bà có hỏi, tôi che chở được thì phúc cho họ, nếu không giấu nổi, tôi cũng không biết làm sao được. Không có nhẽ vì họ mà tôi lại dối trá các bà, tất là phải nói thẳng ra. Các chị cho tôi là dễ tính, không biết quyết đoán, có cách gì chu toàn được mọi mặt, không để các bà giận thì tùy các chị định liệu, tôi cũng thây kệ.
Mọi người nghe nói đều bật cười. Đại Ngọc cười nói:
– Thật là “hùm sói đã ngồi trên thềm nhà vẫn còn nói chuyện nhân quả”. Nếu chị Hai là đàn ông thì những người trong nhà này cai quản thế nào được họ?
Nghênh Xuân cười:
– Đúng đấy! Biết bao nhiêu là đàn ông cũng còn như thế, huống chi là tôi.
Những cô gái trong Hồng Lâu Mộng đều là hạng phong lưu thoát tục, không dính vẩn đục mà còn thấy Nghênh Xuân ngô nghê đến tức cười, thì đủ biết sự hiền lành của nàng đến đâu. Câu nói của Đại Ngọc tưởng vô tình nhưng thực ra lại là điềm báo trước cho cuộc hôn nhân của Nghênh Xuân, bạn đọc nên lưu ý chỗ này.
Giả Nghênh Xuân : hiền quá khó mà gặp lành
Tào Tuyết Cần không chỉ dụng công đặt tên cho bốn cô Xuân, mà còn chú ý cả tên … bốn a hoàn phục vụ nữa. Người hầu thân tín của Nguyên Xuân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân lần lượt là Bảo Cầm, Tư Kỳ, Thị Thư, Nhập Họa, ghép thành Cầm-Kỳ-Thi-Họa là bốn thú vui tao nhã của các tiểu thư con nhà quý tộc. Chữ Kỳ trong tên Tư Kỳ vừa là cờ (vì thế mà trong bản dịch tiếng Anh tên nàng là Chess,) vừa đồng âm với chữ kỳ trong kỳ lạ. Khác hẳn với người chủ yếu đuối, Tư Kỳ có tính cách mạnh mẽ không nhường ai, nhưng lại một mực trung thành với Nghênh Xuân. Tình thầy trò khăng khít trong truyện giữa Nghênh Xuân-Tư Kỳ giống của chị em hơn là chủ tớ. Nhìn bên ngoài, Tư Kỳ dường như lấn át cả chủ, nhưng trên thực tế đó là sự bảo vệ. Về sau Tư Kỳ tư tình với anh họ nên bị đuổi khỏi Giả phủ, Nghênh Xuân từ đó mất đi một chỗ dựa. Thử nghĩ mà xem, vú nuôi phản bội, người hầu thân tín bị đuổi đi, cha ruột hờ hững, mẹ đã qua đời, một người nhút nhát như Nghênh Xuân làm sao có thể tự chủ? Bi kịch hôn nhân của nàng chỉ là chuyện một sớm một chiều mà thôi.
Giả Xá đã hứa gả Nghênh Xuân cho nhà họ Tôn. Họ Tôn người ở phủ Đại Đồng, ông cha xuất thân quan võ, là môn sinh của hai phủ Vinh, Ninh ngày trước, kể ra cũng là chỗ thân. Hiện giờ nhà họ Tôn chỉ có một người ở Kinh tập chức chỉ huy, người ấy tên là Tôn Thiệu Tổ, mặt mũi khôi ngô, thân thể hùng tráng, theo nghề cung mã, giao thiệp tinh khôn, chưa đầy 30 tuổi, nhà lại giàu có, hiện đương hậu bổ ở bộ binh để đợi thăng chức.
Giả Xá thấy anh ta chưa có vợ, lại là con cháu nhà thế gia, nhân phẩm và gia thế cũng đều xứng đáng, nên chọn làm giai tế. Việc này cũng đã trình Giả mẫu. Giả mẫu không bằng lòng, nhưng nghĩ việc vợ chồng là tự ý trời, cha nó đã đứng làm chủ thì việc gì phải dây vào cho lắm chuyện? Vì thế chỉ nói “biết rồi”, ngoài ra không tỏ ý gì nữa.
Giả Chính xưa nay vẫn ghét nhà họ Tôn, tuy là chỗ thế gia, chẳng qua ông nó ngày trước hâm mộ thế lực phủ Vinh, phủ Ninh, có những việc không thu xếp được, phải đến xin làm môn hạ, chứ không phải là dòng dõi thi thư. Ông ta đã khuyên ngăn mấy lần, nhưng Giả Xá không nghe, nên đành phải chịu.
Những người lớn trong nhà đã phủi tay bỏ mặc Nghênh Xuân từ đó. Nghênh Xuân xuất giá theo chồng, Tử Lăng Châu quạnh quẽ đìu hiu chỉ có Bảo Ngọc lâu lâu nhớ chị ra thăm chốn cũ. Tôn Thiệu Tổ là người thế nào?
Nghênh Xuân đã về nhà được lúc lâu, đã dọn cơm chiều cho bọn bà già và người nhà họ Tôn ăn xong, và cho họ về cả. Nghênh Xuân mới khóc nức nở, ngồi ở trong buồng Vương phu nhân, kể lể những nỗi uất ức: “Tôn Thiệu Tổ một mực ham gái mê say cờ bạc rượu chè, bao nhiêu đàn bà con gái ở trong nhà bị nó hiếp dâm gần khắp lượt. Cháu mới khuyên nó vài ba lần, nó mắng cháu là hạng ‘đàn bà ghen tuông’. Nó lại nói cha cháu mượn của nhà nó năm nghìn bạc định ăn không, nó đến hỏi hai ba lần không trả. Nó lại còn trỏ vào mặt cháu nói: ‘Mày đừng có lên mặt bà với tao! Bố mày đã lấy của tao năm nghìn bạc, đem mày gạt cho tao đấy. Coi chừng tao đánh một trận, tống cổ xuống nhà dưới mà nằm! Ngày trước, ông mày còn sống, thấy nhà tao phú quý, nên chiều chuộng làm thân. Nói đúng ra thì tao với bố mày ngang hàng nhau, giờ lại dúi đầu tao, bắt tao tụt xuống một bực. Không thể có thông gia như thế được, để người ta nhìn vào lại cho là nhà tao chạy theo thế lợi’”.
Đây là câu thơ mô tả Tôn Thiệu Tổ:
Người đâu hung ác lạ lùng
Khác gì giống sói ở vung Trung San
Bấy lâu tình ái quên tràn
Kiêu dâm chỉ việc mê man tháng ngày
Bảo Ngọc thương xót chị lấy phải chồng hung ác nên van xin mẹ can thiệp. Vương phu nhân chỉ đáp rằng: “Con gái lấy chồng cũng như bát nước đã bị đổ. Đã là con gái ai chẳng phải đi lấy chồng; đã về nhà người ta thì bên nhà gái còn nhìn ngó gì được, cái đó chẳng qua là do số phận nó thế, được người chồng tốt thì hay, nhưng gặp phải đứa xấu cũng đành chịu vậy, người ta hay nói: “Lấy gà phải theo gà, lấy chó phải theo chó.”
Đến đây cần phải bàn một chút về hệ thống hôn nhân trong Hồng Lâu Mộng. Như chúng ta đã biết, ở Kim Lăng có bốn gia đình danh gia vọng tộc Giả Sử Vương Tiết, trong đó nhà họ Giả là đứng đầu. Theo học giả Eugene Cooper đã chỉ ra trong nghiên cứu Patterns of Cousin Marriage in Rural Zhejiang and in Dream of the Red Chamber, những người đàn ông thuộc chi trưởng trong nhà họ Giả đều lấy vợ là tiểu thư của ba gia tộc còn lại. Bốn thế hệ con dâu trong Hồng Lâu Mộng lần lượt thuộc họ Sử (Giả mẫu), họ Vương (Vương phu nhân và Phượng Thư), họ Tiết (Tiết Bảo Thoa). Chỉ cần chiếu theo thứ tự đó cũng đủ thấy Đại Ngọc hoàn toàn không có cơ hội trở thành vợ của Bảo Ngọc. Ngược lại, những người con gái trong nhà họ Giả lại đều kết hôn với những người nằm ngoài bốn họ trên. Nguyên Xuân được tuyển vào cung, Thám Xuân gả cho một viên võ quan ở xa, Nghênh Xuân lấy con trai nhà họ Tôn, chỉ riêng Tích Xuân đến tuổi lấy chồng khi gia cảnh mạt vận nên ở vậy đi tu theo đúng ý nguyện của nàng. Tất cả đều có lý do của nó.
Nói một cách ngắn gọn, khi gả con trai, cái mà nhà họ Giả nhắm đến là tài sản. Những nàng dâu thuộc họ Sử, họ Tiết, họ Vương, không chỉ mang về món hồi môn béo bở mà còn là chỗ dựa vững chắc về tài chính nhỡ có lúc nhà họ Giả sa cơ lỡ vận. Tuyển vợ từ ba gia tộc giàu có là cách nhà họ Giả quy tụ hết tiền của về một mối. Ngược lại, khi gả con gái, cái mà nhà họ Giả nhắm đến là quan hệ. Vì vậy những bậc trưởng bối trong nhà khi ấn định chuyện trăm năm của con gái thường chọn những gia đình quyền thế ở xa, thậm chí càng xa càng tốt. Đó là cách họ mở rộng phạm vi quyền lực thông qua hôn nhân. Ta có thể thấy điểm tương đồng trong những câu chuyện gả công chúa cho phiên bang để đổi lấy hòa bình trong lịch sử Trung Quốc. Thế nên đừng tưởng “môn đăng hộ đối” là đơn giản, bản thân cái gì “đăng,” cái gì “đối” cũng rất lắm vấn đề.
Theo quan niệm của người Trung Quốc (cũng như của Việt Nam), con gái là con người ta, vì một khi đã xuất giá thì lập tức trở thành người nhà chồng. Con dâu thì ngược lại, họ trở thành những người giữ tay hòm chìa khóa, quán xuyến mọi việc trong nhà. Ta có thể thấy điều này rất rõ trong Hồng Lâu Mộng: quyền lực trong Giả phủ chủ yếu nằm trong tay những người đàn bà ngoại tộc (Giả mẫu, Vương phu nhân, Phượng Thư). Trong khi đó mấy cô tiểu thư mang họ Giả hầu như không nhúng tay vào các việc trong nhà, ngoại trừ Thám Xuân có thể hiện bản lĩnh tí chút. Vai trò người phụ nữ được phân định rạch ròi dựa trên địa vị con gái-con dâu của họ, tất nhiên ở từng hạng mục lại chia ra chi trưởng-chi thứ, vợ cả-vợ lẽ, v.v,…Con dâu mang của cải về nên được lãnh nhiệm vụ cai quản tiền bạc, còn con gái đằng nào cũng gả đi nên chỉ cần tập trung làm đẹp, may vá thêu thùa, điểm thêm chút tài năng là được.
Những cô tiểu thư trong Giả phủ, vì thế, chẳng khác nào những món hàng được bày bán, chỉ chờ ngày “xuất xưởng”. Họ là những con tốt được người lớn dùng để đổi lấy địa vị và uy quyền, còn bản thân họ có hạnh phúc trong hôn nhân không thì nào ai quan tâm đến. Số phận của Nghênh Xuân thế là đã được an bài. Người họ Giả xót xa thương cảm cho nàng nhưng không phẫn nộ hay tìm cách trả thù nhà họ Tôn, bởi việc nàng bị Tôn Thiệu Tổ hành hạ đến chết chỉ là một thứ tổn thất ngoài dự kiến (collateral damage). Là một người đàn bà trong xã hội phong kiến, dù là một người đàn bà quý tộc đi chăng nữa, thì sướng khổ phụ thuộc chủ yếu vào may mắn mà thôi. “Thân em như hạt mưa sa, hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”. Ra ruộng cày còn đỡ, đằng này Nghênh Xuân rơi vào móng vuốt của loài hùm sói.
Đây là lá số tiền định của Nghênh Xuân:
Mặt sau lại vẽ một con lang dữ, đuổi bắt một mỹ nữ, định ăn thịt. Dưới có câu:
Rõ ràng giống sói Trung Sơn,
Gặp khi đắc ý ngông cuồng lắm thay.
Làm cho hoa liễu thân này,
Hoàng lương giấc mộng mới đầy một năm.
Sói Trung Sơn (Trung Sơn lang) là một nhân vật phản diện trong truyện cổ Trung Quốc, được dùng để chỉ hạng người độc ác, ăn cháo đá bát. Ông Đông Quách cứu nó khỏi tay thợ săn, nó lại trở mặt đòi xơi tái ông. Loài sói thường gắn với những gì xấu xa, dữ tợn, trong văn học phương Tây cũng có chó sói lớn Big Bad Wolf ăn thịt cô bé quàng khăn đỏ và ba chú heo con. Dùng sói Trung Sơn để miêu tả bản chất đê hèn, cục súc, lật lọng của Tôn Thiệu Tổ thật là chuẩn. Trở về trước, trong lời nói đùa của Đại Ngọc đã có dự báo về số phận của Nghênh Xuân. “Hùm sói đã đến thềm nhà” dùng để chỉ cuộc hôn nhân bất hạnh với Tôn Thiệu Tổ đã sắp xảy ra, nhưng Nghênh Xuân vẫn nhất nhất tin rằng chỉ cần giữ mình trong sạch, thiện lương sẽ được hưởng phúc. Đúng như trong Hồng Lâu Mộng khúc, tình cảnh của Nghênh Xuân là “Hỉ oan gia.” (Gặp oan gia không đáng mừng mà lại mừng). Trong vòng chưa đầy một năm, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, ốm không có thuốc, thường xuyên bị hành hạ, đánh đập, chửi bới, Nghênh Xuân đã từ trần.
Thán phương hồn diễm phách,
Nhất tái đãng du du.
(Một năm duyên đã bẽ bàng
Hồn thơm phách đẹp, suối vàng xa chơi.)
Nếu theo quan điểm hiện đại, tích cực kiểu “tính cách tạo nên số phận,” thì chính sự thụ động, nhu nhược của Nghênh Xuân đã góp phần đẩy nàng đến kết cục không may. Thế nhưng nói cho cùng, ở trong xã hội của Hồng Lâu Mộng, cho dù Nghênh Xuân có vùng vẫy thế nào chăng nữa cũng khó thoát khỏi sự ấn định của gia tộc. Câu đố ứng với thân phận của nàng chính là cái bàn tính:
Trời chuyển, người xoay, lý chẳng cùng,
Người xoay trời đứng cũng không xong,
Tại vì tính toán quanh co mãi,
Mà số âm dương vẫn chửa thông!
Có lẽ bởi những câu chuyện như Nghênh Xuân mà có câu “người tính không bằng trời tính” chăng? Nữa là không tính gì cả…
*
Lý Hoàn: đè nén sống đời vờ nhạt nhẽo
Trương Khánh Thiện đã nhận xét về Lý Hoàn trong cuốn Mạn đàm về Hồng Lâu Mộng như sau: “Quãng đường bi kịch của nàng càng dài, cuộc sống nhân sinh của nàng càng cay đắng”. Cùng với Lâm Đại Ngọc và Hương Lăng, nàng là một trong những nhân vật vừa xuất hiện đã mang nỗi bất hạnh đeo đẳng. Xét về địa vị và lai lịch, nhân vật Lý Hoàn lại càng có điểm độc đáo đáng được bàn tới. Nàng là một tấm gương phản chiếu xã hội phong kiến bóp nghẹt quyền sống của người phụ nữ. Có thể nói số phận của Lý Hoàn có ba phần do thiên định, nhưng tới tận bảy phần nằm ở những xiềng xích ăn sâu từ trong tiềm thức cộng đồng.
Xiềng xích ấy bắt nguồn từ đâu? Trong truyện đã nói rõ:
Nguyên họ Lý là vợ Giả Châu. Giả Châu chết sớm, có đứa con trai tên là Giả Lan, lên năm tuổi, đã đi học. Họ Lý cũng là con nhà danh hoạn đất Kim Lăng, bố là Lý Thủ Trung là Quốc tử Tế tửu. Trong họ, con trai, con gái đều được đi học. Đến đời Lý Thủ Trung thì cho “con gái bất tài, ấy là đức”. Vì thế, ông ta không cho con gái đi học đến nơi đến chốn, chỉ cho đọc “Nữ tứ thư”, “Liệt nữ truyện” để biết một số chữ, nhớ một số truyện hiền nữ đời trước là đủ, cốt sao chú trọng về thêu thùa canh cửi và việc vặt mà thôi. Nhân vậy đặt tên con là Lý Hoàn, tên chữ là Cung Tài.
Cái quan điểm “nữ tử vô tài tiện thị đức” này đã ám ảnh xã hội Trung Quốc mấy nghìn năm, đẩy bao thế hệ phụ nữ vào hố sâu của sự tăm tối và phục tùng. Lý Hoàn là tiểu thư của một gia đình quan lại mà còn như vậy, thì đủ biết những người đàn bà ở tầng lớp thấp hơn sẽ ra sao. Không được tự chủ về học vấn và của cải thì đương nhiên hôn nhân cũng phải để người khác định đoạt. Lý Hoàn trở thành vợ Giả Châu, con dâu của Giả Chính và Vương phu nhân, lại sinh được một con trai là Giả Lan. Nàng là chị dâu của Bảo Ngọc, Nguyên Xuân, Thám Xuân, là mợ cả của Giả phủ.
Truyện không nói rõ cuộc hôn nhân của hai vợ chồng Lý Hoàn êm đềm hay trúc trắc, chỉ biết Giả Châu là con người đức hạnh, nên có lẽ Lý Hoàn cũng được “Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân. Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.” Có điều ngày xuân ngắn chẳng tày gang. Giả Châu chết đột ngột, Lý Hoàn – một người con gái tuổi trẻ mơn mởn – bỗng chốc trở thành góa phụ. Quãng đường đời tươi đẹp của nàng đóng sập cửa từ lúc ấy.
Lý Hoàn trẻ tuổi, góa chồng, mặc dầu ở chỗ cao lương gấm vóc, nhưng lòng lạnh như tro tàn, cây cỗi, hết thảy không buồn hỏi, không buồn nghe việc gì; chỉ biết hầu bố mẹ chồng, nuôi con, lúc rỗi thì khâu vá, đọc sách với các cô em.
Theo bài Vãn thiều hoa (Cảnh xuân về cuối) ứng với Lý Hoàn thì cuộc hôn nhân của nàng trôi qua nhanh như một giấc mộng:
Còn gì ân ái trong gương
Còn gì giấc mộng trên đường công danh
Cảnh thiều hoa đi sao nhanh
Chăn uyên màn gấm thôi đành bỏ qua
Cũng như với các nhân vật khác, Tào Tuyết Cần đã dụng công đặt tên cho Lý Hoàn. Lá số tiền định của Lý Hoàn mở đầu bằng câu “Đào lý xuân phong kết tử hoàn,” chính là ám chỉ tên của nàng. Biện pháp chơi chữ ở đây rất hay. Chữ Lý trong tên nàng có nghĩa là cây mận, quả mận. Đào và mận thường đi chung một cặp để chỉ vẻ yêu kiều của người phụ nữ, cũng là biểu tượng cho tuổi trẻ nở hoa kết trái và tình yêu đôi lứa (Đào chi yêu yêu. Chước chước kỳ hoa,…) Đào mận gặp gió xuân kết thành quả, chữ “tử” nghĩa là đứa con trai, chữ “hoàn 完” ở đây có nghĩa là hoàn chỉnh, lại đồng âm với chữ “Hoàn 紈” trong tên nàng. Chữ Hoàn này mang nghĩa khác: lụa trắng. Một tấm lụa trắng nõn nà không tỳ vết vừa gợi đến sự cao nhã của thú chơi thư pháp, lại là biểu tượng cho sự trong sạch của người quả phụ một lòng thủ tiết. Thế nhưng nó cũng ám chỉ cái chết và tang tóc, khiến ta không khỏi liên tưởng đến những dải lụa vua ban để tự tử.
Trạng thái “sự đời đã tắt lửa lòng” của Lý Hoàn được mặc định là đương nhiên, nhất là trong một gia đình quyền quý như nhà họ Giả. Chẳng ai bận tâm hỏi han Lý Hoàn xem nàng có vừa lòng ở vậy nuôi con, không màng tình duyên hay không. Có lẽ ngay bản thân Lý Hoàn cũng không hề nghĩ, hoặc dám nghĩ đến điều đó, bởi nàng chẳng có lựa chọn nào khác. Sự ghẻ lạnh của xã hội với những người đàn bà tái giá đủ làm nàng chùn bước, chưa kể sự “rớt hạng” về địa vị mà nàng cùng Giả Lan sẽ phải gánh chịu. Ví dụ rõ nhất trong truyện là kế mẫu của Vưu thị cùng hai đứa con gái riêng: Vưu nhị thư, Vưu tam thư. Ba mẹ con bọn họ bị đối xử chỉ hơn những người hầu một chút, chẳng có thế lực gì, khi bị chèn ép cũng chẳng biết kêu ai. Lý Hoàn chấp nhận sống một cuộc đời góa bụa kiểu mẫu để đổi lấy sự an toàn, bao bọc, và danh dự. Thế nhưng Tào Tuyết Cần đã khéo cho chúng ta thấy tất cả chỉ là lớp vỏ bề ngoài.
Ở hồi mười bảy, Giả Chính và Bảo Ngọc cùng các môn khách vào thăm vườn Đại Quan. Xin chú ý đến đoạn sau:
Mọi người vừa nói chuyện vừa đi, đã đến một ngọn núi xanh chênh chếch. Đi vào trong núi, thấp thoáng có một bức tường thấp, đất vàng, trên tường có rơm che, có mấy trăm cây hoa hạnh, trông như lửa phun, ráng phủ. Mặt trong có mấy gian nhà tranh, mặt ngoài có những cây dâu, dâm bụt và găng mơn mởn tốt tươi theo nhau chỗ nhô ra, chỗ lượn vào, đan thành hai hàng rào xanh. Dưới chân núi, ngoài hàng rào có cái giếng khơi, bên cạnh có gầu và trục kéo nước; mé dưới có mảnh rộng phẳng lì, có luống rau tươi tốt, trông bát ngát mênh mông.
Giả Chính nói:
– Chỗ này thế mà có ý nghĩa lắm. Tuy tự tay người ta bày đặt ra, nhưng nhìn đến ai cũng phải cảm xúc, khêu gợi lòng ta muốn về hưởng thú điền viên. Chúng ta hãy vào đấy nghỉ ngơi xem
[…]
Nói xong, dẫn mọi người vào trong nhà tranh. Ở đây, cửa sổ dán giấy, giường gỗ đơn sơ, không có gì là hào hoa phú quý cả.
Giả Chính trong lòng rất sung sướng, lại nhìn Bảo Ngọc nói:
– Chỗ này thế nào?
Mọi người thấy hỏi, đều khẽ đẩy Bảo Ngọc, xui Bảo Ngọc nói là đẹp. Bảo Ngọc không nghe, nói ngay:
– Xem ra chỗ này kém xa “Hữu phương lai nghi”.
Giả Chính nói:
– Hứ! Đồ ngu xuẩn! Chả biết gì. Mày chỉ thích lầu son gác tía đẹp đẽ một cách thô tục, biết đâu được cái cảnh u nhã này.
[…]
Bảo Ngọc nói:
– Thế thì chỗ này đặt thành trang trại, rõ ràng là do người bày đặt ra. Xa thì không có hàng xóm, gần thì không có thành quách, dựa vào núi thì không có mạch, trông ra nước thì không có nguồn, chỗ cao thì không có tháp nhà chùa, chỗ thấp thì không có cầu ra chợ, trơ trọi đứng một mình, không phải là nơi bao la rộng rãi. Sao bằng mấy nơi trước có vẻ tự nhiên hơn. Tuy có giồng trúc, khơi suối cũng hơi xuyên tạc, nhưng không hại gì. Cổ nhân có bốn chữ “bục tranh thiên nhiên”, sợ chỗ này không đáng có thôn trang, và sơn thủy, mà gượng bày đặt ra, dù khéo léo đến đâu cũng vẫn không hợp.
Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính nổi giận thét lên:
– Thôi, bước ngay!
Đoạn này tả sự việc tưởng chừng vô thưởng vô phạt nhưng lại có hàm ý sâu xa, bút pháp kín đáo hết sức tuyệt vời. Nơi được nhắc đến sau này chính là Đạo Hương thôn – nơi ở của Lý Hoàn. Bề ngoài Đạo Hương Thôn được bố trí bình dị, quê mùa, không châu ngọc hào hoa, chẳng lụa là phú quý, chính là để phản chiếu cuộc sống phẳng lặng, giản tiện của góa phụ Lý Hoàn. Giả Chính – bố chồng Lý Hoàn là một Nho gia theo quan điểm truyền thống, thậm chí như Trương Tráng Niên nhận xét là một nguỵ quân tử, đương nhiên là ông ta ưng ý trước cảnh tượng nền nếp, khiêm nhường đó. Nhưng Bảo Ngọc với “tuệ nhãn” trong sáng và trái tim thấu hiểu tình người, đã nhìn ra sự giả tạo, gán ghép của nó.
Nên nhớ trong giấc mơ nơi Ảo Cảnh, Bảo Ngọc đã uống vào bụng hai thứ thức uống “Thiên hồng nhất quật” (đồng âm với Thiên hồng nhất khốc – ngàn bóng hồng cùng khóc) và “Vạn diễm đồng bôi” (đồng âm với Vạn diễm đồng bi – vạn vẻ đẹp đều buồn,) lại được thưởng thức mười hai khúc Hồng Lâu Mộng. Từ đáy lòng Bảo Ngọc có sự thấu hiểu vô hạn với những nỗi khổ của nữ nhi. Bằng trực quan, cậu linh cảm được sự miễn cưỡng, gò ép của Lý Hoàn nhưng không thể diễn tả bằng lời mà phải biểu hiện bằng việc chê trách Đạo Hương Thôn – nơi các bậc trưởng bối phân cho Lý Hoàn ở. Đương nhiên những câu phê bình của Bảo Ngọc khiến Giả Chính nổi xung, bởi qua đó Bảo Ngọc đã hạ thấp cả một phần của ý thức hệ phong kiến!
Lý Hoàn : tiếng hão đành vui phúc về già
Sau khi các chị em được phân về Đại Quan Viên, Lý Hoàn trở thành người phụ nữ duy nhất đã có chồng được vào ở đó. Nàng lãnh nhiệm vụ cai quản, giáo huấn các cô gái ngây thơ ấy. Đại Quan viên muôn hồng ngàn tía, có Đại Ngọc là bông phù dung kiều diễm, Thám Xuân là hoa hạnh cao sang, Tương Vân là đoá hải đường tươi tắn, Bảo Thoa là mẫu đơn quý phái. Lý Hoàn chẳng được làm hoa. Ở hồi sáu mươi ba, khi rút thẻ hoa, Lý Hoàn rút được thẻ có hình cây mai già.
Mọi người cầm thẻ xem, thấy vẽ một cành mai già, viết bốn chữ “Vóc đựng sương mai”. Mặt sau đề một câu thơ cổ: “Nhà tranh giậu trúc nhưng lòng vẫn vui”.
Thế nhưng thay vì đè nén, nghiêm khắc với những cô tiểu thư trẻ trung kia, Lý Hoàn lại một lòng bảo vệ, thương yêu, chiều chuộng bọn họ. Như Chu Chiêu Linh nhận xét, dù sống trong cảnh lòng lạnh tro tàn nhưng Lý Hoàn không mảy may oán thán, chấp nhận tuyết sương để chở che cho những cánh hoa xuân sắc, để những đóa hoa ấy tận hưởng mùa xuân tươi đẹp (dù ngắn ngủi) nơi Đại Quan Viên. Sự cao thượng của Lý Hoàn khiến tất cả người trên kẻ dưới đều phải kính phục.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn cả là chỉ sau khi Lý Hoàn vào Đại Quan Viên, Tào Tuyết Cần mới hé lộ cho ta thấy nàng có một tâm hồn thi vị, tao nhã chẳng kém gì cô Lâm, cô Tiết. Lý Hoàn không tự mình làm thơ bởi nó không phù hợp với vị trí trang nghiêm của người quả phụ, viện cớ tài mọn, nàng chỉ xin nhiệm vụ giám khảo. Nhưng mỗi cuộc thi thơ lại làm ta khám phá thêm những nét mới của Lý Hoàn. Nàng vui vẻ, cười đùa, trêu chọc các em nhỏ, lại có những phẩm bình về thơ rất súc tích, xác đáng.
Bỗng Lý Hoàn đến, cười nói:
– Nhã quá nhỉ! Định mở thi xã à! Tôi xin nhận chức Chưởng đàn. Mùa xuân vừa rồi, tôi vẫn có ý ấy, nhưng nghĩ mình không biết làm thơ, thì bày trò làm gì. Vì thế tôi quên đi, không nhắc đến nữa. Bây giờ cô Ba đã cao hứng, thì tôi cũng xin giúp để góp phần vui chung.
Đại Ngọc nói:
– Đã định mở thi xã thì chúng ta sẽ là thi nhân cả, trước hết nên bỏ những tiếng xưng hô “chị, em, chú, mợ” đi, mới không tục.
Lý Hoàn nói:
– Phải lắm. Đặt những biệt hiệu để gọi nhau mới nhã hơn. Tôi xin tự đặt cho tôi là “Đạo Hương lão nông”, không ai được giành cái tên ấy.
[…] Lý Hoàn cười nói:
– Tôi đã đặt hộ cô Tiết một biệt hiệu rất hay, chỉ có ba chữ thôi.
Mọi người vội vã hỏi:
– Chữ gì?
Lý Hoàn nói:
– Tôi phong cho cô ấy là Hành Vu Quân, các người nghĩ thế nào?
[…]
Lý Hoàn nói:
– Về tình tứ phong lưu thì bài này hay hơn, nhưng về hàm súc hồn hậu thì vẫn phải nhường cho Hành Vu Quân.
Thám Xuân nói:
– Lời phê rất đúng. Tiêu Tương phi tử phải đứng thứ hai.
Lý Hoàn nói:
– Di Hồng công tử phải đội bảng, có chịu hay không?
Bảo Ngọc nói:
– Bài của tôi thực không hay, lời bình ấy rất công bằng – Lại cười nói – Nhưng cần phải châm chước lại hai bài của Hành Vu Quân và Tiêu Tương.
Lý Hoàn nói:
– Đây là theo bình luận của tôi, không can đến các vị, nếu ai nói nữa sẽ bị phạt.
[…]
Trong Hồng Lâu Mộng thường nhắc đến cảnh Lý Hoàn dạy con học. Sự tham dự của Lý Hoàn vào Hải Đường thi xã và phong cách của nàng chứng tỏ nàng có đủ khả năng làm việc đó. Vậy nên đâu thể phán xét con người qua vẻ bề ngoài. Nếu không có những cuộc thi thơ kia, ai có thể ngờ trong Lý Hoàn vẫn chất chứa lòng yêu đời, yêu người như vậy. Thế mới biết những thứ tiếng tăm hão huyền, “Tiết hạnh khả phong” ấy làm hại người phụ nữ biết nhường nào! Trong lá số tiền định của Lý Hoàn đã nói rõ: “Nước sạch, băng trong, ghen ghét hão. Tiếng tăm còn lại ở nhân gian.” Mặc dù nàng đã có chậu lan làm niềm vui – đứa con trai Giả Lan (đáo đầu thùy tự nhất bồn lan) thì số phận của nàng cũng là điều không ai mong muốn, chẳng đáng ghen tị hay khen chê.
Nếu nhìn Lý Hoàn từ khía cạnh người vợ, người mẹ, ta lại thấy có nhiều điều khác đáng bàn.
Trước hết phải khẳng định rõ ràng một điều: Tào Tuyết Cần chia những người phụ nữ trong Hồng Lâu Mộng ra thành hai nhóm rõ rệt: những người đàn bà đã có chồng và những cô gái trinh nguyên. Cũng như Bảo Ngọc, ông nâng niu dành những tình cảm trong sáng nhất cho những người con gái ngây thơ, dù họ là tiểu thư hay con ở. Ai có thể quên được Tương Vân hào sảng, Đại Ngọc thướt tha, Tình Văn cao quý, Phương Quan tinh nghịch… Họ cũng là những cô gái tài năng: hoặc biết làm thơ, hoặc giỏi vẽ tranh, hoặc ca hát, kết hoa, thêu thùa,…
Ngược lại, những người đàn bà có chồng trong truyện, dù là bà lớn hay người hầu cũng đều có những khía cạnh thô tục và tàn nhẫn: Hình phu nhân nỡ lòng bán cháu nội, Vương phu nhân khiến Kim Xuyến, Tình Văn phải chết, Phượng Thư cay nghiệt làm hại bao người, Hạ Kim Quế ác độc, Tần Khả Khanh dâm ô, thậm chí Giả mẫu cũng vô tình lạnh lẽo. Những người đàn bà theo hầu như dì Triệu, vợ Vương Thiện Bảo, mụ Liễu, mẹ nuôi Phương Quan,… lại càng xấu xa. Những người đàn bà này cũng đầy tục khí, đa phần họ không biết làm thơ hay treo tranh gì cả (xem đoạn mô tả nơi ở của hai bậc quyền quý Hình phu nhân, Vương phu nhân.) Về điều này, Bảo Ngọc đã có nhận xét rất xác đáng:
Khi con gái chưa đi lấy chồng, khác nào một hạt chân châu rất quý; lấy chồng rồi, không hiểu sao lại sinh ra rất nhiều tật xấu. Dù vẫn là hạt chân châu đấy, nhưng đã trở thành hạt châu chết, phai mờ ánh sáng; đến già đi thì không phải hạt châu, mà là mắt cá đấy! Cũng là một người, sao lại hóa ra ba dạng như thế?
Tại sao lại có sự phân biệt như vậy? Phải chăng Tào Tuyết Cần kỳ thị các phụ nữ có chồng, cố tình khắc hoạ họ như những… phù thủy cưỡi chổi? Không phải thế. Một trong những ý tưởng xuyên suốt của Hồng Lâu Mộng là sự khác biệt giữa hai giới nam và nữ, hay nói đúng hơn là tính nam và tính nữ. Lại phải mượn lời Bảo Ngọc “Xương thịt của con gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy.” Trong Hồng Lâu Mộng, không chỉ những cô gái bẩm sinh mà những người đàn ông mang tính nữ như Tần Chung, Tưởng Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương,… cũng cao quý và thanh nhã. Còn tính nam không chỉ đục dơ từ bản chất mà còn có khả năng làm “ô nhiễm” tính nữ, chính vì thế những người phụ nữ sau khi lấy chồng đều trở nên cứng rắn và “trần tục” hơn. Tào Tuyết Cần đã làm một cuộc cách mạng lật đổ tư tưởng trọng nam khinh nữ bằng ngòi bút.
Trong cái thế lưỡng cực đó, Lý Hoàn là một trường hợp đặc biệt nhưng vẫn phản ánh đúng tinh thần trọng nữ khinh nam của tác giả. Nàng đã có chồng, nên không khỏi bị xếp hạng thấp trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách, nhưng vì xa rời ảnh hưởng ô trọc của đàn ông đã lâu, nên vẫn giữ được tính tình hiền lành và cốt cách trong sáng. Sự nhân từ của Lý Hoàn xuất phát từ trong tâm nên nàng được gia nhân trong nhà tôn là Phật sống, chỉ có nàng đến bầu bạn cùng Đại Ngọc khi nàng sắp lìa đời. Nàng vẫn giữ được tâm hồn lãng mạn và yêu nghệ thuật nên được cùng các chị em bầu bạn nơi Đại Quan Viên, dù chẳng thể sống lại tuổi trẻ để bay nhảy cùng bọn họ. Vì thế Lý Hoàn là một trong những số ít người phụ nữ có số mệnh tươi sáng hơn ở thì tương lai:
Mũ châu áo phượng thướt tha
Chống làm sao nổi vận nhà bấp bênh
Già, nghèo khó chịu đã đành
Cũng nên tích đức để dành về sau
Ngông nghênh trâm ngọc trên đầu
Ấn vàng trước ngực muôn màu sáng tươi
Uy quyền lộc vị lẫy lừng
Suối vàng buồn thảm đường chừng gần thôi
Xưa nay khanh tướng còn ai
Hoạ còn tiếng hão cho đời ngợi khen
Trong lá số tiền định Lý Hoàn chính là mỹ nhân đội mũ phượng, mặc áo màu ráng trời, ý nói Giả Lan sẽ thi đậu thành công được làm quan, mang lại phúc phận tuổi già cho mẹ. Người viết ưu ái Lý Hoàn, không để nàng chết trong tủi nhục như Phượng Thư, Nghênh Xuân, Đại Ngọc, lại không phải chịu cảnh dơ bẩn như Diệu Ngọc, Tần Khả Khanh. Sự tưởng thưởng này liệu có xứng đáng với cái tiếng hão kia chăng? Xin để cho bạn đọc tự xét.
*
Giả Thụy: sự thôi thúc của phần con
Nhân vật Giả Thụy, tên chữ Giả Thiên Tường, là một trường hợp tương đối đặc biệt của Hồng Lâu Mộng. Y xuất hiện ở hồi thứ chín, đến hồi thứ mười hai đã qua đời đột ngột theo kiểu “sét đánh không kịp bưng tai.” Cuộc đời – cái chết Giả Thụy tuy chỉ gói gọn trong vài chương ngắn ngủi nhưng diễn biến hấp dẫn, tình tiết ly kỳ, lại có nhiều ý nghĩa sâu xa khó nói hết, hoàn toàn xứng đáng dựng thành một vở bi hài kịch riêng. Câu chuyện gió trăng của Giả Thụy khiến tôi liên tưởng nhiều đến những tác phẩm của Shakespeare như The Comedy of Errors hay Love’s Labour’s Lost.
Giả Thụy là cháu nội Giả Đại Nho, thuộc một chi tương đối nghèo của họ Giả. Y đóng vai trò trông nom trường học của dòng họ, trách nhiệm không phải nhỏ. Nhưng dưới sự cai quản của y, nơi này trở thành chỗ yêu đương đồng giới của bọn học sinh, chữ nghĩa thánh hiền thảy đều bị thổi bay đi đâu mất cả. Trong truyện đã giới thiệu về Giả Thụy rõ ràng:
Giả Thụy vốn người không đứng đắn, chỉ thích lợi, khi ở trong trường hắn thường hay mượn việc công làm việc tư, hạch sách đám học trò phải mời hắn ăn uống. Hắn vào hùa với Tiết Bàn, mong kiếm tiền, kiếm rượu, nên tha hồ để mặc cho Tiết Bàn ngông nghênh làm càn, không những hắn không ngăn cấm mà còn nối giáo cho giặc để lấy lòng Tiết Bàn.
Hồng Lâu Mộng có nhiều cung bậc của tình: có tình trong sáng, tình tri kỷ, cũng có tình dâm ô và nhơ bẩn. Nói thẳng ra là Giả Thụy đã biến trường học thành ổ giai bao cho họ Tiết, bản thân y lãnh nhiệm vụ ma cô dắt khách. Khổ nỗi anh chàng Tiết Bàn là kẻ không đứng đắn, có mới nới cũ, chán chê với Kim Vinh lại chuyển sang hai nam sinh Hương Lân và Ngọc Ái. Về sau y cũng hết yêu hai cậu này, thế là Giả Thụy trở nên “bơ vơ không nơi nương tựa.” Tiết Bàn chính là kẻ thô tục bậc nhất trong Hồng Lâu Mộng, y một thân hào phú nhưng bị con lợn lòng hoàn toàn chi phối. Giả Thụy dính dáng với Tiết Bàn là đủ biết y thuộc hạng người nào. Kết cục của Giả Thụy khó mà tốt đẹp được.
Thế nhưng cuộc đời Giả Thụy chỉ hoàn toàn xoay chuyển khi y gặp phải Phượng Thư. Quả đúng là… người đâu gặp gỡ làm chi.
[…] rồi dẫn bọn người hầu và người nhà phủ Ninh ra quanh cửa đi tắt vào vườn hoa, nhìn thấy:
Hoa vàng giải đất, liễu trắng quanh bờ. Suối Nhược Gia cầu nhỏ bắc qua; núi Thiên Thai đường con rẽ tới. Khe đá dòng trong róc rách, hàng giậu đều thơm; trên cây lá đỏ rập rờn, rừng thưa như vẽ. Gió tây thổi mạnh, oanh còn thỏ thẻ bên tai; ngày ấm vui dồn, dế cũng rì rầm nói chuyện. Kìa phía đông nam, mấy tòa lầu nhấp nhô dựa núi; nọ nơi Tây bắc, ba gian hiên thấp thoáng kề sông. Vang tiếng phách sênh, tình riêng khôn tả; chen màu là lụa, cảnh đẹp nên thơ.
Phượng Thư đi thong thả xem cảnh trong vườn. Đương lúc ngắm nghía, chợt thấy một người ở sau núi giả chạy ra, đứng trước mặt, nói:
– Xin chào chị!
Phượng Thư giật mình, lùi lại hỏi:
– Có phải chú Thụy đấy không?
Giả Thụy nói:
– Chị không nhận ra tôi à?
– Không phải tôi không nhận ra, đương lúc bất thình lình không ngờ chú lại ở đây.
Giả Thụy nói:
– Có lẽ tôi với chị có duyên hay sao? Tôi vừa ở trong tiệc lẻn ra, đến chỗ thanh vắng này cho khoan khoái một tí, không ngờ lại gặp chị. Thế chẳng phải có duyên là gì.
Vừa nói, mắt hắn vừa chòng chọc nhìn Phượng Thư.
Đoạn trên rất hay, có thể nói Tào Tuyết Cần đã vận dụng biện pháp “foreshadowing” (báo trước) một cách tuyệt diệu. Về thời điểm, cảnh này diễn ra sau khi Phượng Thư thăm nom Tần thị, nàng dâu lẳng lơ dưới trần kiêm “người tình nhân thứ nhất” ở cõi tiên (hồi một trăm mười một), nên không khỏi dính dáng tới chuyện mây mưa. Sân khấu diễn ra tấn trò lại chính là vườn hoa của Ninh quốc phủ, một nơi đầy chuyện tục khí, mờ ám, đến mức Liễu Tương Liên từng nhận xét hoạ may chỉ có hai con sư tử đá bên ngoài là còn sạch! Những địa danh được nhắc đến trong cảnh cũng có ý tứ nhạo báng: suối Nhược Gia là nơi Tây Thi giặt lụa gặp Phạm Lãi, núi Thiên Thai là nơi Nguyễn Triệu diện kiến tiên nữ. Thế nhưng Phượng Thư bụng dạ độc ác, ăn nói chua cay không xứng với danh hiệu mỹ nhân, còn Giả Thuỵ lại càng không phải anh hùng cái thế hay tài tử phong nhã. Cuộc tao ngộ này chỉ là kẻ cắp bà già gặp nhau mà thôi.
Phượng Thư là người thông minh, thấy dáng bộ ấy đã đoán được tám chín phần, liền nhìn Giả Thụy, giả cách mỉm cười, nói:
– Không trách anh chú thường nhắc đến chú luôn, bảo chú tốt lắm. Nay được gặp, nghe nói mấy câu, biết ngay chú là người thông minh hòa nhã. Bây giờ tôi phải đến chỗ các bà, không tiện nói chuyện. Lúc nào rỗi, chúng ta lại sẽ gặp nhau.
Giả Thụy nói:
– Tôi muốn đến thăm chị, nhưng sợ chị trẻ tuổi không chịu tiếp khách dễ dàng.
Phượng Thư lại giả cách cười nói:
– Chỗ anh em ruột thịt trong nhà, sao lại nói trẻ tuổi với không trẻ tuổi?
Giả Thụy nghe thế, trong bụng mừng thầm: “Không ngờ hôm nay lại có cuộc gặp gỡ lạ lùng thế này!” Tình cảnh ấy càng làm cho Giả Thụy ngẩn ngơ ngơ ngẩn. Phượng Thư lại nói:
– Thôi, chú vào tiệc ngay đi. Coi chừng họ lại bắt uống phạt đấy!
Giả Thụy nghe xong, tê tái cả người, đi chầm chậm rồi cứ quay đầu lại nhìn. Phượng Thư cố ý đi thong thả. Thấy hắn đi xa rồi, trong bụng nghĩ: “Thế mới là: Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Đâu lại có hạng người chó má như thế! Nếu vậy có lúc nó phải chết với ta cho nó biết tay!”
Vậy là kết thúc hồi mười một “Gặp Hy Phượng, Giả Thuỵ động lòng dâm dục”. Khi Tào Tuyết Cần nói về sự thức tỉnh tình dục (sexual awakening) của Bảo Ngọc, ông dùng những cụm từ hết sức tinh tế, ý nhị “mộng kín,” “tình ngây.” Còn đối với Giả Thụy, tác giả gọi thẳng bản chất sự thôi thúc trong y – sự khao khát phần con chứ không phải phần người. Đoạn sau không cần nói rõ. Giả Thụy lần mò đến gặp Phượng Thư, say sưa mê mẩn, rạo rực sàm sỡ. Phượng Thư khéo léo cầm chừng, lại hẹn y một nơi vắng vẻ buổi đêm. Vở kịch bắt đầu đến hồi gay cấn. Giả Thụy đi gặp gái ra sao?
Giả Thụy : tấm gương mê gái có chết cũng (nên) soi
Vở kịch bắt đầu đến hồi gay cấn. Giả Thụy đi gặp gái ra sao?
Giả Thụy nghe nói, mừng quá, vội cáo từ, trong bụng chắc mẩm. Chờ đến chiều tối, hắn mò sang phủ Vinh. Đương lúc sắp đóng của, hắn lẻn vào cái nhà trống, quả thấy tối om, chẳng có người nào đi lại. Cửa sang bên nhà Giả mẫu đã khóa rồi, chỉ còn cửa phía đông chưa đóng. Giả Thụy lắng nghe giờ lâu chẳng thấy ai đến. Chợt nghe tiếng lách cách, cửa phía đông cũng đóng nốt. Giả Thụy sốt ruột, nhưng không dám lên tiếng, khe khẽ lần đến đẩy mấy cái, thấy cửa đóng chặt như thùng sắt. Bấy giờ hắn muốn ra cũng không được. Phía nam, phía bắc đều là tường cao, muốn trèo cũng không có chỗ vịn. Chỗ ấy lại là nơi gió lùa, chung quanh trống hốc. Trời tháng chạp đêm dài, gió bấc thổi hun hút, rét buốt đến xương, ai đứng đó một đêm có thể chết cứng được. Chờ mãi đến mờ sáng, thấy một bà già mở cửa phía đông, rồi sang gọi cửa phía tây. Lúc bà già ngoảnh mặt đi, hắn liền cắm đầu cắm cổ chạy biến mất. May trời còn sớm, chưa ai dậy, hắn lẻn ra cửa sau chạy một mạch về nhà.
Chuyến này Giả Thụy không những không được thoả nguyện mà còn bị ông nội “đánh ba bốn chục roi thật đau, lại không cho ăn cơm, bắt phải quỳ học bù mười buổi mới tha. Giả Thụy bị rét một đêm, lại bị một trận đòn đau, phải nhịn đói, quỳ ở dưới đất mà học, khổ sở muôn phần”.
Đây là trở ngại đầu tiên của Giả Thụy: bị lừa dối, bị lạnh nhạt, và bị trừng phạt về thể xác.
Lần thứ hai, Phượng Thư tiếp tục bày cuộc tương tư. Giả Thụy thì say mê sắc đẹp đến mức mất cả lý trí:
Nhưng lòng tà vẫn chưa chịu bỏ, Giả Thụy vẫn chưa biết mưu chước của Phượng Thư. Qua vài ngày được lúc rỗi, hắn lại tìm đến. Phượng Thư làm ra bộ trách móc sai hẹn. Giả Thụy vội vàng thề ngay. Phượng Thư thấy hắn tự đâm đầu vào tròng, lại bày mẹo khác để cho hắn tỉnh ngộ. Bèn giả cách hẹn:
– Tối hôm nay đừng đến chỗ cũ nữa, cứ đến chờ ở cái gian nhà bỏ không, có đường rẽ sang buồng tôi, đừng có lầm đấy!
– Thực thế chứ?
– Không tin thì đừng đến!
– Thế nào cũng đến, nhất định đến, dù chết cũng đến.
– Bây giờ hãy về đi.
Giả Thụy chắc mẩm tối ấy thế nào cũng ổn chuyện ra về ngay. Bấy giờ Phượng Thư mới điều binh khiển tướng, đặt sẵn vòng vây.
[…]
Đương lúc phân vân, thấy lù lù một bóng đen đi đến, Giả Thụy đoán chắc là Phượng Thư. Người ấy vừa đến gần, Giả Thụy ôm chầm lấy, như hổ đói vồ mồi, mèo đói vồ chuột, nói: “Chị ơi! Làm tôi chờ lâu chết đi được!” Hắn ôm ngay lên giường, hôn hít, cởi dải quần, rồi cứ “cha ôi! mẹ ôi!” kêu cuống cuồng lên. Người ấy lặng yên chẳng nói gì. Giả Thụy cũng đang cởi dải quần định nhập cuộc. Chợt có bóng đèn lòe sáng. Giả Tường cầm nến soi, hỏi:
– Ai ở trong nhà ấy?
Người nằm trên giường té ra là Giả Dung cười nói:
– Chú Thụy định hiếp tôi đấy!
Giả Thụy xấu hổ quá, không lẩn vào chỗ nào được, quay mình toan chạy. Giả Tường giữ lại, bảo:
– Không được chạy! Thím Liễn đã trình với bà Hai là chú đến ghẹo thím ấy. Thím ấy dùng kế giữ được chú ở đây. Bà Hai nghe nói, tức lộn ruột, bảo đến bắt chú. Chú phải theo tôi đi ngay!
Giả Thụy sợ hết hồn, nói:
– Cháu ơi! Cháu cứ nói là không tìm thấy chú, ngày mai chú sẽ hậu tạ.
[…]
Giả Tường lấy giấy bút, ra vẻ làm phúc làm đức, bắt Giả Thụy phải viết văn tự và ký tên vay 50 lạng. Xong xuôi đâu đấy, hắn lại bắt điều đình với Giả Dung. Lúc đầu Giả Dung nhất định không nghe, chỉ nói: “Ngày mai báo cho cả họ biết, xem họ phân xử ra sao!” Giả Thụy kêu van mãi, sau phải sụp xuống lạy, Giả Tường mới làm ra vẻ nhân từ, bắt Giả Thụy phải viết một bức văn tự vay 50 lạng bạc nữa mới thôi.
[…]
Giả Thụy không làm thế nào được, đành phải ngồi chồm chỗm ở dưới thềm. Đang lúc lo nghĩ. Chợt ở trên đỉnh đầu, nghe ào một tiếng, một thùng vừa cứt vừa nước đái đổ xuống suốt từ đầu đến chân, Giả Thụy “ối chào” một tiếng, vội bưng miệng, không dám kêu to, đầu và mặt đầy những cứt đái, người lạnh như băng, run cầm cập. Giả Tường chạy lại bảo “Chạy mau! Chạy mau!” Giả Thụy được lệnh, ba chân bốn cẳng, từ cửa sau chạy về. Bấy giờ đêm đã canh ba, phải gọi cửa.
Ở lần thứ hai này, cấp độ “bị lừa dối, bị lạnh nhạt, và bị trừng phạt về thể xác” của Giả Thụy còn nặng nề hơn! Lần trước y chịu đựng một mình, còn bây giờ có hai người chứng kiến. Giả Dung, Giả Tường trêu chọc y, sỉ vả y, bắt y lạy lục xin tha và viết văn tự nợ, đó là hành hạ tinh thần. Những thứ chất thải đổ lên đầu lại càng làm hoàn thiện bức tranh thê thảm của Giả Thụy, là ẩn dụ cho sự kiệt cùng, nhơ nhuốc của y. Dưới góc độ thể diện, nó còn tệ hơn bị đánh đòn hay bắt nhịn ăn. Rõ ràng Giả Thụy càng luyến ái Phượng Thư bao nhiêu thì lại càng phải chịu đựng sự hành hạ khốc liệt bấy nhiêu. Cơ thể bị dày vò, tinh thần bị làm nhục, có thể nói Giả Thụy đã ở đáy cùng của số phận.
Thế nhưng cái nghiệt ngã của tình lại nằm ở chỗ này: khi Phượng Thư không đùa cợt với Giả Thụy nữa, bản thân y cũng không dám bén mảng đến gần nàng, thì sự mê đắm của y mới đạt đến mức tột cùng. Giả Thụy không chỉ đơn thuần bị Phương Thư quyến rũ. Y đã bị ám ảnh với nàng, hoàn toàn lạc lối trong ma đạo của tình dục.
Bấy giờ hắn mới biết Phượng Thư lừa mình, tức giận một hồi, nhưng lại nghĩ đến bóng dáng yểu điệu của nàng, tiếc không được ôm ngay vào lòng. Hắn nghĩ vơ nghĩ vẩn suốt đêm, không chợp mắt. […] Với con người mới hai mươi tuổi đầu, chưa có vợ, mơ tưởng Phượng Thư không toại nguyện, tránh sao khỏi ngón tay rầy dã rành rơi (*), gia dĩ hai lần bị rét và đi lại đêm hôm vất vả. Mấy mặt dồn dập tấn công, hắn đâm ra mắc bệnh: bụng đầy, miệng nhạt, chân run, mắt cay, đêm sốt, ngày mỏi mệt, đi đái dắt, di tinh, ho ra máu… Chưa đầy một năm, bệnh cứ nặng lên. Không gượng được nữa, hắn phải nằm liệt trên giường, hễ nhắm mắt lại mê mẩn bàng hoàng, sợ hãi, hoảng hốt, nói nhảm luôn mồm.
Đây mới thực sự là hồi kết của Giả Thụy. Đã đến nước này, y mê luyến Phượng Thư đến nỗi không cần mượn ai hành hạ y, chính y tự tàn phá bản thân mình! Mang Mang đạo sĩ đem tới cho y chiếc gương “Phong nguyệt bảo giám” (giám sát chuyện gió trăng) với mục đích cứu y. Giả Thụy không những không làm được theo lời dặn mà còn lún sâu hơn vào nghiệp chướng, đến chết mới thôi.
Đạo sĩ thở dài:
– Bệnh ngươi không thể chữa bằng thuốc được! Ta đưa cho ngươi cái “bảo bối” này, ngày ngày ngươi ngắm vào đấy mới có thể cứu được.
Đạo sĩ lấy ở trong tay nải ra đưa cho Giả Thụy một cái gương soi cả hai mặt. Đằng sau gương khắc bốn chữ “Phong nguyệt bảo giám” và nói:
– Gương này lấy ở đền Không Linh trong cõi Thái hư ảo cảnh, do vị tiên Cảnh ảo làm ra, có công giúp người đời bảo toàn tính mệnh. Vì thế, ta mang xuống trần chỉ để cho những bọn Vương tôn công tử tuấn tú phong lưu soi thôi. Nhưng chỉ nên soi mặt trái, không được soi mặt phải. Cẩn thận đấy! Soi ngay đi! Ba ngày nữa ta lại lấy, chắc bệnh ngươi sẽ khỏi.
Nói xong, thong dong đi ra, ai giữ cũng không chịu ở. Giả Thụy cầm lấy gương nghĩ thầm:
– Đạo sĩ này chắc có ý gì đây! Ta hãy soi thử xem sao?
Bèn cầm gương mang mặt trái ra soi, thấy trong có bộ xương người. Giả Thụy sợ quá, vội giấu gương đi, mắng: “Đồ láo! Làm sao lại dọa ta! Ta hãy soi mặt phải xem sao?” Bèn soi mặt phải, thấy Phượng Thư đứng ở trong, vẫy tay gọi. Giả Thụy mừng lắm, mê mẩn đi vào trong gương, cùng Phượng Thư vui cuộc mây mưa, rồi Phượng Thư lại đưa ra nằm trên giường. Giả Thụy kêu “ái chà” một tiếng, bừng mắt ra, cái gương tự nhiên lật lại mặt trái, vẫn thấy một bộ xương người đứng sừng sững ở trong. Giả Thụy mồ hôi đầm đìa, dưới quần tinh thoát ra một đống. Dục tình vẫn chưa được thỏa, hắn lại quay mặt phải ra soi, thấy Phượng Thư lại vẫy tay gọi, hắn lại đi vào trong gương, cứ thế ba bốn lần. Đến lần cuối cùng vừa mới ở trong gương ra, thấy hai người chạy lại mang xích sắt khóa tay lôi đi, Giả Thụy kêu “Để cho tôi lấy cái gương đã”. Rồi im bặt, không nói được nữa.
Những người hầu bên cạnh thấy Giả Thụy mang gương ra soi, gương rơi xuống, mắt trợn to, lại cầm lấy gương. Cuối cùng gương rơi ra, tay không động đậy nữa. Mọi người đến xem thì đã tắt thở rồi, dưới quần đầm đìa một vũng tinh lạnh buốt.
(*) sự thủ dâm, lấy từ Tây Sương Ký
Giả Thụy: bài học cảnh giác về “si”, về “sắc” cho… Bảo Ngọc
Theo thiển ý của tôi, đoạn trích ở phần 2 là một trong những đoạn có nhiều tầng ý nghĩa nhất của Hồng Lâu Mộng.
Thứ nhất, nếu hành trình chịu đựng của Giả Thụy có nhiều bậc thì đây chính là nấc thang cuối cùng. Nỗi thống khổ y chịu đựng theo độ mê đắm mà tăng lên, y dần đánh mất sức khỏe, danh dự, ý chí, cuối cùng là mạng sống. Thứ “tinh” được nêu trong truyện là ẩn dụ cho tinh khí, tinh thần, tinh hoa của Giả Thụy. Kết cục của Giả Thụy là bài học cảnh tỉnh về sự mê muội tình dục. Sự dâng hiến cho tình của Giả Thụy tuy không đẹp đẽ thơ mộng nhưng hoàn toàn triệt để. Giả Thụy quả thực không còn gì để mất nữa rồi!
Tiếp theo, cần bàn về bộ xương người. Trong triết học phương Tây, đây là motif thường bắt gặp trong những memento mori – sự nhắc nhở về tính hữu hạn của đời người. Ai ai rồi cũng phải chết.
Đặt trong bối cảnh Hồng Lâu Mộng, bộ xương lại mang thông điệp Phật giáo rõ rệt. Trong Đại Trang Nghiêm Kinh từ thế kỉ thứ năm đã có câu chuyện tương tự: một vị Phật dùng pháp lực biến một kỹ nữ thành bộ xương cho các đệ tử nhìn rõ bản chất của nhan sắc. Chữ “sắc” trong tiếng Hán vừa chỉ sắc đẹp, vừa chỉ hình tướng mà con người có thể cảm nhận được, đối ngược với không là hình tướng mà mắt phàm không thấy được. Nhưng vạn vật luân chuyển, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Muôn vật đều là không có thật, là phù du. Phượng Thư tươi đẹp thật nhưng má hồng môi son rồi cũng thành cát bụi cả. Ngoài ra bộ xương còn là lời cảnh tỉnh: nếu Giả Thụy không quay đầu, tất mau có kết cục như bộ xương này. Ở hồi đầu truyện Chân Sĩ Ẩn khi giải nghĩa bài thơ “Hảo Liễu ca” đã nói:
Xưa sao phấn đượm hương nồng.
Mà nay sương nhuộm như bông trên đầu?
Bãi tha ma có xa đâu,
Là nơi màn thắm là lầu uyên ương.
Tất cả “sắc” đều sẽ tan biến, chỉ có sự tan biến là bất biến. Đã biết tình, sắc, dục là vô thường mà vẫn mê đắm, chẳng phải ngu ngốc sao? Thế nhưng Giả Thụy không dám đối mặt với thực tế đó. Một mặt y sợ cái chết, mặt khác y quá quyến luyến chữ “sắc” đến nỗi không thể rời bỏ. Oái oăm thay, chính việc không chịu thừa nhận tính vĩnh hằng của sự chết đã đẩy Giả Thuỵ nhanh tới nó.
Thứ ba, không thể bỏ qua chiếc gương “Phong nguyệt bảo giám”. Gương vốn là biểu tượng cho tâm hồn. Nhưng thế giới song đôi trong gương cũng là ẩn dụ cho sự gắn bó mật thiết giữa các cặp phạm trù sắc-không, thực-hư, âm-dương. Nếu Phượng Thư ngoài đời là sắc, thì Phượng Thư trong gương lại càng mơ hồ, là hư huyền của hư huyền. Phượng Thư trong gương là do trí tưởng tượng của y hun đúc nên, không có quan hệ với mợ Hai Liễn ngoài đời kia. Thay vì nhìn vào mặt trái để thấy rõ chân lý, Giả Thụy lại đắm chìm vào thế giới ảo của mặt phải. Công cuộc mò trăng đáy nước này khiến y phải trả giá bằng mạng sống. Đến phút chót, y vẫn muốn mang chiếc gương theo mình xuống âm ti, thật đáng cười mà cũng đáng thương.
Khi Giả Đại Nho, ông nội Giả Thụy định đem đốt chiếc gương, trong gương có tiếng nói vọng ra: “Ai bảo soi mặt phải! Các ngươi tự mình lấy giả làm thực, việc gì lại đốt gương của ta?” Đại Nho nghĩa đen là “nhà nho lớn,” nhưng lại họ “Giả,” ý nói lão chỉ là nhà nho giả hiệu. Tào Tuyết Cần đã dựng lên hình ảnh Giả Đại Nho để giễu cợt những kẻ theo đạo Khổng nhưng đầu óc xơ cứng, hủ lậu, không nhìn ra được bản chất của sự vật. Nhân vật này lúc trước rèn dạy Giả Thụy bằng cách đánh đập, sau lại muốn đốt chiếc gương, đúng là chữa bệnh từ ngọn, mê lầm không lối thoát.
Cuối cùng, chúng ta cần phân tích hình ảnh Giả Thụy khi chết. Hồng Lâu Mộng không thiếu những chi tiết phòng the, nhưng chỉ hai lần Tào Tuyết Cần nhắc đến chi tiết “giấc mơ ướt” một cách trần trụi như vậy: Giả Thụy khi chết, và khi Bảo Ngọc tỉnh dậy sau khi ân ái với nàng tiên.
Tập Nhân đến buộc hộ thắt lưng, vừa thò tay vào đùi Bảo Ngọc, thấy một đám dính như hồ lành lạnh, Tập Nhân giật mình co tay lại hỏi:
– Cái gì thế này?
Bảo Ngọc đỏ bừng mặt, bấm mạnh tay Tập Nhân một cái.
Theo các nhà Hồng học như Jinsheng Yi đã chỉ ra, sự giống nhau giữa Bảo Ngọc và Giả Thụy có ý nghĩa quan trọng. Nói một cách đơn giản, Giả Thụy chính là bài học cảnh giác cho Bảo Ngọc. Tên chữ của Giả Thụy là “Thiên Tường”, nghĩa đen là “điềm báo của trời”. Bảo Ngọc là ngọc quý, Thụy cũng là ngọc. Con đường tình ái mà Bảo Ngọc bước chân vào ở hồi năm, tuy phần nào trong sạch hơn Giả Thụy, về bản chất không khác gì nhau. Bảo Ngọc lần đầu trải qua sự mất mát tinh lực của người đàn ông sau giấc mơ với nàng tiên. Nếu Bảo Ngọc không biết kiềm chế, để điều đó lặp đi lặp lại, ắt sẽ phải chết như Giả Thụy. Nói rộng hơn, tính cách “phong lưu gây lấy nợ vào thân” của Bảo Ngọc chính là tiền đề cho những đau xót, thất vọng, nhục nhã trong đời cậu ta sau này: bị bố đánh, người hầu yêu và người tình phải chết, phải chứng kiến cảnh tan tác của các chị em,… Nỗi khổ mà Bảo Ngọc cũng như Giả Thụy gánh chịu, nói cho cùng, đều bắt nguồn từ một chữ “si.” Về cuối truyện, Bảo Ngọc đã kịp thời nhận ra chân lý “sắc sắc không không,” từ đó rẽ ngang, thoát khỏi luân hồi, đó vừa là bi kịch vừa là may mắn của Bảo Ngọc.
Kết luận lại, Giả Thụy là một nhân vật phụ nhưng số phận của y hàm chứa triết lý nhân sinh to lớn, có thể nói là đã hóa thành truyện ngụ ngôn răn dạy người đời. Mang Mang đạo sĩ và chiếc gương “Phong Nguyệt bảo giám” xứng đáng nhận giải bác sĩ phân tâm học của năm!
*
Bàn ra tán vào (0)
Đọc lại Hồng Lâu Mộng
Anh Nguyễn
Lời nói đầu: Trong số Tứ đại danh tác, chỉ có duy nhất Hồng Lâu Mộng vinh dự có cả một ngành học riêng nghiên cứu về nó.
“Hồng học,” hay Redology (theo tên tiếng Anh Dream of the Red Chamber) đã được khởi xướng từ ngay khi Tào Tuyết Cần còn sống và đang viết Hồng Lâu Mộng! Trong số những nhà Hồng học nổi tiếng có Lỗ Tấn, Trương Ái Linh, Vương Côn Luân (Chủ nhiệm Ban cố vấn cho bộ phim Hồng lâu mộng năm 1987,)…
Hồng Lâu Mộng là niềm tự hào văn chương cực lớn của Trung Hoa, một pho bách khoa toàn thư về thi ca, hội họa, âm nhạc, ẩm thực, kiến trúc, lễ nghi,… Người Trung Quốc có câu: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, độc tận thi thư diệc uổng nhiên!” (tạm dịch: Mở miệng ra mà không nói đến “Hồng Lâu Mộng” thì có đọc hết cả sách cũng uổng phí!). Mao Trạch Đông cũng từng nói:
”Mỗi người nên đọc cuốn tiểu thuyết này 5 lần trước khi muốn đưa ra bất kì một nhận xét gì về nó. Dẫu đã từng được cày nát qua nhiều thế kỉ, cuốn sách với hơn 600 nhân vật độc đáo và đa dạng Hồng Lâu Mộng vẫn là một kho chứa nhiều điều bí ẩn.”
Tình hình tài liệu nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng ở Việt Nam vẫn còn ít ỏi và kém phổ cập, người Viết lại không biết tiếng Trung Quốc để có thể tiếp cận các văn bản Hồng học, nên chỉ muốn viết ra những điều tự mình ngẫm nghĩ và thu lượm bằng tiếng Anh. Nếu có thiếu sót hoặc trùng lặp, rất mong được những người yêu Hồng Lâu Mộng chỉ giáo thêm, mục đích để cùng nhau hiểu thêm về một tác phẩm kinh điển của văn học thế giới.
Tần Khả Khanh – kẻ lẳng lơ trong mộng
Trong số Kim Lăng thập nhị thoa chính sách (mười hai cô gái đầu bảng ở Kim Lăng – hiện giờ là Nam Kinh), Tần Khả Khanh là người có thân thế mơ hồ nhất, ra đi cũng sớm nhất (từ hồi thứ mười ba.) Sự xuất hiện của nhân vật này ngắn ngủi đến mức nhiều người không nhớ ra Tần Khả Khanh là ai trong số hơn 400 nhân vật của Hồng Lâu Mộng. Nhưng thật vô cùng thiếu sót nếu phủ nhận sự phức tạp và ngòi bút tinh tế của Tào Tuyết Cần trong việc mô tả nhân vật này, thậm chí nhà Hồng học Lưu Tâm Vũ còn đề xuất Tần học – chi nghiên cứu riêng về Tần Khả Khanh.
Cuộc sống và cái chết của Tần Khả Khanh có rất nhiều điều bí ẩn. Điều khiến nhiều người ngờ vực nhất là mối quan hệ loạn luân giữa Khả Khanh và bố chồng là Giả Trân, mặc dù không có một lời nào trong Hồng Lâu Mộng khẳng định chắc chắn điều đó. Trong bài viết này chúng ta hãy cùng xem lại một lượt những đầu mối của tác giả để xác định tính thật hư của giả thuyết trên.
*
Tần Khả Khanh xuất hiện từ hồi thứ năm, qua con mắt của chàng trai mới lớn Giả Bảo Ngọc, với vai trò là cháu họ.
Một lúc sau, Bảo Ngọc mệt, muốn về nghỉ trưa. Giả mẫu định sai người đưa về nghỉ một chốc rồi sẽ đến. Vợ Giả Dung là họ Tần, vội cười nói:
– Ở đây đã dọn một gian buồng để chú Bảo nghỉ rồi, xin cụ yên lòng, cứ giao chú ấy cho cháu là được.
Giả Bảo Ngọc sau đó được Tần thị (Khả Khanh) dẫn đến một căn phòng có bức vẽ Nhiên lê đồ và câu đối khuyên răn chăm học. Là kẻ lười biếng, ghét thi thư, cậu ta không thích, nằng nặc không chịu ngủ. Tần thị liền dẫn cậu ta tới buồng ngủ riêng của mình. Hành vi này không hẳn là thương phong bại tục, song cũng không tề chỉnh. Văn hóa Trung Quốc giới hạn quan hệ giới tính ngay cả trong gia đình cũng rất khắc nghiệt, có câu “chị dâu em chồng không được nói chuyện với nhau.” Tác giả khéo léo để người hầu lên tiếng bày tỏ sự không đồng tình, nhưng Tần thị liền mau chóng gạt đi.
Bảo Ngọc gật đầu mỉm cười, một bà già nói:
– Có lẽ nào chú lại đến ngủ ở buồng cháu dâu?
Tần thị cười nói:
– Ôi dào! Không sợ chú ấy phật ý. Chú ấy đã lớn đâu mà phải e dè?
Cần phải nhớ rằng, trong toàn bộ câu chuyện, đây là lần đầu tiên Giả Bảo Ngọc vào buồng ngủ của một người phụ nữ mà không phải bà và mẹ ruột. Đây là một sự kiện có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đời Bảo Ngọc, bởi nó là sàn diễn để gặp nàng tiên Thái Hư ảo cảnh, người đánh thức bản năng đàn ông trong người chàng ta. Trong toàn bộ Hồng Lâu Mộng, trừ phòng ngủ của chính Bảo Ngọc, có lẽ đây là căn phòng ngủ được miêu tả kỹ càng và khêu gợi nhất.
Đến buồng Tần thị, Bảo Ngọc vừa mới bước chân vào, đã thoảng có mùi thơm say sưa. Khi ấy mắt Bảo Ngọc dính lại, người nhủn ra, nói ngay:
– Mùi thơm thích nhỉ.
Trong buồng, trên tường treo bức họa “Hải đường xuân thụy” của Đường Bá Hổ vẽ, hai bên có đôi câu đối của học sĩ Tần Thái Hư đời Tống:
Lờ mờ giấc mộng hơi xuân lạnh,
Ngào ngạt mùi hương rượu khá nồng.
Trên án bày một cái gương quý của Vũ Tắc Thiên đời Đường. Một bên bày cái mâm vàng mà Triệu Phi Yến đã đứng lên múa, trên mâm để quả dưa mà An Lộc Sơn đã ném vào vú Dương Quý Phi. Đằng trước kê một cái giường báu của công chúa Thọ Xương nằm ở điện Hàm Chương, mắc cái màn liên châu của Công chúa Đồng Xương dệt ra.
Bảo Ngọc thấy vậy cười nói:
– Ở đây tốt! Ở đây tốt!
Tần thị cười:
– Cái buồng của tôi dù thần tiên cũng có thể ở được.
Nói xong, Tần Thị tự tay mở cái khăn lụa mà chính tay Tây Thi đã giặt, và đặt sẵn cái gối Uyên Ương của Hồng Nương đã ôm khi xưa.
Bằng ngòi bút, Tào Tuyết Cần vẽ nên một căn phòng có cả hương và sắc, đầy những chi tiết gợi cảm. Dường như phòng ngủ của Tần Khả Khanh là một địa điểm hoàn hảo để trải nghiệm những cảm xúc mê mệt. Những mỹ nhân được nêu lên trong đoạn trên gồm những ai? Chỉ cần một cái liếc mắt cũng đủ thấy: Triệu Phi Yến, Dương Quí Phi, Võ Tắc Thiên, Tây Thi. Không ngẫu nhiên mà họ toàn là những “hồng nhan họa thủy,” làm tan nát bao vương triều. Chẳng những thế, Dương Quí Phi và Võ Tắc Thiên còn là hai mỹ nhân nổi tiếng vì có quan hệ bất chính với bố chồng. Ngoài ra, tuy Tào Tuyết Cần cố tình không nói rõ, các nhà Hồng học đã chỉ ra bức vẽ “Hải đường xuân thụy” không phải vẽ hoa hải đường ngày xuân như tên gọi, mà vẽ một người đàn bà quần áo lả lơi nằm ngủ ngày. Là cậu bé mới lớn, dĩ nhiên Bảo Ngọc thích bức vẽ đó hơn bức tranh “khuyến học” Nhiên lê đồ. Có thể nói một cách hình tượng rằng qua việc chọn lựa này, Bảo Ngọc đã không vượt qua được thử thách đầu tiên của dục vọng. “Người làm sao của chiêm bao làm vậy,” trong Hồng Lâu Mộng điều này càng rõ hơn: nơi ở của một người chính là hiện thân tính cách người đó, như Đại Ngọc có Tiêu Tương quán sầu bi, Bảo Thoa có Hành Vu uyển thoáng đãng. Buồng ngủ của Tần Khả Khanh như vậy, nàng ta không thể là người đoan chính mẫu mực.
Đoạn sau mới thật là gây bất ngờ. Được ấp ủ trong những thứ chăn gối đã từng được các mỹ nhân sờ mó, ôm ấp, hít ngửi mùi thơm của Tần Khả Khanh, Bảo Ngọc nhanh chóng đi vào “giấc mơ ướt” đầu tiên trong đời. Điều đáng nói là chính Tần Khả Khanh là người dắt tay cậu ta vào cõi mơ.
Bảo Ngọc vừa nhắm mắt đã bàng hoàng ngủ say. Tưởng như Tần thị còn đứng trước mặt mình. Bảo Ngọc lững thững theo Tần Thị đi đến một chỗ lan can sơn đỏ, thềm xây bằng ngọc, cây xanh ngắt, suối trong veo, không có một tí dấu vết bụi trần.
Và sau đó, tiên cô đã gả cho Bảo Ngọc một nàng tiên có tên Kiêm Mỹ, tên chữ là Khả Khanh, vừa đẹp như Bảo Thoa, vừa dịu dàng như Đại Ngọc. Đây là người đầu tiên “mây mưa” cùng cậu Bảo. Cái tên “Kiêm Mỹ” có nghĩa là được cả hai cái đẹp, tác giả lại nhấn mạnh thêm bằng việc chỉ ra cô ta là người kết hợp tinh túy của Đại Ngọc và Bảo Thoa. Cái tên Khả Khanh là tên tục của Tần thị, cả nhà Giả phủ không ai biết, nhưng tác giả dùng giấc chiêm bao để nói lên rằng: Tần Khả Khanh chính là người bạn tình lý tưởng trong tiềm thức Bảo Ngọc. Freud sẽ nói gì về điều này? Quả thật là “Một hồi mộng kín chờ ai đấy? Nghìn thuở tình ngây một tớ thôi.” Kể từ đó, nhân vật Tần Khả Khanh đã nhuốm màu dục tính. Tuy nhiên để đi đến kết luận Tần Khả Khanh gian dâm với bố chồng, ta cần đi tiếp một vài chương nữa.
*
Đến hồi bảy, Giả Bảo Ngọc và Vương Hy Phượng sang thăm phủ nhà Tần thị. Khi ở đó, chúng ta được giới thiệu với Tiều Đại, một người nô bộc cũ của Ninh quốc công. Trước đã từng được trọng dụng, song về già, Tiều Đại dần trở nên ngang ngạnh, ngỗ ngược, phát ngôn không nể nang ai.
Mọi người thấy Tiều Đại càn rỡ quá, vật xuống trói lại, lôi nó bỏ vào chuồng ngựa. Tiều Đại càng tức, nói động cả đến Giả Trân. Nó thét ầm lên, đòi đến từ đường khóc với cụ tổ: “Ai ngờ bây giờ lại đẻ ra những giống súc sinh này! Hàng ngày trộm gà bắt chó, nào ‘Tiểu thúc’, nào ‘Ba hôi’, loạn luân cả lũ, tao lại không biết à? Thôi đừng đem cánh tay gãy giấu vào trong ống áo nữa!”
“Tiểu thúc” là gì? Là em chồng nằm với chị dâu. “Ba hôi” là gì? Là bố chồng nằm với con dâu. Tiều Đại chỉ xuất hiện đúng một lần, vai trò của y trong Hồng Lâu Mộng không có gì ngoài thốt lên những lời buộc tội sự bất luân của phủ Ninh. Tác giả thậm chí còn cố tình nhét tên Giả Trân vào đoạn này để người đọc “không chệch đi đâu được.” Liệu có thể gạt đi, coi là những lời Tiều Đại nói càn lúc say rượu chăng? Nên nhớ rằng, Hồng Lâu Mộng tưởng chừng toàn ghi chép những chuyện vụn vặt không đầu không cuối, song thực ra không có chi tiết nào là thừa. Tào Tuyết Cần để cho Tiều Đại ngang nhiên thốt ra những câu nhưng thế, không thể không có ẩn ý. Trong gia đình nhà Giả Trân, cặp bố chồng-con dâu duy nhất mà ta biết là Tần Khả Khanh-Giả Trân. Xem ra, mối quan hệ này không trong sáng lắm, đến nỗi kẻ trong truyện cũng bàn tán, xì xào. Tào Tuyết Cần đã mượn lời một người nô bộc hèn mọn để nói bóng gió về nội tình nhà Giả Trân.
*
Những hồi sau có thể tóm tắt như sau: Tần Thị ốm, rồi chết. Gia đình tổ chức đám ma linh đình. Một cái chết đơn giản? Không hẳn. Theo ý nhiều người, Tào Tuyết Cần đã khéo léo giấu đi một câu chuyện đen tối hơn giữa những con chữ: Tần Khả Khanh thực sự có quan hệ với bố chồng, bị hai tỳ nữ phát hiện, nên tự tử chết. Lúc chết còn có mang thai hai tháng. Các dẫn chứng sau cho thấy giả thuyết này không hoang đường như ta tưởng
… Tần Thị ốm, rồi chết. Gia đình tổ
chức đám ma linh đình. Một cái chết đơn giản? Không hẳn. Theo ý nhiều
người, Tào Tuyết Cần đã khéo léo giấu đi một câu chuyện đen tối hơn giữa
những con chữ: Tần Khả Khanh thực sự có quan hệ với bố chồng, bị hai tỳ
nữ phát hiện, nên tự tử chết. Lúc chết còn có mang thai hai tháng. Các
dẫn chứng sau cho thấy giả thuyết này không hoang đường như ta tưởng.
5 dẫn chứng, xếp từ ít “đáng nghi” nhất:
1. Dẫn chứng một: thái độ của mẹ chồng Tần Khả Khanh.
Mẹ chồng Tần Khả Khanh là Vưu thị, qua lời nói có vẻ rất thương yêu con dâu. Ta hãy xem đoạn bà ta nói chuyện với Kim thị về bệnh tình Tần thị:
Tôi lại trông cho nó ăn hết nửa bát yến sào rồi mới về đây. Thím tính thế có sốt ruột không? Lại thêm bây giờ không có thầy thuốc nào hay. Nghĩ đến bệnh nó lúc nào, là ruột tôi đau như kim châm. Thím có biết ai chữa thuốc giỏi không?
Thật là mối quan hệ mẹ chồng-con dâu
kiểu mẫu! Cũng không quá khó tin, vì tác giả đã thiết lập cho Tần Khả
Khanh là con người dịu dàng khéo léo, rất được lòng người. Song khi con
dâu chết thì bà ta thế nào? Không xuất hiện lấy một lần. Tác giả khéo
léo để cho Vưu thị “bị bệnh dạ dày tái phát, ốm liệt giường,” không thốt
ra một câu một chữ nào về con dâu nữa. Ngay cả trong đám tang Khả
Khanh, Vưu thị vẫn ốm nằm trong buồng! Tác giả nhắc đến điều này ba lần,
ắt phải có dụng ý. Sự IM LẶNG và VẮNG MẶT của Vưu thị tương phản rõ rệt
với nỗi ai oán, gào khóc xé ruột gan của ông bố chồng.
Giả thuyết: Vưu thị phát hiện mối quan hệ nhơ nhuốc của chồng và con
dâu, nhưng phải giữ thể diện, nên không thể làm rùm beng, đành chọn cách
nghiến răng giấu mặt.
2. Dẫn chứng hai: thái độ của chồng Tần Khả Khanh.
Tần Khả Khanh là vợ của Giả Dung, cháu của Phượng Thư. Hồng Lâu Mộng xác lập Giả Dung là một thanh niên bảnh bao, khéo nói, lại rất hay đùa bỡn phụ nữ. Tuy nhiên trong toàn bộ câu chuyện, ta không hề thấy một giây phút ân cần nào giữa hai vợ chồng. Cách Tào Tuyết Cần viết khiến Giả Dung giống như một người câm điếc khi có mặt vợ vậy. Ngược lại, khi Giả Dung ở cùng Vương Hy Phượng, anh ta lả lướt, lúng liếng, sống động, nhấm nháy. Thái độ “đầu mày cuối mắt” của hai người không qua được mắt chồng Phượng Thư là Giả Liễn, càng không qua được mắt bạn đọc. Giả Dung và Vương Hy Phượng ngọt ngào với nhau thế nào? Xin xem đoạn Giả Dung đến mượn Phượng Thư cái bình phong pha lê:
Giả Dung nghe nói cười hì hì, quỳ lom khom ở trên bục nói:
– Nếu thím không cho mượn, cha cháu sẽ bảo cháu không khéo nói, lại bị một trận đòn thôi. Thím ơi! Thương cháu với.
– Không lẽ cái gì của nhà họ Vương cũng đều đẹp cả. Ở bên nhà cháu bao nhiêu đồ đẹp, nhưng hễ thấy cái gì của ta là chỉ chực cuỗm thôi.
Phải chăng Phượng Thư cố tình nói kháy, ví Khả Khanh là “đồ đẹp” nhà Giả Dung, còn nói móc chàng ta tham lam, cái gì cũng muốn “cuỗm về”? Chắc hẳn vậy, bởi chỉ vài câu sau, ta có đoạn văn đầy tình ý:
Phượng Thư chợt nghĩ đến một việc, vội ngoảnh ra cửa sổ gọi :
– Cháu Dung hãy trở lại đây.
Mấy người bên ngoài gọi theo:
– Cậu Dung hãy trở lại.
Giả Dung vội quay lại, buông thõng tay đứng đợi.
Phượng Thư cứ lẳng lặng uống nước, rồi ngẩn một lúc rồi mặt tự nhiên đỏ bừng lên, cười nói:
– Thôi cháu hãy về đi. Cơm chiều xong lại đây sẽ nói. Bây giờ đương có người, ta chẳng bụng nào nghĩ đến nữa.
Sao má nàng ta lại đỏ, sao lại không dám
nói chỗ đông người mà hẹn đến cơm chiều xong gặp lại? Không cần nói
cũng đoán được. Và khi Tần Khả Khanh chết thì sao? Xin thưa, trong ba
chương nói về cái chết và đám tang của vợ, Giả Dung cũng không xuất hiện
lấy một lần! Anh ta chỉ xuất hiện qua lời của ông bố, vì Giả Trân muốn
mua cho con một chức quan để viết lên tờ phướn cho đẹp. Rõ thật đáng sợ
chưa! Cũng như trên, sự lãnh đạm, vô tình, thậm chí bạc tình của Giả
Dung đối nghịch rõ rệt với sự thương tiếc của Giả Trân. Đây không thể là
một mối quan hệ vợ chồng bình thường được. Không những thế, sau khi vợ
chết, anh ta liền mau chóng đi lấy vợ khác, lại tằng tịu cả với hai
người em gái của Vưu thị.
Giả thuyết: Hoặc Giả Dung thờ ơ khiến Tần Khả Khanh ngoại tình, hoặc Tần Khả Khanh gian dâm khiến Giả Dung chán ghét vợ.
3. Dẫn chứng ba: thái độ của bố chồng Tần Khả Khanh
Đương nhiên đã tìm cách chứng minh Tần Khả Khanh thông gian với Giả Trân thì không thể nào bỏ qua sự “quá đà” của nhân vật này. Ai đọc Hồng Lâu Mộng chắc cũng phải cảm thấy “gờn gợn” vì sự vồ vập thái quá của Giả Trân đối với nàng dâu. Cũng như Giả Dung thờ ơ với vợ mình, Giả Trân cũng thờ ơ với Vưu thị, song lại hết sức hết lòng với Tần Khả Khanh. Gia đình Tần Khả Khanh không giàu có, về mặt môn đăng hộ đối không thể sánh với nhà họ Giả, song nàng ta được hết mực cưng chiều như nàng công chúa, thậm chí em trai là Tần Chung cũng được tự do ra vào trong phủ, đi học cùng Bảo Ngọc. So ra mà nói, Tần Chung còn được đối xử tốt hơn cả Giả Hoàn – em cùng cha khác mẹ của Bảo Ngọc. Sự phân biệt này là do đâu? Nếu chỉ vì Tần Khả Khanh tốt tính, tận hiếu với bố mẹ chồng, thì xem ra cũng chưa đủ.
Hãy xem một số ví dụ.
Khi Tần Khả Khanh bị ốm, Giả Dung thõng tay không can dự, còn bố chồng là Giả Trân thì xông xáo đi tìm thầy thuốc. So với thái độ thờ ơ, vô tâm với đàn bà trong nhà của Giả Kính, Giả Chính, Giả Xá, Giả Liễn thì thật khác một trời một vực! Đến khi Tần thị chết rồi, ông ta thế nào?
Giả Trân khóc sướt mướt, nói với bọn Giả Đại Nho:
– Tất cả lớn bé trong nhà, bè bạn gần xa, ai cũng khen con dâu tôi khôn ngoan hơn con trai nhiều. Nay nó mất đi, đủ biết nhành trưởng này lụn bại mất!
Nói xong lại khóc, mọi người khuyên giải:
– Người đã chết rồi, khóc cũng vô ích, ông nên lo liệu ngay việc ma chay là hơn.
Giả Trân đập tay, nói:
– Lo liệu gì! Chẳng qua có bao nhiêu tiền làm hết bấy nhiêu thì thôi!
Giả Trân thấy cha không nhìn đến tiền bạc, thì tha hồ phung phí. Lúc tìm áo quan, nghe Tiết Bàn gạ gẫm, liền mua ngay loại gỗ quý nhất, vốn chỉ dành cho bậc vương công. Có một câu vô cùng đáng nghi:
Giả Trân nghe nói, cảm tạ luôn mồm, sai cưa ra và gắn sơn ngay. Giả Kính khuyên:
– Người thường thì không nên dùng thứ này, tìm thứ gỗ tốt là được.
Giả Trân không thể chết thay cho Tần thị, khi nào lại chịu nghe.
Giả Trân lại còn “thương xót quá không
ăn uống được,” rồi “đang ốm, lại vì quá thương xót, nên chống gậy bước
vào.” Nếu một người không biết đầu đuôi câu chuyện, chỉ đọc mấy câu
trên, ắt tưởng Giả Trân là tình nhân của Tần Khả Khanh, chứ nào phải cha
con chồng! Qua những chương sau, ta lại càng thấy rõ bộ mặt của Giả
Trân. Ông ta cùng con trai Giả Dung có quan hệ bất chính với hai cô em
gái của Vưu thị, thậm chí ngay lúc để tang cha ruột còn mở xới đánh bạc,
thuê kỹ nam trẻ tuổi về chơi bời. Tư cách của Giả Trân quả thực rất
đáng khinh bỉ.
Giả thuyết: không cần nói cũng hiểu quan hệ của Giả Trân-Tần Khả Khanh không phải mối quan hệ cha con bình thường.
4. Dẫn chứng bốn: thái độ hai người hầu gái của Khả Khanh
Đến đây lại phải nhờ đến ông Du Bình Bá, một trong những nhà Hồng học kỳ cựu, lỗi lạc. Các tác phẩm nghiên cứu của ông đã mở ra một con đường mới của phái Tân Hồng học, đổi lại bản thân ông phải chịu không ít gian nan trong thời kỳ Cách mạng văn hóa. Trong phần bàn về cái chết của Tần Khả Khanh, ông có nêu lên một thuyết mới lạ, nhờ phân tích đoạn dưới đây:
Thấy Tần thị chết, a hoàn Thụy Châu cũng đập đầu vào cột chết theo, câu chuyện hiếm có ấy làm cho cả họ đều thở than khen ngợi. Giả Trân cho làm ma theo lễ “cháu gái”, cũng rước linh vào gác Đăng Tiên trong vườn Hội Phương. Lại có một a hoàn tên là Bảo Châu, thấy Tần thị không có con, xin làm con nuôi giữ tang lễ như con đẻ. Giả Trân mừng lắm, cho gọi là tiểu thư. Bảo Châu theo lễ con gái chưa gả chồng ngồi bên linh cữu khóc than thảm thiết.
Mới đọc qua, không có gì lạ. Nhưng một
chữ “cũng” trong câu “Thấy Tần thị chết, a hoàn Thụy Châu cũng đập đầu
vào cột chết theo, câu chuyện hiếm có ấy làm cho cả họ đều thở than khen
ngợi.” khiến ta phải ngẫm nghĩ. Khi tôi kiểm tra lại, chữ “cũng” này có
mặt trong cả nguyên bản tiếng Trung và bản dịch tiếng Anh nên không thể
là do lỗi của dịch giả. Có thể bảo, ừ thì a hoàn cùng chết theo chủ,
nhưng phải chăng Tào Tuyết Cần ngụ ý rằng Tần Khả Khanh đã tự vẫn trước?
A hoàn thứ hai xin làm con nuôi, vì sao? Theo thuyết của Du Bình Bá,
chính hai a hoàn này đã chứng kiến cảnh gian díu của Tần Khả Khanh với
Giả Trân, dẫn đến việc Tần Khả Khanh xấu hổ tự sát. Vì quá hối hận, một a
hoàn tự tử, a hoàn kia xin làm con nuôi để chuộc tội. Nếu không có gì
bất thường, một a hoàn sao dễ làm con nuôi nhà chủ được, kể cả chủ có
quy tiên đi chăng nữa! Sự “mừng lắm” của Giả Trân càng khiến ta phải
nghi ngờ. Ở cuối hồi 15, a hoàn Bảo Châu còn không chịu về lại phủ,
quyết ở lại chùa Thiết Hạm. Hoặc cô ta bị Giả Trân đe dọa, tống đi xa
khuất mắt, hoặc chính cô ta sợ về phủ Giả nhiều cạm bẫy, tóm lại, chi
tiết này cũng thật kỳ lạ.
Giả thuyết: hai nữ tỳ này góp phần không nhỏ dẫn tới kết cục thảm thương của Tần Khả Khanh.
5. Dẫn chứng năm: cuốn sổ Kim lăng thập nhị thoa chính sách
Đây là bằng chứng quan trọng nhất. Khi Bảo Ngọc lạc vào Thái Hư ảo cảnh, có được nàng tiên mở tủ cho xem cuốn sổ ghi số mệnh mười hai cô gái đẹp trong truyện. Lần lại, có thể đoán ra số phận từng người một. Ví dụ:
Giàu sang cũng thế thôi.
Từ bé mẹ cha bỏ đi rồi.
Nhìn bóng chiều ngậm ngùi,
Sông Tương nước chảy mây Sở trôi.
Là Sử Tương Vân
Chim phượng kìa sao đến lỗi thời,
Người đều yêu mến bực cao tài,
Một theo hai lệnh, ba thôi cả
Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi.
Là Vương Hy Phượng
Than ôi có đức dừng thoi,
Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai treo đai ngọc giữa rừng
Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?
Đích thị là Lâm Đại Ngọc
Thế nhưng trong quần thoa đó, không ai có số phận hợp với mỹ nhân cuối cùng:
Lại có một tòa lầu cao, trên có một mỹ nhân treo cổ tự tử. Có mấy câu phán:
Trời tình, bể tình là mộng ảo,
Mà tội dâm kia cũng bởi tình.
Đầu têu nào phải “Vinh” hư hỏng,
Mở lối khơi nguồn, thực tại “Ninh”.
Chiếu theo bài thơ này, thì Tần Khả
Khanh là phù hợp nhất. Trong những chị em còn lại, không có ai tự tử.
Cái chết của Tần Khả Khanh lại là cái chết đột ngột. Theo tiên lượng của
thầy thuốc, nàng ta có thể cố trụ qua mùa đông, hơn nữa căn bệnh của
Tần Khả Khanh (triệu chứng giống ho lao), không phải căn bệnh có thể đột
tử qua đời. Chính vì thế mà khi nghe tin nàng chết, cả phủ đều “bàng
hoàng, không ai tin là thật.” Phượng Thư nghe tin thì “thất kinh, toát
mồ hôi, ngẩn người ra một lúc,” Giả Bảo Ngọc thì “vội vùng trở dậy, ruột
đau như cắt, không ngờ ọe một cái, khạc ra một cục máu.” Nếu cái chết
của Tần Khả Khanh không quá bất ngờ thì phản ứng của mọi người không thể
dữ dội như vậy! Do đó nói Khả Khanh chết vì bệnh là vô lý. Trước khi
mất, Tần Khả Khanh còn có các triệu chứng giống như đã mang thai. Vấn đề
này được các bà các cô trong phủ suy đoán không ít, thậm chí Vưu thị
còn bảo ít nhất một thầy thuốc bảo rằng cô ta có bầu. Vì vậy có thể loại
bỏ khả năng Tần Khả Khanh bị lên cơn bệnh đột ngột mà chết. Ngược lại,
trường hợp Khả Khanh có thai với bố chồng, lại bị người hầu phát hiện,
quẫn trí tự sát rất có thể đã xảy ra.
Lại xét câu “Trời tình, bể tình là mộng ảo.” Nhân vật Khả Khanh trong giấc mơ Thái hư ảo cảnh của Bảo Ngọc chính là cái tôi thứ hai của Tần Khả Khanh (alter ego), cô ta cũng là đối tượng si mê trong mộng của Bảo Ngọc – một sự kéo dài từ tình yêu của Bảo Ngọc với chị ruột của cậu ta, Nguyên Xuân. Khả Khanh trong mơ và Khả Khanh ngoài đời tuy hai mà một, tuy một mà hai. Cái “tình” của Khả Khanh “thật” ở cõi diêm phù này cũng chỉ là một giấc mộng mà thôi.
Lại xét câu “Mà tội dâm kia cũng bởi tình.” Trong mười hai thoa, chỉ có duy nhất mỹ nhân này bị gắn chữ “dâm.” Trừ Tần Khả Khanh, mười một người kia, có kẻ độc ác, có kẻ vô tình, nhưng thật khó dùng chữ “dâm” để gán cho bất kỳ ai trong họ. Chính bởi chữ “dâm” này mà Tần Khả Khanh bị xếp hàng gần bét trong mười hai thoa, chỉ hơn có Giả Xảo Thư. Lật lại Hồng Lâu Mộng nguyên cảo còn có đề mục “Tần Khả Khanh dâm táng Thiên Hương Lầu” ở hồi mười ba, lúc Khả Khanh qua đời cơ mà! Đủ thấy ý Tào Tuyết Cần đã cho số phận Tần Khả Khanh không thoát khỏi chữ “dâm,” dù sống hay chết.
Xét hai câu cuối:
Đầu têu nào phải “Vinh” hư hỏng,
Mở lối khơi nguồn, thực tại “Ninh”.
Để dễ phân biệt, bên Giả Chính, Giả Bảo Ngọc là phủ Vinh, còn bên Giả Trân, Giả Dung là phủ Ninh. Hai câu này có thể hiểu rằng: Bảo Ngọc “hư hỏng” quan hệ với nàng Khả Khanh trong mộng, xong cái nghiệp của nàng ta là do phủ Ninh gây ra. Nếu không vì Giả Trân “đầu têu” làm nhơ nhuốc nàng thì nàng đã không trở thành một “dâm nữ” và phải tự kết liễu cuộc đời.
Kết thúc lại, khúc hát Hồng Lâu Mộng của Tần Khả Khanh nói rõ hơn hết:
Xuân đi hương vẫn còn rơi,
Nguyệt hoa gây vạ suy đồi vì ai ?
Nhà suy bởi tại Kính rồi,
Nhà tan trước hết tội thời tại Ninh.
Gây nên oan trái vì tình.
Em trai Tần Khả Khanh là Tần Chung rồi cũng chết vì trót yêu cô tiểu Trí Năng. Tên của hai chị em, Tần Thị – Tần Chung lại đồng âm với Tình Thủy (đầu) – Tình Chung (cuối), nên có thể coi họ là hai đầu của quang phổ tình ái vậy. Cái chết của Tần thị, Tần Chung, và Giả Thụy là những “câu chuyện cảnh giác” đầu tiên của Hồng Lâu Mộng, ám chỉ bóng gió đến những bi kịch còn ở phía trước. Tần Khả Khanh là một nhân vật mang tính biểu tượng hơn là thực tế, vừa như Vệ Nữ, vừa là kẻ đầu tiên hy sinh vì tình trong truyện.
Kết luận: dựa trên những dẫn chứng trên, có thể kết luận mười phần chắc đến tám, chín về sự thật đằng sau cuộc đời, số phận, và cái chết của Tần Khả Khanh. Tuy nhiên những tầng lớp vô cùng tinh tế của Hồng Lâu Mộng luôn là thử thách lớn cho những kẻ đam mê. Người viết xin được nhận sự góp ý, tranh luận của người đọc để chúng ta cùng phân tích, khám phá thêm tác phẩm này một cách trọn vẹn nhất có thể.
Hai chị em nhà họ Vưu: càng lăng loàn tợn càng đau vì tình
Hồng Lâu Mộng tuy là bức tranh gấm màu rực rỡ thêu vòng trong vòng ngoài, càng ngắm càng sâu, song sợi chỉ tơ xuyên suốt tác phẩm là nghiệp chướng của ái tình. Ngoại trừ Giả Mẫu ra, gần như cái chết nào trong chuyện cũng là chết vì tình. Ở bài trước ta đã bàn đến cái chết của Tần Khả Khanh, “Trời tình, bể tình là mộng ảo. Mà tội dâm kia cũng bởi tình.” Sang bài này, ta sẽ xem xét đến số phận hai chị em họ Vưu. Sở dĩ gộp chung lại vì tác giả cố ý cho họ làm chị em, vận mệnh của họ vốn không thể tách rời, ngay cả nguyên do đẩy họ đến cái chết cũng cùng một gốc rễ.
Vưu nhị thư và Vưu tam thư là hai cô em gái của Vưu thị, vợ hai Giả Trân bên phủ Đông. Giả Trân còn có một người con trai lớn là Giả Dung, chồng Tần Khả Khanh. Hai bố con này là người thế nào? Dâm ô, xấu xa, ăn chơi, bệ rạc, đủ trò không gì không làm, xem ra còn tệ hơn cả Tiết Bàn. Hai cô em gái Vưu thị cũng không phải loại vừa, vừa xinh đẹp phong lưu, lại lẳng lơ phóng đãng. Lần đầu họ xuất hiện trong truyện đã đùa cợt cùng Giả Dung:
Hắn vờ làm bộ run sợ, ôm đầu lăn xả vào lòng dì Hai xin tha tội. Dì Ba quay mặt đi, nói:
– Chờ chị về sẽ mách cho nó!
Giả Dung cười, quỳ xuống giường xin tha tội, làm cho cả hai người cười ồ lên. Giả Dung lại vồ nắm sa nhân của dì Hai để ăn. Dì Hai nhai bã sa nhân đầy mồm nhổ toẹt vào mặt, hắn thè lưỡi liếm hết. Bọn a hoàn thấy trái mắt, đều cười, nói:
– Cậu vừa có tang, bà ngoại lại mới ngủ. Hai cô tuy trẻ tuổi nhưng đều là bậc dì. Cậu không coi bà ra gì à! Khi ông về bà sẽ mách, liệu cậu chạy đằng nào cho thoát!
Đúng như Giả Liễn dự đoán, hai chị em họ Vưu đều có quan hệ bất chính với anh rể và cháu trai. Nhưng nếu nhà văn còn bóng gió chuyện của Tần Khả Khanh, thì đối hai chị em họ Vưu thì Tào Tuyết Cần tung hê hết ra. Nét đẹp của họ cũng khác hẳn với vẻ băng thanh ngọc khiết của các cô tiểu thư trong phủ Giả:
Dì Ba tháo đồ trang sức, cởi áo ngoài, vén tóc mai lên, chỉ mặc một cái áo lót đỏ, nửa kín nửa hở, cố ý để lộ bộ ngực trắng nõn ra, dưới mặc quần xanh, đi giày đỏ, trông rất lộng lẫy. Lúc đứng lúc ngồi, khi vui khi giận, không có một phút nghiêm trang, đôi khuyên cứ lủng lẳng như đánh đu; dưới ánh đèn, trông càng tỏ ra mày liễu xanh rờn, môi son đỏ chót, đôi mắt như nước mùa thu, lại uống mấy chén rượu, càng thêm lẳng lơ khêu gợi.
Thế nhưng điều khó ngờ nhất đã xảy ra. Hai chị em Vưu nhị thư, Vưu tam thư nếu cứ “ngoan ngoãn” làm “gái hư” thì đã đành. Họ sẽ được liệt vào hạng xấu xa vô loài, tác giả cũng không cần tốn thêm bút mực để viết về họ nữa. Vấn đề là họ lại vướng vào lưới tình, yêu thật sự, si mê thật sự! Đây là sự khởi đầu của hai tấn bi kịch.
Người mà Vưu nhị thư đem lòng yêu là ai? Chính là Giả Liễn.
Từ đầu truyện, hình ảnh Giả Liễn trong
mắt độc giả vốn không được sáng sủa cho lắm. Chàng ta là kẻ thích mèo
mỡ, nếu không vì sợ lọ “dấm chua” của Phượng Thư, ắt đã ăn chơi thỏa
thích gấp mười. Tuy nhiên lúc nào hở ra được vợ cho ngủ riêng (khi Xảo
Thư bị bệnh đậu mùa, phải kiêng chẳng hạn) là chàng ta chạy ngay đi tìm
gái. Khi hai người mới gặp nhau, trai có ý mà gái cũng không vừa, tưởng
đâu chỉ là chuyện gió trăng mà thôi. Nhưng ai ngờ lộng giả thành chân,
Giả Liễn lén lút đưa Vưu nhị thư về làm vợ lẽ, đối xử chân tình thắm
thiết. Lại mua cho nàng ta một gian nhà nhỏ, đặt tên là Tiểu Hoa Chi, ở
giữa phủ Ninh và phủ Vinh. Như ta đã nhấn mạnh ở bài trước, nơi ở của
nhân vật có gắn bó mật thiết với số phận của họ. “Tiểu Hoa Chi” – cành
hoa nhỏ bị kẹp giữa hai tòa phủ, chẳng mấy chốc sẽ nát bấy. Tương lai
của Vưu nhị thư ắt không lành.
Vưu nhị thư đã quen cảnh “dập dìu lá gió cành chim”. Phượng Thư thì ghen tuông, tàn nhẫn, khiến Giả Liễn cảm thấy ngột ngạt khó thở, lúc điên lên còn rủa cô ta chết đi. Mối quan hệ của Giả Liễn và Vưu nhị thư, tưởng là mạt cưa mướp đắng gặp nhau mà thôi, ai ngờ lại khiến họ trở nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Dường như chỉ trong mối quan hệ này, hai người mới nếm trải tình yêu thật sự. Lần này tác giả đã nhân hậu cho Vưu nhị thư được nếm trải cảm giác ngọt ngào của tình cảm đôi lứa, rũ bỏ lớp áo hư hỏng, lại khiến Giả Liễn biến thành một người chồng mẫu mực, độ lượng, không còn vẻ khinh bạc trước kia. Tương lai thật tươi sáng, hứa hẹn. Mấy câu sau đây, ngắn ngủi mà đủ ý đã diễn tả sự thay đổi tích cực của họ:
Chị Hai lại là người đa tình, cho Giả Liễn là người nương tựa suốt đời của mình, việc gì cũng chăm sóc hỏi han. Chị Hai lại có vẻ dịu dàng hòa thuận, không những mọi việc bàn bạc không dám lộng quyền mà dáng điệu và lời nói việc làm cũng hơn hẳn Phượng Thư. Nhưng đã trót lỡ bước mắc phải một chữ “dâm” rồi, thì bao nhiêu điều hay cũng vứt đi cả. Giả Liễn lại nghĩ: “Ai không có điều lầm lỗi? Nhưng biết lỗi mà sửa đổi đi thì tốt”. Cho nên hắn không nhắc đến việc dâm lúc trước, chỉ kể điều hay bây giờ thôi, thành ra hai người một lòng một dạ, dính như keo sơn, thề cùng sống chết với nhau, còn để ý gì đến Phượng Thư và cô Bình nữa.
Bởi vậy mới nói, tình yêu có thể cứu chuộc con người! Sau khi Vưu nhị thư tìm được ý trung nhân Giả Liễn, lại đến lượt Vưu tam thư. Hai chị em xinh đẹp này được chính Bảo Ngọc khen là một đôi “vưu vật”(nghĩa là đồ quý, lại chơi chữ “Vưu” là họ của họ.) Theo lời kể của Tào Tuyết Cần, Vưu tam thư không những đẹp hơn cả chị, mà tính tình cũng đanh đá, ghê gớm, sắc sảo hơn chị gấp nhiều lần. Theo kiểu “không đẹp được thì cho xấu luôn,” không những không ngượng ngập về tội “hư” của mình, nàng ta còn lấy đó làm cớ để ngang ngược, khêu gợi, vênh vang. Nàng ta mắng Giả Trân rất thẳng: “Anh đừng lú lấp ruột gan, tưởng chừng tôi không biết việc trong nhà các anh hay sao? Lần này anh em nhà anh định vung một ít tiền thối ra, coi chị em chúng tôi là đĩ thõa để mua vui.”
Hãy xem nàng ta đày đọa mấy ông tướng nhà họ Giả thế nào:
Chị Ba ngày nào cũng kén chọn thức ăn đồ mặc, đã đeo bạc lại muốn đeo vàng, có hạt châu lại đòi ngọc báu; ăn ngỗng xong lại đòi mổ vịt; có điều gì không bằng lòng, liền hất cả mâm đi. Quần áo không vừa ý thì bất cứ lụa là mới may cũng lấy kéo cắt vụn ra, vừa xé vừa mắng. Rút cục bọn Giả Trân có được ngày nào vừa ý đâu? Trái lại phải tiêu trộm mất bao nhiêu là tiền.
Đó là cách Vưu tam thư đối xử với những tên đàn ông bạc bẽo. Nàng không ngại gì khi lợi dụng lại họ. Công khai, thách thức, ngang nhiên lắm. Nói gì thì nói, rõ ràng nàng ở thế của kẻ chiến thắng, dù là theo kiểu không còn gì để mất. Nhưng khi nàng bắt đầu mong muốn xây dựng gia đình với người trong mộng thì lại khác hẳn. Hạt giống tình gieo từ năm năm trước, giờ được tưới bởi hy vọng nên nở bừng ra. Nàng trở nên đứng đắn, lễ độ, cốt cách không kém gì các tiểu thư con nhà gia giáo. Người đọc lại càng biết rõ, sự thay đổi của Vưu tam thư thực sự bắt nguồn từ bên trong, tuyệt đối không phải giả dối lừa người… Thậm chí nàng còn bẻ gãy cái trâm, thề nếu trái lời thì số phận cũng như cái trâm vậy.
Giống như Vưu nhị thư, Vưu tam thư lột xác nhờ tình yêu. Vưu nhị thư còn bảo với Giả Liễn: “Dì ấy đã nói: người ấy một năm không đến, thì chờ một năm; mười năm không đến thì chờ mười năm. Nếu người ấy chết đi, thì dì ấy đành cắt tóc đi tu, ăn chay niệm phật, chứ quyết không lấy ai nữa.”
Người mà Vưu tam thư yêu là ai? Chính là
Liễu Tương Liên, một chàng trai trẻ tuổi, đẹp đẽ, con nhà dòng dõi thi
thư. Tuy nhiên Liễu Tương Liên lại là kẻ vô tình. Giả Liễn có nhận xét
rất chuẩn xác về anh ta: “Em không biết, chàng trai Liễu này là người
rất phong nhã, nhưng bụng rất lạnh nhạt, đối với nhiều người không có
tình nghĩa gì cả.”
Lần đầu tiên Liễu Tương Liên xuất hiện ở hồi bốn mươi bảy, tại một bữa tiệc có nhiều anh em trong họ Giả. Tiết Bàn, vốn mắc bệnh “Long Dương” (đồng tính) nhìn thấy chàng ta là đã chết mê chết mệt, hẹn ra ngoài thành gặp. Liễu Tương Liên liền giả cách đồng ý, nhân đó nện cho Tiết Bàn một trận thừa sống thiếu chết vì cái tội dám tán tỉnh mình.
Nói xong, lại lấy roi ngựa, đánh ba bốn chục roi vào lưng và đùi.
Tiết Bàn đã gần tỉnh rượu, đau quá không chịu nổi, kêu lên một tiếng “úi chao”. Tương Liên cười nhạt nói:
– Mới có thế thôi! Tao cứ tưởng mày dạn đòn!
Vừa nói vừa kéo chân trái Tiết Bàn dìm xuống bãi sậy, bùn lấm be bét, đầy người, lại hỏi:
– Mày đã biết tay tao chưa?
Tiết Bàn không trả lời, chỉ nằm gục xuống rên hừ hừ. Tương Liên lại vất roi đi, nắm tay đấm mấy quả. Tiết Bàn kêu rối rít lên:
– Xương tôi gãy cả rồi! Tôi biết em là người đứng đắn, chỉ vì tôi nghe người ta đồn nhầm đấy thôi!
– Không được kéo người ta vào. Mày chỉ được nói chuyện hiện giờ thôi.
– Hiện giờ tôi không có gì đáng nói cả? Chẳng qua em là người đứng đắn, tôi trót nhầm đấy thôi!
– Phải nói nhũn nữa, tao mới tha cho.
Tiết Bàn rén hừ hừ, nói: “Bạn ơi”. – Tương Liên lại đấm cho một quả nữa. Tiết Bàn kêu lên một tiếng, rồi nói: “Ông anh ơi” – Tương Liên lại đấm luôn cho hai quả nữa. Tiết Bàn vội kêu lên “úi chao ơi”, rồi nói:
– Ông ơi! ông tha cho con là thằng mù không có mắt! Từ nay trở đi, con kinh người, sợ lắm rồi.
– Mày phải uống hai ngụm nước bùn này đi!
– Nước này bẩn quá, con uống thế nào được?
Tương Liên lại giơ tay lên đấm. Tiết Bàn vội nói:
– Con xin uống… Con xin uống…
Tiết Bàn là nhân vật thô bỉ, xấu tính bậc nhất trong truyện, ai ai cũng ghét, đọc đến đoạn này, nhiều người không khỏi sướng đến mức hoa chân múa tay. Nhưng ít ai dừng lại để tự hỏi xem:
Tiết Bàn có đáng bị Tương Liên đánh ác như vậy không? Nếu hắn ta dùng sức hoặc quyền lực cưỡng ép Tương Liên thì đã đành, đằng này Tiết Bàn đối với Tương Liên vô cùng tử tế, tôn trọng, thậm chí thích đến mê muội. Vụ này tác giả khéo bố trí từ trước để vẽ lên đặc tính cơ bản của Liễu Tương Liên: kiêu ngạo và vô tình. Đối với chàng ta, bất cứ tình cảm nào của con người cũng là xấu xí, hèn kém, yếu đuối. Trong tâm trí của Tương Liên, chữ “tình,” dù là tình yêu hay tình dục, tình nam hay tình nữ, đều dơ bẩn, không xứng với địa vị, con người anh ta. Sau này khi Tiết Bàn gặp nạn, Liễu Tương Liên lập tức ra tay cứu trợ, chứng tỏ cái anh ta khinh ghét không phải con người Tiết Bàn, mà chính là tình cảm của hắn.
Sau khi nghe Vưu tam thư thổ lộ, Giả Liễn bèn gặp Liễu Tương Liên để làm mối cho cô em vợ. Liễu Tương Liên đã định cưới Vưu tam thư, nhưng khi vừa thoáng nghe Bảo Ngọc lỡ miệng nhắc đến xuất xứ của Vưu tam thư, thái độ của anh ta thế nào?
Tương Liên nghe xong giậm chân nói:
– Việc này không xong rồi! Nhất định không thể lấy được! Trong phủ Đông nhà anh, ngoài hai con sư tử đá ra, dù con mèo, con chó cũng chẳng còn trong sạch nữa. Tôi không thèm làm anh chàng rùa đen đâu!
Bảo Ngọc nghe nói, đỏ bừng mặt.
Tình yêu của hai chị em họ Vưu trong sáng, mãnh liệt, song kết cục của họ thì sao? Có thể tóm tắt rằng, Tào Tuyết Cần đã dùng tình yêu “rửa tội” cho hai chị em nhà họ Vưu, song cũng đồng thời đẩy họ đến chỗ chết. Vưu nhị thư là người con gái hiền dịu, không tâm kế sâu xa, chẳng mấy chốc nàng đã ngây thơ nghe lời Phượng Thư, để bị đầy đọa cả thể xác lẫn tâm hồn. Cành hoa nhỏ đã bị chim phượng xéo nát, cái thai bị mất, nàng đành nuốt vàng mà chết, quả thực vô cùng đáng thương.
Vưu tam thư thì bị Liễu Tương Liên từ chối, nàng đau đớn dùng cây kiếm “Uyên” trong cặp “Uyên Ương” tự sát chết trước mặt người trong mộng.
Chim uyên ương là biểu tượng lứa đôi trong văn hóa Trung Quốc, cách Vưu tam thư kết liễu cuộc đời do đó có tính biểu tượng rõ rệt. Chính là tình yêu đã giết nàng, đâu phải tại Liễu Tương Liên lạnh lùng tàn nhẫn, lãnh diện lang quân. Anh ta chỉ là một đại diện, biểu tượng cho cái gọi là đàn ông “tử tế” trong xã hội. Vưu tam thư phải chết vì nàng đã đánh đồng bản thể của mình vào tình yêu, khi tình yêu mất đi thì nàng không thể tồn tại nữa. Đúng như Vưu nhị thư phải thừa nhận:” Người ta có ép buộc dì ấy đâu, tự dì ấy tìm lấy cái chết.” Hai chị em họ, một người bị tình từ trong phá ra, một người dùng cái chết để trả nợ tình, quả thực là hai “nữ thánh” tử vì đạo, nếu đạo ở đây là tình ái.
Ở đoạn cuối chương sáu mươi sáu, Liễu Tương Liên hội ngộ Vưu tam thư trong giấc mơ, nàng nói: ”Thiếp lại từ trời tình, đi từ đất tình. Kiếp trước đã lầm vì tình, kiếp này lại xấu hổ vì tình, nên mới được giác ngộ.” Câu này thực đã tóm hết nội dung của Hồng Lâu Mộng vậy. Trong cõi “mộng” đấy, quả thực không có kết cục tốt đẹp cho kẻ đa tình. Người đọc ngậm ngùi chỉ biết lắc đầu thở dài, nhưng thế giới hiện thực liệu có thực sự khác truyện kể chăng?
Giả Thám Xuân: con phượng hoàng sinh trong ổ quạ
Trong số những cô gái của Hồng Lâu Mộng, Giả Thám Xuân là cô gái có cá tính cứng cỏi nhất trong mười hai thoa, song vẫn giữ được khí chất cao đẹp của một vị thiên kim tiểu thư. Cái mạnh mẽ của Thám Xuân thật đường hoàng, hơn hẳn Vương Hy Phượng chỉ được cái khôn vặt, nham hiểm, trên đội dưới đạp. Vương Hy Phượng cũng rất thú vị, người ta muốn ghét nàng cũng không ghét nổi, muốn yêu nàng lại càng khó hơn, song con phượng hoàng thực sự trong Hồng Lâu Mộng là Giả Thám Xuân. Tào Tuyết Cần dụng công mô tả những mặt đối lập của nhân vật này, lại bày đặt những đầu mối giúp người đọc đoán được số phận nàng.
Giả Thám Xuân là cô ba trong “Giả Phủ Tứ Xuân”, về thứ tự nàng xếp sau Nguyên Xuân, Nghênh Xuân, trên Tích Xuân. Lần đầu Giả Thám Xuân xuất hiện đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Lâm Đại Ngọc:
Cô thứ hai, vóc dáng tròn trặn, người dong dỏng cao, mặt trái xoan, mắt sắc, lông mày dài, nhìn ngắm tình tứ, thanh tú khác thường, trông như thoát hẳn trần tục.
Trong bốn cô Xuân, trừ Nguyên Xuân đã vào cung không kể, nàng là cô gái đẹp nhất, thường được xếp chung với nhóm Đại Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Bảo Cầm. Không chỉ đẹp, Thám Xuân còn có khí độ vô cùng đặc biệt. Thám Xuân có con mắt tinh đời, khiếu thẩm mỹ rất tốt. Những đồ vật xa hoa nàng không coi vào đâu, ngược lại chỉ thích những thứ bình dị mà tinh xảo. Đoạn nàng nhờ Bảo Ngọc mua đồ chơi diễn tả rất khéo điều này:
– Mấy tháng nay em có dành dụm được mười quan tiền, anh cầm lấy, khi nào ra chơi phố, thấy có bức chữ hay vẽ đẹp, hoặc đồ chơi xinh xắn, anh mua hộ mang về cho em.
– Thỉnh thoảng anh cũng có đi qua các nhà, các miếu ở trong thành, ngoài thành, chẳng thấy cái gì mới lạ, xinh xắn cả, chỉ có những đồ vàng, ngọc, đồng, sứ, và những thứ đồ cổ không có chỗ vất; rồi đến các thứ vóc, nhiễu và các đồ ăn thức mặc thôi.
– Ai cần gì đến những thứ ấy! Như lần trước anh mua cái lẵng hoa bằng cành liễu, hộp phấn bằng rễ trúc, cái lồng ấp bằng đất thó, trông rất đẹp, em thích lắm. Mà chị em ai cũng thích cả. Họ coi những thứ này như của báu, có cái nào là cướp mất cái ấy.
– Nếu em thích những cái ấy, thì chẳng đáng mấy đồng tiền, cứ cho người nhà mang mấy quan tiền đi, sẽ mua được hàng xe.
– Bọn người nhà biết gì? Anh đi chọn lấy cái gì mộc mạc mà không tục, thì mua nhiều về cho em.
Thám Xuân có sở trường thư pháp. Khuê phòng của nàng được Tào lão gia miêu tả tinh tế mà vẫn phóng khoáng, thể hiện một trí tuệ mẫn tiệp, trong sáng:
Bọn Phượng Thư vào buồng Thám Xuân, thấy các chị em đang cười đùa. Thám Xuân vốn thích rộng rãi, ba gian nhà ở đều để thông luôn. Giữa nhà kê một cái bàn to bằng đá Đại Lý, trên bàn có các loại bút thiếp của cái bậc danh nhân, cùng mấy chục cái nghiên báu, và các thứ ống bút; bút cắm ở ống như rừng cây. Một bên bày cái lọ sứ Như Châu to bằng cái đấu, cắm đầy hoa cúc trắng như thủy tinh. Phía tường bên Tây treo một bức họa “Yên vũ đồ” của Mễ Tương Dương. Hai bên treo hai câu đối, bút tích của ông Nhan Lỗ công: Phong lưu cảnh đượm màu mây khói, chất phác người quen thú suối rừng. Trên án đặt một cái đỉnh lớn, trên cái giá gỗ đàn tía ở bên tả đặt một cái mâm sứ lớn, trên mâm bày mấy chục quả phật thủ vàng tươi; trên cái giá sơn ở bên hữu treo một cái khánh Tị Mục bằng ngọc trắng, bên cạnh treo một cái dùi nhỏ.
Khuê phòng như vậy, Giả Thám Xuân đương nhiên là người có năng khiếu văn chương. Vẫn biết Đại Ngọc, Bảo Thoa có tài làm thơ, nhưng phải nhờ đến Thám Xuân ra tay tập hợp, Đại Quan Viên mới có Hải Đường thi xã. Bảo Ngọc cũng phải bất ngờ thốt lên “không ngờ em Ba phong nhã thế.”
Loài cây ưa thích của Thám Xuân chính là cây ba tiêu (cây chuối), nên nàng tự xưng là Tiêu hạ khách, phong cách đặc biệt ấy khiến mọi người đều trầm trồ khen hay. Hình tượng cây chuối trong thơ ca cổ điển Trung Quốc vừa có khí độ quân tử, lại có duyên ngầm kín đáo, rất hợp với Thám Xuân. Những bức họa mô tả nàng do vậy thường vẽ Thám Xuân tay cầm sách, có khi ngồi cạnh tàu ba tiêu. Chính Thám Xuân đã từng tuyên bố nếu nàng sinh ra là đàn ông, hẳn đã tự lập được công danh rạng rỡ.
Vì những nét đẹp kể trên, Thám Xuân còn được mệnh danh là “cô Ba hoa hồng”. Đầy tớ của Phượng Thư đã giải thích nguyên do như sau: “Hoa hồng vừa đỏ vừa thơm, ai mà chẳng phải yêu, có điều lắm gai thôi.” Quả vậy, không những trong số các cô gái ở vườn Đại Quan nàng ghê gớm nhất, mà ngay cả những người hầu dày dạn và các bà phu nhân cũng phải dè chừng Thám Xuân. Khi Phượng Thư bị ốm, Thám Xuân thay nàng trông nom việc nhà cửa. Bọn người hầu tưởng có thể qua mặt cô tiểu thư non nớt nên định nhờn mặt, xong bị nàng sửa đâu ra đấy, không dám ngo ngoe. Thái độ của các nô tài, nô tì trong phủ Giả đối với Phượng Thư có bảy phần sợ sệt, ba phần căm ghét, còn đối với Thám Xuân là bảy phần kính trọng, ba phần sợ sệt. Phượng Thư cũng biết tính nàng khác hẳn mọi người nên hết sức tôn trọng, không dám khiến nàng mếch lòng. Một lần các bà già đi khắp vườn Đại Quan tra xét, lục rương hòm a hoàn để truy tìm một vật cấm. Vợ Vương Thiện Bảo là một bà già ngu xuẩn, nghĩ Thám Xuân là cô gái yếu đuối nên có ý coi thường, định làm nhục nàng để lên mặt với bọn người dưới. Lập tức bà ta bị đòn đau:
Mụ cho Thám Xuân chỉ giận một mình Phượng Thư thôi, không can gì đến mụ, nên muốn nhân đó làm bộ, liền đi lên trước mọi người, kéo vạt áo Thám Xuân, cố ý giơ lên một cái cười hì hì nói:
– Ngay trong mình cô tôi cũng khám cả rồi, chẳng thấy gì cả.
Phượng Thư thấy mụ làm thế vội nói:
– Già đi thôi, đừng giở trò rồ dại nữa.
Chưa dứt lời thì nghe “bốp” một tiếng, vợ Vương Thiện Bảo bị Thám Xuân tát một cái vào mặt. Thám Xuân nổi giận, trỏ vào vợ Vương Thiện Bảo hỏi:
– Mày là hạng gì dám nắm lấy áo tao. Chẳng qua tao nể mặt bà, thấy mày cũng đã có tuổi, nên mới gọi mày là già, mày lại chó cậy chủ nhà, càng ngày càng bậy, dám lên mặt với tao à! Mày cứ tưởng tao cũng dễ tính như cô mày, mặc cho chúng bay khinh rẻ, mày nghĩ thế là nhầm rồi!
Tính cách Thám Xuân cương cường như vậy có một phần rất lớn là do hoàn cảnh xuất thân của nàng. Thám Xuân là em gái của Bảo Ngọc, nhưng chỉ cùng cha. Mẹ Bảo Ngọc là Vương phu nhân, vợ cả của Giả Chính. Mẹ đẻ Thám Xuân là dì Triệu, vợ bé. Theo tôn ti trật tự của xã hội phong kiến, không những con gái không bằng con trai mà con vợ bé cũng không bằng con vợ cả. Có nhiều trường hợp thê “cướp” con trai của thiếp, thiếp cũng đành nuốt nước mắt chấp nhận. Kể cả con của thiếp nhận thê làm mẹ, chỉ coi thiếp như người hầu kẻ hạ, thiếp cũng phải chịu. Nhưng dì Triệu lại là người đàn bà ti tiện, xấu xa, luôn bày kế hãm hại Bảo Ngọc, ghét cả Thám Xuân, nên sự thông cảm của người đọc dành cho bà ta hầu như rất ít. Những hành vi, lời nói tục tĩu của dì Triệu gây cho Thám Xuân không ít tức giận và xấu hổ. Nàng đẹp, thông minh, được Giả mẫu yêu thương, nhưng sự tôn trọng mọi người dành cho nàng luôn bị đe dọa bởi bà mẹ đẻ địa vị thấp kém, lại hay gây chuyện. Bởi tinh thần ức chế nên nàng khó tính, chua cay, hay nói lời cay đắng. Theo như lời thằng Hưng nói, “Đáng tiếc là cô ấy lại không phải bà Hai đẻ ra, thực là ‘phượng hoàng đẻ trong tổ quạ’”, thật là nhận xét chuẩn xác. Dì Triệu cũng tự ý thức được điều đó nên khi Thám Xuân sắp đi lấy chồng, bà ta liền nói kháy:
Dì Triệu vừa nghĩ vừa chạy đến bên Thám Xuân mừng cho cô ta, và nói:
– Cô ơi! Cô là người sắp bay cao rồi. Về nhà chú rể tất nhiên là tốt hơn ở đây, chắc cô cũng bằng lòng. Tôi sinh ra cô bấy lâu, chưa hề nhờ được gì, dù cho tôi có bảy phần xấu, cũng còn ba phần tốt, đừng có đi rồi cô bỏ quên ngay tôi.
Thám Xuân nghe nói chẳng có nghĩa lý gì cả, nên chỉ cúi đầu làm việc, không nói nửa lời.
Trong mắt dì Triệu, Thám Xuân là con phượng hoàng sắp bay khỏi cái tổ quạ, khiến cho bà ta vừa hậm hực, vừa nhẹ nhõm. Song số phận của Thám Xuân không chỉ gắn với hình ảnh chim phượng, mà còn cả cái diều nữa. Trong truyện, cái diều xuất hiện ba lần để ám thị tương lai của nàng. Lần thứ nhất là trong sổ tiền định ở Thái Hư ảo cảnh:
Mặt sau lại vẽ hai người thả diều, một vùng bể lớn, một cái thuyền lớn, trong thuyền có một cô gái bưng mặt khóc. Sau bức họa có bốn câu:
Chí cao tài giỏi có ai bì,
Gặp lúc nhà suy, vận cũng suy,
Nhớ tiếc thanh xuân ra bến khóc.
Gió đông nghìn dặm mộng xa đi.
Hai người thả diều trong tranh ứng vào Giả Chính và Vương phu nhân – cha và mẹ cả của Thám Xuân. Việc cho Thám Xuân đi lấy chồng xa chính là quyết định của họ. Đây là lá số tiền định chính thức của nàng.
Lần thứ hai, ở hội thi đố đèn:
Giả Chính lại xem câu đố của Thám Xuân:
Trẻ con ngửa mặt nhìn trời,
Thanh minh là tiết dong chơi hợp thì.
Mỏng manh một sợi du ti,
Biệt ly đừng có trách gì gió đông.
(Đố một đồ chơi)
Giả Chính nói:
– Đó là cái diều.
Lúc đó, Giả Chính lo buồn vì những câu đố đèn do các chị em đặt ra đều báo hiệu việc không lành. Quả vậy, Nguyên Xuân đố cái pháo nổ tan tành, về sau chết trẻ, Tích Xuân đố cái đèn đại hải treo cửa Phật, cuối cùng xuất gia đi tu. Thám Xuân đố cái diều, số phận nàng là phải rời khỏi quê hương.
Lần thứ ba, ở lần các chị em chơi thả diều. Sự ám thị lần này được diễn tả rất thơ mộng. Những lần đọc trước tôi đều bỏ qua đoạn này, bây giờ mới thấy dụng ý của tác giả:
Thám Xuân đương định cắt dây cái diều phượng hoàng của mình, chợt nhìn thấy một cái diều phượng hoàng đang bay lên trời, liền nói:
– Không biết cái kia của ai?
Mọi người đều nói:
– Cô cứ cắt cái của cô đi, xem nó quấn lại với nhau thế nào?
Nói xong, thấy cái diều phượng hoàng này dần dần bay sát lại chập vào cái diều phượng hoàng kia. Mọi người đương định rút dây lại, thấy cái diều kia cũng rút dây. Hai cái đương quấn với nhau, lại thấy một cái diều thật to, có chữ “Hỷ” long lanh, có cả sáo vang lên như tiếng chuông trên lưng chừng trời, bay dần sát lại. Mọi người nói:
– Để cho cái này quấn vào, hãy hượm kéo về. Cả ba cái quấn vào nhau mới thích.
Quả nhiên cái diều chữ “Hỷ” quấn vào hai diều phượng hoàng. Ba cái cứ
đảo tít mù, đều đứt cả dây rồi vù vù bay đi cả. Mọi người đứng xem vỗ
tay cười:
– Thú thật! Không biết cái diều chữ “Hỷ” là của nhà ai, lại đâm ngay vào?
Đoạn văn ngắn nhưng ý nghĩa hàm súc thật tuyệt diệu. Cái diều phượng hoàng của Thám Xuân là sự kết hợp cả hai biểu tượng gắn với nàng: chim phượng và chiếc diều. Tác giả lại cho một chiếc diều lạ từ đâu bay tới, kèm thêm chữ “Hỷ,” ba diều cuốn vào nhau rồi bay đi biệt tăm, chính ngụ ý rằng Thám Xuân sẽ kết hôn với người phương xa, theo chồng đi mất. Đám cưới là đại hỷ, chim phượng (trống) và chim hoàng (mái) thì biểu tượng cho đôi lứa truyền thống, ví dụ như khúc Phượng Cầu Hoàng của Tư Mã Tương Như.
Ở hồi sáu mươi ba, Thám Xuân lại rút được thẻ hoa hạnh, “Ai rút được thẻ này, tất lấy được chồng sang.” Số phận của Thám Xuân vậy là chắc chắn. Ở cuối sách, nàng được gả vào một gia đình quan chức ở miền biển xa, được đối xử rất tử tế.
Bi kịch của Thám Xuân cũng nhè nhẹ thôi, chỉ là phải xa gia đình, không được cốt nhục sum vầy. Khúc “Hồng Lâu Mộng” tương ứng với nàng như sau:
PHÂN CỐT NHỤC (Cốt nhục phân ly)
Đường xa mưa gió một chèo,
Cửa nhà, ruột thịt thôi đều bỏ qua.
Con đành lỗi với mẹ cha,
Khóc thương chỉ thiệt thân già đấy thôi.
Cùng thông số đã định rồi,
Hợp tan âu cũng duyên trời chi đây,
Phân chia hai ngả từ nay,
Dám mong giữ được ngày ngày bình yên,
Con đi xin chớ lo phiền.
Tào Tuyết Cần viết 80 hồi đầu Hồng Lâu Mộng, 40 hồi sau ai chấp bút vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Do đó nhiều nhà Hồng học cho rằng kết thúc này quá tích cực theo kiểu “happy ending,” không hợp với mạch truyện. Nhưng dựa trên những “lá số tiền định” trên, kết cục của Thám Xuân có thể nói là rất chính xác và đúng với ý đồ của Tào Tuyết Cần.
Người đàn bà ghen Hạ Kim Quế
Ông Nhật Chiêu từng phát biểu: “Nghệ thuật của Hồng Lâu Mộng trác tuyệt ở chỗ nó tự nhiên như chính đời sống đến mức gần như “phi nghệ thuật.” Hầu như không có dấu vết của công phu và nhân tạo. Vậy mà hễ chạm vào nó là mê: Hồng mê.” Đã trót ghiền Hồng Lâu Mộng thì lâu lâu lại phải giở ra đỡ nhớ, mà không giở ra thì thôi, đã giở là cắm đầu đọc không nghỉ. Người trong giới yêu Hồng Lâu Mộng vì nó như kho tàng vô tận, mỗi lần đọc lại “cảm” hơn một ít. Trải nghiệm cuộc đời càng nhiều thì lại càng dễ khóc cười với tác phẩm. Trong bài này tôi muốn phân tích nhân vật phụ Hạ Kim Quế để tìm hiểu một hiện tượng quen thuộc: sự ghen tuông của phụ nữ.
Ai chưa từng trải qua ghen tuông? Kể cả không trực tiếp dính dáng chắc cũng đã lọt tai vài câu chuyện đánh ghen đầu làng cuối phố. Nhưng phải nói thật là chị em bây giờ còn sướng hơn phụ nữ ngày xưa nhiều. Chế độ phụ hệ ngày xưa cho phép đàn ông năm thê bảy thiếp, thấy bông hoa mới và đẹp thì vô tư mang về nhà cắm vào lọ. Văn hóa Trung Quốc lại giáo dục phụ nữ tốt “không ghen tuông,” càng khiến nhà trong lửa cháy bừng bừng. Hoàng đế của Lưu Tống là Minh Đế thậm chí còn ra lệnh cho Ngu Thông Chi viết cuốn Đố phụ ký (ghi chép về sự đố kị của phụ nữ) để “giáo huấn” phụ nữ.
Ở đời, hễ cảm xúc tự nhiên mà bị can thiệp, ức chế thì lại càng méo mó biến dạng. Thế nên phụ nữ Trung Quốc hồi xưa không ghen thì thôi, đã ghen thì thật là kinh khủng. Ngoài các thủ đoạn triệt hạ đối thủ, có người còn sẵn sàng quyết liệt lấy cái chết để phản đối. Tại sao người ta gọi đàn bà ghen là “hũ giấm,” “giấm chua,””uống giấm?” Tất cả bắt nguồn từ việc ông Nhiệm Khôi được vua Đường Thái Tôn thưởng cho hai cô hầu xinh, vợ tức quá không chịu. Vua gọi vào bảo nếu cứ khăng khăng cay cú thì uống rượu độc chết đi. Bà ta không ngần ngừ uống ngay. Hóa ra không phải rượu độc mà chỉ là giấm. Nhà vua sợ quá đành phải lấy lại hai nàng hầu. Quả thật đối với hạng người đến chết còn không sợ thì không thể lấy cái chết ra mà dọa được.
Cái ghen của đàn bà trong Hồng Lâu Mộng biểu hiện thế nào? Hầu hết những người vợ trong truyện đều tỏ ra an phận với chế độ một ông nhiều bà, thậm chí còn “dễ thương” đến mức nài nỉ đi hỏi vợ bé cho chồng như Hình phu nhân hỏi Uyên Ương cho Giả Xá!
Đối với những gia đình quý tộc, quan lại, chuyện đàn ông nạp thiếp là đương nhiên, không có mới kì quặc. Ngay Lâm Đại Ngọc cũng chỉ ghen tuông với Tiết Bảo Thoa, Sử Tương Vân vì họ là đối thủ tranh ngôi vị “vợ cả” của nàng, chứ với Tập Nhân – nàng hầu của Bảo Ngọc, nàng không ghen. Một khi đã sinh ra trong nền văn hóa trọng nam khinh nữ thì tư tưởng chồng chúa vợ tôi đã ngấm vào máu, lại thêm nhiều cặp vợ chồng kết hôn chỉ để củng cố địa vị và quan hệ giữa hai dòng họ chứ tình yêu nào có, nên điều này không đáng ngạc nhiên cho lắm.
Trong cả Hồng Lâu Mộng chỉ có hai bà ghen thật sự với các cô vợ bé, ghen đến mức phát tiết thành hành động trả thù: Hạ Kim Quế và Vương Hy Phượng. Tôi bàn về Hạ Kim Quế trước bởi ghen tuông chỉ là một khía cạnh trong tính cách của Phượng ớt. Ngoài ra, Phượng ớt còn nhiều tội “to” hơn, đáng bàn kĩ hơn ở bài sau. Hạ Kim Quế ngược lại là một bức tranh biếm họa điển hình, một nhân vật mà tính cách chủ đạo là ghen giống như nữ thần ghen tuông Invidia của La Mã vậy.
Trước tiên xin nói sơ qua về nhân vật Hạ Kim Quế. Cô nàng này là tiểu thư của nhà bán hoa quế họ Hạ, nhà giàu lại có nhan sắc nên “tôn mình như Bồ Tát, coi người khác như bùn”. Là vợ cả Tiết Bàn nhưng xem chừng lại ghê gớm, hung dữ hơn cả chồng, đối xử với người dưới thì độc ác, mẹ chồng thì hỗn láo. Vì tên của nàng ta có chữ “kim” và chữ “quế” nên hễ ai nhắc đụng tới là đánh tập tàn nhẫn. Xin thử phân tích mà coi, hoa quế có đặc điểm gì? Xinh xắn, thơm tho, và nở… vào mùa đông! Hoa quế mà nở mùa hè (hạ) thì nhất định là hoa quế rởm rồi, dù có dát vàng (kim) đi chăng nữa! Tào Tuyết Cần cũng mô tả Hạ Kim Quế “bề ngoài thì tươi đẹp như bông hoa, nhưng bên trong lại có tính nóng nảy như sấm sét”. Cái tính xấu và giả tạo của Hạ Kim Quế vậy là được hàm ý ngay từ cái tên. Lại để ý họ của Tiết Bàn mà xem: chữ tiết đồng âm với chữ tuyết. Tuyết mà gặp mùa hè thì chịu sao thấu! Bảo sao “Tiết Bàn cũng không biết làm thế nào nữa, chỉ hối hận mình chỉ vì một lúc không nghĩ kỹ, lấy phải con yêu tinh ấy.”
Hạ Kim Quế ghen với Hương Lăng, nàng hầu của Tiết Bàn. Hương Lăng địa vị, gia cảnh đều kém Hạ Kim Quế, ghen như thế là có lý không? Thú thực là có lý. Người Trung Quốc thường nói: thê không bằng thiếp, thiếp không bằng tỳ (nàng hầu,) nàng hầu không bằng kỹ nữ. Đã là thê thì phải đảm bảo bốn điều: vợ hiền, mẹ tốt, dâu thảo, nghiêm phụ. Lại phải khuyên răn chồng lập công danh, không được quyến rũ chồng để lơ là nghiệp lớn, chậm trễ báo hiếu cha mẹ. So với thê, vai trò của thiếp nhẹ hơn nhiều. Vì thế tình trạng các ông chồng sủng ái thiếp hơn thê là một “vấn nạn” có thật mà thê phải đương đầu. Sự đề phòng, dè chừng của Hạ Kim Quế với Hương Lăng còn lớn hơn bởi dĩ Hương Lăng đã làm nàng hầu cho Tiết Bàn, chăm sóc Tiết phu nhân từ rất lâu rồi. Đoạn sau cho thấy rõ sự thù ghét sủi tăm dưới bộ mặt tươi tỉnh của Hạ Kim Quế:
Một hôm, Kim Quế ngồi rỗi nói chuyện phiếm với Hương Lăng, hỏi đến cha mẹ quê quán, thì Hương Lăng đều nói đã quên mất cả. Kim Quế không bằng lòng, cho là có ý nói dối, rồi hỏi:
– Hai chữ “Hương Lăng” ai đặt cho đấy?
– Cô Bảo đặt cho đấy.
– Ai cũng nói cô Bảo thông, nhưng chị xem cái tên này thì thật là không thông.
– Mợ nói cô Bảo không thông, là vì mợ chưa bàn luận với cô ấy thôi. Cứ kể ra sức học của cô ấy thì ngay ông lớn bên phủ Giả cũng thường khen đấy.
Kim Quế nghe thấy nói thế, ngoảnh mặt đi, bĩu môi, khịt mũi, cười nhạt nói:
– Khi hoa ấu nở có mùi thơm đâu? Nếu bảo là hoa ấu thơm, thì các hoa thơm khác sẽ để nào chỗ nào? Thực là rất mực không thông.
Hương Lăng nói:
– Không những hoa ấu thơm, ngay đến lá sen, gương sen cũng đều có một mùi thơm mát. Nhưng mùi thơm ấy không thơm bằng mùi hoa, nếu khi thanh vắng, hoặc sáng sớm hay nửa đêm, ta chịu khó thưởng thức, thì cái mùi ấy cũng thơm mát như hoa. Ngay cả đến hoa ấu, hoa súng, lá lau, gốc sậy, nếu được hơi mưa móc vun tưới, thì cái mùi thơm mát ấy cũng làm cho người ta tỉnh táo nhẹ nhàng.
– Theo như cô nói, thì hoa quế, hoa lan thơm không ra gì à?
Hương Lăng đương lúc hăng, quên cả kiêng kỵ, thuận miệng nói luôn:
– Mùi thơm của hoa lan hoa quế thì hoa khác không thể bì được.
Nói chưa dứt câu thì a hoàn của Kim Quế tên là Bảo Thiềm trỏ ngay vào mặt Hương Lăng mắng:
– Cô đáng chết! Sao dám gọi tên mợ ra?
Hương Lăng chợt nghĩ ra, băn khoăn ngượng nghịu vội cười thưa:
– Tôi trót buột miệng, xin mợ đừng để ý.
Kim Quế cười nói:
– Làm gì có chuyện ấy. Cô thực cẩn thận quá. Nhưng tôi nghĩ chữ “Hương” vẫn không ổn, muốn đổi ra một chữ khác, không biết cô có bằng lòng hay không?
Hương Lăng cười nói:
– Sao mợ lại nói thế? Ngay thân tôi bây giờ cũng là thuộc về mợ rồi, đổi một chữ tên mà mợ lại hỏi tôi có bằng lòng hay không? Như thế tôi đâu dám nhận. Mợ xem chữ nào hay thì đặt tên cho tôi chữ ấy.
Kim Quế cười nhạt:
– Cô nói cũng đúng đấy, nhưng chỉ sợ chị Bảo để bụng thôi.
Hương Lăng cười thưa:
– Mợ chưa biết, lúc trước mua tôi về, cốt để hầu mẹ thôi, nên cô Bảo đặt cho tôi cái tên ấy. Về sau tôi sang hầu cậu và bây giờ có mợ về đây, lại càng không dính dáng gì đến cô ấy nữa. Vả chăng cô ấy là người hiểu đời thì việc ấy làm gì mà phải tức giận?
– Cô đã nói thế thì chữ “hương” không ổn bằng chữ “thu”. Vì mùa thu thì củ ấu, hoả ấu mọc nhiều, như thế chẳng có gốc tích hơn chữ “hương” hay sao?
– Thôi tôi xin nghe lời mợ.
Từ đấy Hương Lăng đổi tên là Thu Lăng. Bảo Thoa cũng chẳng để ý đến.
Khi đọc lướt có thể cho rằng, Hạ Kim Quế chẳng qua bắt nạt Bảo Thoa không được nên tìm cách xỏ xiên, phủ nhận cái tên Bảo Thoa đặt cho Hương Lăng mà thôi. Nhưng việc đổi tên đấy còn có hàm ý khác. Hoa lăng là củ ấu, nhưng chữ “lăng” còn có nghĩa lăng mộ, kết hợp với chữ “thu” lại càng mang ý nghĩa chết chóc, tiêu cực. Ý đồ nham hiểm của Hạ Kim Quế muốn ám hại Hương Lăng đã được tác giả báo trước từ câu chuyện đổi tên tưởng chừng vô thưởng vô phạt này.
Kế đó, Hạ Kim Quế bắt đầu kế hoạch cô lập Hương Lăng và Tiết Bàn, cắn răng dùng Bảo Thiềm làm mồi, bụng bảo dạ sẽ “xử lí” Bảo Thiềm sau. Hạ Kim Quế lại tự làm hình nhân thế mạng, gài tội cho Hương Lăng, quậy tung cả nhà Tiết phu nhân. Đỉnh điểm của quá trình tranh đấu mang hơi hướng… Byzantine này là lúc Hạ Kim Quế định quyến rũ cậu em chồng Tiết Khoa, bị Hương Lăng vô tình phá bĩnh. Từ đấy, Hạ Kim Quế quyết chí diệt trừ Hương Lăng bằng được.
Sự ghen tuông của Hạ Kim Quế không chỉ tác động đến Hương Lăng, Tiết Bàn, Bảo Thiềm, Bảo Thoa, Tiết phu nhân, mà còn gây ấn tượng mạnh mẽ cả với người ngoài cuộc: Bảo Ngọc. Trong Đại quan viên, hay thế giới lý tưởng của Bảo Ngọc, các chị em đều phong nhã, thướt tha, đối đãi với nhau tử tế. Theo cái lý của Bảo Ngọc, Hạ Kim Quế xinh xắn như đóa hoa, ắt không thể cư xử như ác quỷ. Đứng trước một sự việc mà cậu ta không có khả năng lý giải (Hạ Kim Quế là bông hoa rởm,) Bảo Ngọc rơi vào trạng thái buồn bực. Cậu bèn tìm sự cố vấn của Vương Nhất Niêm, một lương y – lang băm khéo mồm:
Vương Nhất Niêm sợ quá không chờ Bảo Ngọc hỏi lại, liền nói:
– Xin cậu cứ kể rõ bệnh ra.
Bảo Ngọc nói:
– Tôi hỏi thấy có thứ cao nào dán khỏi được bệnh ghen của đàn bà không?
Vương Nhất Niêm vỗ tay cười nói:
– Việc ấy thì chịu thôi, không những không có bài thuốc, mà tôi cũng không nghe ai nói đến bao giờ.
– Như thế thì thuốc cao ấy cũng chả ra cái gì.
– Không có thuốc cao chữa bệnh ghen, chỉ có thứ thuốc uống may ra chữa được. Nhưng phải dần dần chứ không thể khỏi ngay được.
– Thuốc gì? Cách uống thế nào?
Thuốc ấy gọi là thuốc “chữa ghen”: lấy một quả lê mùa thu hạng tốt, hai đồng cân đường, một đồng cân trần bì, ba bát nước, sắc đến khi lê chín thì được. Sáng nào cũng ăn một quả và cứ ăn đi ăn lại mãi thì khỏi.
– Như thế chả đáng bao nhiêu, chỉ sợ không chắc đã có công hiệu.
– Một thang không khỏi thì uống mười thang, hôm nay không khỏi thì ngày mai uống tiếp, năm nay không khỏi thì sang năm. Vì ba vị thuốc này đều nhuận phế khai vị, không hại đến người. Vừa ngọt lừ, khỏi ho, lại dễ uống. Uống đến khi một trăm tuổi, thế nào người cũng phải chết, chết rồi thì còn ghen vào đâu nữa? Bấy giờ là kiến hiệu đấy.
Bảo Ngọc và Dính Yên đều cười và mắng:
– Thật là đồ đầu trâu bẻm mép.
Lê mùa thu đã ngọt, sên nước đường lại càng ngọt, dùng cái ngọt để áp chế giấm chua, thật là logic làm sao. Nhưng phải chờ chết đi mới có công hiệu, tóm lại vòng vèo chỉ để nói rằng ghen là căn bệnh mãn tính không có thuốc chữa! Bài thuốc chữa ghen – “liệu đố thang” đó tưởng chỉ là một câu chuyện cười mua vui, nhưng thực tế diễn biến những hồi sau đã xảy ra đúng y như vậy. Bệnh ghen của Hạ Kim Quế chấm dứt khi Hạ Kim Quế tìm cách đầu độc Hương Lăng, cuối cùng lại giết chính mình. Khi Hạ Kim Quế chết, “lỗ mũi con mắt đều chảy máu, đang vật vã giữa đất, hai tay cào bụng, hai chân giãy đành đạch” khiến Tiết phu nhân chết khiếp. Điều tra ra, Hạ Kim Quế nấu bát canh đổ thạch tín, định để Hương Lăng ăn, nhưng Bảo Thiềm đã vô tình đánh tráo lại, khiến Hạ Kim Quế trở thành tự mình hại lấy mình. Người viết khéo để cho chính Hạ Kim Quế và Bảo Thiềm – một nạn nhân kiêm đồng phạm trong “tội ghen” của Hạ Kim Quế – chịu trách nhiệm hoàn toàn trong vụ ám sát ngược này. Nào phải thạch tín hại chết cô ta mà chính là căn bệnh ghen tuông mới là thủ phạm vậy. Vì ghen tuông mà chết, chết là hết ghen, thật gọn ghẽ.
Phân tích kĩ hơn, có thể thấy cách mô tả có phần nghiệt ngã, khắt khe của người viết với Hạ Kim Quế đã phản ánh phần nào tư tưởng của thời đại. Việc nạp thiếp được lễ giáo phong kiến cho phép, nên thê thường rút về “tuyến hai,” tìm cách áp bức, hành hạ, thậm chí mưu sát thiếp như Hạ Kim Quế. Hành động ghen tuông này đương nhiên bị giới đàn ông phản đối cật lực, thậm chí người đàn ông thương hoa tiếc ngọc nhất trong Hồng Lâu Mộng là Giả Bảo Ngọc cũng không thông cảm nổi. Vì thế việc Hạ Kim Quế bị đem ra làm cái bung xung xấu xí, làm “câu chuyện cảnh giác” để khuyên phụ nữ không ghen tuông âu cũng phù hợp với mạch tư tưởng của Hồng Lâu Mộng. Ghen chưa chắc đã là tình, nhưng ghen chắc chắn là một sản phẩm phụ của tình, do vậy tội ghen bị trừng phạt, suy đi tính lại, cũng là bởi tình mà ra. Hạ Kim Quế vì thế cũng có thể liệt vào những nạn nhân chết vì tình trong Hồng Lâu Mộng. Tuy vậy, tội ghen khiến Hạ Kim Quế phải đứng “đội sổ” trong Kim Lăng thập nhị thoa phó sách, xếp sau hai chị em nhà họ Vưu, Uyên Ương, Bình Nhi, Trí Năng, và kẻ thù số một – Hương Lăng.
Tiết Bảo Thoa: Từ món thuốc giá băng đến mối lương duyên lạnh lẽo
Trong Chi Nghiễn Trai trùng bình Thạch Đầu Ký (câu chuyện hòn đá – tên khác của Hồng Lâu Mộng), Lâm Đại Ngọc được tặng hai chữ tình tình,
nhưng về tình của Tiết Bảo Thoa thì… chẳng có chữ nào. Những ý kiến cho
rằng nhân vật này vô tình hoặc lãnh tình là có cơ sở xác đáng từ văn
bản tiểu thuyết. Diệu Ngọc tuy xuất gia làm ni cô nhưng ngoài lạnh trong
ấm, còn cái lạnh của Bảo Thoa là một cái nghiệp, vừa là lỗi của số phận
vừa do Bảo Thoa tự mình gây ra. Lớp vỏ băng giá khiến cho Bảo Thoa vĩnh
viễn không thể chạm đến trái tim ấm nóng của Bảo Ngọc và nàng cũng tự
héo mòn trong hố băng đó.
Ở hồi thứ tư, lần đầu người đọc được tiếp xúc với nhà họ Tiết – một trong bốn họ giàu nhất Kim Lăng nhờ đảm nhận việc mua hàng trong cung. Câu tục ngữ truyền miệng về nhà này như thế nào?
Được mùa tuyết lã chã rơi, ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi. (Con cháu Tử vi xá nhân Tiết công, hiện lĩnh tiền khi đi mua hàng, có tám chi).
Chữ Tiết trong họ của Bảo Thoa rất gần
với chữ “tuyết,” đó chính là hàm ý về “được mùa tuyết rơi” trong câu
trên. Hai vế “ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi” vừa nhấn mạnh gia
sản giàu cỡ… Thạch Sùng của nhà họ Tiết, vừa là ẩn ý kín đáo về số phận
của hai nhân vật Bảo Ngọc (ngọc châu) và Bảo Thoa (vàng). Khi giấc mộng
lầu hồng kết thúc thì công tử cũng hóa thành bùn đất, tiểu thư thì giống
như sắt vụn mà thôi.
Giải mã những lá số tiền định của mười hai thoa trong Hồng Lâu Mộng là một việc làm khó khăn. Đối với những người đọc không có vốn tiếng Trung dày dặn cộng thêm kiến thức về nền văn hóa Trung Quốc thì hiểu một cách hoàn toàn những biện pháp nghệ thuật trong truyện (ẩn dụ, điển cố, song quan, chiết tự) là gần như không thể. Bài viết này do đó chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót. Trong số mười hai lá số thì lá số Bảo Thoa – Đại Ngọc đứng đầu bảng. Lá số tiền định của Bảo Thoa gắn liền với Đại Ngọc, bởi lẽ hai nhân vật này như âm và dương, như mặt trăng và mặt trời soi rọi vào nhau làm nổi bật lên những góc cạnh của họ. Bởi thế trong số mười công án lớn của Hồng học, công án đầu tiên là “Đại Ngọc Bảo Thoa ai hơn ai kém?” Những cuộc tranh cãi liên miên trong giới học giả và giữa người đọc về vấn đề này đến giờ vẫn chưa dứt và đây có lẽ cũng là ý đồ của tác giả. Lá số tiền định như sau:
Bảo Ngọc xem xong cũng không hiểu. Lại lấy một quyển ở trong tủ “chính sách” ra xem, thấy trang đầu vẽ hai cây khô, trên cây treo một cái đai ngọc; dưới đất có một đống tuyết, trong tuyết có cái trâm vàng. Có bốn câu thơ:
Than ôi có đức dừng thoi,
Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai treo đai ngọc giữa rừng
Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?
“Đức dừng thoi” ở đây ám chỉ Bảo Thoa, dựa theo điển cố về người vợ nết na của Dương Tử: thấy chồng bỏ học quay về, nàng cắt tấm vải đang dệt để khuyên chồng đừng bỏ lỡ con đường công danh sự nghiệp. Xuyên suốt cả câu chuyện, Bảo Thoa luôn khuyên nhủ Bảo Ngọc học hành đỗ đạt khiến cậu ta chán ngán – biểu hiệu cơ bản về sự cập kênh tâm hồn giữa hai người. Hai chữ “trâm vàng” (kim trâm) là ám chỉ tên của Bảo Thoa vì nghĩa trâm–thoa gần nhau, cũng như “đai ngọc giữa rừng” (ngọc đái lâm nói lái là tên của Lâm Đại Ngọc). Bởi thế chiếc trâm vàng vùi trong tuyết (tiết) chính là hình ảnh ẩn dụ về Bảo Thoa vậy.
Nói đến đây phải dừng lại một chút để
bàn về tên của những cô gái vây quanh Bảo Ngọc. Trong số các chị em tiểu
thư trong vườn Đại Quan thì cậu ta thân thiết nhất Sử Tương Vân và Đại
Ngọc. Tên của Sử Tương Vân có chữ “sở,” tên của Đại Ngọc lại được Bảo
Ngọc đặt là Tần Tần, ghép lại thành ra “mưa Sở mây Tần” chỉ chuyện ái ân
của trai gái. Không chỉ có “mây mưa,” Bảo Ngọc còn ôm cả trăng hoa nữa
(Xạ Nguyệt, Hoa Tập Nhân). Nhưng kết cục của cậu ta lại phải gắn với
nàng tuyết lạnh lẽo – Bảo Thoa. Tất cả là vì mối nhân duyên vàng ngọc
được định sẵn khiến cho truyện Hồng Lâu Mộng còn có tên khác là Kim Ngọc lương duyên.
Bảo Ngọc lúc đẻ ra ngậm viên Thông linh bảo ngọc trong miệng, chính là do hòn đá hóa thành. Trên mặt viên ngọc có viết dòng chữ “Mạc thất mạc vương, tiên thọ hằng xương”, làm thành một cặp với dòng chữ khắc trên cái khóa vàng của Bảo Thoa “Bất ly bất khí, phương linh vĩnh kế.” Nhà sư chốc đầu cho Bảo Thoa chiếc khóa chính là Diễu Diễu chân nhân, người hóa phép cho hòn đá hóa thành hòn ngọc. Từ chi tiết trên có thể kết luận Bảo Ngọc – Bảo Thoa chỉ là hai con tốt trong trò chơi nhân duyên mà thôi.
Nói họ là con tốt tình ái không phải để ám chỉ những mưu kế của Vương Hy Phượng, Giả Mẫu, bởi lẽ những người đàn bà tưởng chừng ghê gớm ấy chẳng qua cũng con rối của thời thế, không hơn. Bàn tay của số phận mạnh hơn mưu kế của con người, đủ khiến cho “những con tốt của nhân duyên” tự mua dây buộc mình mà không biết. Xin hãy dành thời gian đọc hai hồi thứ 29 và 35.
Hồi 29: Bảo Ngọc và Đại Ngọc giận dỗi nhau vì chuyện duyên “vàng ngọc”. Đại Ngọc nóng lên cầm kéo cắt vụn cái dây đeo ngọc nàng làm cho Bảo Ngọc.
Đại Ngọc nghe nói, không nghĩ gì đến mình đương ốm, chạy ngay lại cướp lấy cái dây, tiện tay cầm kéo cắt nát ra. Tập Nhân và Tử Quyên muốn giật lại, nhưng đã đứt làm mấy đoạn rồi.
Đại Ngọc khóc:
– Ta thực uổng công, anh ấy không cần đâu, đã có người khác đeo cho cái dây đẹp hơn kia.
Tập Nhân vội cầm lấy viên ngọc nói:
– Làm gì như thế? Đây cũng là lỗi tự tôi hay bép xép.
Bảo Ngọc bảo Đại Ngọc:
– Cô cứ việc cắt đi, tôi không đeo ngọc cũng chẳng sao.
Viên ngọc là bản mệnh của Bảo Ngọc, sợi dây Đại Ngọc làm là mối tình vấn vít buộc lấy cậu ta. Câu nói tưởng như trẻ con của Bảo Ngọc có hàm ý sâu xa: nếu mối dây liên kết của hai người bị hủy hoại thì Bảo Ngọc cũng không cần gì đến tấm thân mình nữa.
Tua nhanh đến hồi thứ 35 – “Ngọc Xuyến được nếm canh lá sen, Oanh Nhi khéo tết dây hoa mai”:
Bảo Thoa vừa hỏi vừa nhìn vào tay Oanh Nhi, thấy Oanh Nhi mới tết được một nửa cái dây, Bảo Thoa cười nói:
– Tết cái này để làm trò gì? Hãy tết cái dây đeo viên ngọc đã
Câu nói ấy làm Bảo Ngọc nhớ ra, vỗ tay cười nói:
– Chị Bảo nói phải đấy, tôi quên đi mất. Nhưng tết màu gì cho đẹp được?
Bảo Thoa nói:
– Các màu thường nhất định không thể dùng được. Màu đỏ lại lẫn màu. Màu vàng thì không nổi, màu đen thì tối quá. Cứ ý tôi, nên lấy chỉ kim tuyến xe lẫn với chỉ đen bóng, sợi nọ xe lẫn sợi kia, tết như thế mới đẹp.
Bảo Ngọc nghe nói mừng lắm, gọi dồn Tập Nhân mang ngay chỉ kim tuyến ra.
Ở hồi này, Bảo Thoa đề nghị dùng sợi kim tuyến để tết dây đeo ngọc cho Bảo Ngọc, tưởng vô tình nhưng hỡi ôi lại chính là sợi dây tơ hồng! Dây kim tuyến chính là dây vàng – nàng đã dùng sợi vàng bản mệnh của mình để trói lấy viên ngọc, cũng từ đó gắn số phận hai người làm một. Kết cục câu chuyện đã diễn ra đúng như vậy: Đại Ngọc chết, sợi dây giữa nàng và người yêu đứt đoạn. Bảo Thoa trói buộc được Bảo Ngọc nhưng bản thân cậu ta lại không cần gì đến bản thân nữa, dứt áo ra đi. Ở hồi sau, khi Bảo Thoa cắm cúi tết sợi dây vàng cho chồng tương lai, nàng liền nghe thấy Bảo Ngọc nói mê:
Bảo Thoa ở trong nhà mới tết được vài ba cái hoa, thấy Bảo Ngọc nằm mê thét lên: “Lời nói hòa thượng và đạo sĩ tin thế nào được? Cái gì là nhân duyên vàng ngọc! Tôi chỉ biết duyên cây và đá thôi!
Đáng tiếc thay, ý muốn của con người không lại được với ý trời, vì đó mà khúc hát của Bảo Thoa có tên Chung thân ngộ (lỡ nhau suốt đời):
Ai rằng vàng ngọc duyên ưa,
Ta quên cây, đá, thề xưa được nào.
Trơ trơ người tuyết trên cao,
Ngoài đời, đường vắng khuây sao được nàng.
Cuộc đời ngán nỗi tang thương,
Đẹp không toàn đẹp, lời càng đúng thay.
Dù cho án đặt ngang mày,
Cuối cùng vẫn thấy lòng này băn khoăn.
Điển tích “án đặt ngang mày” (cử án tề
mi) nói về cặp vợ chồng chuẩn mực Mạnh Quang–Lương Hồng kính nhau như
khách. Quả thực mối quan hệ vợ chồng của Bảo Ngọc và Bảo Thoa nhìn bên
ngoài long lanh nhưng chỉ được cái vỏ, còn bên trong họ vẫn đối đãi với
nhau như… khách, không hơn. Vàng kết hợp với ngọc nhìn bên ngoài đẹp
nhưng thực ra lại vô cùng lạnh lẽo. Ẩn dụ về cái lạnh (lãnh) của Bảo
Thoa được tác giả “cài cắm” trong Hồng Lâu Mộng ngay từ khi nàng xuất hiện.
Ở đầu truyện, Bảo Thoa bị một chứng bệnh
lạ “nhiệt độc từ trong thai,” do đó được hòa thượng chỉ cho thứ thuốc
uống đặc biệt “Lãnh hương hoàn” (thuốc hoàn có mùi hương lạnh).
Vị thuốc này ly kỳ ra sao?
– Đừng hỏi phương thuốc ấy còn hơn, nếu hỏi, có khi làm người ta bực đến chết được. Các vị thuốc phải có đồng cân đồng lạng nhất định, khó nhất là được hai chữ “Vừa khéo”. Phải có mười hai lạng nhụy hoa mẫu đơn trắng nở vào mùa xuân, mười hai lạng nhụy hoa sen trắng nở vào mùa hạ, mười hai lạng nhụy hoa phù dung trắng nở vào mùa thu, mười hai lạng nhụy hoa mai trắng nở vào mùa đông. Đem bốn thứ này phơi vào ngày xuân phân năm sau, rồi tán kỹ với thuốc bột; lại phải có mười hai đồng cân nước hứng giữa trời đúng vào ngày vũ thủy.
– Ối chao! Mất ba năm mới thành thang thuốc! Nếu ngày vũ thủy không mưa thì làm thế nào?
– Nếu không gặp được nước mưa vừa khéo thì đành lại chờ vậy. Còn phải mười hai đồng cân nước móc vào ngày bạch lộ, mười hai đồng cân nước sương vào ngày sương giáng, mười hai đồng cân tuyết vào ngày tiểu tuyết. Đem bốn thứ này hòa với thuốc, thêm mười hai đồng cân mật ong, mười hai đồng cân đường trắng, viên to bằng quả nhãn, để vào trong cái hũ sứ cổ, chôn ở gốc cây hoa, khi nào ốm thì lấy một viên ra uống, sắc một đồng hai phân hoàng bá làm thang.
Vị thuốc của Bảo Thoa toàn sử dụng các thứ hoa màu trắng biểu tượng cho sự thanh khiết, cộng thêm các loại nước sương, nước tuyết khéo hòa trộn mà thành. Như các món ăn khác trong Hồng Lâu Mộng, món thuốc này không thể nhìn dưới lăng kính hiện thực. Cách bào chế mang đậm màu sắc thần thoại ấy nhấn mạnh vào tính chất băng thanh ngọc khiết, cao quý không với tới được của Bảo Thoa, đồng thời diễn tả sự lãnh đạm của nàng. Dùng cái lạnh để tiễu trừ nhiệt độc chính là ẩn dụ cho sự tự giới hạn của Bảo Thoa. Nhiệt độc từ trong thai chính là cái tình nồng nhiệt của nhân gian, là lý do khiến con tim trai gái rung động vì tình yêu, là nghiệp chướng khiến Tần Khả Khanh, Lâm Đại Ngọc, Hạ Kim Quế phải chết. Bảo Thoa dùng cái lạnh để áp chế cái tình khiến cho nàng trở thành nhân vật vô tình, vì thế thoát khỏi phải chết vì tình ái. Tuy nhiên số phận của Bảo Thoa có thể nói là tệ hơn cái chết: nàng sống cuộc đời của một quả phụ dù chồng vẫn sống sờ sờ, trong một thứ “lãnh cung” do chính nàng và thế lực phong kiến nàng ủng hộ nhiệt tình tạo nên. Lần đầu Bảo Ngọc gặp Bảo Thoa, cậu có bị quyến rũ bởi thứ “hương lạnh” của nàng, cũng nhiều lúc Bảo Ngọc gần cô chị mà quên khuấy mất cô em, nhưng rốt cuộc trái tim cậu vẫn quay lại với “ngọc ấm” Lâm Đại Ngọc.
Thử xem chính các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng nhận xét về Bảo Thoa thế nào. Phượng Thư đánh giá Bảo Thoa là người “giữ gìn ý tứ, không phải việc của mình không bao giờ chịu hé răng, hỏi điều gì cứ nguây nguẩy lắc đầu.” Giới hầu cận thì bỗ bã hơn. Sau đây là đoạn thằng Hưng “buôn dưa lê” với mẹ con Vưu nhị thư về sự lạnh lùng của Bảo Thoa.
(…) một cô là con gái bà dì chúng cháu, họ Tiết, tên gọi Bảo Thoa, chừng như ở trong đống tuyết chui lên vậy. Khi gặp các cô ấy đi ra cửa, hoặc lên xe hay chơi trong vườn, chúng cháu sợ quá không dám thở.
Chị Hai cười nói:
– Nhà mày phép tắc lắm, khi trẻ con đi ra ngoài gặp các cô đều phải tránh xa, còn dám thở vào đâu nữa!
Thằng Hưng xua tay nói:
– Không phải thế! Không phải thế! Chính là giữ lễ phải tránh xa, điều đó không cần nói. Mặc dầu đã tránh xa, nhưng ai nấy vẫn phải nín thở vì sợ thở mạnh quá sẽ thổi ngã mất cô Lâm, thở nóng quá sẽ làm tan cô Tiết.
Bất chấp điều đó, Tiết Bảo Thoa vẫn là một nhân vật hết sức phức tạp. Sự lạnh lùng kể trên tuy là tính cách điển hình của Bảo Thoa song không phải là tất cả.
Đại Ngọc-Tình Văn: tuy hai mà một
Trong giới Hồng học, ít ai còn xa lạ với việc Tào Tuyết Cần cố ý xếp đặt cho Tình Văn trở thành phiên bản song sinh của Đại Ngọc. Tuy nhiên nếu độc giả không chú ý thật kỹ thì dễ dàng để những chi tiết lắt léo mà tác giả dày công “cài cắm” trượt khỏi ý thức của mình. Sau khi dành cả đời tận tâm nghiên cứu Hồng học, ông Chu Nhữ Xương cũng phải thốt lên “Hồng Lâu Mộng thật không dễ đọc và càng khó để hiểu.” Điều này khẳng định một lần nữa tài năng trác tuyệt của Tào Tuyết Cần trong việc kiến tạo một tác phẩm đồ sộ nhưng rất tự nhiên, “không có dấu vết của công phu và nhân tạo” như ông Nhật Chiêu đã nhận xét.
Mặt khác, đối với độc giả mê Hồng Lâu Mộng,
tự mình nhặt nhạnh những đầu mối để giải những bài tập Hồng học là một
thử thách thú vị. Thí dụ có người đã ví Tình Văn như “cái bóng” của Lâm
Đại Ngọc vậy. Trong bài này, người viết xin mạn phép hệ thống lại những
điểm tương đồng giữa hai nhân vật Đại Ngọc-Tình Văn nhằm làm sáng tỏ
những thông điệp về “duyên” và “nghiệp” của Hồng Lâu Mộng.
Nếu Tình Văn là cái bóng trong gương của
Đại Ngọc thì Tập Nhân là hình ảnh phản chiếu của Bảo Thoa. Khi xét về
mối tương quan giữa Đại Ngọc-Tình Văn, ta luôn cần so sánh nó với cặp
bài trùng Bảo Thoa-Tập Nhân. Trước hết, về hoàn cảnh xuất thân, Bảo Thoa
và Tập Nhân đều mồ côi cha nhưng vẫn còn mẹ và anh trai thương yêu.
Tình Văn và Đại Ngọc đều mồ côi cha mẹ, bơ vơ không nơi nương tựa. Đây
là điểm khiến họ trở nên vô cùng đáng thương trong con mắt người đọc.
Tuy trẻ tuổi, Đại Ngọc và Tình Văn đều không ảo tưởng về địa vị của họ
trong phủ Giả. Hai cô gái mồ côi gửi gắm thân mình vào nhà họ Giả, tuy
được chiều chuộng từ tấm bé, nhưng họ đều ý thức rõ rằng sự thân thiện
của nhà họ Giả cũng chỉ là “giả” mà thôi, có thể tan biến bất cứ lúc nào
như làn khói mỏng. Quả nhiên khi câu chuyện đến hồi kết, Đại Ngọc và
Tình Văn đều bị chính những kẻ cưu mang họ hắt hủi, đúng với nhận xét
của Bảo Ngọc là như “cây hoa lan bị vứt vào chuồng lợn.” Tình Văn bị
giới quý tộc mà nàng nai lưng hầu hạ rũ bỏ như một miếng giẻ rách, còn
Đại Ngọc bị Giả Mẫu mà nàng yêu thương ruồng bỏ. Đó là bi kịch thứ nhất
của Đại Ngọc và Tình Văn. Ngược lại, Tập Nhân và Bảo Thoa được nhà họ
Giả đối xử tử tế cho đến cùng.
Điểm tương đồng thứ hai được nhắc đi nhắc lại trong Hồng Lâu Mộng là sự giống nhau về hình dáng của Đại Ngọc-Tình Văn. Vương phu nhân nhận xét Tình Văn là “lưng hơi cong, vai hơi thon, lông mày và mắt lại hơi giống em Lâm.” Trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách, Lâm Đại Ngọc đứng đầu, nàng là tiểu thư đẹp và tài năng nhất trong Giả phủ. Trong Kim Lăng thập nhị thoa hựu phó sách, Tình Văn cũng là số một, nàng là người hầu có nhan sắc diễm lệ nhất, khí chất cao đẹp và trong sáng nhất. Tào Tuyết Cần nhắc đi nhắc lại rằng Tình Văn có hình dáng giống Lâm Đại Ngọc, và cùng gắn vẻ đẹp của họ với mỹ nhân số một Trung Hoa: Tây Thi. Một số dẫn chứng:
– Khi Lâm Đại Ngọc lần đầu xuất hiện đã gây ấn tượng bởi vẻ đẹp mong manh, yếu đuối của nàng. Tào Tuyết Cần gọi đó là nét mềm mại “Vẻ thư nhàn, hoa rọi mặt hồ; dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió. Tim đọ Tỉ Can hơn một trăm khiếu, bệnh so Tây Tử trội vài phân.”
– Lâm Đại Ngọc chôn hoa là một trong những hình ảnh lãng mạn nhất trong Hồng Lâu Mộng. Khi Bảo Ngọc ngó thấy Linh Quan vạch vẽ chữ “Tường” trên mặt đất liền đoán rằng con bé học theo Đại Ngọc chôn hoa, và gọi đó là trò Đông Thi vờ nhăn mặt, không có gì hay mà còn đáng chán. (Tây Thi đời Chiến quốc nhan sắc tuyệt vời, khi nhăn mặt lại càng đẹp. Ở phía đông trong làng có một người con gái rất xấu, thấy thế cũng bắt chước. Nhưng khi cô ta nhăn mặt, người giàu trông thấy phải đóng cửa, không dám nhìn, người nghèo trông thấy phải đem cả vợ con trốn đi nơi khác.)
– Đến bọn con hầu, người ở trong nhà cũng lén gọi Lâm Đại Ngọc là “nàng Tây Thi đa bệnh,” vừa vì nàng có nhan sắc hơn người, vừa vì Đại Ngọc ốm đau luôn.
Giống như Đại Ngọc, Tình Văn có nhan sắc đặc biệt trội hơn hẳn các nô tỳ khác trong phủ, khiến nàng bị ghen ghét không ít. Tình Văn cũng thường được/bị ví với Tây Thi:
– Vợ Vương Thiện Bảo khi ton hót với Vương phu nhân có nói rằng Tình Văn “Nó cậy sắc đẹp hơn người, miệng lại khéo léo, ngày nào cũng trang điểm như nàng Tây Thi.” Lời dèm pha này đã bắt đầu quá trình Tình Văn bị ngược đãi.
– Khi Vương phu nhân tới tra hỏi Tình Văn, con mắt giận dữ của bà thấy nàng “đầu tóc bơ phờ, áo quần lõng thõng, có vẻ lẳng lơ như Tây Thi đêm xuân nằm ôm bụng.” Vốn là người mừng giận bất thường, bà ta liền mắng chửi Tình Văn: “Đẹp thật! Thật là giống hệt ‘Tây Thi đương ốm!’ Ngày nào mày cũng giở cái lối trai lơ ấy ra để cho ai xem đấy? Mày cứ tưởng là ta không biết việc mày làm à?”
Trong toàn bộ Hồng Lâu Mộng, ngoài Đại Ngọc và Tình Văn ra, không còn ai được ví với nàng Tây Thi nữa. Nhưng cũng đúng với câu hồng nhan bạc mệnh, số phận của cả hai cũng thật đau xót, đúng như bài vịnh Tây Thi mà Đại Ngọc đã viết trong chùm thơ Ngũ mỹ:
Trôi theo hoa sóng ngán cho đời,
Luống để vua Ngô nhớ thiếp hoài.
Đừng bảo Đông Thi nhăn mặt vụng,
Bạc đầu mà vẫn giặt bên khơi.
Điểm tương đồng thứ ba giữa Đại Ngọc-Tình Văn là tính cách của họ. Nhạy cảm, thông minh vốn sẵn tính trời, cả hai cô gái đều dễ xúc động, hay buông lời trách móc, đùa cợt, trêu chọc người khác. Đúng như lời sấm báo, Tình Văn “tinh khôn, đài các tổ người ghen.” Đại Ngọc thì thường “tinh ranh, nói câu bỡn cợt.” Sở dĩ tính cách Đại Ngọc-Tình Văn như vậy một phần do hoàn cảnh côi cút của họ, một phần do họ đều có lòng yêu Bảo Ngọc, từ yêu đâm ra ghen, càng ghen lại càng mẫn cảm với những bóng hồng xung quanh anh ta. Đối tượng gây hiềm khích của Đại Ngọc-Tình Văn cũng tương ứng với thứ bậc của họ. Đại Ngọc ghen với Bảo Thoa và Tương Văn; chiếc khóa vàng, con kỳ lân vàng, và điềm báo “kim ngọc lương duyên” khiến nàng bứt rứt không thôi.
Tình Văn, với vai trò người hầu cận bên Bảo Ngọc, thường hay soi xét Tập Nhân và Xạ Nguyệt – hai a hoàn thân thiết khác. Với Xạ Nguyệt, nàng chỉ thường trêu chọc, nhưng biết rõ quan hệ “trên mức bình thường” của Bảo Ngọc và Tập Nhân, nàng rất dễ nổi cáu:
Tình Văn nghe thấy hai tiếng “Chúng tôi”, cho ngay là Tập Nhân muốn nói cô ta với Bảo Ngọc, trong bụng đâm ra ghen, liền cười nhạt mấy tiếng:
– Tôi chả biết ai là “Chúng tôi” cả, đừng để tôi phải hổ thẹn thay cho ai! Các người làm những việc thầm kín với nhau, giấu thế nào được tôi! Tôi cứ nói thẳng: ngay các cô nhà này cũng còn chưa với lên được, huống chi chị cũng như tôi, thế mà lại dám gọi “Chúng tôi” à?
Điểm tương đồng thứ tư giữa Đại Ngọc và Tình Văn là biểu tượng hoa phù dung. Những người đẹp trong Hồng Lâu Mộng thường được ví với hoa. Bảo Thoa là hoa mẫu đơn rực rỡ, đài các, đầy đặn, Thám Xuân là hoa hồng đẹp thơm nhưng lắm gai làm đau người khác, Kim Quế là hoa quế sắc sảo tàn nhẫn, Tương Vân là thược dược phóng khoáng, Hương Lăng là củ ấu bình dị, v.v,… Đại Ngọc và Tình Văn đều ứng với hoa phù dung. Phù dung là loài hoa đẹp kiều mị nhưng mong manh, sớm nở tối tàn. Người sao hoa vậy, cả hai cô gái đều lìa đời khi đang ở tuổi hoa đẹp nhất. Những dẫn chứng về Đại Ngọc-Tình Văn và hoa phù dung bao gồm:
– Khi uống rượu rút thẻ hoa với các chị em, Đại Ngọc rút được thẻ hoa phù dung.
Rồi rút được một thẻ vẽ một cành hoa phù dung, có đề bốn chữ “sương gió buồn tênh”. Mặt sau có một câu thơ cổ: “Thương mình nào dám giận gì gió đông”. (…) Mọi người cười nói:
– Hay quá! Trừ cô ấy ra, không còn có ai đáng làm hoa phù dung nữa.
– Khi Bảo Ngọc lên thăm Thái hư ảo cảnh lần thứ hai, nữ thần cai quản hoa phù dung chính là Tiêu Tương phi tử – cùng tên với Đại Ngọc khi còn sống. Đây chính là hậu kiếp của Đại Ngọc.
– Khi Tình Văn qua đời, Bảo Ngọc liền
làm Văn tế nữ thần hoa phù dung để tiễn linh hồn nàng. Về sau câu chuyện
lưu truyền trong Đại Quan viên theo lời Giả Dung rằng Tình Văn đã hóa
thành nữ thần coi hoa phù dung.
Cuối cùng, điểm tương đồng giữa Đại Ngọc-Tình Văn là mối quan hệ của họ với Bảo Ngọc. Không phải ngẫu nhiên mà Tào Tuyết Cần để Tình Văn làm “cánh chim xanh” đưa thư giữa Đại Ngọc-Bảo Ngọc. Bức thư tình đầu tiên Bảo Ngọc gửi cho cô Lâm không có thơ, không có họa, mà chỉ là hai chiếc khăn lụa cũ trơn. Tình Văn nửa tin nửa ngờ nhưng vẫn vâng lời đem tín vật này đến cho Đại Ngọc, đó là thời điểm bước ngoặt của câu chuyện chính thức đánh dấu Bảo Ngọc-Đại Ngọc sa chân vào đường tình ái.
Tập Nhân và Bảo Thoa cũng gần gũi Bảo Ngọc vậy, song vì sao họ không bao giờ chạm được vào trái tim Bảo Ngọc? Đó là vì Tập Nhân, Bảo Thoa ăn mặc giản dị, được lòng trên dưới, đáng kính đáng yêu,… song họ không hiểu được chí hướng của Bảo Ngọc, một mực khuyên chàng học hành, đỗ đạt, làm quan. Họ có biết đâu Bảo Ngọc sinh ra trong trời đất này chỉ để nếm trải thất tình lục dục của con người, để đốt cháy trái tim đến tận cùng, buông thả cho “lửa nhiệt độc” tình ái bẩm sinh dẫn chàng ta đến đâu thì đến. Viên ngọc là hòn đá hóa thành, sau khi mất đi em Lâm, Bảo Ngọc lại quay trở về làm hòn đá lãnh đạm với đời.
Bảo Thoa và Tập Nhân có yêu Bảo Ngọc không? Có. Nhưng họ có sẵn sàng hủy mình vì tình yêu đó chăng? Không. Chỉ có Tình Văn dù ốm yếu vẫn “vùng dậy vá áo cừu” cho Bảo Ngọc không màng đến thân mình, báo trước cho việc Đại Ngọc tự hủy hoại bản thân khi tình yêu tan vỡ. Tình Văn xé quạt, Đại Ngọc cắt dây đeo ngọc chính là những điềm báo số phận của họ. Trong câu chuyện này, chỉ có Đại Ngọc-Tình Văn dám cháy hết mình cho tình yêu, bất chấp kết quả bi đát.
Một điểm cần lưu ý: Đại Ngọc và Tình Văn tuy có tình cảm mãnh liệt với Bảo Ngọc, song mối quan hệ đó hoàn toàn trong sạch, không vướng nhơ bẩn của tình dục. Trong Hồng Lâu Mộng, cả Tình Văn và Đại Ngọc đã cùng nằm chung một giường với Bảo Ngọc (Đại Ngọc khi nằm ngủ trưa, Tình Văn khi cảm lạnh) nhưng họ vẫn là xử nữ băng thanh ngọc khiết. Ngược lại, Tập Nhân và Bảo Thoa là hai người có quan hệ chăn gối với Bảo Ngọc, nhưng mãi là “đồng sàng dị mộng”, nên nực cười thay khi nhà họ Giả nghi ngờ Tình Văn đã quyến rũ Bảo Ngọc vào con đường xằng bậy, khiến nàng khi sắp chết vẫn ôm hận mang tiếng xấu mà chẳng được sống hết mình, quả là “Chịu tiếng ong ve thành tổn thọ, đa tình công tử luống than phiền.”
Tình Văn gạt nước mắt, với lấy con
dao cắt đứt hai móng tay tháp bút, sau lại cho tay vào trong chăn, cởi
chiếc áo lót bằng lụa hồng cũ cùng với móng tay đưa cho Bảo Ngọc và nói:
– Cậu hãy cầm lấy. Sau này trông thấy vật này cũng như thấy tôi vậy. Cậu
cởi ngay áo của cậu ra cho tôi mặc. Tôi dù có nằm trong quan tài thì
cũng như ở viện Di Hồng. Lẽ ra không nên như thế, nhưng trót mang tiếng
hão, tôi không còn cách nào.
Với vai trò “chị em song sinh”, cái chết của Tình Văn báo trước kết cục của Đại Ngọc. Khi qua đời Tình Văn ho dồn, gầy mòn, và mang những dấu vết của bệnh lao. Khi đọc đến đây, người đọc không khỏi ngậm ngùi vì biết số phận Đại Ngọc cũng không mấy tốt đẹp hơn. Hai người con gái đẹp đẽ, trong sáng, lãng mạn bậc nhất Giả phủ đều chết trong cảnh cô độc, không người thân thiết. Tuy nhiên Tình Văn còn đôi phần có hậu hơn vì nàng được gặp Bảo Ngọc trước khi lìa trần, được thổ lộ hết tấm tình chân thật. Đại Ngọc trút hơi thở cuối cùng trong khi người yêu làm lễ hợp cẩn với người con gái khác, âu cũng là số kiếp sinh ra để trả nợ tình kiếp trước bằng nước mắt.
Theo Tào Tuyết Cần, nghiệp chướng ái tình của Lâm Đại Ngọc chính là phải chịu cảnh “hoài công biết nhau” với Bảo Ngọc. Cũng như Tình Văn, Đại Ngọc chia sẻ với Bảo Ngọc mối tình đằm thắm, song tất cả chỉ là uổng phí. Có lẽ đến lúc chết, Đại Ngọc vẫn không thể nhắm mắt được vì những câu hỏi luẩn quẩn:
Bảo rằng chả có duyên đâu,
Thì sao lại được gặp nhau kiếp này?
Bảo rằng sẵn có duyên may,
Thì sao lại đổi thay lời nguyền?
Lâm Đại Ngọc có thể không hiểu, nhưng người đọc không thể không hiểu: chính cuộc tình tưởng chừng như vô thường, “bóng trăng đáy nước, hoa rọi trong gương” đó mới là ái tình thật sự. Vì khi giấc mộng lầu hồng chấm dứt, cát bụi lại trở về với cát bụi, giả và chân dần lộ rõ thì chỉ còn lại mối ơn đằm thắm của Thần Anh với Giáng Châu còn sống lại mãi với nhân gian. Tình chỉ đẹp khi còn dang dở là vậy!
“Hận Phượng Thư, mắng Phượng Thư, không thấy Phượng Thư lại nhớ Phượng Thư”
… đó chính là lời bình luận về nhân vật Vương Hy Phượng của Vương Côn Luân – tác giả cuốn Hồng lâu mộng nhân vật luận đồng thời là Chủ nhiệm Ban cố vấn bộ phim Hồng lâu mộng nổi tiếng. Vương lão gia là nhà Hồng học gạo cội, một câu nhận xét của ông đã khái quát thật chuẩn sức hấp dẫn của “Phượng lạt tử.” Ghét Phượng Thư vì nàng ta thơn thớt lấy lòng Giả Mẫu và Vương phu nhân, vì tính cách tàn độc ám hại Vu tam thư, vì nhẫn tâm bày kế “tráo rường đổi cột” đẩy cô Lâm vào chỗ chết, nhưng mỗi khi “Mặt phấn đầy xuân trông vẻ dịu. Làn son chưa hé miệng như cười” xuất hiện trên trang giấy là cả người đọc lẫn những nhân vật trong truyện đều không thể không dán mắt vào nàng ta, lắng tai nghe xem cái miệng đẹp đẽ mà điêu ngoa kia thốt ra những lời gì!
Trong số những người đẹp như hoa của Hồng Lâu Mộng, có lẽ Phượng Thư là nhân vật được nhắc đến nhiều nhất, chỉ sau Đại Ngọc. Vì sao vậy? Thật đơn giản, bởi trong các nữ nhân của Hồng Lâu Mộng, hai nhân vật này là biểu hiện rõ nhất của sự bứt phá quy củ truyền thống. Đại Ngọc bên ngoài yếu mềm nhưng là người con gái mạnh mẽ trong tình cảm, dám sống dám yêu, còn Phượng Thư là người đàn bà thuộc hàng “nữ lưu hào kiệt” trong Giả phủ, nam nhân không có ai bằng. Chỉ bằng nội hai nhân vật này thôi đã đủ để vinh danh Tào Tuyết Cần là một nhà nữ quyền trong văn học!
Nói về cái giỏi của Phượng Thư thì không kể xiết. Phượng Thư không phải người văn hay chữ tốt nhưng lại rất khôn ngoan, bản thân nàng luôn bô bô tự nhận mình là người tục, nhưng tinh ranh lại chẳng ai bằng. Theo tôi, cái khéo của Phượng Thư thể hiện ngay khi nàng ta xuất hiện những trang đầu tiên:
Hy Phượng cầm tay Đại Ngọc, nhìn kỹ một lúc rồi dắt đến cạnh Giả mẫu, cười nói:
– Trong thiên hạ lại có người đẹp như thế này! Bây giờ cháu mới được thấy! Trông hình dáng con người, ai cũng cho là cháu nội của bà, chứ không phải là cháu ngoại. Chả trách ngày nào bà cũng nhắc đến, chỉ đáng thương là em tôi vất vả, sao cô tôi lại mất sớm thế!
Nói xong lấy khăn mặt lau nước mắt. Giả mẫu cười nói:
– Ta vừa mới khuây đi, mày lại còn gợi ra. Em nó ở xa mới đến, người lại yếu, nên an ủi nó, đừng nói chuyện buồn nữa.
Vương Hy Phượng nghe xong, đổi buồn làm vui, nói:
– Phải đấy! Cháu vừa trông thấy, bụng để cả vào cô em, vừa vui vừa buồn, quên hẳn là. Đáng đánh đòn!
Rồi nắm tay Đại Ngọc nói:
– Em bao nhiêu tuổi? Đã đi học chưa? Hiện đang uống thuốc gì? Ở đây đừng nhớ nhà nhé! Muốn ăn gì, chơi gì em cứ bảo chị. Bọn người nhà có hỗn láo thì mách chị.
Hy Phượng lại hỏi người nhà:
– Những hành lý của cô Lâm đã mang vào chưa? Cô Lâm mang mấy người theo hầu? Các người hãy dọn hai gian buồng cho họ vào nghỉ.
Thật đon đả, ngọt ngào biết bao! Nếu chỉ mới đọc tới đây, người đọc cũng như Lâm Đại Ngọc ắt nghĩ rằng Phượng Thư hiền dịu như cô Tấm vậy. Ai có thể ngờ được đây cũng là con người chua ngoa cay nghiệt đến mức Bình Nhi là người thân tín nhất, trung thành nhất với cô ta cũng từng bị đánh đập không thương tiếc. Bởi vì sao mà Phượng Thư lại thân thiết, chiều chuộng Đại Ngọc, một đứa trẻ mồ côi, không tiền bạc, không quan hệ máu mủ với cô ta? Đơn giản vì Phượng Thư thấy rõ tình thương của Giả Mẫu với đứa cháu ngoại côi cút, mà trong Giả phủ, ý muốn của Giả Mẫu chính là thánh chỉ. Vị trí quản gia của Phượng Thư trong nhà không chỉ dựa vào tài năng mà có, mà chủ yếu là nhờ vào sự tin tưởng của Giả mẫu và Vương phu nhân. Bảo Ngọc vốn là hòn ngọc trong mắt Giả mẫu, Phượng Thư thì hết lòng chiều chuộng Bảo Ngọc. Bây giờ lại có Đại Ngọc xuất hiện, Phượng Thư đánh giá tình huống rất nhanh, đi tắt đón đầu khiến Giả mẫu càng vui lòng. Đó chính là cái tài của nàng ta.
Phượng Thư không chỉ có tài mà còn là người độc ác. Trong mười hai thoa, nàng là kẻ có tâm địa dã man nhất. Vì sao tôi nói Phượng Thư dã man? Vì nàng đem việc hành hạ người khác làm thú vui, kể cả những người không hề có ý hãm hại nàng. Ví dụ rõ nhất có lẽ là cách nàng đối xử với Giả Thụy. Tội lỗi lớn nhất của y là hâm mộ sắc đẹp Phượng Thư. Tội lỗi thứ nhì của y là ngu ngốc, hay còn gọi nôm na là “dại gái.”
Vừa nói, mắt hắn vừa chòng chọc nhìn Phượng Thư.
Phượng Thư là người thông minh, thấy dáng bộ ấy đã đoán được tám chín phần, liền nhìn Giả Thụy, giả cách mỉm cười, nói:
– Không trách anh chú thường nhắc đến chú luôn, bảo chú tốt lắm. Nay
được gặp, nghe nói mấy câu, biết ngay chú là người thông minh hòa nhã.
Bây giờ tôi phải đến chỗ các bà, không tiện nói chuyện. Lúc nào rỗi,
chúng ta lại sẽ gặp nhau.
Giả Thụy nói:
– Tôi muốn đến thăm chị, nhưng sợ chị trẻ tuổi không chịu tiếp khách dễ dàng.
Phượng Thư lại giả cách cười nói:
– Chỗ anh em ruột thịt trong nhà, sao lại nói trẻ tuổi với không trẻ tuổi?
Giả Thụy nghe thế, trong bụng mừng thầm: “Không ngờ hôm nay lại có cuộc
gặp gỡ lạ lùng thế này!” Tình cảnh ấy càng làm cho Giả Thụy ngẩn ngơ ngơ
ngẩn.
Phượng Thư lại nói:
– Thôi, chú vào tiệc ngay đi. Coi chừng họ lại bắt uống phạt đấy!
Giả Thụy nghe xong, tê tái cả người, đi chầm chậm rồi cứ quay đầu lại
nhìn. Phượng Thư cố ý đi thong thả. Thấy hắn đi xa rồi, trong bụng nghĩ:
“Thế mới là: Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Đâu lại có hạng
người chó má như thế! Nếu vậy có lúc nó phải chết với ta cho nó biết
tay!”
Phượng Thư là một người đẹp thuộc hàng nhất trong Hồng Lâu Mộng. Đây quyết không phải lần đầu tiên có nam nhân bị “khổ người óng ả, dáng vẻ phong lưu” của nàng ta quyến rũ. Ở đây có hai vấn đề cần bàn: một là, trong việc Giả Thụy to gan lả lướt với Phượng Thư có phải hoàn toàn là lỗi của y không? Hai là, kể cả y có bị nàng ta mê hoặc thì tội đó có đáng chết không? Vấn đề một, rõ ràng Phượng Thư hoàn toàn có thể nghiêm mặt khước từ Giả Thụy, đảm bảo y có ăn gan hùm cũng không dám làm liều. Rõ ràng Phượng Thư ý thức được hấp lực của mình với một thanh niên trẻ tuổi và thích thú khai thác sự chú ý của hắn. Nếu thay Bảo Thoa, Đại Ngọc, Thám Xuân vào vị trí Phượng Thư, chắc chắn họ sẽ không giả lả đưa đẩy với Giả Thụy như vậy. Vấn đề hai, Giả Thuy là một thanh niên máu nóng, bất chợt gặp một thiếu phụ đẹp lại tỏ ý ưa hắn ta, nếu có mừng rỡ tiến tới thì cũng không thể trách, cùng lắm chỉ đáng bị ăn vài bạt tai. Chính Tào Tuyết Cần cũng tỏ ý “bênh” Giả Thụy trong tên đầu chương (Giả Thiên Tường chết oan, soi gương phong nguyệt). Ý định “cho mày chết” của Phượng Thư đã biểu hiện khía cạnh thích làm người khác đau đớn (sadistic) của nàng. Đây là một điểm khiến người đọc rất khó hoàn toàn thông cảm với số phận bi đát của nàng. Trong mười hai thoa, nàng cũng chỉ xếp thứ chín, sau Xảo Thư (con gái nàng), Lý Hoàn (bà góa), và Tần Khả Khanh (dâm phụ.)
Đây là lá số tiền định của Vương Hy Phượng trong hồi thứ năm:
Chim phượng kìa sao đến lỗi thời
Người đều yêu mến bực cao tài
Một theo hai lệnh, ba thôi cả
Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi
Trong nguyên tác Tào Tuyết Cần viết: “Phàm điểu thiên tòng mạt thế lai,” dùng biện pháp chiết tự ghép hai chữ “phàm,””điểu” thành chữ Phượng. Bản dịch tiếc thay không truyền tải được điều này, làm lộ thiên cơ. Câu thứ ba là một câu sấm ngữ “nhất tòng, nhị lệnh, tam nhân mộc”, đại ý lúc đầu nói gì cũng được người nghe răm rắp, cuối cùng cũng bị bỏ rơi, đây chính là ám chỉ số phận về cuối của Phượng Thư. Lá số của Phượng Thư lại có hình một con chim phượng trên ngọn núi băng – đã là băng thì có cao mấy cũng phải tan chảy. Phượng Thư đứng trên cao uy nghi lộng lẫy nhưng khi ngọn núi băng – Giả phủ tan rã thì nàng cũng bị ruồng bỏ. Có thể coi Phượng Thư là người đầy tớ trung thành của giai cấp phong kiến. Phượng Thư trên đội dưới đạp, hết lòng phục vụ kẻ trên, bắt nạt người dưới, ung dung ở giữa thu lợi, nhưng kết cục của nàng cũng không ra gì. Vì sao Tào Tuyết Cần lại để nhân vật tài năng, sắc sảo như Phượng Thư kết thúc một cách hẩm hiu như vậy?
Lý do thứ nhất, nhân vật Phượng Thư chính là ẩn dụ cho Giả phủ. Khi nàng mới xuất hiện, khí thế chẳng khác gì tướng soái, trang sức như một vị hoàng hậu nương nương:
“Người này trang sức không giống các cô kia, gấm thêu lộng lẫy, trông như một vị thần tiên! Trên đầu, đỡ tóc bằng kim tuyến xâu hạt châu, cài trâm ngũ phượng Triệu Dương đính hạt châu, cổ đeo vòng vàng chạm con ly, mình mặc áo vóc đại hồng chẽn thêu trăm bướm lượn hoa bằng chỉ kim tuyến, ngoài khoác áo màu xanh lót bằng lông chuột bạch viền chỉ ngũ sắc, mặc quần lụa hoa màu cánh trả.”
Đó cũng trùng với giai đoạn thịnh vượng của nhà họ Giả. Nhưng cũng giống như Phượng Thư bên ngoài đẹp đẽ mà bên trong xấu xa, Giả phủ hào nhoáng thực ra cũng thối nát từ bên trong: nào là loạn luân, bóc lột, nào là lừa gạt, tự sát,… Cuối cùng Giả phủ và Phượng Thư đều bị chà đạp bởi chính những nghiệp chướng họ tạo ra. Sự tan vỡ của Giả phủ cũng như cái chết của Phượng Thư là không thể tránh khỏi.
Lý do thứ hai, Phượng Thư là một nhân vật vượt qua lễ giáo. Cái tội lớn nhất của Phượng Thư không phải ghen tuông, đáo để, hay tham lam, mà là quá khôn ngoan tài giỏi. Tào Tuyết Cần cố tình để những người đàn ông trong phủ Giả đều là những kẻ bất tài: kẻ thì mơ mộng như Bảo Ngọc, người thì thiếu thực tế như Giả Chính, kẻ thì dâm ô hưởng lạc như Giả Xá, không có nổi một mống đảm đương nổi việc lớn. Nếu Đại Ngọc là số một về khoản văn chương thì Phượng Thư là kẻ tháo vát nhất Giả phủ. Thế nhưng trong bối cảnh phong kiến thì một người đàn bà mà lại giỏi giang hơn tất thảy đàn ông là một điều không thể chấp nhận nổi. Để cảnh cáo Phượng Thư, tác giả để nàng khốn khổ vì đường chồng con. Giả Liễn là một kẻ đa tình nhưng đối với vợ lại chẳng có chút thương yêu tôn trọng. Phượng Thư cũng không thể sinh con trai và sức lực của nàng bị phá hủy bởi bệnh rong kinh. Như tất cả những điều khác trong Hồng Lâu Mộng, căn bệnh của nàng cũng có ý ẩn dụ. Phượng thư bị mất máu trong nhiều tháng ròng – căn bệnh đó là sự trừng phạt bản thể phụ nữ của nàng, oái oăm thay, chính vì nàng không chịu ngoan ngoãn theo khuôn phép phụ nữ “bất tài mới là có đức.” Bệnh mất máu cũng là biểu tượng cho quá trình dần dần cạn kiệt năng lượng của Phượng Thư và Giả phủ. Ở đầu truyện Phượng thư là con chim phượng rực lửa, đến cuối truyện nàng chỉ còn là cái bóng nhợt nhạt của chính mình.
Học giả Vương Bá Hàng đã so sánh Phượng Thư với Võ Tắc Thiên và Từ Hi thái hậu và kết luận rằng: hệ tư tưởng phong kiến không thể cho phép những người phụ nữ có quyền lực tồn tại một cách bình thường mà phải bằng mọi cách tô vẽ họ thành những nhân vật phản diện. Nói nào ngay, trong thời hiện đại mà chúng ta đang sống cũng có không ít trường hợp những người phụ nữ quá xuất chúng bị chê trách, dèm pha. Sự thoái trào của những triều đại Trung Quốc cũng thường được đổ tại cho Đát Kỷ, Bao Tự. Những truyền thuyết về sự trụy lạc của Võ hậu và Từ Hi, cũng như những khía cạnh tiêu cực Tào Tuyết Cần dành cho Vương Hy Phượng chính là biểu hiện cho nỗ lực “bêu xấu” đó.
Giả Chính: dấu chân trên tuyết của tình phụ tử
Nếu Đại Quan viên là vườn địa đàng thì Bảo Ngọc là Adam duy nhất ở giữa vô vàn Eve. Giới phụ nữ trong Hồng Lâu Mộng là những đóa hoa muôn hồng ngàn tía, mười hai chiếc thoa vàng mỗi người mỗi vẻ khiến người đọc say mê không dứt. Giới đàn ông trong Hồng Lâu Mộng thì ngược lại: đa số đều ti tiện, bạc bẽo, vô tình. Một trong những người đàn ông “ít xấu” nhất trong Hồng Lâu Mộng là Giả Chính, cha đẻ của Bảo Ngọc, song ấn tượng của người đọc với ông ta đại đa số khá mờ nhạt. Hành động đáng nhớ nhất của Giả Chính trong toàn bộ câu chuyện có lẽ là lúc ông đánh Bảo Ngọc một trận thừa sống thiếu chết. Tuy nhiên thông qua nhân vật Giả Chính người đọc có thể ngộ ra nhiều triết lý của Tào Tuyết Cần về tư tưởng Khổng Mạnh, bởi vì Giả Chính là một nhà Nho điển hình.
Giả Chính và Giả Xá là hai anh em ruột. Giống như Cain và Abel trong Kinh thánh, hai anh em nhà họ Giả được xây dựng theo motif trái ngược, người này là đối trọng của người kia. Giả Xá là con người xảo trá, tham lam, hiếu sắc. Giả Chính thì “từ bé ham học, được ông yêu, muốn cháu thi đỗ làm quan.” Khi lớn lên, Giả Chính được thăng làm Viên ngoại lang, con gái lớn Nguyên Xuân được tuyển vào cung làm Hiển Đức phi, coi giữ cung Phượng Tảo. Con trai là Bảo Ngọc thì đẹp đẽ, là hòn ngọc trong mắt Giả mẫu. Những tưởng cuộc đời Giả Chính thế đã là viên mãn. Thế nhưng kết thúc của Giả Chính lại không được như ý: sự nghiệp tiêu tan, gia đình ly tán. Bởi vì sao? Hay lại đổ tại số phận?
Nguồn cơn gây nên những nỗi khổ của Giả Chính chỉ do số phận một phần, phần còn lại do chính bản thân Giả Chính, hay nói rộng ra là tư tưởng Khổng Mạnh bó buộc khiến con người ta không được sống theo xu hướng tự nhiên. Nếu Giả Xá tiêu biểu cho việc để cái tôi tung hoành đến mức lấn át đạo lý, thì Giả Chính là một trường hợp đè nén bản tính con người. Chữ “Chính” trong tên của ông có hai nghĩa, vừa là cai trị, khuôn phép (như chính quyền, nhiếp chính), vừa là chính trực. Người xưa hay nhắc đến mấy việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong mấy việc đó, may ra chỉ có giữ mình trong sạch là Giả Chính làm tròn. Giả Chính quả thực ngay thẳng, nhưng là cái ngay thẳng cứng nhắc và ngô nghê. Việc nhà và việc nước ông đều không thể nào “chính”, đó là sự oái oăm của nhân vật này.
Trước nói về việc nước.
Giả Chính xưa nay làm quan ở kinh, chức lang trung cũng là chức quan rảnh. Dù có lúc ra làm quan ở ngoài nhưng lại là giáo chức, không liên quan gì đến việc cai trị. Vì thế những điều xấu xa như khấu bớt lương gạo, bóp nặn dân đen, tuy có nghe người ta bàn tán, nhưng bản thân chưa hề trải qua, chỉ một lòng muốn làm ông quan tốt. Ông ta liền cùng bọn giúp việc bàn bạc, yết thị nghiêm cấm những điều xấu xa kia, và hiểu thị hễ tra ra thì sẽ trình quan trên trị tội. Ban đầu mới đến, quả nhiên bọn lại dịch đều sợ, liền dùng đủ cách để xoi bói, kiếm chác, nhưng lại gặp phải Giả Chính là người cố chấp. Bọn người nhà theo hầu Giả Chính lúc ở kinh không hề được chút lợi lộc gì cả, trông mong mãi mới được chủ nhà bổ nhậm quan ngoài, bèn mượn tiếng để vay nợ sắm sửa áo quần cho có thể diện. Họ cứ nghĩ hễ đến chỗ làm quan là sẽ kiếm chác dễ dàng. Không ngờ Giả Chính có cái thói ngây ngô, thật thà muốn trừng trị những thói tệ, các quan châu huyện đưa lễ vật đến ông ta nhất thiết không nhận.
Giả Chính không nhận hối lộ, đương nhiên bọn người dưới không có cửa làm ăn. Kẻ có ý xấu bụng lại ngờ Giả Chính muốn bóp nặn thật nhiều nên làm ra vẻ chảnh choẹ. Kết quả là bọn lính hầu vùng vằng hờn giận nghỉ hết, để cho Giả Chính một mình trơ thổ địa ra đấy. Giả Chính ngậm ngùi nhận ra rằng làm một người chính nhân quân tử giữa một xã hội đầy rẫy tiểu nhân là một việc rất khó. Kể từ đó Giả Chính để cho một kẻ điêu ngoa là Lý Thập cai quản công việc. Đây là một hành động “nuôi ong tay áo.”
Từ đó, Lý Thập làm mưa làm gió, cấu kết trong ngoài kéo bè kéo cánh lừa phỉnh Giả Chính làm việc, quả nhiên việc gì cũng chu đáo, việc gì cũng vừa lòng. Vì thế Giả Chính chẳng những không nghi, mà lại tin cậy. Lúc đó cũng có mấy nơi phát giác, nhưng quan trên thấy Giả Chính chất phác trung hậu, nên cũng không tra xét. Riêng có bọn môn khách giúp việc giấy tờ là nhìn xa thấy rộng, gặp dịp cũng có đem lời khuyên can. Nhưng Giả Chính không tin, nên cũng có người từ việc mà đi; cũng có người thân thiết với Giả Chính thì ở trong giúp đỡ. Nhờ vậy việc chuyên chở xong xuôi, không bị thiệt hại và quá thời hạn.
Sự nghiệp của Giả Chính thế rồi tiêu tùng, nếu không có Bắc Tĩnh Vương ra tay can thiệp thì chắc đã bị tù mọt gông. Về việc này quả thực không thể trách Lý Thập, bởi không có hắn ta thì cũng sẽ có Lý Tam, Lý Tứ lợi dụng Giả Chính làm càn.
Giả Chính tuy rằng dạy con có phép, trị nhà rất nghiêm, nhưng một là họ to, người nhiều, trông nom không xuể, hai là Giả Trân là cháu trưởng phủ Ninh, hiện đương tập chúc, bao nhiêu việc đều thuộc chi trưởng trông nom hết, ba là việc công, việc tư bề bộn, mà tính Giả Chính lại khoáng đãng, không thích chăm lo việc đời, lúc nhàn rỗi, thư thái chỉ đánh cờ, xem sách, ngoài ra không để ý đến việc gì.
Việc nước đã không xong, việc nhà ông cũng hết sức mù mờ. Những việc dối trá, hoang phí, cho vay nặng lãi, vv,… do hai vợ chồng Giả Liễn-Phượng Thư gây ra, ông đều không hay. Giả Trân thì “quyến rũ con nhà thế gia đánh bạc, cường chiếm vợ lương dân làm lẽ, người ta không theo, liền áp bức người ta chết”, Giả Chính cũng không hề biết mảy may! Người đọc đến đây không khỏi thắc mắc: Giả Chính là một con người thông minh, tại sao lại để cho bao nhiêu việc tày trời diễn ra ngay dưới mũi mình? Tôi nghĩ lý do chính là bởi Giả Chính có một niềm tin mù quáng vào Nho giáo, ông nghĩ rằng ai ai cũng tam cương, ngũ thường (nhân lễ nghĩa trí tín) như mình! Trên thực tế, lý thuyết thì màu xám còn cây đời mãi mãi xanh tươi, phàm là con người thì đều có dục vọng. Xã hội mà Giả Chính sống là một xã hội ca tụng đạo Khổng, ra rả những điều hay lẽ phải, nhưng thực tế ai cũng chăm chăm thu vén cho mình, sống chết mặc bay. Giả Chính những tưởng mình là “xu hướng chung,” ai ngờ lại là nằm trong nhóm “dân tộc thiểu số.” Sự sụp đổ của nhà họ Giả có thể gọi là một ví dụ của “tragedy of the commons”, nhưng cũng một phần do sự yếu kém trong quản lý của Giả Chính.
Thế nhưng bi kịch lớn nhất của Giả Chính nằm ở mối quan hệ với con trai ông ta – Giả Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc không phải là con trai duy nhất của Giả Chính. Trước cậu ta có Giả Châu – người con trai ngoan ngoãn đã chết non. Có thể trong tiềm thức, Giả Chính luôn so sánh Bảo Ngọc và Giả Châu, phần nào dẫn đến cảm giác xa lạ và thất vọng. Mầm mống gây nên sự không ưa của Giả Chính đối với Bảo Ngọc bắt đầu từ khi cậu ta còn thơ bé:
Khi đầy năm, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau thế nào, mới đem những đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu nó chẳng lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy phấn sáp, trâm vòng. Giả Chính không vui, bảo sau này chỉ là đồ tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm.
Nếu nhìn nhận sự kiện này dưới góc độ duy lý, liệu việc Giả Chính căn cứ sự yêu ghét với đứa trẻ ngây thơ dựa trên một trò chơi vô hại có hợp lý không? Một người bình thường, nếu vốn có lòng thương con, kể cả nó có phạm tội tày trời cũng không vì thế mà chán ghét. Đằng này Bảo Ngọc lúc đó chỉ là đứa bé một tuổi. Dẫu sự kiện “chọn phấn sáp, trâm vòng” được cài đặt nhằm báo trước tính cách nâng niu phụ nữ của Bảo Ngọc, ta có thể suy đoán Giả Chính rõ ràng đã có định kiến về Bảo Ngọc, ngoài ra còn ương ngạnh cố chấp. Trong gia đình, thái độ của con trẻ thường là hình ảnh phản chiếu lại cách đối xử của cha mẹ chúng. Khi tiếp xúc với Bảo Ngọc, Giả Chính không đơn thuần là nghiêm khắc mà rõ ràng là căm ghét. Bảo Ngọc vì thế lại càng sợ sệt cha. Mối quan hệ này chỉ có khả năng trở nên xấu đi chứ không có tốt lên.
Thấy Bảo Ngọc đến chào và nói xin đến trường học, Giả Chính cười nhạt:
– Mày nói đến hai chữ đi học làm tao xấu hổ chết đi được. Cứ như ý tao thì mày đi chơi là đúng hơn. Coi chừng đấy, đừng đứng bẩn đất tao, dựa bẩn cửa tao!
Giả Chính nhìn ra, thấy con trai vú nuôi Bảo Ngọc là Lý Quí, bèn hỏi:
– Ngày thường theo hầu nó đi học, thấy nó học đến sách gì rồi? Hay là chỉ học những câu lếu láo, những lối ngỗ nghịch tinh ranh? Lúc nào rỗi, ta sẽ lột da mày và sửa tội cho cái thằng hư thân kia!
Giả Chính quát to:
– Thằng súc sinh ngu ngốc kia, mày biết được mấy vị cổ nhân, nhớ được mấy bài thơ cũ, đã dám múa mép trước các vị tiền bối? Vừa rồi cho phép mày nói bừa, chẳng qua ta thử xem mày hay dở thế nào, để làm trò cười đấy thôi. Mày cứ tưởng thực đấy à?
– Kể ra cũng chẳng hại gì, không cần phải đổi. Nhưng xem thế đủ biết nó không chăm lo việc chính, chỉ thích những lời văn trai lơ phù phiếm thôi.
Ông ta quát to một tiếng:
– Đồ súc sinh, sao không bước đi!
Tham vọng của Giả Chính là biến Bảo Ngọc thành một nhà Nho chân chính – đi học thành tài, không ham nữ sắc, nói cách khác là một bản sao thu nhỏ của ông. Nhưng Bảo Ngọc làm trái ngược tất cả. Đó là một cái vòng luẩn quẩn: con hư – cha ghét-con càng chống đối-cha càng ghét. Có thể nói Bảo Ngọc có một mặc cảm Oedipus điển hình. Oedipus giết cha lấy mẹ. Bảo Ngọc thì sợ cha và quấn quít mẹ. Trạng thái tâm lý này của Bảo Ngọc ứng vào mọi quan hệ xã hội của cậu – Bảo Ngọc chán ngán, không tin tưởng giới đàn ông, cậu tránh xa những tên phàm phu tục tử trong phủ, ngược lại tìm sự yêu thương an ủi từ những người phụ nữ, trước hết là Giả mẫu, Vương phu nhân và các chị em, rồi cả những a hoàn. Những người đàn ông thân cận với Bảo Ngọc như Tần Chung, Tưởng Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương đều có xu hướng đồng tính. Khi bị cha hành hạ, phản xạ đầu tiên của Bảo Ngọc là cầu cứu mẹ và bà. Những chị em ruột thì cùng chung tay viết chữ để giúp cậu nộp đủ số bài Giả Chính đòi. Các a hoàn thì bao che, dỗ dành, an ủi. Có thể nói Bảo Ngọc đã ly khai khỏi giới tính của mình, cũng là chối bỏ mối dây liên kết với người cha. Sự uỷ mị, thiếu tính nam nhi khí khái đó là không thể chấp nhận với Giả Chính. Trong tư tưởng của ông, Bảo Ngọc là một kẻ phản bội tư tưởng Nho giáo.
Người kia quát to “Đứng lại”, Bảo Ngọc giật nảy mình, ngẩng đầu lên nhìn, té ra là Giả Chính. Bảo Ngọc lạnh hẳn người đi, đành chắp tay đứng bên cạnh.
Giả Chính nói:
– Mày làm sao mà cúi đầu ủ rũ như vậy? Vừa rồi ông Vũ Thôn đến chơi, muốn gặp mày, gọi mãi mày mới chịu đến. Khi đến thì ăn nói toàn là những chuyện vụn vặt, nhỏ nhặt, không có một chút khoát đạt lưu loát nào. Tao xem mày vẻ mặt lúc nào cũng đầy rẫy những lo phiền, tình dục. Bây giờ làm gì mày lại than dài thở ngắn? Như thế này vẫn chưa được đủ, chưa được hả dạ hay sao?
Bảo Ngọc vốn tay lém lỉnh. Nhưng vì lúc này thương nhớ Kim Xuyến quá, đang băn khoăn không thể chết theo nó được nên cha quở mắng thế nào cũng mặc, cứ đứng đờ người ra.
Giả Chính đáng ra cũng không bực. Nhưng thấy Bảo Ngọc sợ quá, ăn nói khác hẳn ngày thường, nên đã nổi giận đôi phần. Giữa lúc ấy có người gác cửa vào trình:
– Có người bên phủ Trung Thuận Thân Vương xin vào hầu cụ lớn.
[…]
Quan trướng phủ cười nhạt:
– Không phải làm gì cả, chỉ xin ngài nói cho một câu là xong. Trong phủ chúng tôi có một con hát đóng vai nữ tên là Kỳ quan, mấy hôm nay không thấy về, cho đi tìm cũng không thây nó ở đâu. Chúng tôi phải cho người đi dò các nơi. Ở trong thành mười người thì tám người nói: Gần đây nó chơi thân với cậu em ngậm ngọc ở đây. Vì tôn phủ không phải như các nhà thường, nên không dám thiện tiện đến bắt. Bởi vậy hạ quan phải vào trình đức Vương. Ngài nói: “Con hát khác mất trăm đứa cũng không cần, nhưng tên Kỳ quan này là người cẩn thận, chắc chắn, biết lựa dịp ứng đáp, rất hợp ý già này, không thể nào bỏ nó được”. Vì thế, chúng tôi đến nhờ ngài bảo cậu Hai cho tên Kỳ quan về, để thỏa lòng Vương gia chúng tôi thiết tha mong đợi, và chúng tôi cũng đỡ phải đi tìm vất vả.
Nói xong, hắn liền vái một cái.
Giả Chính nghe nói, vừa sợ vừa giận, liền cho gọi Bảo Ngọc, Bảo Ngọc không biết là việc gì, vội chạy ra ngay.
Giả Chính hỏi:
– Thằng đáng chết kia! Mày ở nhà đã không chịu học hành thì thôi, lại còn dám càn bậy, làm những việc trái phép à? Tên Kỳ quan là người hầu thân của đức vua Trung Thuận. Mày là hạng người hèn hạ, dám quyến rũ nó, làm vạ lây đến ta!
Bảo Ngọc nghe nói giật mình, vội thưa:
– Thực con không biết việc này! Ngay hai chữ “kỳ quan” con cũng chẳng hiểu là cái gì, huống chi lại buộc cho con tiếng quyến rũ nữa.
Nói xong rồi khóc.
[…]
Giả Chính nghe xong, tức quá, mắt trợn lên, mồm xệch ra, vừa tiễn viên quan trưởng phủ ra, vừa ngoái lại quát Bảo Ngọc: “Không được đi đâu! Trở về tao sẽ bảo mày!” Đưa viên quan kia ra rồi, Giả Chính quay về, thấy Giả Hoàn dẫn mấy tên hầu nhỏ rối rít chạy đến. Giả Chính quát:
– Đánh chết những đứa kia đi cho tao!
[…]
Giả Hoàn nói khẽ:
– Đẻ con nói: “Hôm nọ anh Bảo ở nhà mẹ con, kéo chị a hoàn là Kim Xuyến định cưỡng gian nhưng không được, rồi đánh chị ấy một trận, chị ấy tức quá đâm đầu xuống giếng chết!”
Chưa nghe dứt lời, Giả Chính giận quá, mặt xám lại, quát to: “Lôi thằng Bảo Ngọc đến đây!” Ông ta vừa nói vừa chạy vào thư phòng, quát lên:
– Hôm nay ai còn đến ngăn, thì ta sẽ mang hết cả mũ áo, cân đai và gia tài giao cho người ấy với thằng Bảo Ngọc. Ta đành chịu là người có tội, cạo trọc mớ tóc phiền não này đi, tìm đến nơi thanh vắng để khỏi nhục đến tiền nhân, vì đã đẻ đứa con ngỗ nghịch này!
Những môn khách và người hầu thấy Giả Chính như thế, biết ngay là vì ông ta giận Bảo Ngọc, nên ai nấy đều trợn mắt lè lưỡi, chạy đi ra ngoài cả. Giả Chính thở hồng hộc, ngồi ưỡn người trên cái ghế tựa, nước mắt giàn giụa, quát lên mấy tiếng: “Lôi thằng Bảo ra đây! Mang thừng gậy ra đây! Đóng hết cả các cửa lại! Hễ đứa nào mà báo tin cho nhà trong biết, thì ta đánh chết ngay lập tức!”
Bọn người hầu thấy vậy, đành phải vâng lời đứng yên. Có mấy người chạy đi bắt Bảo Ngọc.
[…]
Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc, mắt đỏ ngầu lên, không kịp hỏi đến những tội, như đi ra ngoài thì đùa bỡn bọn chèo hát, trao tặng của riêng, ở trong nhà thì bỏ học hành, cưỡng gian đầy tớ gái của mẹ, chỉ thét: “Khóa miệng nó lại, đánh cho chết đi!”
Bọn người hầu không dám trái lệnh, đành phải dằn Bảo Ngọc xuống cái ghế dài, cầm gậy to, đánh độ mười cái. Bảo Ngọc biết rằng mình có van cũng chẳng tha nào, đành khóc rống lên. Giả Chính cho là đánh khẽ quá, đá thằng cầm gậy, rồi giật lấy gậy, đánh thật mạnh mấy cái.
Bảo Ngọc xưa nay chưa từng chịu đau đớn như thế bao giờ, lúc đầu còn biết đau, khóc ầm lên; đến sau hơi thở dần dần yếu đi, kêu không ra tiếng. Những môn khách thấy thế, sợ xảy ra chuyện không hay, liền chạy cả đến khuyên ngăn. Nhưng Giả Chính khi nào chịu nghe? Ông ta nói:
– Các người hỏi xem những việc nó làm có đáng tha hay không? Tội ở các người ngày thường cứ hay nuông nó để nó hư hỏng thế này, lại còn đến khuyên ngăn à. Mai đây nó phạm tội giết cha giết vua, thì các người còn can vào lối nào?
Mọi người thấy câu nói dữ ấy, biết là Giả Chính bực lắm rồi, liền nhao lên đi tìm người vào báo nhà trong.
Vương phu nhân nghe nói, không kịp đến trình Giả mẫu, liền mặc áo, bất chấp có người hay không, vịn vào một a hoàn xăm xăm chạy thẳng vào thư phòng. Bọn môn khách và người hầu đều tránh không kịp.
Giả Chính đương muốn đánh nữa, thấy Vương phu nhân đến, cơn giận lại càng như lửa cháy đổ dầu thêm. Cái gậy cứ lia lịa vụt xuống càng nhanh càng mạnh. Hai đứa đè Bảo Ngọc vội buông tay ra. Bảo Ngọc đã nằm sóng sượt, không cựa quậy được nữa.
[…]
Giả Chính cười nhạt:
– Thôi đừng nói những câu ấy nữa. Đẻ ra cái giống ác nghiệt này, thì tôi cũng mang tội bất hiếu rồi! Ngày thường hễ tôi quở phạt nó lần nào, là y như có người đến bênh nó. Chi bằng nhân ngày hôm nay kết liễu cái đời thằng chó chết này đi để khỏi tai vạ về sau.
[…]
Giả Chính thấy thế, lại nước mắt ròng ròng chảy xuống. đương lúc nhốn nhao, thì a hoàn vào trình: “Cụ đã đến”. Nói chưa dứt lời, đã nghe ở ngoài cửa sổ có tiếng nói run run:
– Đánh chết ta trước đã, rồi hãy đánh chết nó, thế là yên chuyện!
Giả Chính thấy mẹ sang, vừa hoảng sợ vừa thương xót, vội chạy ra đón. Giả mẫu vịn vào một a hoàn đi đến, đầu lắc lư, hơi thở hổn hển.
[…]
Giả mẫu nghe nói nhổ toẹt một cái nói:
– Ta mới nói có một câu, anh đã không chịu được, thế thì anh vác gậy đánh vùi đánh dập thằng Bảo như thế kia, liệu nó có chịu được không? Anh nói rằng anh dạy dỗ con cái để làm rạng vẻ ông cha thế thì ngày trước cha anh đã dạy anh như thế nào?
Nói xong, tự nhiên nước mắt ròng ròng, Giả Chính gượng cười nói:
– Xin mẹ đừng thương cảm làm gì, chỉ vì lúc nãy con nóng tính quá. Từ giờ trở đi con không dám đánh nó nữa.
Giả mẫu cười nhạt:
– Anh không cần giận lây với tôi. Nó là con anh, muốn đánh thế nào anh cứ đánh. Chắc rằng mẹ con bà cháu chúng tôi ở đây chỉ làm phiền anh thôi, chi bằng xa anh ra là hết chuyện.
Nói xong liền sai người: “Sắp sẵn kiệu, ta cùng bà mày và thằng Bảo đi về Nam Kinh ngay”… Người nhà đành phải vâng lời.
[…]
Trên là một đoạn dài, tôi xin trích những phần quan trọng để giúp người đọc hình dung một cách tương đối toàn vẹn quang cảnh sự việc. Đây là phần có tính chất bước ngoặt trong mối quan hệ cha con. Có một số điểm cần lưu ý:
– Giả Chính tức giận vì Bảo Ngọc quyến rũ tên người hầu của đức vua Trung Thuận (Tưởng Ngọc Hàm.) Lý do ở đây không phải vì Bảo Ngọc có khuynh hướng tình yêu đồng giới (chuyện nam giới quý tộc cặp kè với các con hát nam mỹ miều là chuyện khá phổ biến) mà bởi Bảo Ngọc có gan đụng chạm đến “tài sản” của một người có địa vị rất cao. Đây là một hành động có màu sắc đảo lộn tôn ti trật tự – điều Giả Chính không thể nào chấp nhận.
– Trong tiềm thức Giả Chính có nỗi sợ Bảo Ngọc “giết cha giết vua.” Tôi không biết Tào Tuyết Cần có biết đến truyền thuyết về Oedipus hay không, nhưng có lẽ nỗi dè chừng nghi kỵ của người cha với con trai ruột của mình, như Cronus với Zeus, là một nỗi sợ căn bản của nhân loại?
– Người Trung Quốc nghiêm khắc với con cái, nhưng lại chiều chuộng cháu. Có lẽ áp lực nuôi dạy con cái nên người theo tiêu chuẩn Khổng Mạnh quá khắc nghiệt, nặng nề, khiến cho người cha không thể và không dám bộc lộ lòng thương yêu với con, để lâu ngày dẫn đến chai sạn đi. Chỉ đến khi được giải phóng khỏi nghĩa vụ đó họ mới có thể bày tỏ tình cảm dồn nén với cháu mình. Trong một gia đình, người cha nghiêm khắc, người bà từ bi là một hình ảnh đẹp, nhưng ở đây cả hai trạng thái đó đã bị đẩy đi quá xa: Giả Chính biến thành một ông thần ác, còn Giả mẫu chiều chuộng cháu quá đà, cái tình yêu dạt dào đối với cháu của Giả mẫu biến tướng thành sự ích kỉ và nhẫn tâm với người khác (ruồng rẫy Đại Ngọc.)
Có nhiều tranh cãi về 40 hồi cuối của Hồng Lâu Mộng. Bản thân tôi cũng có nhiều điểm lấn cấn về 40 hồi này, nhưng cách xử lý mối quan hệ cha con giữa Giả Chính-Bảo Ngọc ở đây tôi cho là toàn vẹn. Nhìn trên bề mặt, Giả Chính đã hoàn toàn thất bại dưới tư cách một người cha nói riêng và một nhà Nho nói chung. Nhưng chỉ bằng một đoạn ngắn ngủi trong hồi cuối cùng, Giả Chính đã làm thay đổi hoàn toàn cách nhìn của người đọc:
Một hôm đi đến trạm Côn Lăng, trời rét, tuyết xuống, thuyền đậu ở chỗ vắng vẻ. Giả Chính sai người lên bộ, đưa danh thiếp đi từ tạ bầu bạn, nói thuyền sẽ đi ngay, không dám phiền ai đến thăm hỏi. Khi ấy đầu thuyền chỉ để lại một đứa nhỏ để hầu. Giả Chính ở trong thuyền viết thư, định cho người đi bộ đem về nhà trước. Khi viết đến việc Bảo Ngọc, liền dừng bút lại, ngẩng đầu lên, bỗng thấy đầu thuyền lờ mờ có dáng một người trong bóng tuyết, đầu trọc chân trần, mình khoác chiếc áo đi mưa bằng lông vượn màu đại hồng, ngoảnh vào Giả Chính và sụp xuống lạy. Giả Chính chưa nhìn được rõ, vội ra đầu thuyền, muốn đến đỡ dậy để hỏi. Người ấy lạy bốn lạy, rồi đứng dậy chào theo lối nhà Phật. Giả Chính còn muốn vái đáp, chợt nhìn thấy trước mặt mình không phải ai lạ mà chính là Bảo Ngọc. Giả Chính kinh ngạc vô cùng, vội hỏi:
– Có phải Bảo Ngọc không ?
Người ấy không nói gì, như mừng như tủi. Giả Chính lại hỏi:
– Nếu mày là Bảo Ngọc, thì sao lại ăn mặc như thế mà đến chỗ này ?
Bảo Ngọc chưa kịp trả lời, bỗng thấy một nhà sư, một đạo sĩ đến đầu thuyền. Hai người nắm tay Bảo Ngọc nói:
– Tục duyên đã hết, không đi nhanh lên à ?
Nói rồi, ba người vùn vụt lên bờ đi. Giả Chính không kể đất trơn, vội vàng chạy theo. Thấy ba người đi trước, nhưng không sao theo kịp. Chỉ nghe một người nào trong bọn họ hát:
Chỗ ta ở chừ, đỉnh núi thanh u,
Chỗ ta chơi chừ, cõi không mịt mù;
Ai đi cùng ta chừ, ta đi theo với ?
Mênh mông mù mịt chừ, về nơi Đại hoang !
Giả Chính chạy đuổi theo, đến một cồn đất nhỏ, bỗng không thấy nữa. Giả Chính thở dốc lên, trong lòng ngờ vực. Lúc quay lại thì thấy tên hầu nhỏ cũng chạy theo sau. Giả Chính hỏi:
– Mày có trông thấy ba người vừa rồi không ?
– Có trông thấy. Vì cháu thấy ông lớn chạy theo, nên cháu cũng chạy. Nhưng rốt cuộc chỉ thấy ông lớn, chứ không thấy ba người kia nữa.
Giả Chính còn muốn chạy theo, nhưng chỉ thấy một cánh đồng tuyết tùng mênh mông, không có người nào, Giả Chính lấy làm kỳ lạ, đành trở về.
[…]
Giả Chính thở dài:
– Chúng mày không hiểu rõ ! Đó là chính mắt ta trông thấy, chứ có phải ma quỷ gì đâu. Vả lại nghe tiếng ca, có vẻ rất huyền diệu ? Bảo Ngọc khi sinh ra, ngậm viên ngọc… cũng đã kỳ lạ. Ta vẫn biết trước là điềm không tốt, chỉ vì cụ bà thương yêu nó, nên mới nuôi nó đến ngày nay. Còn vị hòa thượng và vị đao sĩ ấy, ta đã gặp ba lần, lần thứ nhất hai người ấy đến nói về sự linh thiêng của viên ngọc; lần thứ hai, lúc Bảo Ngọc ốm nặng, vị hòa thượng đến, cầm viên ngọc tụng niệm một hồi, thì Bảo Ngọc lành; lần thứ ba, ông ta đưa viên ngọc đến trả, ngồi ở nhà khách, ta vừa ngoảnh đi một cái, bỗng không thấy đâu. Trong bụng ta lấy làm lạ. Nhưng cho là Bảo Ngọc thực có phúc phận, nên các bậc cao tăng tiên đạo đến phù hộ cho nó. Ngờ đâu nó là người đổi kiếp xuống cõi trần. Rốt cục lừa dối cụ bà suốt mười chín năm, đến nay ta mới biết rõ!
Ông ta nói đến đấy, nước mắt ròng ròng. Mọi người thưa:
– Cậu Bảo nếu quả là một vị hòa thượng xuống trần gian, thì không nên đậu cử nhân. Vì sao thi đậu rồi mới bỏ đi ?
– Các người biết sao được ? Phàm các tinh tú trên trời, các cao tăng trên núi, hay những tinh linh trong động, đều có một tánh tình riêng. Các ngươi thử xem Bảo Ngọc thường có chịu đọc sách đâu; nhưng hễ nó để bụng đến thì không có cái gì là không làm được. Còn tính khí của nó cũng không giống người ta !
Ông ta nói xong, lại than thở.
Lúc này Bảo Ngọc đã ngộ ra trước sau, rũ bỏ bụi trần và lòng si, trở lại bản thể của mình là hòn đá. Việc Bảo Ngọc đi thi đỗ làm rạng danh tổ tiên là một hành động mang tính chất tượng trưng – sự báo hiếu cuối cùng của Bảo Ngọc với cha mẹ. Cùng lúc đó, Giả Chính thoát khỏi lớp vỏ cứng nhắc lạnh lẽo – tình cảm với đứa con trai rốt cuộc đã sưởi ấm trái tim Giả Chính, biến ông ta từ một “hòn đá” thành một người cha đích thực. Hồng Lâu Mộng là một câu chuyện tình viết bằng nước mắt. Nhưng mấy chữ ngắn ngủi: “Giả Chính không kể đất trơn, vội vàng chạy theo.” khiến tôi xúc động hơn những bài thơ bi luỵ trong truyện. Đối với tôi, cảnh tượng kinh tâm động phách nhất trong Hồng Lâu Mộng không phải là lúc Đại Ngọc mất hay Bảo Ngọc đi tu, mà là khi Giả Chính chạy theo ‘nghịch tử’ trên tuyết trong một nỗ lực tuyệt vọng. Người xưa bảo ‘Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật’ có nghĩa là buông dao đồ tể thì lập tức thành Phật. Chỉ trong một giây phút, Giả Chính đã giác ngộ. Ông ta đã được cứu rỗi bởi tình yêu.
Hồng Lâu Mộng khép lại ở đây. Người đọc không biết, người viết cũng không cách nào biết được số phận của các nhân vật sẽ tiếp diễn ra sao. Giả Chính đã gần sáu mươi tuổi, quá già để “xét lại” nhân sinh quan của bản thân mình. Có lẽ Giả Chính sẽ không bao giờ hiểu rằng chính hệ tư tưởng Nho giáo đè nén tự nhiên là thứ bóp (gần) chết quan hệ cha con của ông và Bảo Ngọc. Tình cảm cha mẹ dành cho con cái là thứ tự nhiên nhất trên đời, nó không thể bị chịu sự sai khiến của bất kỳ thứ giáo lý nào, cũng không thể bị dập tắt. Những dấu chân trên tuyết của Giả Chính còn mãi trên trang sách Hồng Lâu Mộng là minh chứng cho sức sống mạnh mẽ của tình thương đó.
Diệu Ngọc: miễn cưỡng diệt dục, sư chả phải sư, tục không phải tục
Diệu Ngọc trong Hồng Lâu Mộng là một nhân vật có thân phận cực kì đặc biệt. Trong 80 hồi đầu nàng chỉ ra mặt chính thức trong có hai hồi 41 và 76. Người đọc khi nghĩ tới nàng thường chỉ có “à, ni cô xinh đẹp trong Đại Quan Viên”, nhưng ít ai nhận ra rằng nàng là có trái tim nồng cháy chỉ kém Bảo Ngọc và Đại Ngọc.
Cuộc đời Diệu Ngọc là một cuộc đấu tranh vật lộn với cám dỗ, số phận của nàng bi thảm suy cho cùng cũng chỉ tại một chữ “tình”. Một ni cô, theo lẽ thường đã rũ bỏ hết tục lụy mà lại đa tình đến vậy sao?
Vài lời về thân thế của Diệu Ngọc:
Ngoài ra có một vị sư cô để tóc, tên Diệu Ngọc, là người Tô Châu. Cô này dòng dõi nhà quan, khi bé lắm bệnh, phải làm bao nhiêu hình nhân thế mạng, vẫn không khỏi; sau cùng phải xuất gia vì thế đi tu mà vẫn để tóc. Năm nay cô ta mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, chỉ còn có hai người vú và một a hoàn hầu hạ. Cô này chữ nghĩa rất thông, kinh kệ thuộc lòng, người lại đẹp.
Mới nghe qua, tưởng chừng Diệu Ngọc là một tấm gương sáng trong Phật môn, nhưng nhìn kỹ thì không hẳn. Một, mục đích tu hành của Diệu Ngọc không vì đam mê kinh kệ, càng không vì yêu mến cửa thiền, mà để cầu sức khỏe – một mục đích mang tính cá nhân và… chẳng liên quan gì đến Phật pháp lắm. Hai là, người đi tu phải “một hạt gạo cũng nhặt bỏ mồm, một sợi tơ cũng khoác che thân” nhưng Diệu Ngọc lại có đến ba, bốn kẻ hầu người hạ, vẫn giữ lối sống con nhà tiểu thư. Ngoài ra, đã tu hành thì nên coi mọi thứ là không, thân thể chỉ là cái túi da, nhưng Diệu Ngọc vẫn gắn bó với mái tóc của mình. Bộ tóc mây mượt mà là nét đẹp của người phụ nữ, Diệu Ngọc rõ ràng vẫn còn sân si với đời nên không nỡ từ bỏ nhan sắc của mình. Nhìn một cách rộng hơn, mái tóc mỗi người biểu tượng cho sợi dây liên kết với thế giới trần tục. Khi Liễu Tương Liên và Uyên Ương thề dứt bỏ tình ái đều cắt tóc. Bảo Ngọc khi đi tu thì cạo trọc đầu. Diệu Ngọc thân nhờ cửa Phật nhưng vẫn giữ mái tóc, chứng tỏ nàng ta vẫn “chân trong chân ngoài,” chưa một lòng một dạ với việc tu hành, đúng như Hình Tụ Yên nhận xét, “Thực đúng như tục ngữ nói: ‘Sư không phải sư, tục không phải tục, gái không phải gái, trai không phải trai’, chẳng ra nghĩa lý gì cả! “
Điều đáng nói thứ hai về Diệu Ngọc là tính cách kiêu kỳ, cao ngạo. Diệu Ngọc tự nghĩ mình là con gái nhà quan, không chịu lời hiệu triệu của kẻ khác, khiến Vương phu nhân phải đích thân viết thư mời mới chịu đến, bản thân lại ưa sạch sẽ đến mức bệnh hoạn. Xin đọc đoạn sau:
Giả mẫu uống nước xong, dẫn già Lưu đến am Lũng Thúy. Diệu Ngọc đón chào. Mọi người vào đến sân, thấy hoa tươi cây tốt, Giả mẫu cười nói:
– Bọn họ tu hành rỗi việc, hay sửa sang, trông đẹp hơn các nơi nhiều.
Vừa nói vừa đi lên thiền đường bên đông. Diệu Ngọc cười mời vào trong nhà, Giả mẫu nói:
– Chúng tôi vừa uống rượn, ăn thịt xong, trong nhà thờ Phật vào sợ mắc tội; ngồi ở đây thôi. Người cứ mang trà ngon ra, chúng tôi uống một chén rồi đi.
Bảo Ngọc để ý xem cách tiếp đãi của Diệu Ngọc như thế nào, thấy Diệu Ngọc mang cái khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng “vân long hiến thọ”, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu dâng lên.
[…]
Diệu Ngọc kéo áo Bảo Thoa và Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc cũng khe khẽ đi theo. Diệu Ngọc mời hai người vào buồng bên cạnh. Bảo Thoa ngồi ở trên giường, Đại Ngọc ngồi ở chiếu tụng kinh của Diệu Ngọc. Diệu Ngọc lấy bếp lò đun nước, pha một ấm trà khác. Bảo Ngọc khẽ chạy đến, cười nói:
– Các cô uống trà riêng đấy à?
Hai người đều cười nói:
– Anh lại đến uống gạ! Đây không có trà cho anh uống đâu.
Diệu Ngọc đang định ra lấy chén, thấy bà già đã thu dọn ấm chén ở ngoài sân. Diệu Ngọc vội nói:
– Đừng cất cái chén sứ Châu Thành vội, hãy để ở ngoài ấy.
Bảo Ngọc hiểu ý, biết là già Lưu uống chén ấy, sợ bẩn nên cô ta không dùng nữa. Sau Diệu Ngọc lại mang hai cái chén khác ra, một cái có quai, trên khắc ba chữ lệ “cô kiều trác”(2), bên cạnh có một hàng chữ nhỏ, viết chân phương “Vương Khải trân ngoạn”(3); lại có một hàng chữ nhỏ nữa viết “Tống Nguyên Phong ngũ niên tứ nguyệt My Sơn Tô Thức kiến ư bí phủ”(4). Diệu Ngọc rót một chén đưa cho Bảo Thoa. Còn một chén dáng như cái bát nhưng mà nhỏ, cũng có ba chữ “điểm tế kiều”(5) khắc lối triện. Diệu Ngọc pha trà vào chén và đưa mời Đại Ngọc, rồi lấy cái chén ngọc xanh của mình thường dùng pha cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:
– Người ta thường nói “thế pháp bình đẳng”(6), sao hai cô được dùng đồ cổ quý, mà tôi lại phải dùng đồ tục này?
Diệu Ngọc nói:
– Thế là đồ tục à? Không phải tôi nói liều đâu, nhà cậu chưa chắc đã tìm ra được cái đồ tục này!
– Tục ngữ nói “Vào làng phải theo làng”, đến đây thì nhưng đồ vàng ngọc châu báu đều cho là tục cả.
Diệu Ngọc nghe nói thích lắm, lại lấy ra một cái chén lớn làm bằng gốc trúc chạm rồng cuộn ngoằn ngoèo nhiều khúc, cười nói:
– Chỉ còn có một cái chén nhớn này thôi, cậu có thể uống hết được không?
– Uống hết được.
– Dù uống hết, cũng chẳng phí trà đâu cho cậu uống. Cậu không nghe người ta nói: “Uống chén thứ nhất là để thưởng thức mùi vị trà, chén thứ hai là phường ngu xuẩn uống cho khỏi khát, đến chén thứ ba là con trâu con lừa uống rồi”. Bây giờ cậu uống cả một chén lớn này còn ra cái gì nữa.
Bảo Thoa, Đại Ngọc và Bảo Ngọc nghe xong đều cười ầm lên. Diệu Ngọc cầm bình nước chỉ rót độ một chén con vào chén lớn, Bảo Ngọc nhấm nháp từng tí, thấy hương vị mát nhẹ, khen ngợi không ngớt. Diệu Ngọc nghiêm nét mặt nói:
– Cậu nhờ phúc của hai cô mới được uống trà này, chứ một mình cậu thì tôi không mời đâu.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi biết lắm, vì thế tôi không cám ơn người, chỉ cám ơn hai cô thôi.
Diệu Ngọc nói: “Đúng đấy”.
Đại Ngọc hỏi:
– Đây cũng là nước mưa năm ngoái phải không?
Diệu Ngọc cười nhạt:
– Cô mà lại là người rất tục, ngay nước uống không biết nếm. Đó là tuyết ở trên hoa mai mà năm năm về trước tôi lấy ở chùa Huyền Mộ Bàn Hương đấy, chỉ chứa được đầy một lọ hoa màu xanh thôi. Tôi chôn xuống đất để dành mãi, không uống, đến hè năm nay mới đào lên. Tôi chỉ uống một lần, nay là lần thứ hai cô nếm cũng không biết à? Nước mưa năm ngoái làm gì có hương vị mát dịu như thế? Uống thế nào được?
Bảo Thoa biết Diệu Ngọc có tính dở hơi, không thích nói nhiều, cũng không thích ngồi lâu; uống nước xong, rủ Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc nói với Diệu Ngọc:
– Cái chén bà già uống lúc nãy, tuy bẩn, nhưng vất đi thật đáng tiếc! Cứ ý tôi, nên cho bà già nghèo ấy đem bán cũng có thể sống qua ngày. Người thấy có được không?
Diệu Ngọc nghĩ một lúc gật đầu nói:
– Thôi được. May tôi chưa uống đến cái chén ấy bao giờ. Đã uống rồi thì tôi đập đi, không khi nào đem cho bà ấy. Cậu muốn cho bà ấy, xin mang ngay đi.
– Như thế là phải. Khi nào người lại thèm nói chuyện với bà ấy? Nếu nói chuyện với bà ta thì người cũng bị bẩn lây. Cứ đưa cho tôi là được.
Diệu Ngọc sai người mang cái chén đưa cho Bảo Ngọc, Bảo ngọc cầm lấy rồi nói:
– Khi chúng tôi ra về, sẽ bảo mấy đứa hầu nhỏ ra sông gánh mấy thùng nước rửa nhà, có được không?
– Thế thì tốt. Nhưng cậu dặn họ, gánh nước về cứ để ở chân tường ngoài cửa thôi, đừng mang vào đây.
– Đúng thế.
Rồi Bảo Ngọc cầm lấy cái chén đưa cho người nhà Giả mẫu và bảo:
– Ngày mai già Lưu về, mày đưa cái này cho già ấy.
Ngay lúc đó, Giả mẫu đã ra, muốn về. Diệu Ngọc cũng không giữ lại, đưa Giả mẫu ra đến cửa ngoài, rồi quay lại đóng cửa.
Đoạn này quả thật rất thú vị. Ở hồi 40, khi Giả mẫu đến thăm Hành Vu uyển của Bảo Thoa thì thấy: “Những cỏ lạ dây tiên, càng lạnh bao nhiêu thì lại càng xanh tốt bấy nhiêu…Vào đến trong nhà, thấy trắng tinh không có một thứ đồ chơi nào cả.” Tào Tuyết Cần vốn khéo mượn cảnh để nói người, ông tả Hành Vu uyển để khắc hoạ đươc tính cách lãnh đạm của Bảo Thoa. Ở đây thì ngược lại, Diệu Ngọc tuy là ni cô nhưng “hoa tươi cây tốt” trong nhà thì có “khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng ‘vân long hiến thọ’, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu”, loè loẹt chẳng khác gì nhà trưởng giả. Rồi Diệu Ngọc không để bà già uống chén của mình, nhưng lại uống cùng chén với Bảo Ngọc, chứng tỏ nàng đã có cảm tình đặc biệt với cậu ta. Diệu Ngọc tu nhưng chỉ là tu… ngoài miệng chứ còn lâu đạt đến độ tiêu diêu thoát tục. Thế nhưng nàng ta lại rất thích tỏ ra hơn đời, rằng ta đây thanh sạch hơn người, cư xử khác thường. Sự giả dối của Diệu Ngọc không qua được mắt Bảo Thoa, nên nàng không ưa Diệu Ngọc cũng phải. Cả Lý Hoàn cũng từng nói là ghét Diệu Ngọc. Sự kỳ thị của Diệu Ngọc với già Lưu tội nghiệp càng khiến người đọc thấy Diệu Ngọc cao quý thì ít mà hợm hĩnh thì nhiều. Già Lưu là một bà già nghèo khổ nhưng tấm lòng rất trong sạch, tuy nhiên Diệu Ngọc chỉ nhìn thấy vẻ ngoài lam lũ của bà mà coi thường; đây là chỗ chưa giác ngộ của nàng ta.
Bi kịch thật sự của Diệu Ngọc bắt đầu khi nàng ta bắt đầu động lòng phàm trần. Bảo Ngọc chính là làn gió xuân thổi vào mặt ao phẳng lặng của nàng. Những người không tin rằng Diệu Ngọc có một tâm hồn yêu đương cuồng nhiệt chỉ cần nhìn vào loài hoa biểu trưng cho nàng. Đại Ngọc nhìn hoa đào rụng thì thương hoa rồi liên tưởng đến thân phận của mình mà làm bài “Táng hoa từ“, màu hồng nhạt của hoa ứng với tâm tình thiếu nữ vừa rung động của cô lâm. Diệu Ngọc thì sao?
Bảo Ngọc đi đến dưới dốc núi vừa vòng qua chân núi, đã ngửi thấy mùi hương lạnh. Quay lại, am Lũng Thúy của Diệu Ngọc ngay đó có mấy chục cây hồng mai, đỏ thắm như son, chiếu xuống màn tuyết càng thêm chói lọi, trông rất đẹp mắt.
Trong Hồng Lâu Mộng một bông hoa một chiếc lá cũng có tình là vậy. Diệu Ngọc tuy thân ở chốn tu hành lạnh lẽo (tuyết) nhưng cảm xúc trai gái trong lòng nàng đã bắt đầu trỗi dậy cuồng nhiệt chẳng khác nào những cây hồng mai rực rỡ kia, không cách nào ngăn nổi. Màu hồng mai đỏ đậm hơn màu hoa đào là hàm ý rằng Diệu Ngọc còn khao khát yêu đương hơn Đại Ngọc. Tên Diệu Ngọc có nghĩa là viên ngọc kì diệu, nhưng chữ Ngọc (玉) lại đồng âm với chữ Dục (慾). Tào Tuyết Cần gửi Diệu Ngọc vào chốn thiền môn, nhưng vẫn để nàng mang trong mình dục vọng. Khi Bảo Ngọc nằm mộng tới Thái Hư ảo cảnh có thấy gặp bốn nàng tiên – Si Mộng tiên cô, Chung Tình đại sĩ, Dẫn Sầu kim nữ, Độ Hận bồ đề. Bốn người này chính là hiện thân trên trời của bốn tiểu thư bầu bạn với Bảo Ngọc dưới cõi trần: Đại Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Diệu Ngọc. Danh hiệu “Độ Hận bồ đề” chính dành cho người đi tu Diệu Ngọc.
Các chị em trong Đại Quan viên đã bắt Bảo Ngọc đi “phỏng Diệu Ngọc khất hồng mai.” Tào Tuyết Cần không mô tả cuộc gặp gỡ xin cành hồng mai của Bảo Ngọc với Diệu Ngọc ra sao, người đọc chỉ có thể… đoán mò. Nhưng một điều chắc chắn: sau cuộc gặp gỡ lần thứ hai đó, tình cảm Diệu Ngọc dành cho Bảo Ngọc đã phát triển lên một tầng cao mới, khiến nàng ta đường đột gửi thiệp mừng sinh nhật Bảo Ngọc.
Tình Văn vội nhấc cái nghiên ra, thấy một tờ thiếp, đưa cho Bảo Ngọc xem, một tờ giấy hoa tiên màu phấn hồng, có viết: “Người ngoài cửa là Diệu Ngọc kính chúc ngày sinh nhật”. Bảo Ngọc xem xong, nhảy lên hỏi:
– Ai nhận được giấy này lại không cho tôi biết?
Nếu người đọc hiện đại tặc lưỡi, “có sao đâu nhỉ?” thì xin hãy nhớ đó là thời nào, trật tự phong kiến ra sao, và Diệu Ngọc là ai! Diệu Ngọc tự xưng là “người ngoài cửa,” ý rằng mình nằm ngoài cuộc sống xô bồ, nhưng tâm hồn nàng thì lại ngập tràn hình ảnh Bảo Ngọc. Chỉ có cậu ngốc Bảo Ngọc mới khờ khạo cho rằng “cô ấy không phải là người trong đám trần tục, mà là đứng ngoài cuộc đời” chứ Hình Tụ Yên là người kín đáo hiểu đời thì đã biết tỏng:
Tụ Yên nghe vậy, đưa mắt ngắm nghía Bảo Ngọc một lúc, cười bảo:
– Tục ngữ nói: “Tai nghe không bằng mắt thấy”, không trách được Diệu Ngọc lại đưa cái thiếp này cho cậu, cũng không trách được năm ngoái cô ấy cho cậu cành hoa mai.
Tụ Yên biết rõ đầu đuôi Diệu Ngọc tự xưng “người ngoài cửa” vì yêu thích hai câu thơ “Cửa sắt nghìn năm dầu vững chắc, Đốt bùn một nắm cũng chôn vùi.” nhưng một khi được diện kiến tướng mạo phong lưu của Bảo Ngọc, Tụ Yên hiểu ngay Diệu Ngọc đã đem lòng tương tư cậu ta. Cái nghiệp của Diệu Ngọc là đi tu mà chưa trót đời, yêu người mà không dám nói. Tình cảnh hôm nàng cùng hoạ thơ với Đại Ngọc và Tương Vân diễn tả rất hay nội tâm Diệu Ngọc:
“Diệu Ngọc cười nói:
– Thấy các người thưởng trăng, lại nghe tiếng sáo thổi, tiện đường tôi cũng đến đây ngắm cảnh nước trong trăng sáng một chút.
[…]
Hai người cầm lấy xem, thấy Diệu Ngọc làm tiếp:
Đỉnh vàng nghi ngút huơng nồng,
Long lanh châu ngọc như lồng màu son.
Nghe tiêu gái góa nỉ non,
Ôm chăn nhờ có a hoàn ủ cho.
Màn không, phượng những thẫn thờ,
Bình phong quạnh quẽ, uyên vơ vẩn hồn.
[…]“
Trong Đại Quan viên có am Thủy Nguyệt là nơi các ni cô tình tứ với Giả Cần, là nơi Trí Năng hẹn hò cùng Tần Chung. Thuỷ Nguyệt là bóng trăng trong nước, nhìn thì đẹp đẽ nhưng không có thực, ngoài ra động cái là tan vỡ. Trăng trên bầu trời, bóng trong làn nước, tuy nhìn thấy, nhưng mò không thấy. Rốt cuộc vẫn là không. Tu hành như Diệu Ngọc chẳng khác nào tìm trăng đáy nước. Nửa đêm nàng vẫn chưa ngủ, lại ra ngoài ngắm trăng gió vẩn vơ, phải chăng có tâm sự gì kín đáo? Nếu bạn đọc nghĩ tôi quá đa nghi thì xin mời đọc bài thơ Diệu Ngọc làm sau đó. Một ni cô mà lại nhắc đến đỉnh vàng, hương nồng, châu ngọc, phấn son, lại thấy chăn gối lạnh đến mức thẫn thờ, nỉ non ai oán thì có lẽ ni cô đó nên hoàn tục sớm thôi!
Cành hồng mai đi trước, thiệp sinh nhật theo sau. Đến khi giáp mặt Bảo Ngọc lần cuối cùng, Diệu Ngọc đã không còn có thể che giấu được tình cảm của mình.
Vừa nói, vừa chào Diệu Ngọc, lại cười hỏi:
– Cô Diệu không mấy khi ra khỏi cửa thiền, hôm nay có duyên nợ gì lại xuống trần chơi thế?
Diệu Ngọc nghe nói bỗng dưng đôi má ửng đỏ, cũng không trả lời, chỉ cúi đầu xuống nhìn bàn cờ.
Bảo Ngọc tự nghĩ mình láu táu quá, liền cười và nói lấy lòng:
– Con nhà tu hành thật không giống như bọn người trần tục chúng tôi. Trước hết là giữ lòng cho yên tĩnh; yên tĩnh thì thông minh; thông minh thì sáng suốt.
Bảo Ngọc nói chưa xong, thấy Diệu Ngọc nhè nhẹ ngước mắt lên, nhìn Bảo Ngọc một cái, rồi lại cúi đầu xuống, đôi má dần dần ửng đỏ. Bảo. Ngọc thấy cô ta không để ý gì đến mình, liền thẫn thờ ngồi xuống một bên.
Tích Xuân còn muốn đánh cờ nữa, Diệu Ngọc chậm chạp nói:
– Chốc nữa hãy đánh.
Cô ta liền đứng dậy sửa lại xiêm áo rồi lại ngồi xuống, vơ vẩn hỏi Bảo Ngọc:
– Cậu ở đâu lại đây?
Bảo Ngọc đang cố chờ Diệu Ngọc lên tiếng hỏi để chống chế câu nói của mình lúc trước, bỗng lại nghĩ: “Hay là câu hỏi của Diệu Ngọc có mưu mô gì chăng?” Liền đỏ mặt lên, nói không ra lời. Diệu Ngọc mỉm cười đoạn nói chuyện với Tích Xuân. Tích Xuân cũng cười, nói:
– Anh Hai này, điều đó có gì khó trả lời? Anh lại không nghe người ta thường nói: “Ở chỗ mình mà đến” à? Thế mà cũng đỏ mặt lên, giống như thấy người lạ ấy?
Diệu Ngọc nghe câu ấy, nghĩ thầm đến bộ dạng mình lúc vừa rồi, động lòng nóng má, tất nhiên là má cũng đỏ, cô ta cảm thấy ngượng, liền đứng dậy nói:
– Tôi đến lâu rồi, phải về am đây.
Đến đoạn này thì Bảo Ngọc có khờ đến mấy chắc cũng phải chột dạ. Cảnh tượng éo le vừa rồi khiến Tích Xuân đã ngầm hiểu và trong bụng có sự so sánh rằng mình đi tu thì hợp lý hơn nhiều. Tích Xuân sau này nghĩ: “Diệu Ngọc tuy là trong sạch, nhưng trần duyên chưa dứt. Tiếc thay mình lại sinh ở nhà này, tu hành không tiện; nếu mình được tu hành, làm gì có tà ma nhiễu hại! Chắc chắn sẽ lửa lòng lạnh tắt, duyên nghiệp sạch không.” Sau đó Bảo Ngọc đưa Diệu Ngọc ra về, trên đường hai người lại tình cờ nghe bản đàn não nùng đến mức đứt dây của Đại Ngọc, (“Định sẵn chừ, hoài công lo lắng, Sao bằng trăng giữa trời kia lòng trong trắng“) khiến Diệu Ngọc “thất sắc, đứng dậy vội vàng chạy đi.” Có thể nói những lời này đã chạm đến chỗ sâu kín trong tâm sự của Diệu Ngọc, lại cộng thêm sự có mặt của Bảo Ngọc, khiến tâm thần cô ta bị kích động mạnh mẽ. Đêm hôm đó Diệu Ngọc về Chùa đọc kinh phật, nhưng ác thay lại có hai con mèo động tình ở đâu đến gù nhau, khiến cô ta bị khêu gợi. Chả trách ông Lâm Ngữ Đường đã khinh bỉ gọi Diệu Ngọc là người đàn bà cuồng dâm.
Diệu Ngọc sực nhớ lời nói Bảo Ngọc lúc ban ngày, bỗng thấy động lòng nóng tai, vội vàng ổn định lại tâm thần, đi vào buồng thiền, lại lên giường ngồi. Nhưng khốn nỗi thần hồn bất định, hình như muôn ngựa ruổi rong, rồi cảm thấy như là cái giường cứ lắc lư, thân mình không còn ở trong am nữa. Cô thấy có rất nhiều vương tôn công tử đòi cưới mình làm vợ; lại thấy có nhiều bà mối lôi lôi kéo kéo, đẩy mình lên xe, mà mình thì không chịu đi. Một chốc lại thấy kẻ cướp, kẻ trộm cầm dao vác gậy đến bức bách mình. Diệu Ngọc đành phải khóc rầm lên và kêu cứu.
Bọn ni cô, đạo bà trong am nghe tiếng, đều thắp đèn đuốc tới xem, thì thấy Diệu Ngọc hai tay duỗi ra, miệng sè nước bọt. Họ vội vàng gọi tỉnh lại, thấy hai mắt Diệu Ngọc trừng lên, hai má đỏ thắm, miệng mắng:
– Tao có bồ tát phù hộ, bọn kẻ cướp chúng bay dám làm gì?
Mọi người nghĩ Diệu Ngọc bị âm hồn quấy nhiễu, ai ngờ chính tâm ma của cô ta là ngọn núi lửa phun trào, cuốn Diệu Ngọc vào vòng xoáy dục vọng. Căn bệnh của Diệu Ngọc được miêu tả mang nhiều tính ẩn dụ hơn là bệnh thật. Ông thầy lang bảo Diệu Ngọc bị “tà hỏa nhập vào tim”, hoả là lửa, chính là ý nói Diệu Ngọc có trái tim nóng bỏng.
Tin này đồn ra ngoài, bọn chơi bời lêu lổng nghe được, liền bịa đặt ra nhiều chuyện không đâu. Chúng nói:
– Người chừng ấy tuổi, chịu làm sao được? Vả lại hình dáng phong lưu, tính tình linh lợi, sau này chẳng biết lọt vào tay ai, thì người ấy tốt phúc.
Cuối cùng số phận của Diệu Ngọc đã lọt vào tay ai? Số phận Diệu Ngọc đến hồi kết ở chương “Sống đầy oan nghiệt. Diệu Ngọc bị giặc cướp đi.” Nhan sắc xinh đẹp mà nàng ra sức bảo vệ đã khiến một tên cướp động lòng khi nhìn trộm nàng đánh cờ cùng Tích Xuân. Không kìm được, y bèn dùng muội hương lẻn tới am Lũng Thúy để bắt cóc nàng.
Lúc bấy giờ Diệu Ngọc vẫn tỉnh táo, chỉ không cử động được, nghĩ bụng: “Nó muốn giết mình chăng? Nhưng đã quyết liều mạng, nên cũng không sợ”. Nào ngờ tên kia giắt dao vào sau lưng, giơ tay ra, nhẹ nhàng ôm Diệu Ngọc dậy, đùa cợt một hồi rồi cõng lên trên lưng. Lúc bấy giờ Diệu Ngọc mê man ngây ngất. Thương thay! Một người con gái trong sạch, bị kẻ cướp dùng muội hương làm cho mê mẩn, để mặc cho nó trêu đùa. Tên giặc kia cõng Diệu Ngọc đến bên tường sau vườn, dùng thang dây leo qua. Bên ngoài đã có đồ đảng của nó đem xe chờ sẵn. Người kia để Diệu Ngọc vào trong xe, ngoài treo một chiếc đèn lồng có dấu hiệu quan chức rồi vội vàng đi đến cửa thành. Lúc ấy chính là giờ mở cửa. Quan coi thành chỉ nghĩ là người có việc quan đi ra ngoài nên cũng không kịp tra hỏi. Ra khỏi thành rồi, tên kẻ cướp giục ngựa đi, chừng hai mươi dặm, đến một nơi cùng bọn đồ đảng gặp mặt rồi chia đường đi về miền biển Nam Hải. Không biết sau khi Diệu Ngọc bị cướp đi, có cam chịu nhơ nhớp hay không chịu khuất phục mà chết, chẳng rõ ra sao, khó lòng đoán ra được.
Theo như ông Dư Anh Thời đã nhận xét, “Diệu Ngọc là một người thanh sạch đệ nhất trong thế giới lí tưởng Đại Quan Viên, và sau khi thế giới đó tan vỡ lại là người lưu lạc vào chốn ô uế nhất của thế giới hiện thực.” Trong Hồng Lâu Mộng người ta đồn đại “Diệu Ngọc động lòng tình dục, bỏ đi theo người” liệu có oan uổng? Bảo Ngọc thì đau buồn, phân vân tự hỏi: “Con người như thế, thường tự xưng là “Người ngoài cửa”, sao mà kết cục lại như thế?” Thái độ của những người khác trong Giả phủ với Diệu Ngọc thì không mấy tốt đẹp:
– Hôm trước nghe nói sư phụ Diệu Ngọc ở am Lũng Thúy đã đi theo người ta phải không?
– Câu nói ấy ở đâu ra thế? Ai nói coi chừng sẽ bị cắt lưỡi đấy? Người ta bị kẻ cướp bắt đi, sao lại nói bậy như vậy?
– Sư phụ Diệu Ngọc là người kỳ quặc, chúng tôi sợ cô ta bày đặt ra thôi. Trước mặt cô, nói ra thì không tiện, chứ cô ta có phải như bọn quê mùa chúng tôi đâu. Chúng tôi chỉ biết tụng kinh niệm Phật, sám hối cho người khác, và cũng tu lấy thiện quả cho mình.
Nhưng đã tu thì phải tu cho đứng đắn. Sư phụ Diệu Ngọc cứ cho mình tài giỏi hơn chúng tôi, cứ chê bọn chúng tôi là tục. Biết đâu có tục mới có “duyên lành”. Còn mình, rốt cuộc lại gặp phải điều khổ lớn!
Nay cô Diệu Ngọc không biết đi đâu rồi. Bao nhiêu nhà cửa ở đó, ni cô giữ nhà cho Diệu Ngọc. không dám làm chủ, chỉ mong có một người trong phủ đến trông coi.Mọi người nói:
– Cái cô Diệu Ngọc nào đó tu ở trong am Lũng Thúy của phủ ta, chẳng phải đã bị người nào bắt đi đấy sao? Có phải người con gái bị bất ấy chính là cô ta không!
Giả Hoàn nói:
– Chắc là cô ta!
– Sao cậu biết được?
– Cái con Diệu Ngọc ấy thực đáng ghét. Suốt ngày nó hay làm bộ, nhưng hễ thấy anh Bảo Ngọc là nó vui tươi hớn hở; có gặp tôi thì nó không thèm nhìn. Nếu quả thực nó bị giết thì tôi cũng thỏa lòng! Giả Vân nói:
– Cũng có phần đáng tin. Hôm trước có người nói một đạo bà trong am ấy nằm mộng thấy Diệu Ngọc bị người ta giết chết rồi.”
Lá số tiền định của Diệu Ngọc đã định cho nàng là viên ngọc quý lấm bùn:
“Muốn sạch mà không sạch
Rằng không chửa hẳn không
Thương thay mình vàng ngọc
Bùn lầy sa vào trong.”
Số phận Diệu Ngọc là phải chịu ô nhục, vừa không thể giữ tấm thân trong sạch, vừa không thể giữ tâm hồn không vướng bụi trần, miễn cưỡng diệt dục, yêu Bảo Ngọc mà lại thất thân với kẻ cướp, cuối cùng lênh đênh không biết về đâu. Hoàn cảnh sống nơi phồn hoa, chết trong loạn lạc này có chút điểm tương đồng với Tào Tuyết Cần. Ông chỉ miêu tả Diệu Ngọc, nhường phần phán xét nàng cho người đọc. Nhưng một thân phận bị giày xéo phũ phàng làm vậy, chúng ta nỡ lòng nào không thương xót sao?
Đại Ngọc vs Bảo Thoa: viên ngọc đen vs chiếc thoa vàng, ai hơn ai kém?
“Rốt lại thì Đại Ngọc-Bảo Thoa ai hơn ai kém?” là một trong mười công án lớn của Hồng Lâu Mộng. Thật khó có thể trả lời thoả đáng đến tận cùng, bởi Tào Tuyết Cần đã cố tình cho hai nhân vật này làm đối trọng trong tam giác tình yêu, ắt không cho phép có sự chênh lệch quá xa. So bề tài sắc thì chẳng có ai trội hơn ai, người là chiếc thoa vàng, người là viên ngọc đen (chữ “đại” trong tên Đại Ngọc là chỉ màu huyền của loại đá dùng vẽ lông mày, không phải là to lớn). Càng đi vào tiểu tiết lại càng khó phân định rạch ròi, đơn giản là người thích cô Lâm, người yêu cô Bảo, cũng như anh thích làm toán, tôi thích viết văn, không có ai đúng ai sai. Vậy so sánh Đại Ngọc và Bảo Thoa phải chăng là một việc làm vô ích?
Hoàn toàn không phải như vậy. Giữa cõi mịt mù hỗn độn lại có thể nhận ra một số đặc điểm và bản chất, ấy chính là Hồng Lâu Mộng. Trên thực tế, không thể nói đến Đại Ngọc mà không kể đến Bảo Thoa, và ngược lại. Người Trung Quốc quan niệm thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa, câu đối lại là tinh hoa của thơ văn. Câu đối gồm hai vế sóng đôi để tôn vinh cái hay của nhau, cả hai cùng tề chỉnh, không cái nào xuất sắc hơn cái nào mới là câu đối hay. Quan hệ giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa đại khái cũng gần giống như hai vế của câu đối vậy.
Số phận của Đại Ngọc và Bảo Thoa có gắn kết chặt chẽ với Bảo Ngọc, một bên là “mộc thạch tiền minh,” một bên là “kim ngọc lương duyên”. Bảo Ngọc có lúc ngả sang người này, có lúc lại rung động với người kia, kết cục làm cho một người chết uống, một người sống uổng. Nhìn qua thì có vẻ là một câu chuyện tình tay ba điển hình, nhưng nếu đi sâu hơn thì mối quan hệ này có ý nghĩa tượng trưng rất mạnh mẽ. Tên của Bảo Ngọc chính là ghép giữa chữ “Bảo” trong Bảo Thoa và chữ “Ngọc” trong Đại Ngọc – từ bản thể sâu kín nhất, Bảo Ngọc đã không thể tồn tại mà thiếu một trong hai nàng. Đứng giữa hai tiểu mỹ nhân yêu kiều, các chàng thường trộm nghĩ “thân này ví xẻ làm đôi…”, còn Bảo Ngọc thì lại mơ hai nàng hợp thành một. Trong giấc mộng ở Thái Hư ảo cảnh, Bảo Ngọc đã gặp ai?
Tiên cô truyền bảo dọn bàn tiệc đi, đưa Bảo Ngọc vào một buồng thêu thơm tho. Trong đó trang hoàng nhiều đồ xưa nay chưa từng thấy. Đáng sợ nhất là có một nàng tiên ngồi đấy, tươi đẹp nhu mì, giống hệt Bảo Thoa, dịu dàng phong lưu lại như Đại Ngọc.
Đây là giấc mộng đánh dấu bước đầu sự trưởng thành về tình, tính, và dục của Bảo Ngọc, hay như Tào Tuyết Cần gọi là “phong lưu gây lấy nợ vào thân”. Từ giây phút ân tình với nàng tiên đó, Bảo Ngọc không còn là một đứa trẻ chưa biết mùi đời. Về mặt sinh lý là vậy, còn trong tiềm thức, rõ ràng Bảo Ngọc đã hình thành một “ideal type” (mẫu hình lý tưởng). Người phụ nữ hoàn hảo của cậu Bảo (cũng của Tào tiên sinh) không phải ai cụ thể, mà là một nàng Pandora “lắp ghép” từ Bảo Thoa và Đại Ngọc. Sự kết hợp giữa Bảo Thoa và Đại Ngọc là sự vẹn toàn thập toàn thập mỹ, là một thứ “fantasy”… bất khả thi, vì thế mà nàng tiên chỉ xuất hiện trong giấc mơ chứ không thể tồn tại ngoài đời thực. Tuy nhiên, qua chi tiết giấc mơ có thể thấy triết lý của Tào Tuyết Cần về hai nửa cấu thành nữ tính Trung Hoa. Nữ tính huyền bí đó là một mẫu mực lý tưởng xuất hiện trong giấc mơ của Bảo Ngọc – một giấc mộng nhỏ lồng trong giấc mộng lầu hồng, rồi thiên hạ chẳng qua cũng chỉ là một trường đại mộng. Vậy phải chăng Đại Ngọc và Bảo Thoa đơn giản là hai mảnh của trí tưởng tượng mà thôi?
Nếu chỉ có vậy thì cuộc tranh luận về Bảo Thoa-Đại Ngọc có thể đi đến hồi kết ở đây rồi. Nhưng trong số mười công án của Hồng học, còn có một câu hỏi lớn:
Hồng lâu mộng có chứa đựng tư tưởng phản Mãn Thanh hay không?
Thời Trung Hoa dân quốc, các nhà Hồng học bắt đầu mạnh dạn hơn trong việc phân tích yếu tố chính trị của Hồng Lâu Mộng, kể từ đó nảy sinh ra nhiều học thuyết mới, trong đó có một thuyết cho rằng hai người đẹp của Hồng Lâu Mộng là đại biểu của hai thời Minh, Thanh.
Tào Tuyết Cần viết Hồng Lâu Mộng vào thời điểm vận nhà và vận nước đều đang suy. Thời Ung Chính, Càn Long, người Mãn Châu đã chiếm được giang sơn gấm vóc của nhà Hán được một thời gian khá dài. Đất nước thái bình thịnh trị, tuy nhiên không ít người vẫn còn nuối tiếc tiền triều. Những tổ chức nửa tôn giáo nửa chính trị kiểu Thiên Địa hội mang tư tưởng phản Thanh phục Minh có không ít người tham gia. Khởi nghĩa lật đổ triều chính trong nội bộ Hán tộc có đầy rẫy trong lịch sử, nhưng người Hán đặc biệt căm hận việc đất nước bị di địch xâm lược. Người Mãn Châu, cũng như người Hung Nô, Khiết Đan,… đều bị coi là man di. Nhà Nguyên (Mông Cổ) đã một lần công diệt Nam Tống, chiếm lấy Trung Hoa, rồi lại bị Chu Nguyên Chương cướp về, lên làm Minh Thái tổ. Triều Minh là triều đại cuối cùng do người Hán cai trị. Về sau Ngô Tam Quế mở cửa cho người Mãn Châu vào lãnh thổ Trung Hoa, cướp lấy chính quyền, lập ra nhà Thanh. Nỗi nhục bị những kẻ “mọi rợ” chiếm lấy đất nước đã ám ảnh không ít thế hệ văn sĩ người Hán. Hồng Lâu Mộng ra đời không sớm không muộn, đúng lúc kinh tế thịnh vượng nhưng tư tưởng phục quốc vẫn còn dai dẳng. Bởi vậy có nhiều người cho rằng Tào Tuyết Cần đã kín đáo gửi gắm vào hai nhân vật Đại Ngọc-Bảo Thoa xu hướng chính trị của ông, và Hồng Lâu Mộng chưa bao giờ là một tiểu thuyết tình ái đơn thuần.
Xét về gia thế, Đại Ngọc mồ côi cả cha lẫn mẹ, có thể nói là gần như “vô sản”. Bảo Thoa thì có cả anh và mẹ, gia thế giàu có bậc nhất, là một trong bốn nhà giàu ở Kim Lăng, “ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi”. Tình cảnh bơ vơ của Đại Ngọc liệu có khác gì nhà Hán mất cả giang sơn, chẳng còn mảnh đất cắm dùi? Đương nhiên người Mãn Châu thứ nhất là số lượng không đông đảo, thứ hai là muốn thu phục nhân tâm, nên vẫn để quan lại người Hán giữ chức trong triều, nhưng những lời xì xào thiên vị người Mãn, chèn ép người Hán quả thật không ít. Tâm lý giận dỗi, so bì của Đại Ngọc trong Hồng Lâu Mộng thật chẳng khác gì thái độ uất ức của những sĩ phu vong quốc thời bấy giờ.
Đại Ngọc ghé vào tay Bảo Ngọc xem và hỏi:
– Chỉ đưa cho mình tôi thôi, hay các cô khác cũng có cả.
Bà Chu nói:
– Các cô đều có, hai cành hoa này là của cô đấy!
Đại Ngọc cười nhạt:
– Tôi biết rồi, thừa người mới đến phần tôi.
Xét về hình dáng, Đại Ngọc mong manh sương gió, là nàng Tây Thi đa bệnh, “người yếu như không mang nổi áo, nhưng lại có một vẻ yêu kiều yểu điệu riêng.” Bảo Thoa thì ngược lại, “mặt tròn mâm bạc”, cơ thể phốp pháp giống như Dương Quý phi, mang vẻ đẹp vượng phu ích tử. Người Mãn Châu vốn xuất thân từ du mục, sống trên lưng ngựa, tự nhiên là hay giễu nhại những văn sĩ người Hán “trói gà không chặt”. Nhìn rộng hơn, thể lực kiệt quệ, thường xuyên đau ốm của Đại Ngọc ngụ ý cho vận khí yếu ớt của nhà Minh, trái ngược với nhà Thanh đang đà sung sức. Về cuối truyện Đại Ngọc qua đời là cái kết có thể dự đoán trước, bởi nó ứng hợp với sự rệu rã của nhà Minh. Cái chết của Đại Ngọc cho thấy cái nhìn bi quan của người viết. Thực ra triều đại nào cũng có giai đoạn cường thịnh rồi chuyển sang suy vi. Nhà Thanh đến cuối thế kỷ 19 cũng chỉ còn là một cái bóng của thời Khang Hy, Càn Long.
Xét về nguyện vọng, hành vi trốn mình trong những áng văn mơ mộng kiểu Tây Sương ký, hoặc khóc thương hoa chết trong Táng Hoa từ của Đại Ngọc chính là ẩn dụ cho căn bệnh thoát ly thực tại (escapism) của nhiều người Hán dưới thời cai trị của nhà Thanh. Thương thân trách phận (mồ côi), tiếc nuối quá khứ (được cha mẹ bảo bọc), sợ hãi tương lai (bị bỏ rơi), Đại Ngọc có tâm bệnh rất nặng. Bảo Thoa thì mang nặng tư tưởng phong kiến, luôn khuyên Bảo Ngọc ra làm quan, rõ ràng là có ý đồ chính trị, nếu không thì cũng rất thực tế, nếu chưa nói là xu thời. Bảo Thoa suy nghĩ mạch lạc, thực dụng, có việc đến thì bình tĩnh giải quyết, không mở miệng oán thán. Đại Ngọc coi chốn quan trường là nơi bẩn thỉu, Bảo Thoa cho rằng những áng văn mơ mộng là độc hại. Sự trái ngược này đã phản ảnh thế giới quan khác nhau giữa (một số không nhỏ) người Hán và người Mãn Châu dưới thời nhà Thanh.
Xét về tính cách, Đại Ngọc có tư thế ngạo nghễ khinh đời, còn Bảo Thoa thì mềm mại và khéo léo. Điều này tưởng chừng ngược đời nhưng thực ra lại rất hợp lý. Trong truyện đã nói rõ:
Bảo Thoa lại cư xử khoát đạt, tùy phận theo thời; không giống như Đại Ngọc có tính kiêu kỳ tự phụ, chẳng chịu kém ai, cho nên rất được lòng người dưới.
Nếu sự khiêm nhường của Bảo Thoa xuất phát từ tâm lý tự tin của kẻ thắng thì sự tự phụ của Đại Ngọc lại mang nặng màu sắc tự ti, tư thế thua cuộc. Tào Tuyết Cần có thể nói là bậc thầy tâm lý, ông không lạ gì trước những thái độ tiêu cực, oán trách thời cuộc của người Hán, dựa vào đó miêu tả sự dằn vặt, oán trách của Đại Ngọc rất tinh diệu. Trong suốt cả câu chuyện, Đại Ngọc không ngừng ghen tuông, lo sợ Bảo Ngọc yêu Bảo Thoa, chẳng khác nào người Hán cố gắng níu kéo những hồi ức và hào quang của tiền triều. Kết cục thì Đại Ngọc vẫn đánh mất Bảo Ngọc, và dòng chảy của thời cuộc cũng mau chóng chôn vùi nhà Minh dưới cát bụi thời gian, bởi những nỗ lực manh mún giành lại thiên hạ từ tay người Mãn Thanh đều không thành công.
Xét về kết cuộc, Bảo Thoa và Đại Ngọc đều không thành công trong tình cảm với Bảo Ngọc. Một người có được trái tim cậu ta, nhưng rốt cục chỉ còn một khối tình hận. Người còn lại có được Bảo Ngọc bằng xương thịt, nhưng chỉ là cái vỏ rỗng tuếch. Nếu coi Bảo Ngọc là hình ảnh đại diện cho trí thức người Hán thì hành trình yêu đương của Bảo Ngọc chính là đi tìm cái tôi chung. Bảo Ngọc xuất hiện đã sống chết yêu Đại Ngọc như quen từ kiếp trước, có điểm giống với tình cảm dân tộc không dễ gì cắt đứt. Rốt cuộc tình yêu đó bị chứng tỏ là không thực tế, thậm chí là có hại và bị ngăn cản, Bảo Ngọc tiếc nuối dằn vặt nhưng vẫn phải thuận theo thời cuộc, kết hôn cùng Bảo Thoa. Về sau Bảo Ngọc hoàn thành nhiệm vụ với gia đình, lấy vợ sinh con đi thi đỗ, nhưng tâm hồn cậu ta đã vĩnh viễn rời khỏi thế giới trần tục, chẳng khác nào những sĩ phu người Hán ra làm quan cho nhà Thanh nhưng trong lòng trống rỗng và đau khổ. Bảo Ngọc còn có thể về cõi Đại Hoang, còn người sĩ phu thì biết về đâu?
Tào Tuyết Cần vốn dòng dõi người Hán ở Liêu Dương, về sau tổ tiên ông đầu hàng nhà Thanh, nhập tịch Mãn Châu. Nhà họ Tào có uy danh cực lớn, tiền của nhiều như nước, được nhà Thanh sủng ái. Trong gia tộc có ít nhất hai người làm phi tần trong cung, giống với Nguyên Xuân trong truyện. Về sau, khi Ung Chính lên ngôi, những chuyện ăn của đút, bòn rút bị lôi ra ánh sáng, nhà họ Tào liền bị thất sủng, có thể nói là y hệt như tình cảnh nhà họ Giả. Tào Tuyết Cần sinh ra lúc vận nhà khó khăn, thân mang tài nghệ nhưng không thể thỏa chí bình sinh, quả thực đã mang một nỗi uất ức lớn. Tình cảm phức tạp của ông với nhà Minh và nhà Thanh ra sao, ta chỉ có thể phỏng đoán dựa vào những chi tiết ít ỏi, và tác phẩm duy nhất còn lại của ông – Hồng Lâu Mộng.
Tào Tuyết Cần liệu có thực sự ủng hộ phản Thanh phục Minh thì không thể biết chắc, nhưng dựa vào một chi tiết nhỏ như mắt muỗi, có thể suy ra cách ông xếp hạng Đại Ngọc và Bảo Thoa. Chi tiết đó nằm ở hồi Giả Chính vào thăm vườn Đại Quan:
Mọi người níu dây vịn cây đi lên, thấy mặt nước hoa rụng man mác, dòng suối trong vắt rập rờn quanh co; hai hàng liễu rủ bên bờ, những cây đào, cây mận, mọc chen nhau che rợp cả bóng mặt trời. Khắp nơi, không có một chút đất bụi. Trong rặng liễu nhô ra một nhịp cầu, lan can sơn đỏ.
Qua cầu, đường thông các ngả; xa xa, có một tòa nhà ngói mát mẻ và một dãy tường hoa. Ở đây mạch núi chính đều xuyên qua tường chia đi các ngả.
Giả Chính nói:
– Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì! (*)
Nơi này về sau chính là Hành Vu uyển, nơi ở của Bảo Thoa.
Bước vào cửa là một dãy hành lang quanh co. Nước đượm mùi thơm.Dưới thềm có con đường đá. Mặt trước ba gian nhà nhỏ, sạch sẽ, cửa khép, cửa mở. Trong nhà kê bàn ghế giường chiếu ngay ngắn gọn gàng. Từ phía trong có cửa con đi ra sân sau. Có mấy cây lê cao lớn, mấy cụm chuối um tùm. Lùi về phía sau, lại có vài gian nhà nhỏ. Chân tường có một dòng suối rộng chừng một thước quanh co theo thềm đến dãy nhà đằng trước, rồi từ trong những khóm trúc róc rách chảy ra..
Giả Chính cười nói:
– Chỗ này thú đấy. Đêm trăng mà ngồi dưới cửa sổ đọc sách, cũng không uổng một đời.
Nơi này về sau chính là Tiêu Tương quán, chỗ ở của Đại Ngọc.
Về điểm này, ông Dư Anh Thời đã nhận xét “đây có thể nói tác giả mượn mồm Giả Chính để biểu hiện thái độ của mình.” Nói rõ hơn về vấn đề phân loại người và cảnh trong Đại Quan Viên, ông Du Bình Bá cho rằng lời bình ở đây đã nói rõ ý đồ của chính tác giả tiểu thuyết: “Đây là phép chưa khen (bên kia) hẵng chê (bên này) trước đã. Bảo Thoa với Đại Ngọc chưa so đã thấy hơn kém. Khắc họa cảnh và người trong tiểu thuyết như vậy không phải là dễ”. Rốt cuộc thì tình cảm của Tào Tuyết Cần trước sau vẫn nghiêng về Đại Ngọc, chẳng khác nào Bảo Ngọc khi sắp rũ bỏ nợ trần gian vẫn si mộng hình bóng từ kiếp trước của nàng Giáng Châu!
(*) bản dịch mới dịch câu này là “Nhà cửa ở đây vô vị quá!”
Giả Bảo Ngọc: “một nửa đàn ông là đàn bà”, lại là “nửa dôi”
Có người đã nhận xét với tôi rằng, dù tôi chưa viết một bài nào chỉ bàn riêng về nhân vật Giả Bảo Ngọc nhưng họ vẫn không cảm thấy thiếu, bởi bài nào cũng có nhắc đến nhân vật này, không ít thì nhiều! Quả thật Bảo Ngọc vừa là nhân vật chính, vừa là chứng nhân cho hầu hết những sự kiện xảy ra trong Hồng Lâu Mộng. Số phận già trẻ trai gái trong truyện từ con hầu Kim Xuyến, con hát Tưởng Ngọc Hàm, trai đẹp Tần Chung,… cho chí ni cô Diệu Ngọc, tiểu thư Bảo Thoa, a hoàn Tình Văn,… đều có gắn bó mật thiết với Bảo Ngọc. Nếu các cô gái trong truyện là những sợi chỉ thêu nhiều màu sắc thì có lẽ Bảo Ngọc chính là cây kim xuyên suốt, nối kết để dệt lên bức tranh Hồng Lâu Mộng muôn vẻ. Sở dĩ tôi trù trừ chưa muốn viết về Bảo Ngọc cũng một phần vì muốn các bạn đọc có thời gian cảm nhận sự hiện diện của cậu ta qua các nhân vật khác. Rốt cuộc thì cũng đã đến lúc chúng ta dành thời gian cho “hòn đá vô tích sự” này. Tuy nhiên nhân vật này có nội hàm rất rộng, vì thế ở bài này, để tránh lan man, sa đà, chúng ta chỉ bàn về tính nữ của Bảo Ngọc.
Trong những nỗ lực cảm nhận nhân vật Bảo Ngọc, có lẽ sai lầm lớn nhất là nhìn cậu ta dưới lăng kính của hiện thực. Nếu chúng ta phán xét Bảo Ngọc như một người bình thường, ắt hẳn đa số người đọc sẽ không có mấy thiện cảm: nhân vật này tính tình không quyết đoán, ít có khí độ của bậc tu mi nam tử, tối ngày lại kề cận đám phấn son, quả thật không có gì hay. Nhưng vì không thích Bảo Ngọc mà kết luận Hồng Lâu Mộng không có giá trị văn học hoặc Tào Tuyết Cần hồ đồ thì thật nhầm lẫn. Hồng Lâu Mộng hoàn toàn không phải một cuốn sách giáo khoa dạy đạo đức. Tào Tuyết Cần xây dựng lên Bảo Ngọc, cũng như Lỗ Tấn viết về AQ với phép thắng lợi tinh thần, Emily Bronte mô tả Heathcliff yêu cuồng dại, càng không nhằm mục đính biến đứa con tinh thần của mình thành hình mẫu lý tưởng đáng học tập. Với Bảo Ngọc, Tào Tuyết Cần cố tình khắc hoạ tính “lưỡng cực” (bipolarity): Bảo Ngọc vừa già (xuất hiện từ buổi khai thiên lập địa) vừa trẻ (trong truyện là cậu thiếu niên), vừa sống ở hiện tại vừa đặt một chân vào cõi ảo mộng, vừa là người vừa là thần, vừa có phong thái của Đạo gia vừa theo Phật pháp. Tính nữ của Bảo Ngọc chính là đối trọng của tính nam trời sinh, cấu thành một phần không thể thiếu trong con người Bảo Ngọc.
Trước hết, khi Bảo Ngọc xuất hiện, hình dáng ra sao?
Khi vào, thoạt nhìn thì thấy một thanh niên công tử: đầu đội mũ kim quan dát ngọc, khăn bịt trán có đính hai con rồng bằng vàng vờn hạt châu, mặc áo chẽn màu đại hồng thêu trăm con bươn vờn hoa, thắt lưng dây tơ ngũ sắc tết hoa, áo khoác ngoài bằng đoạn hoa màu thạch thanh, đi đôi hài bằng đoạn xanh, đế trắng, mặt như trăng rằm mùa thu, sắc như hoa xuân buổi sớm, mái tóc bằng như dao xén, lông mày rõ như mực kẻ, má như cánh hoa đào, mắt như làn sóng gợn. Lúc giận cũng như cười, dù trừng mắt vẫn có tình tứ. Cổ đeo khánh vàng chạm con ly và một dây ngũ sắc buộc viên ngọc.
Đây là lần đầu tiên người đọc được diện kiến Bảo Ngọc, ấn tượng có thể nói là rất mạnh mẽ. Tổng cộng, Tào Tuyết Cần dụng công miêu tả tám thứ phục sức trên người Bảo Ngọc (mũ, khăn, áo chẽn, thắt lưng, áo khoác, hài, khánh, dây buộc ngọc) và tám nét nổi bật trên gương mặt cậu ta (mặt, sắc diện, mái tóc, lông mày, má, mắt, vẻ mặt khi giận, khi cười.) Quả thật là người đẹp như ngọc không sai! Nhưng thử đọc kỹ mà xem, những so sánh ước lệ trăng rằm, hoa xuân, hoa đào, làn sóng dường như phù hợp để miêu tả một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành hơn là đấng mày râu. Và trang phục màu đại hồng, thạch thanh đầy nữ tính được thêu bướm, kết hoa càng khiến ý đồ của tác giả “rõ đến không thể rõ hơn”. Hình dáng Bảo Ngọc chính là của một cô gái xinh đẹp thướt tha, hơn nữa còn có hơi hướm giống món đồ vật trang trí. Tào Tuyết Cần cố tình cho Bảo Ngọc ăn mặc thật xúng xính, dường như qua đó “objectify” Bảo Ngọc như một con búp bê vậy. Vẻ ngoài của Bảo Ngọc còn mang đầy màu sắc hưởng lạc và ẻo lả, hoàn toàn trái ngược với lý tưởng của Nho giáo. Tào Tuyết Cần ngạo nghễ dựng lên một nhân vật chính đi ngược lại hoàn toàn hình ảnh nam nhi đại trượng phu, phải chăng là để thách thức lễ giáo truyền thống?
Hình dáng bên ngoài thì như vậy, còn giọng nói, dáng đi của Bảo Ngọc cũng dễ khiến người ta nhầm lẫn. Trong truyện có rất nhiều ví dụ ẩn ý về sự nhập nhằng giới tính của cậu Bảo, đơn cử như:
Già lưu say rượu loạng quạng đến ngủ ở Di Hồng viện của Bảo Ngọc, khi tỉnh dậy:
Già Lưu vâng lời. Tập Nhân lại cho uống hai chén nước trà, già Lưu mới tỉnh rượu, liền hỏi:
– Chỗ ấy là buồng thêu của cô nào mà lịch sự thế? Khác nào được lên trời vậy!
Tập Nhân mỉm cười nói:
– Buồng ấy à? Là buồng ngủ của cậu Bảo đấy.
Giả Mẫu cũng bị nhầm:
Nói chưa dứt lời, thấy phía sau Bảo Cầm có một người mặc áo da vượn màu đỏ đi đến. Giả mẫu hỏi:
– Lại cô ả nào nữa đấy?
– Chúng cháu ở đây cả, chắc là cậu Bảo Ngọc.
– Ta càng ngày càng sinh lóa mắt.
Hai người đi đến, chính là Bảo Ngọc và Bảo Cầm.
Vưu Tam Thư khi nói về Bảo Ngọc:
Xem cách ăn nói, cách xử sự của cậu ấy có vẻ hơi giống con gái. Đó là vì ngày nào cậu ấy cũng ở chung trong đám chị em, thành ra thói quen, chứ hồ đồ ở chỗ nào?
Dính Yên thắp hương cầu nguyện:
Người ở cõi âm, phù hộ cho cậu Hai tôi kiếp sau sinh làm con gái, để cùng chị em các người vui đùa một nơi, không còn là hạng mày râu nhơ bẩn nữa.
Giả Mẫu nhận xét về Bảo Ngọc:
Ta không hiểu sao và cũng chưa thấy đứa trẻ con nào như thế cả. Đối với người khác thì nó bướng bỉnh đấy, nhưng riêng đối với bọn a hoàn lại rất tử tế. Khó thấy có ai được như nó. Vì vậy ta sinh nghi, thường để ý xem xét, thấy nó cứ đùa với bọn a hoàn, chắc là người lớn thì tính tình cũng lớn, đã biết chuyện trai gái, nên mới gần gũi bọn chúng. Nhưng dò xét kỹ, lại hóa không phải. Thế mới lạ chứ? Có lẽ nó là một con a hoàn đầu thai lầm cũng nên.
Ở đây lại phải làm rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm “sex” – giới tính sinh học, và “gender” – giới tính xã hội. Về mặt sinh học thì Bảo Ngọc rõ ràng là nam giới, điều này không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng về mặt tâm lý, tính cách, hành vi, cử chỉ thì mù mờ hơn. Sự rối loạn giới tính của Bảo Ngọc xảy ra từ khi cậu ta còn rất nhỏ:
Khi đầy năm, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau thế nào, mới đem những đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu nó chẳng lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy phấn sáp, trâm vòng. Giả Chính không vui, bảo sau này chỉ là đồ tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm.
Số đông mọi người khi đọc đến đây thì cũng như Giả Chính và Tử Hưng, cho rằng Bảo Ngọc lớn lên sẽ trở thành con quỷ hiếu sắc. Đấy là một suy luận thiển cận. Trên thực tế, hành vi chọn phấn son, trâm vòng của Bảo Ngọc là báo trước nữ tính tiềm ẩn của cậu ta. Nói theo cách khác, Bảo Ngọc chọn chúng vì bản thể chàng có một nửa là nữ, chứ không phải vì cậu ta ham muốn phụ nữ. Giả Chính bắt Bảo Ngọc lựa đồ chơi, qua đó gián tiếp ép buộc cậu ta đối mặt với hai giới tính đối chọi nhau, đó là điềm báo trước bi kịch của Bảo Ngọc. Trong truyện, cậu ta thường xuyên phải ra quyết định: chọn giữa mộng ảo và đời thực, giữa Nho giáo và Phật giáo, giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa. Khuynh hướng lưỡng tính chỉ là một trong số vô vàn cuộc đấu tranh mà Bảo Ngọc phải trải qua, như là đánh đổi cho việc trải nghiệm cuộc sống phù hoa dưới trần thế.
Như đã nhắc đi nhắc lại, nơi ở của các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng có ý nghĩa không thể xem thường. Trong Đại Quân viên, Bảo Ngọc chọn viện Di Hồng làm chỗ trú ngụ. Di Hồng viện tên vốn đã mang đậm mùi son phấn, lại là rút gọn của “di hồng khoái lục”, hay “hồng hương lục ngọc”. Bảo Ngọc có cả hồng (màu đỏ) và lục (màu xanh) tức là có cả tính nữ và tính nam, nhưng lại nghiêng về hồng nhiều hơn là lục.
Trong truyện, Bảo Ngọc gắn bó sâu sắc với màu đỏ. “Hồng lâu” là nơi “êm đềm trướng rủ màn che” cậu ta ở đã đành, Bảo Ngọc còn đam mê phấn sáp, thích thú son môi.
Nhân thấy hai bên tủ gương có nhiều đồ phấn sáp, tiện tay lấy ra ngắm nghía. Khi thấy một hộp sáp bôi môi, Bảo Ngọc muốn bỏ vào miệng ăn, lại sợ Tương Vân cười.
Còn sau đây là cảnh Bảo Ngọc dỗ dành Bình Nhi sau khi nàng bị Phượng Thư đánh ghen, chẳng hề đượm màu tán tỉnh sắc dục trai gái, mà giống như bạn gái giúp nhau trang điểm thì đúng hơn!
Bình Nhi nghe nói có lý, liền đi tìm phấn, nhưng không thấy. Bảo Ngọc vội chạy đến đài trang, mở cái hộp sứ Châu Tuyên ra, trong hộp đựng một lượt mười thoi phấn hoa ngọc trâm, lấy ra một thoi đưa cho Bình Nhi, cười nói:
– Đây không phải là phấn thường đâu, là giống hoa dạ hương nghiền nát ra, chế với thứ bột thượng hảo hạng đấy.
Bình Nhi để lên trên tay xem, quả nhiên vừa nhẹ, vừa trắng, vừa đỏ, vừa thơm, xoa lên mặt thấy da mịn và mát, không bết như thứ phấn khác. Sau thấy một cái hộp ngọc trắng nhỏ, trong đựng một hộp sáp màu đỏ tươi như cao văn khôi, chứ không phải từng tờ một. Bảo Ngọc cười nói:
– Sáp bán ở hiệu không sạch, màu lại chóng bay. Đây là hạng sáp tốt nhất, vắt nước ra, lọc sạch rồi hòa lẫn với sương ở trong hoa, đem nấu lên. Chỉ lấy cái trâm nhỏ khêu một tí xát vào môi; lại lấy một giọt hòa lẫn nước với sáp vào lòng bàn tay rồi xoa lên mặt cũng đủ.
Bình Nhi cứ theo thế trang điểm, thấy tươi đẹp khác thường và mùi thơm ngào ngạt. Bảo Ngọc lại lấy một cành hoa huệ ở trong chậu dùng dao tre cắt đem cắm lên đầu cho Bình Nhi.
Hay đoạn Hương Lăng nói Bảo Ngọc quay mặt đi để thay quần:
Bảo Ngọc cúi đầu nhìn, “úi chà” một tiếng nói:
– Tại sao chị lại bị kéo xuống bùn thế này? Đáng tiếc! Lụa đỏ thạch lựu này dễ bẩn lắm!
[…]
Hương Lăng đỏ mặt cười nói:
– Cám ơn chị lắm, không ngờ bọn quỷ sứ ấy nó làm ác.
Nói xong cầm lấy cái quần, giở ra xem, quả nhiên giống hệt cái quần của mình, liền bảo Bảo Ngọc quay mặt đi chỗ khác rồi ngoảnh vào phía trong cởi quần bẩn ra, mặc quần mới vào.
Đến đây chúng ta đã gần chạm tới cội rễ vấn đề sâu xa của Bảo Ngọc. Bảo Ngọc coi trọng phụ nữ, cho rằng “Xương thịt của con gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy” không xuất phát từ vị thế nâng niu gái đẹp của đàn ông, mà là đồng bệnh tương liên. Bảo Ngọc có một nửa nữ tính, thậm chí “nửa dôi” là đằng khác, nên sự yêu mến, âu yếm, thương xót của cậu ta với các chị em chính là sự đồng cảm của nữ giới. Trong Hồng Lâu Mộng, ta chứng kiến sự bảo vệ che chắn kỹ lưỡng của mọi người trong phủ với Bảo Ngọc, từ Giả Mẫu, Vương phu nhân, Phượng Thư cho đến các a hoàn, đến mức cậu ta phàn nàn với Tần Chung rằng mình chẳng được bước chân ra khỏi cửa! Kiểu kín cổng cao tường đó vốn chỉ dành cho các tiểu thư, nhưng Bảo Ngọc đã bị đồng hóa với những cô gái trong phủ nên dường như không ai lấy đó làm điều kỳ dị.
Nếu về mặt “gender”, Bảo Ngọc là người lưỡng tính, thì “sexuality” (xu hướng tình dục) của Bảo Ngọc có thể được phân loại là song tính luyến ái (bisexual.) Tạm chưa bàn đến những mối tình với nữ giới của Bảo Ngọc vội. Trong những nhân vật nam của Hồng Lâu Mộng có ba dạng chính:
– Loại đàn ông theo tư tưởng Khổng Mạnh một cách khuôn phép (Giả Chính, Chân Bảo Ngọc) hoặc Đạo giáo (Giả Kính ham mê luyện đan để trường sinh bất lão), lạnh nhạt, không gần nữ sắc, bất cận nhân tình. Với những người này Bảo Ngọc có quan hệ rất hời hợt, bởi cậu ta không có cùng chí hướng, quan điểm với họ.
– Loại đàn ông thích hưởng lạc, ham mê dục tình. Những người này rất đông, phần lớn đều là anh em chú bác của Bảo Ngọc: Giả Trân, Giả Xá, Giả Liễn, Giả Dung, Tiết Bàn,… Đối tượng ham muốn của những kẻ này cũng bao gồm của nam và nữ, cách cư xử thì rất hèn hạ. Với những nhân vật này Bảo Ngọc muốn tránh xa, thâm tâm cậu coi thường và ghê sợ họ. Trong mắt Bảo Ngọc, những đối tượng này chỉ có “dâm” mà không có “tình”, vì thế họ nhơ nhớp và xấu xa.
– Loại đàn ông mềm mại, đẹp đẽ, có tâm hồn lãng mạn, trong sáng. Những người này gồm Tần Chung, Tưởng Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương, Liễu Tương Liên… Đặc điểm nổi bật của họ là khuynh hướng bị nữ tính hóa giống như Bảo Ngọc. Mối giao lưu thân cận của Bảo Ngọc với những nhân vật này ngả sang xu hướng tri kỉ-tình yêu, thậm chí gần với tình dục. Những mối quan hệ này được khắc hoạ thanh cao, trong sáng bởi nó không gắn với mục đích sinh sản mà dựa trên sự tương hợp giữa hai tâm hồn, giống như người Hy Lạp cổ nhìn nhận tình yêu nam-nam (pederasty.)
Một số trích đoạn trong sách:
Từ khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, xem ra dáng điệu tươi đẹp như hoa; Tần Chung thì bẽn lẽn nhu mì, chưa nói đã đỏ mặt, ngượng nghịu như con gái; Bảo Ngọc thì nhũn nhặn dịu dàng, nói năng hòa nhã. Vì hai người thân mật với nhau như thế nên tránh sao khỏi sự ngừ vực của một số học trò. Lúc vắng mặt thì người nói thế này, kẻ nói thế khác, giễu cợt, gièm pha khắp cả trong và ngoài lớp học.
Có hai đứa không biết con cái nhà ai, tên tuổi là gì, chỉ vì thấy chúng có vẻ lẳng lơ, nên cả trường đặt tên cho một đứa là Hương Lân, một đứa là Ngọc ái. Có nhưng người mến thích chúng, định đem lòng không tốt đối với lũ trẻ nhưng lại sợ uy thế Tiết Bàn, nên không ai dám vương vào. Từ khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, thấy hai đứa ấy trong bụng cũng vấn vương trìu mến, nhưng biết là bạn tương tri của Tiết Bàn, nên cũng không dám động chạm đến. Hai đứa Hương Lân, Ngọc ái đều để ý đến Tần Chung và Bảo Ngọc. Bốn người sẵn có tình ý với nhau, nhưng chưa dám lộ ra ngoài. Mỗi khi vào học, họ ngồi riêng bốn chỗ, nhưng tám mắt vẫn liếc nhau, hoặc đặt lời mượn ý, vịnh dâu ngắm liễu, xa tỏ nỗi lòng.
[…]
Một chốc, Bảo Ngọc ra ngoài đi giải, Tưởng Ngọc Hàm theo ra. Hai người đứng ở dưới thềm, Tưởng Ngọc Hàm lại xin lỗi một lần nữa. Bảo Ngọc thấy hắn mềm mại nhu mì, liền nắm chặt lấy tay nói:
– Lúc nào rỗi sang chơi tôi nhé. Tôi muốn hỏi một điều, trong ban hát ta có một người tên là Kỳ Quan, nổi tiếng nhất thiên hạ, tiếc tôi vô duyên, không được gặp.
Ngọc Hàm cười đáp:
– Đó là tên tục của tôi đấy.
Bảo Ngọc mừng lắm, giậm chân cười nói:
– Thực là may, thực là may! Quả nhiên tiếng đồn không sai. Giờ mới gặp lần đầu, biết làm thế nào đây.
Nghĩ một lúc rồi lấy cái quạt ở trong tay áo ra, cởi viên ngọc ở dây quạt đưa cho Kỳ Quan và nói:
– Vật nhỏ này không đáng bao nhiêu, gọi là tỏ mối tình ngày hôm nay.
Kỳ Quan cầm lấy, cười nói:
– Tôi không có công gì, đâu đáng nhận đồ tặng. Nhưng thôi, tôi cũng có một vật lạ, sáng hôm nay mới thắt vào người, hãy còn mới nguyên, xin tặng lại cậu, để tỏ lòng quý mến của tôi.
Nói xong hắn vén áo lên, cởi cái thắt lưng lụa màu hồng, thắt trong áo lót, đưa tặng Bảo Ngọc và nói:
– Cái thắt lưng này là đồ cống của nữ quốc vương nước Phiến Hương, mùa hè thắt vào, da thịt thơm nức, không có mồ hôi. Hôm nọ Bắc Tĩnh vương cho, tôi vừa mới thắt vào người. Tôi không bao giờ định tặng ai. Xin cậu cởi cái thắt lưng của cậu ra cho tôi.
Bảo Ngọc nghe nói mừng quá, vội nhận ngay, và cởi thắt lưng màu hoa tùng của mình đưa cho Kỳ Quan.
Việc con nhà quyền quý có tình nhân ở cả hai giới không phải điều gì kỳ lạ lắm, thậm chí nó còn là một cách biểu lộ quyền lực là đằng khác. Mấu chốt ở đây là những người đàn ông quý tộc kia luôn đứng ở vị trí săn đuổi trong hành trình tìm kiếm khoái lạc. Mỹ nữ hay mỹ nam cũng chỉ là một món đồ chơi trong tay họ. Tiết Bàn chính là một kẻ như vậy. Còn Bảo Ngọc tuy thân đường đường con nhà dòng dõi mà lại mang dáng vẻ yếu mềm, óng ả như vậy thì thật không thể hiểu nổi! Sự thanh nhã, tú lệ của Bảo Ngọc tương phản hẳn với vẻ rượu thịt, thô bỉ của Tiết Bàn. Trong thực tế, điều duy nhất bảo vệ Bảo Ngọc khỏi sự tấn công tình dục của Tiết Bàn là địa vị tôn quý của Bảo Ngọc, ngang hàng – thậm chí cao hơn Tiết Bàn. Nếu Bảo Ngọc chỉ là tiểu đồng nhỏ thì chắc đã bị Tiết Bàn vồ lấy như diều hâu quắp gà con.
Chi Nghiễn Trai có liệt kê mười hai nhân vật đa tình nhất trong Hồng Lâu Mộng, trong đó Bảo Ngọc đứng đầu tình bảng, còn Đại Ngọc đứng thứ hai. Đại Ngọc là “tình tình,” còn Bảo Ngọc là “tình bất tình,” nghĩa là luyến ái cả những người không yêu mình (Bảo Thoa không có mặt trong danh sách này, nên thường bị gọi là “lãnh tình”.) Trong tình bảng thì Bảo Ngọc là nhân vật nam duy nhất, nhưng trong yêu đương lại mang nhiều tính nữ hơn cả. Bảo Ngọc không chỉ có xu hướng đồng tính nam mà trong quan hệ ái ân nam nữ, cậu ta cũng thường đóng vai trò thụ động. Người khác hời hợt nhìn vào có thể nghĩ Bảo Ngọc là kẻ khinh bạc vô hạnh, hay buông lời gió trăng, cử chỉ không đúng đắn với các chị em. Nhưng trên thực tế những hành động của Bảo Ngọc đa phần đều bị thúc đẩy bởi tình yêu cái đẹp, sự đồng cảm, gần gũi hơn là bản năng của một “con đực.” Khi gặp sự tấn công ồ ạt của tình dục, Bảo Ngọc co lại sợ hãi:
Chợt chị dâu Tình Văn cười hì hì vén màn đi vào nói:
– Giỏi nhỉ! Hai người trò chuyện với nhau, tôi nghe thấy cả rồi! – Chị ta quay lại nói với Bảo Ngọc: – Cậu là chủ nhà, vào buồng đầy tớ làm gì? Thấy tôi xinh đẹp, cậu định đến đây ghẹo tôi hay sao?
Bảo Ngọc nghe nói, sợ quá, vội cười van xin:
– Chị ơi, xin đừng nói to. Chị ấy lâu nay hầu hạ tôi, giờ tôi lẻn đến đây thăm chị ấy.
Cô “Đa” liền kéo Bảo Ngọc vào nhà trong, cười nói:
– Cậu không muốn tôi kêu thì cũng dễ thôi, cậu chỉ nghe tôi một điều này.
Nói xong, chị ta ngồi ngay lên trên giường, kéo Bảo Ngọc vào trong lòng, hai đùi cặp chặt lấy. Bảo Ngọc xưa nay chưa thấy thế bao giờ, tim đập thình thịch, người thấy rạo rực, cuống quá, mặt đỏ bừng, vừa thẹn vừa nói:
– Chị ơi, đừng đùa thế.
Cô “Đa” lẳng lơ con mắt, cười nói:
– Hừ! Ngày thường, nghe nói cậu vẫn quen sống trong trường trăng gió, sao hôm nay lại nhút nhát thế?
Bảo Ngọc càng đỏ mặt, cười nói:
– Chị buông tay ra, có chuyện gì chúng ta sẽ tử tế nói với nhau, để cho bà già bên ngoài nghe thấy thì còn ra làm sao nữa?
Cô “Đa” cười nói:
– Tôi về đây từ lâu, đã bảo bà già ấy đứng chờ ở ngoài vườn rồi. Tôi hàng ngày ao ước biết nhường nào, bây giờ mới được gặp, nhưng đúng như câu: “Nghe tiếng không bằng gặp mặt”. Tôi trông dáng người cậu đẹp thế này, mà lại là cái xác pháo rỗng ruột, chỉ có cái vẻ thôi, coi chừng nhút nhát e lệ hơn người ta nhiều. Đủ biết miệng người ta nói có khi không đáng tin. Như lúc nãy, tôi cứ tưởng chắc chắn hai người ngày thường thế nào cũng thầm vụng với nhau. Khi tôi đứng ở dưới cửa sổ nghe ngóng một lúc lâu trong nhà chỉ có cậu với cô ấy, tôi chắc rằng sẽ nói đến nhiều chuyện thậm thụt với nhau. Nhưng xem ra, thì hai người thật chưa có gì dan díu cả. Thật là ở đời có nhiều sự oan uổng. Bây giờ tôi rất ăn năn đã ngờ cho cậu. Đã vậy cậu cứ yên tâm, cứ việc đến, tôi không dám to tiếng.
Ngoại trừ lần đầu tiên với Tập Nhân, Bảo Ngọc không có mối quan hệ tiền hôn nhân nào khác, bất chấp rất nhiều cơ hội. Nếu không có cô “Đa” minh oan cho, có lẽ người đọc chắc vẫn còn nghi oan cho Bảo Ngọc! Đoạn trên cũng khắc hoạ sự ngượng nghịu, e dè của Bảo Ngọc trước dục vọng mãnh liệt của người đàn bà từng trải. Xét một cách tổng thể, từ cử chỉ, hành vi, tính tình, Bảo Ngọc chính là một ví dụ tiêu biểu cho cái gọi là “một nửa đàn ông là đàn bà.”
Vậy thì mục đích của Tào Tuyết Cần trong việc mô tả một Bảo Ngọc nửa nam nửa nữ, ái nữ ái nam là gì? Nếu coi bản thể nam giới là “cái tôi”, thì bản thể nữ giới là “cái bên ngoài cái tôi”. Thông qua Bảo Ngọc, Tào Tuyết Cần đã đề ra một giải pháp dung hòa giữa cái tôi cá nhân và thế giới. Vì biểu lộ đồng thời cả tính nam và tính nữ, Bảo Ngọc không tránh khỏi bị gắn mác lập dị, bị cả hai giới từ chối cho gia nhập. Đó là bi kịch khi cá nhân không được sự chấp nhận của tập thể. Bảo Ngọc là nhân vật duy nhất đạt tới cảnh giới giác ngộ, vượt khỏi bể trầm luân, điều đó tốt hay xấu? Tôi nghĩ đó là một cái kết khá bi quan, bởi cái tôi cá nhân đã không thể hòa hợp với thế giới bên ngoài, chỉ còn cách trốn chạy. Jacques Derrida đã miêu tả một xã hội utopia, nơi những cá thể như Bảo Ngọc có thể sống tự do, hạnh phúc mà không sợ khuôn khổ áp đặt. Có điều Hồng Lâu Mộng chưa bao giờ là một utopia…
Giả mẫu : đầu tiên là chuyện giàu sang
Giả mẫu là một nhân vật được tạo hình đặc sắc vào bậc nhất trong Hồng Lâu Mộng. Giả mẫu có vị trí đứng đầu Giả phủ, tầm ảnh hưởng bao trùm cả hai nhà Ninh, Vinh. Gầu như toàn bộ các cô gái trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách (ngoại trừ Diệu Ngọc) đều là cháu chắt của Giả mẫu, nếu không do huyết thống trực hệ thì cũng thông qua quan hệ hôn nhân. Vì vậy Tào Tuyết Cần bỏ nhiều tâm sức miêu tả Giả mẫu cũng là điều dễ hiểu. Nếu chỉ nhìn bên ngoài, Giả mẫu quả là một bà cụ bao dung, hiền từ, thích an nhàn như … bà nội của chúng ta vậy! Vì vậy e rằng nhiều người sẽ không đồng tình khi tôi cho rằng: những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nhà họ Giả có một phần lỗi của Giả mẫu.
Tào Tuyết Cần để Giả mẫu lần đầu xuất hiện qua lời kể của Lãnh Tử Hưng ở hồi thứ hai, chính là áp dụng biện pháp “chưa nhìn thấy người đã nghe thấy tiếng.” Giả mẫu sinh ra trong nhà họ Sử – một trong bốn gia đình cự phú ở Kim Lăng (Cung A phòng xây lên ba trăm dặm đã đủ chưa? Họ Sử đất Kim Lăng vẫn ở không vừa.) Lớn lên Sử tiểu thư kết hôn với Giả Đại Thiện ở Vinh Quốc phủ, sinh ra Giả Chính và Giả Xá. Lang quân bà chẳng may mất sớm, nhưng hai con trai Giả mẫu nhờ phúc ấm của ông cha mà đều được đặc cách phong quan, tập tước. Giả mẫu cũng vì thế mà được hưởng thụ cuộc sống viên mãn, xa hoa không kể xiết. Người ta còn gọi bà là Sử thái quân.
Trước hết, hãy bàn về khía cạnh vinh hoa phú quý của nhân vật này. Truyện có nhiều chi tiết nhỏ được cài đặt rất khéo léo, tôi xin chỉ ra bốn ví dụ nho nhỏ.
Thứ nhất là khi một thầy thuốc được mời vào thăm bệnh Giả mẫu.
Một lúc, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung đưa thày thuốc họ Vương vào. Thày thuốc không dám đi đường giữa, chỉ đi bên cạnh, theo Giả Trân bước lên thềm, có hai bà già đứng hai bên vén rèm, hai bà già nữa dẫn vào. Bảo Ngọc ra đón. Giả mẫu mặc chiếc áo khoác bằng da dê trắng, trong lót nhiễu xanh, ngồi trên sập. Hai bên có bốn a hoàn bé chưa để tóc, cầm phất trần, ống nhổ đứng hầu; lại có năm, sáu bà già đứng xếp hàng hai bên; đằng sau cái tủ bích sa, thấp thoáng có nhiều người mặc đồ xanh đỏ và đeo vàng ngọc. Thày thuốc không dám ngẩng đầu lên, chạy lại cúi chào.
Thế mới nói, muốn giàu chỉ cần một đời, nhưng muốn sang phải ít nhất ba đời mới đặng. Giả mẫu chẳng bộn bề trang sức trên người nhưng vẫn uy nghi như một vị thái hậu. Từ kiểu cách đón tiếp, a hoàn bà già hầu hạ vây quanh, cho đến những người “đeo vàng ngọc” đứng sau (Phượng Thư, Lý Hoàn, Vương phu nhân) – tất cả đều đóng vai trò bức nền làm toát lên vị trí cao quý của Giả mẫu.
Thứ nhì là ngày mừng thọ tám mươi tuổi của Giả mẫu. Hồng Lâu Mộng có nhiều bữa tiệc xa xỉ đến hoa cả mắt, song chúng ta chỉ cần chú ý đến chi tiết này:
Từ đầu tháng bảy, người đưa lễ thọ đến mừng liên tiếp không dứt. Bộ Lễ vâng chỉ ban cho một cái gậy bằng vàng dát ngọc, bốn súc đoạn màu, chén vàng bốn cái, bạc năm trăm lạng. Nguyên phi lại sai Thái giám đưa đến một tấm thọ tinh bằng vàng, một cái gậy trầm hương, một chuỗi hạt dà nam, một hộp hương phúc thọ, hai nén vàng, tám nén bạc, mười hai tấm đoạn màu, bốn cái chén ngọc. Ngoài ra từ thân vương, phò mã đến các quan văn võ lớn, nhỏ đi lại xưa nay đều có lễ mừng, không thể kể xiết được. Trong nhà đặt một cái bàn lớn trải thảm đỏ bày hết những đồ quý giá bên trên rồi mời Giả mẫu đến xem. Mấy hôm đầu, Giả mẫu còn cao hứng đến nhìn qua, sau chán không xem nữa, chỉ nói: “Bảo cháu Phượng nhận cả, hôm nào rảnh ta sẽ lại xem”.
Chỉ một con người đã quen sống trong sự giàu có, thừa thãi đến cùng cực mới có thể bộc lộ một thái độ “phớt tỉnh” như thế trước của cải. Có lẽ trong tám mươi năm cuộc đời, số lượng châu báu Giả mẫu nhìn qua đã quá nhiều, tới mức chúng không còn đem lại cảm giác ngạc nhiên hay thích thú gì cho bà nữa.
Thứ ba là tên gọi các a hoàn của Giả mẫu. Ngoại trừ Uyên Ương, tên bốn cô còn lại lần lượt là: Hổ Phách, Trân Châu (sau đổi thành Tập Nhân,) Phỉ Thúy, Pha Lê. Chi tiết này là ẩn dụ cho thân phận tôn quý của Giả mẫu – người chủ sở hữu tất cả những viên ngọc kia. Vinh hoa phú quý không dồn vào bà thì còn ai nữa.
Thứ tư là lần Giả mẫu cùng mọi người tới thăm Tiết phu nhân. Chỉ qua cách chọn màn cửa, Giả mẫu đã bộc lộ từ khiếu thẩm mỹ, biết người biết của, cho đến kiến thức sâu rộng:
Giả mẫu nhân trông thấy bức màn the treo trên cửa sổ đã cũ, liền bảo Vương phu nhân:
– Bức màn này khi mới treo, trông đẹp đấy, nhưng để lâu phai màu. Ngoài sân không có cây đào cây hạnh nào, mà trúc đã có lá xanh rồi. Cứ treo màn xanh không ăn màu. Ta nhớ nhà ta có những bức màn treo cửa sổ bốn năm màu kia mà. Ngày mai, bảo lấy thay bức màn này đi.
Phượng Thư nói:
– Hôm nọ cháu mở buồng kho, thấy trong hòm lớn có mấy tấm the “thuyền dực” (the mỏng như cánh ve sầu): màu ngân hồng, tấm thì dệt lối hoa chiết chi, tấm thì lưu vân biển bức (dơi bay theo đám mây), tấm thì bách điệp xuyên hoa (trăm con bướm hút nhuỵ hoa), màu vừa tươi, lại nhã, nhũn nhẹ. Nhưng không thấy thứ the như bà nói. Nếu có thứ ấy, đem ra làm nệm gấm thì chắc đẹp lắm.
Giả mẫu cười nói:
– Hừ! Người ta bảo mày cái gì cũng biết, cái gì cũng từng trải cả. Thế mà ngay thứ the ấy mày cũng không nhận ra được, rồi lại còn nói láo!
Mọi người đều cười, nhân nói:
– Chị đã từng trải đến mấy cũng còn kém cụ? Sao cụ không dạy bảo chị ta để cho chúng tôi cũng được nghe nhờ?
Phượng Thư cười nói:
– Bà ơi. Bà dạy cháu với!
Giả mẫu cười nói với Tiết phu nhân và mọi người:
– Loại the này có từ khi các người chưa đẻ kia. Chẳng trách được nó cho là thứ the “thuyền dực”, vì hai thứ gần giống nhau. Ai không biết thì bảo là the “thuyền dực”, nhưng tên nó là “nhuyễn yên la” (the mềm và mỏng như làn khói) kia.
Phượng Thư nói:
– Cái tên ấy cũng dễ nghe. Cháu đã lớn bằng này rồi, kể ra cũng đã được xem hàng mấy trăm thứ the, nhưng chưa được nghe tên ấy bao giờ.
Giả mẫu cười nói:
– Mày đã bao nhiêu tuổi? Biết được bao nhiêu thứ the? Lại dám nói láo! Loại nhuyễn yên la này chỉ có bốn màu: một là vũ quá thiên thanh (mưa tạnh trời xanh), hai là thu hương sắc (màu hoa mùa thu), ba là tùng lục, bốn là ngân hồng. Nếu đem ra làm màn hay che cửa sổ, trông xa như khói mù ấy, cho nên gọi là nhuyễn yên la. Màu ngân hồng lại có tên là hà ảnh sa (màu ráng trời) nữa. Bây giờ ngay the trong nội phủ nhà vua thường dùng, cũng không có thứ nào như thế.
Tiết phu nhân cười nói:
– Không cứ chị Phượng, chính tôi cũng chưa nghe thấy bao giờ.
Qua đoạn trên, không chỉ Phượng Thư mà tất cả người đọc đều nhờ Giả mẫu mà được mở rộng tầm nhìn. Ai ngờ chỉ mấy miếng the mỏng manh mà chứa cả một bề dày văn hóa! Qua nhân vật Giả mẫu, Tào Tuyết Cần đã khắc họa sự cầu kỳ, tinh tế trong cách thưởng ngoạn của giai cấp quý tộc nhà Thanh. Cái đẹp của Hồng Lâu Mộng nằm chính ở những chi tiết nhỏ như vậy.
Thế nhưng nếu Giả mẫu chỉ có giàu sang, sành sỏi thì quá đơn giản. Sự thực là Tào Tuyết Cần đã dựng lên một Giả mẫu đáng yêu, đáng kính, nhưng cũng đôi lúc đáng ghét và cả đáng thương nữa. Sở dĩ có nghịch lý đó là bởi Giả mẫu luôn cư xử như một đứa trẻ được nuông chiều, bất chấp việc bà đã lên chức cụ và có các chắt riêng (Giả Lan, Xảo Thư.) Dựa vào đâu để nói rằng Giả mẫu vẫn giữ tính cách trẻ con?
Giả mẫu: đứa trẻ bất chấp và thiên vị
Thứ nhất, Tào Tuyết Cần đã tóm lược tính cách Giả mẫu một cách chính xác: “Giả mẫu tuy có tuổi, nhưng vẫn thích các cuộc vui”. Đọc Hồng Lâu Mộng là thấy rõ Giả mẫu hầu như luôn là người khởi xướng các buổi liên hoan, tiệc tùng, xướng ca,… Bà thích tụ họp đông người, nếu không “đánh bài với vợ bọn quản gia,” thì cũng lịch kịch dẫn mọi người đi thăm các cháu gái, thăm bà dì, thăm cô Diệu Ngọc,…
Ưa xôm tụ, sợ cô đơn là tính cách thường thấy ở người già, nhưng trong cái ham vui của Giả mẫu còn có sự tùy hứng và vô tư của trẻ thơ. Quý phi Nguyên Xuân gửi về nhà câu đố đèn ngày Nguyên tiêu, Giả mẫu cũng sai làm gấp một cái đèn lồng to đẹp để mở hội, lại bày chè thơm, quả tươi, đồ chơi làm phần thưởng. Thấy Bảo Cầm mặc áo đỏ đứng cạnh hoa mai lộng lẫy quá, bà lập tức ra lệnh cho Tích Xuân phải họa lại cảnh tượng đó bằng được, để cô cháu thừ ra chẳng biết vẽ sao. Nhân dịp cây hải đường trổ hoa trái mùa, bà đòi bày tiệc thưởng hoa dù cảnh nhà đang khó khăn. Ngay cả khi gia đình đã lụn bại đến cùng kiệt, bà vẫn khăng khăng tổ chức sinh nhật cho cháu dâu là Bảo Thoa, và giận dỗi khi mọi người tỏ vẻ buồn! Như một đứa trẻ hay đòi hỏi, Giả mẫu muốn tất cả những ước muốn (nhiều khi là ích kỉ của bà) được thực thi, bất chấp hoàn cảnh thực tế có cho phép hay không.
Thứ hai, Giả mẫu lớn tuổi song cách bà đối xử với con cháu lại không công bằng như một người từng trải lẽ ra phải thế. Có con yêu, con ghét cũng là thường tình, song Giả mẫu dường như không buồn giấu giếm sự thiên vị của mình. Khi bà cưng ai (Bảo Ngọc, Tương Vân, Bảo Thoa,…) thì đối xử với họ như thiên thần, khi bà hắt hủi ai thì người đó phải chịu ấm ức. Sự lệch lạc trong cách Giả mẫu chia sẻ tình cảm không qua mắt được các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng. Cô nàng Phượng Thư cũng ỷ mình được Giả mẫu yêu chiều nên mới có thể pha trò trêu bà, mặc dù trong sự đùa cợt có hàm ý nói Giả mẫu biệt đãi Bảo Ngọc:
– Bà làm lễ sinh nhật cho các cháu, thế nào không được, còn ai dám nói? Nhưng bà lại sửa cả tiệc rượu nữa kia à? Muốn cho bữa tiệc vừa vui vừa nhộn, bà cũng nên bỏ ra một số tiền nữa! Nay chỉ trơ có hai mươi lạng bạc mốc meo này chi vào tiệc rượu, ý chừng bà muốn bắt các cháu phải bù nữa chăng? Nếu quả không có tiền đã đành, nhưng vàng bạc, thoi tròn, thoi dài, để phũng cả đáy hòm, chỉ tội làm phiền cho các cháu. Bà thử nghĩ xem, ai chẳng là cháu? Sau này chẳng lẽ chỉ có một mình chú Bảo rước bà lên Ngũ Đài Sơn thôi à? Sao cái gì bà cũng ki cóp để dành cho chú ấy! Chúng cháu tuy không đáng được dùng của này, nhưng bà cũng không nên làm rầy chúng cháu. Món tiền này liệu có đủ sửa tiệc rượu và bày trò chơi không?
Thế nhưng đối với ông cả Giả Xá thì khác. Mẹ yêu em trai Giả Chính hơn ông ta, lại yêu con trai Giả Chính (Bảo Ngọc) hơn con trai ông ta (Giả Liễn). Sự uất ức của Giả Xá được giấu rất kín, thậm chí chưa chắc Giả Xá đã dám tự thừa nhận với bản thân. Người đọc chỉ thấy nỗi niềm của Giả Xá được hé lộ qua câu chuyện vui ông ta kể nhân một buổi tiệc:
– Một nhà có một đứa con rất là hiếu thuận. Không may bà mẹ bị bệnh, tìm thầy chạy thuốc các nơi không được. Người con mời ngay một bà biết châm cứu đến. Bà này không biết xem mạch, chỉ bảo là bệnh tâm hỏa, châm một mũi là khỏi thôi. Người con sợ quá, hỏi: “Tim mà gặp phải sắt thì chết, châm thế nào được?” Bà lang nói: “Không cần phải châm vào tim, chỉ châm vào bên hông là được rồi”. Người con nói: “Hông cách tim xa, châm vào đó khỏi thế nào được?” Bà lang nói: “Không việc gì đâu. Anh không biết thiên hạ làm bố mẹ, nhiều tim rất là thiên lệch.”
Mọi người nghe nói đều cười lên. Giả mẫu cũng phải uống nửa chén rượu, ngồi một lúc rồi cười bảo:
– Nếu ta được bà lang ấy châm cho một cái thì cũng tốt đấy.
Giả Xá nghe vậy, biết là mình nói sỗ sàng để Giả mẫu nghi ngờ, liền đứng dậy cười, dâng chén mời Giả mẫu rồi nói lảng sang chuyện khác. Giả mẫu cũng không tiện nhắc, lại làm luôn tửu lệnh.
Đối với Đại Ngọc thì còn bi kịch hơn thế, bởi khi mới về nhà họ Giả nàng được Giả mẫu vô cùng thương yêu. Chính truyện đã viết:
Nay nói Lâm Đại Ngọc từ khi đến phủ Vinh, được Giả mẫu thương yêu muôn phần, ăn ở đi đứng, nhất nhất đều như Bảo Ngọc, ngay Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân cũng không bằng.
Thế nhưng vật đổi sao dời, Đại Ngọc dần rớt khỏi vị trí được cưng chiều trong tim Giả mẫu. Giả mẫu không thẳng thắn hắt hủi cô cháu gái, nhưng thái độ lạnh lùng, xa cách của bà đủ khiến tâm hồn nhạy cảm của Đại Ngọc rỉ máu. Đại Ngọc lại càng không thốt ra nửa lời oán trách, nhưng nỗi ê chề, tủi hổ chất chứa trong tâm nàng không có chỗ giải toả đã hóa thành một cơn ác mộng, khiến cho người đọc không khỏi xót xa thương cảm:
Đại Ngọc vội vàng qùy xuống, ôm lấy chân Giả mẫu mà nói:
– Bà cứu cháu với! Về Nam thì chết cháu cũng không về. Vả lại đó là kế mẫu không phải mẹ đẻ cháu. Cháu xin ở đây với bà thôi.
Nhưng thấy Giả mẫu mặt mày lạnh lùng cười nói:
– Cái đó không can gì đến ta.
Đại Ngọc khóc nói:
– Bà ơi, sao lại thế?
– Làm vợ kế cũng tốt, lại được thêm một bộ đồ nữ trang.
– Cháu ở đây với bà, quyết không tiêu pha quá đáng đâu, chỉ xin bà cứu cháu.
– Không ăn thua đâu! Làm con gái nhất định là phải đi lấy chồng, cháu còn bé không biết đấy thôi, không thể ở đây mãi được đâu cháu ạ.
– Cháu ở đây tình nguyện làm người con hầu làm lấy mà ăn, cũng cứ vui lòng, xin bà làm chủ cho.
Thấy Giả mẫu không nói gì cả. Đại Ngọc lại ôm lấy Giả mẫu mà khóc:
– Bà ơi xưa nay bà rất từ bi, lại rất yêu cháu, sao đến khi nguy cấp bà lại bỏ cháu đi như thế? Cháu tuy là cháu ngoại bà, đã cách một tầng, nhưng mẹ cháu là con đẻ của bà, bà nghĩ đến mẹ cháu xin bà bênh vực cho cháu với.
Đại Ngọc vừa nói vừa đâm đầu vào lòng Giả mẫu, khóc lóc thảm thiết. Nghe Giả mẫu gọi: “Uyên Ương, mày đưa cô đi nghỉ, nó quấy tao mệt quá”.
Vậy thì nhà họ Giả có một bà cụ thích vui chơi hội họp, trong đám con cháu có thiên vị đứa này đứa kia, đôi lúc còn trẻ trung yêu đời đến mức “chọn một cành cúc đỏ cài lên mái tóc” (hồi 40.) Xét cho cùng, đấy cũng không phải bi kịch gì lớn lắm. Vấn đề của gia đình này nằm ở chỗ: từ ông trưởng tộc cho đến đứa hầu, đều răm rắp làm theo mọi ý nguyện của bà. Mọi ý muốn to nhỏ của bà đều được coi là thánh chỉ. Nói có sách mách có chứng, tôi có thể chỉ ra vô số trường hợp Giả mẫu được o bế chiều chuộng như một “Lão phật gia.”
Giả mẫu hỏi Bảo Thoa thích nghe vở hát gì? Muốn ăn thức ăn gì? Bảo Thoa vốn biết Giả mẫu tuổi già, thích nghe những vở hát vui nhộn, thích ăn những đồ ăn nhừ, ngọt, liền chọn cái gì Giả mẫu thường thích, kể ra một lượt. Giả mẫu lại càng vui.
Khi chấm vở, Giả mẫu bảo Bảo Thoa chấm. Từ chối mãi không được, Bảo Thoa đành phải chấm một hồi trong vở Tây Du Ký. Giả mẫu vui lắm, lại bảo Phượng Thự. Phượng Thư biết Giả mẫu thích vui, thích cười đùa, nên chấm ngay vở “Lưu Nhị đương ỳ”. Giả mẫu lại càng vui.
Giả mẫu đã già, nhưng sở thích “vở hát vui nhộn, ăn đồ nhừ ngọt” của bà rõ ràng là ám chỉ cho tính cách trẻ thơ. Bảo Thoa tính tình khôn ngoan đã sớm nắm rõ điều này, đó là lý do nàng dễ dàng chiếm được cảm tình Giả mẫu, trở thành một ứng cử viên nặng ký cho ngôi vị nguyên phối của Bảo Ngọc.
Giả Chính vội cười:
– Vâng, xin chịu phạt; nếu đoán đúng, xin bà thưởng cho.
– Cái ấy cố nhiên.
Rồi giả mẫu đọc luôn:
– Con khỉ lơ lửng bám trên cành (Đố tên một thứ quả).
Giả Chính biết ngay là quả vải, nhưng cố ý đoán sai, để chịu phạt mấy thứ rồi mới đoán đúng. Giả mẫu lại thưởng cho mấy thứ. Sau Giả Chính lại đọc một câu đố để Giả mẫu đoán:
– Mình thì vuông vắn, chất thì cứng rắn, tuy không biết nói, trả lời đúng đắn. (Đố một thứ đồ dùng).
Ông ta đọc xong, rồi khẽ bảo Bảo Ngọc. Bảo Ngọc biết ý, khẽ đến gà Giả mẫu. Giả mẫu nghĩ một lúc cho là đúng, liền nói:
– Đó là cái nghiên.
Giả Chính cười nói:
– Bà đoán một lần đúng ngay.
Rồi quay lại bảo đem đồ mừng đến. Bọn hầu vâng lời mang hết khay lớn, khay nhỏ lên. Giả mẫu xem từng cái một, đều là đồ mới đẹp, để dùng vào ngày hội hoa đăng cả, trong bụng rất vui.
Đây là một đoạn đặc biệt thú vị. Chỉ là một trò đố vui giữa người nhà thôi mà đã lắm trò giả vờ như vậy! Xuất phát từ lòng hiếu thảo, Giả Chính đã vô tình đối xử với Giả mẫu như một đứa trẻ cần được che chở, lại lôi kéo cả Bảo Ngọc vào. Hành vi bợ đỡ Giả mẫu rõ ràng có tính chất “cha truyền con nối,” nên không có gì lạ khi nó bao trùm luôn cả câu chuyện. Qua sự kiện này, việc người nhà họ Giả bao che, giấu giếm, lừa dối Giả mẫu khi gia cảnh suy sụp không còn đáng ngạc nhiên nữa. Đến tận khi gia tộc gặp cảnh kiệt cùng nhất, Giả mẫu mới ngỡ ngàng:
Giả mẫu thấy chức tước của cha ông để lại bị cách mất, con cháu đang bị giam, chờ ngày tra hỏi. Hình phu nhân và Vưu thị đêm ngày khóc lóc. Phượng Thư bệnh tình nguy cấp, tuy có Bảo Ngọc, Bảo Thoa ở bên cạnh, nhưng chỉ có thể khuyên giải chứ không thể chia nỗi lo âu được. Vì thế, đêm ngày phiền muộn, lo trước nghĩ sau, nước mắt không bao giờ khô.
[…]
Giả mẫu nghe nói hoảng hốt, chảy nước mắt, và nói:
– Làm sao thế? Nhà mình mà đến nông nỗi ấy à. Ta tuy chưa từng trải, nhưng nghĩ bên nhà ta ngày trước so với bên này còn hơn gấp mười. Cũng chỉ vì lo tô điểm hảo bộ mặt bề ngoài, nên sau mấy năm không xảy ra việc như ở bên này. Nhưng cũng đã suy sụp. Không đầy hai năm là sạch cả! Theo như anh nói, thì nhà mình không thể chèo chống được một vài năm nữa à.
*
Giả mẫu : may còn được người viết về cuối rủ lòng thương
Giả mẫu tính tình trẻ con chưa nguy hại bằng việc người nhà dung túng điều đó. Nếu Giả mẫu chỉ ngồi một chỗ tĩnh dưỡng, thi thoảng bày cuộc vui chơi thì có lẽ cũng chưa đến nỗi. Điều đáng nói là Giả mẫu còn trực tiếp nhúng tay, gây ảnh hưởng đến việc vận hành của gia tộc. Thử nghĩ mà xem, một người già dù có minh mẫn sáng suốt đến mấy cũng khó có đủ trí lực để quyết định những việc lớn trong nhà, nữa là một bà cụ nông nổi như Giả mẫu. Việc này để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Thứ nhất, trong nhà, Giả mẫu yêu thích và giao phó hết việc nhà cho Phượng Thư cũng bởi nàng có cái miệng giỏi bông đùa, biết cách làm Giả mẫu bật cười. Nàng lại khéo đón ý, đưa đẩy, bày trò, tỷ như lúc mời già Lưu vào nói chuyện với Giả mẫu… Phượng Thư lợi dụng sự yêu chiều, tin cậy của Giả mẫu để lạm quyền, góp phần đưa nhà họ Giả lâm vào cảnh bi đát thế nào thì không cần nói nữa.
Thứ hai, Giả mẫu quá yêu chiều Bảo Ngọc đến mức bất chấp cả
những quy tắc ứng xử thông thường. Bảo Ngọc từ nhỏ đã sống ở cạnh các
chị em, điều này đến khi cậu ta lớn vẫn không thay đổi. Giả Chính,
Nguyên Xuân đều thấy điều này không hợp tình hợp lý, nhưng mấu chốt là
họ vẫn muốn chiều ý Giả mẫu, thế nên mới có cảnh một cậu công tử dọn vào
Đại Quan viên ở với một dàn tiểu thư:
(Nguyên Xuân) Lại nghĩ đến Bảo Ngọc không như các anh em khác, từ bé đến lớn vẫn ở luôn với đám chị em; nếu không cho sang đây, sẽ làm cho cậu ta buồn, mà Giả mẫu và Vương phu nhân cũng không được vui. Vậy nên cho Bảo Ngọc ở luôn đấy mới phải.
Giả Chính chẳng ưa Bảo Ngọc, nhưng không có nghĩa ông ta hoàn toàn phó mặc đứa con trai này. Trong lòng Giả Chính luôn canh cánh nỗi lo sợ Bảo Ngọc sẽ đi vào con đường sai, vì thế ông thường xuyên tìm cách uốn nắn Bảo Ngọc mỗi khi có cơ hội. Nhưng sự dạy dỗ của ông luôn vướng phải sự cản trở của Giả mẫu. Khi Giả Chính bắt Bảo Ngọc làm một việc đơn giản (đặt câu đối), ông cũng không dám giữ cậu ta lại lâu vì sợ Giả mẫu “không yên lòng”. Mỗi khi Giả Chính tìm gọi Bảo Ngọc thì một tấn trò hề sẽ xảy ra như sau:
Bảo Ngọc sa sầm nét mặt, mất vui, ngồi ngẩn ra một lúc, rồi uốn éo níu chặt lấy Giả mẫu, không chịu đi.
Giả Mẫu an ủi:
– Của quí của bà này! Cháu cứ đi, đã có bà. Cha cháu không dám làm rầy rà cháu đâu.
Giả mẫu nói xong, gọi hai bà già đến dặn: “Đưa cậu Bảo sang, và chớ để ông làm cho cậu ấy sợ”.
Lần duy nhất Giả Chính dùng đòn roi để răn đe Bảo Ngọc thì vấp phải sự cản trở quyết liệt bằng… nước mắt của Giả mẫu. Kết quả là Giả Chính, Giả Xá sợ Giả mẫu khóc lóc sinh ốm, vừa tốn công lại mất của, quá trình dạy con của Giả Chính lại một lần nữa trở thành công cốc công cò. Ngay cả khi Bảo Ngọc bị ốm, bị đau, nỗi lo đầu tiên của Vương phu nhân không phải sự an nguy của con trai mà là sợ Giả mẫu biết! Sự nâng niu của Giả mẫu với Bảo Ngọc khiến cậu ta bị Giả Hoàn căm ghét, rồi bị dì Triệu thuê phù thủy hãm hại đã đành, nó còn tạo ra một khoảng cách không thể cứu vãn với Giả Chính, khiến Bảo Ngọc mãi mãi không thể trưởng thành về mặt nhận thức. Mà đây lại là niềm hy vọng của cả nhà họ Giả! Đủ biết Giả phủ người tuy nhiều nhưng đã không còn ai nữa rồi.
Cuối cùng, văn hóa sùng bái cá nhân (Giả mẫu) trong xã hội nhỏ (Giả phủ) đã tạo nên sự chia rẽ không hề nhỏ. Trong số những người xu nịnh, chiều chuộng Giả mẫu, mấy ai thực sự yêu quý bà? Số đông vây quanh Giả mẫu chỉ vì muốn nâng cao địa vị bản thân, nhân đó o ép người khác. A hoàn Uyên Ương lúc sống gắn bó với Giả mẫu, lại tự tử sau khi Giả mẫu qua đời, nhưng lý do thực là nàng sợ Giả Xá không còn úy kị mẹ già sẽ nhân đó làm ô uế thân nàng. Những kẻ bị “ra rìa” lại càng không tránh khỏi bị cô lập, ghẻ lạnh, thậm chí ngược đãi (Hình phu nhân, Vưu nhị thư). Ta thấy một gia tộc bề thế, giàu có, “tứ đại đồng đường,” nhưng bên trong rặt những mưu mô, xảo trá, đố kỵ lẫn nhau, chẳng hề thấy tinh thần đoàn kết hay sự quan tâm thực lòng. Dù Giả mẫu không hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc này, nhưng khi hệ thống thưởng-phạt và bộ máy vận hành của một gia tộc đều dựa trên sự chiếu cố của một bà lão thì gia tộc đó chỉ là hữu danh vô thực.
Cuối truyện, Giả mẫu đã “bù đắp” lại cho gia đình lụn bại bằng cách phân phát hết tài sản ki cóp cho con cháu. Có thể nói đây là một sự chuộc tội nhằm cân bằng lại những thiếu sót trong tính cách của nhân vật này:
Giả mẫu gọi Hình phu nhân và Vương phu nhân cùng bọn Uyên Ương mở rộng đổ hộp lấy ra hết cả những đồ vật dành dụm từ khi làm dâu đến nay, lại gọi bọn Giả Xá, Giả Chính, Giả Trân đến chia cho từng phần rõ ràng. Giả mẫu cấp cho Giả Xá ba ngàn lạng và nói:
– Số bạc hiện có ở đây, anh đem đi hai ngàn làm tiền tiêu để một ngàn cho chị ấy tiêu riêng. Đây có ba ngàn lạng cho cháu Trân, nhưng chỉ được đưa đi một ngàn lạng, để lại hai ngàn lạng cho vợ cháu giữ lấy. Ai nấy tự lo lấy sinh sống. Nhà cửa thì ở chung với nhau, cơm nước thì ăn riêng. Việc hôn nhân của con Tư sau đây cũng là việc của ta. Tội nghiệp con Phượng lo liệu bấy lâu bây giờ sạch không, cũng cho nó ba ngàn lạng, giao cho nó giữ lấy không cho cháu Liễn tiêu. Giờ đây nó còn ốm mê mệt thì bảo con Bình đến mà nhận về. Đây là xiêm áo của cha ông để lại cả áo quần và đồ trang sức của ta dùng khi còn nhỏ, nay ta không dùng đến. Đồ đàn ông thì bảo ông Cả, cháu Liễn, cháu Trân, cháu Dung đem ra mà chia nhau. Đồ đàn bà thì bảo bà Cả, vợ cháu Trân và con Phượng đem mà chia nhau. Đây có năm trăm lạng bạc giao cho cháu Liễn, sang năm đưa linh cữu con Lâm về Nam.
Giả mẫu phân phát xong, lại nói với Giả Chính:
– Anh nói còn mắc nợ người ngoài, việc đó cũng không thiếu được. Anh bảo đem số vàng này bán đi mà trả cho người ta. Đó là bọn chúng nó phá mất của ta đấy. Anh cũng là con ta, ta không hề có thiên vị. Bảo Ngọc đã nên cửa nên nhà, những vàng bạc và đồ vật còn lại đây ước chừng mấy ngàn lạng, đều đã cho nó cả. Vợ cháu Châu xưa nay ăn ở hiếu thuận với ta, thằng chắt Lan cũng tốt, ta cũng chia cho mẹ con nó ít nhiều. Thế là công việc của ta xong xuôi.
Bọn Giả Chính thấy Giả mẫu phân xử sáng suốt như thế, đều quỳ xuống khóc và nói:
– Tuổi già như thế, bọn chúng con chưa có chút gì hiếu thuận. Giờ đây lại chịu ơn của người thế này. Thật bọn chúng con lấy làm xấu hổ!
Phải nói người viết đã rủ lòng thương Giả mẫu, vẫn để cho bà được lần cuối sưởi ấm trong sự kính trọng (lần này mới tự đáy lòng) của con cháu. Chúng ta cũng vì cử chỉ đẹp ấy mà quên đi những sai lầm của Giả mẫu. Nếu không vì chi tiết này, có lẽ hình ảnh của Giả mẫu đọng lại trong người đọc chỉ là sự tủi hổ của tuổi già!
*
Giả Nghênh Xuân : rúc đầu vào sách, bịt mắt bưng tai
“Giả phủ tứ xuân” trong Hồng Lâu Mộng giống như một bộ tranh tứ quý: Nguyên Xuân phong lưu quý phái, Nghênh Xuân văn nhã ôn nhu, Thám Xuân sắc sảo khôn ngoan, Tích Xuân thanh tịnh khác đời. Thế nhưng chữ đầu của bốn cái tên hợp lại (Nguyên Nghênh Thám Tích – 元迎探惜) lại hài âm với cụm từ “đáng phải thở than” (Nguyên Ưng Thán Tức – 原应叹息) đủ thấy cuộc đời họ trước sau đều không có hậu.
Trong bốn cô Xuân thì Nghênh Xuân là người có tính cách hiền lành nhất. Những tưởng ông trời sẽ rộng lòng cho nàng được bình an, nhưng Nghênh Xuân lại chết trong cô đơn và đau đớn. Số phận Nghênh Xuân quả thật dễ khiến người ta chán ngán và mất niềm tin vào cuộc đời.
Nghênh Xuân là con gái của ông cả Giả Xá với nàng hầu, lại là phận nữ, thế nên địa vị của nàng kém xa người anh cùng cha khác mẹ Giả Liễn và cô vợ đanh đá Vương Hy Phượng. Nhưng điều đó không khiến Nghênh Xuân phải bận lòng. Trong ba người chị em họ của nàng, Nguyên Xuân “số đẻ bọc điều” nhưng lại muốn từ bỏ sự xa hoa, Thám Xuân là con phượng hoàng cao quý bất mãn với số phận, Tích Xuân coi tất cả danh lợi đều là không. Chỉ có Nghênh Xuân thực sự hài lòng với những gì mình có, không hề buông lời ca thán. Ngay từ vẻ bên ngoài, Nghênh Xuân đã tạo cho người đối diện cảm giác gần gũi dễ chịu:
Cô thứ nhất, người nở nang, tầm thước, nước da nõn nà, má đỏ hồng hào như quả vải tươi, mũi loáng như xoa mỡ, tính nết ôn hòa kín đáo, thoạt nhìn đã thấy mến.
Bề mặt Giả Phủ tưởng chừng sóng yên gió lặng nhưng bên trong đầy cạm bẫy. Từ tiểu thư bà lớn đến con hầu người ở đều giành giật, đấu đá, trên đội dưới đạp hòng nâng cao địa vị. Đến cả Đại Ngọc cao quý là thế vẫn ngấm ngầm so sánh ghen tuông với Bảo Thoa, Tương Vân. Riêng Nghênh Xuân đứng ngoài tất cả. Giả Xá và Hình phu nhân thờ ơ bỏ bê nàng, nàng cũng không màng tới. Các chị em trong Đại Quan viên đều có tài riêng: Đại Ngọc, Bảo Thoa văn hay chữ tốt, Tích Xuân có năng khiếu hội hoạ, Thám Xuân tính toán khôn ngoan,… riêng Nghênh Xuân mờ nhạt. Mỗi khi tụ tập thi xã nàng thường lép vế, khi Quý phi truyền các chị em làm câu đố gửi vào cung nàng cũng xếp hạng chót. Thế nhưng Nghênh Xuân cũng không vì thế mà ấm ức phiền muộn. Dường như Nghênh Xuân đã đạt đến mức “vô vi.” Sau đây là nhận xét của bọn người dưới về Nghênh Xuân:
Còn cô Hai thì gọi đùa là “cô hai gỗ”, châm kim vào người cũng không biết “ái” lên một tiếng.
[…] Nghênh Xuân… một người thì có xác không hồn, tự mình không trông nom chu tất nổi mình, còn trông nom người khác sao được.
Nghênh Xuân lựa chọn cách sống như vậy, thật ra cũng chẳng có hại gì tới ai. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, thấy nàng như con cừu non yếu đuối nên kẻ dưới bèn tự tung tự tác. Dấu hiệu “có vấn đề” đầu tiên là khi bà vú nuôi của Nghênh Xuân ăn cắp đồ trang sức của nàng để đi đánh bạc.
Vì vú nuôi bị tội, Nghênh Xuân trong bụng khó chịu, thấy mẹ đến, liền ra mời vào. Uống nước xong, Hình phu nhân nói:
– Con đã lớn rồi, vú nuôi của con làm bậy như thế, sao con không răn bảo. Hiện giờ người ta đều tử tế cả, riêng người nhà mình là xấu thôi. Thế là nghĩa thế nào?
Nghênh Xuân cúi đầu mân mê tà áo, một lúc mới thưa:
– Con đã bảo bà ấy hai lần, nhưng bà ấy không nghe, con cũng chẳng biết làm thế nào cả. Vả chăng bà ấy là vú nuôi, chỉ có bà ấy bảo được con thôi, chứ con không thể bảo được bà ấy.
Hình phu nhân nói:
– Nói nhảm! Con có điều không phải thì vú ấy bảo con; nhưng vú ấy phạm pháp, thì con phải lấy tư cách là cô mà răn bảo. Nếu vú ấy không nghe, con trình mẹ biết mới phải. Bây giờ vỡ lở ra, người ngoài biết, còn ra làm sao nữa! Hơn nữa vú ấy là nhà gá bạc, cũng đã nói khôn nói khéo, mượn trâm vòng quần áo của con đi cầm để làm tiền vốn. Con là người nhẹ dạ cả nể, chắc đâu không giúp đỡ ít nhiều. Nếu bị vú ấy lừa mất, thì ta một đồng không có, rồi đây ngày tết, con lấy gì mà ăn mặc?
Nghênh Xuân cúi đầu mân mê tà áo không nói gì cả.
Thừa dịp vú nuôi Nghênh Xuân bị tội, Hình phu nhân bèn tranh thủ nói xấu một loạt từ Giả Liễn, Phượng Thư, Thám Xuân, nhân tiện chửi xéo cả dì Triệu. Hình phu nhân vốn là người nhỏ nhen, đứa hầu bên cạnh lại thừa dịp đổ thêm dầu vào lửa:
[…]
Hình phu nhân thấy vậy cười nhạt:
– Rút cuộc, chỉ có anh con, chị dâu con là tiếng tăm lừng lẫy thôi! Cậu hai Liễn! Mợ Phượng! Cả hai làm trời làm đất, việc gì cũng thu xếp đâu vào đấy, nhưng có một cô em thì lại chả để ý gì đến. Nếu như con ta đẻ ra, thôi thì mặc kệ chúng. Nhưng con lại không phải con đẻ của ta. Con với anh con, dù khác mẹ, vẫn là cùng cha, phải nên chăm sóc lẫn nhau một chút, đừng để người ngoài chê cười. Ta nghĩ, việc đời khó mà liệu định được. Con là con nàng hầu của ông Cả, con Thám Xuân là con nàng hầu của ông Hai. Hai đứa đều như nhau cả. Mẹ con đã chết rồi. Nhưng kể ra, mẹ con còn giỏi gấp mười dì Triệu, đáng lẽ con cũng phải hơn con Thám Xuân mới phải.
Một người đứng hầu bên cạnh thừa dịp nói:
– Cô tôi hiền lành phúc hậu, có đâu như cô Ba là người mồm mép láu lỉnh, làm em lại cứ đành hanh. Biết chị như vậy, cô ấy chẳng vị nể chút nào.
Hình phu nhân nói:
– Anh chị ruột còn như vậy, trách gì người ngoài.
Một đoạn ngắn ngủi ấy đủ cho ta thấy tình trạng hằn thù ganh ghét, “thập diện mai phục” trong Giả phủ như thế nào, nhưng Nghênh Xuân vẫn kiên quyết đứng ngoài. Đỉnh điểm của vụ lùm xùm này là khi nhà bà vú Nghênh Xuân to gan… kiện ngược lại Nghênh Xuân, vu oan rằng nàng vay tiền của họ. Chứng kiến sự láo xược đó không ai khỏi tức đầy trong ruột, nhưng Nghênh Xuân lại vẫn bình chân như vại. Đoạn sau thật là một vở bi hài kịch:
Ngờ đâu nàng dâu vú nuôi Nghênh Xuân là vợ Ngọc Trụ, vì mẹ chồng có tội, đến nhờ Nghênh Xuân xin hộ. Thấy họ đương nói chuyện mất dây vàng, nên chưa vào vội. Biết Nghênh Xuân ngày thường là người nhu nhược, nên chúng không coi vào đâu.
[…]
Nghênh Xuân nói:
– Chị ơi, chị đừng có nghĩ mơ hồ như thế! Nếu đợi tôi đi xin hộ, thì chờ đến sang năm cũng chẳng ăn thua gì. Vừa rồi chính chị Bảo và cô Lâm đến xin hộ, cụ còn chẳng nghe nữa là nữa tôi. Tự tôi đã thấy ngượng rồi, lại đi mua thêm lấy cái ngượng nữa sao?
[…]
Vợ Ngọc Trụ thấy Nghênh Xuân dứt khoát từ chối, Tú Quất nói lại đanh thép, không biết trả lời ra sao, bị bẽ mặt quá, nhưng biết rõ Nghênh Xuân xưa nay là người dễ dãi, liền quay lại bảo Tú Quất:
[…]
Nghênh Xuân nghe thấy vợ Ngọc Trụ nói lộ việc riêng của Hình phu nhân, liền gạt đi, nói:
– Thôi, thôi! Không đòi được dây vàng về thì thôi, chị đừng có vơ quàng vơ xiên làm ầm lên nữa. Tôi cũng chẳng cần đến dây vàng. Nếu các bà có hỏi, tôi chỉ nói là đánh mất, cũng chẳng can hệ gì đến chị. Chị về nghỉ thôi.
Rồi cô ta sai Tú Quất đi pha nước. Tú Quất tức giận, nói:
– Cô tuy không sợ, nhưng còn cháu đây để làm gì? Họ đã làm mất đồ vật của cô, lại còn nói bậy là cô tiêu tiền của họ, bây giờ phải khấu trừ đi. Nếu bà Hai hỏi cô tại sao tiêu hết bấy nhiêu tiền và cho là chúng cháu nhờ bão bẻ măng, ăn bớt xén gì chăng? Như vậy sao được.
Tú Quất vừa nói vừa khóc. Tư Kỳ nghe thấy không chịu được cố gượng dậy, bênh vực Tú Quất, hỏi vặn lại vợ Ngọc Trụ. Nghênh Xuân không can nổi, đi lấy quyển “Thái thượng cảm ứng thiên” ra xem.
“Thái thượng cảm ứng thiên” là pho sách dạy chúng sinh bỏ ác hướng thiện, câu đầu tiên như sau: Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình. (Họa và phúc đều không có cửa mà là do lòng người tự gây, làm ác thì gặp họa, làm lành thì được phúc, sự báo ứng như hình đi với bóng, không sai một mảy may.) Nghênh Xuân tin vào quy luật rạch ròi trong sách, nàng cho rằng chỉ cần mình một lòng hướng thiện ắt sẽ được báo đáp như vậy. Mỗi khi có chuyện xảy ra, phản ứng duy nhất của Nghênh Xuân là bưng tai bịt mắt, không nghe không thấy, chúi vào đọc sách như con đà điểu rúc đầu trong cát. (Thám Xuân nhìn qua cửa sổ, thấy Nghênh Xuân ngồi tựa trên giường xem sách, như không nghe thấy gì. Thám Xuân cũng buồn cười). Nếu Thám Xuân không xắn tay vào can thiệp thì chẳng ai biết sự việc sẽ đi tới đâu. Sau khi mọi việc đã được giải quyết êm đẹp, Nghênh Xuân vẫn điềm tĩnh như không:
Nghênh Xuân vẫn ngồi xem “Thiên cảm ứng” với Bảo Thoa, không để ý đến những câu nói của Thám Xuân. Thấy Bình Nhi nói thế, liền cười:
– Chị hỏi tôi à, tôi cũng chẳng có cách gì cả. Họ làm bậy thì họ phải chịu lấy tội, tôi không thể xin hộ được. Tôi chẳng đi xin ai và cũng chẳng trách họ là được rồi. Những vật ăn cắp, đưa trả thì tôi nhận, nếu không trả tôi cũng chẳng cần. Các bà có hỏi, tôi che chở được thì phúc cho họ, nếu không giấu nổi, tôi cũng không biết làm sao được. Không có nhẽ vì họ mà tôi lại dối trá các bà, tất là phải nói thẳng ra. Các chị cho tôi là dễ tính, không biết quyết đoán, có cách gì chu toàn được mọi mặt, không để các bà giận thì tùy các chị định liệu, tôi cũng thây kệ.
Mọi người nghe nói đều bật cười. Đại Ngọc cười nói:
– Thật là “hùm sói đã ngồi trên thềm nhà vẫn còn nói chuyện nhân quả”. Nếu chị Hai là đàn ông thì những người trong nhà này cai quản thế nào được họ?
Nghênh Xuân cười:
– Đúng đấy! Biết bao nhiêu là đàn ông cũng còn như thế, huống chi là tôi.
Những cô gái trong Hồng Lâu Mộng đều là hạng phong lưu thoát tục, không dính vẩn đục mà còn thấy Nghênh Xuân ngô nghê đến tức cười, thì đủ biết sự hiền lành của nàng đến đâu. Câu nói của Đại Ngọc tưởng vô tình nhưng thực ra lại là điềm báo trước cho cuộc hôn nhân của Nghênh Xuân, bạn đọc nên lưu ý chỗ này.
Giả Nghênh Xuân : hiền quá khó mà gặp lành
Tào Tuyết Cần không chỉ dụng công đặt tên cho bốn cô Xuân, mà còn chú ý cả tên … bốn a hoàn phục vụ nữa. Người hầu thân tín của Nguyên Xuân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân lần lượt là Bảo Cầm, Tư Kỳ, Thị Thư, Nhập Họa, ghép thành Cầm-Kỳ-Thi-Họa là bốn thú vui tao nhã của các tiểu thư con nhà quý tộc. Chữ Kỳ trong tên Tư Kỳ vừa là cờ (vì thế mà trong bản dịch tiếng Anh tên nàng là Chess,) vừa đồng âm với chữ kỳ trong kỳ lạ. Khác hẳn với người chủ yếu đuối, Tư Kỳ có tính cách mạnh mẽ không nhường ai, nhưng lại một mực trung thành với Nghênh Xuân. Tình thầy trò khăng khít trong truyện giữa Nghênh Xuân-Tư Kỳ giống của chị em hơn là chủ tớ. Nhìn bên ngoài, Tư Kỳ dường như lấn át cả chủ, nhưng trên thực tế đó là sự bảo vệ. Về sau Tư Kỳ tư tình với anh họ nên bị đuổi khỏi Giả phủ, Nghênh Xuân từ đó mất đi một chỗ dựa. Thử nghĩ mà xem, vú nuôi phản bội, người hầu thân tín bị đuổi đi, cha ruột hờ hững, mẹ đã qua đời, một người nhút nhát như Nghênh Xuân làm sao có thể tự chủ? Bi kịch hôn nhân của nàng chỉ là chuyện một sớm một chiều mà thôi.
Giả Xá đã hứa gả Nghênh Xuân cho nhà họ Tôn. Họ Tôn người ở phủ Đại Đồng, ông cha xuất thân quan võ, là môn sinh của hai phủ Vinh, Ninh ngày trước, kể ra cũng là chỗ thân. Hiện giờ nhà họ Tôn chỉ có một người ở Kinh tập chức chỉ huy, người ấy tên là Tôn Thiệu Tổ, mặt mũi khôi ngô, thân thể hùng tráng, theo nghề cung mã, giao thiệp tinh khôn, chưa đầy 30 tuổi, nhà lại giàu có, hiện đương hậu bổ ở bộ binh để đợi thăng chức.
Giả Xá thấy anh ta chưa có vợ, lại là con cháu nhà thế gia, nhân phẩm và gia thế cũng đều xứng đáng, nên chọn làm giai tế. Việc này cũng đã trình Giả mẫu. Giả mẫu không bằng lòng, nhưng nghĩ việc vợ chồng là tự ý trời, cha nó đã đứng làm chủ thì việc gì phải dây vào cho lắm chuyện? Vì thế chỉ nói “biết rồi”, ngoài ra không tỏ ý gì nữa.
Giả Chính xưa nay vẫn ghét nhà họ Tôn, tuy là chỗ thế gia, chẳng qua ông nó ngày trước hâm mộ thế lực phủ Vinh, phủ Ninh, có những việc không thu xếp được, phải đến xin làm môn hạ, chứ không phải là dòng dõi thi thư. Ông ta đã khuyên ngăn mấy lần, nhưng Giả Xá không nghe, nên đành phải chịu.
Những người lớn trong nhà đã phủi tay bỏ mặc Nghênh Xuân từ đó. Nghênh Xuân xuất giá theo chồng, Tử Lăng Châu quạnh quẽ đìu hiu chỉ có Bảo Ngọc lâu lâu nhớ chị ra thăm chốn cũ. Tôn Thiệu Tổ là người thế nào?
Nghênh Xuân đã về nhà được lúc lâu, đã dọn cơm chiều cho bọn bà già và người nhà họ Tôn ăn xong, và cho họ về cả. Nghênh Xuân mới khóc nức nở, ngồi ở trong buồng Vương phu nhân, kể lể những nỗi uất ức: “Tôn Thiệu Tổ một mực ham gái mê say cờ bạc rượu chè, bao nhiêu đàn bà con gái ở trong nhà bị nó hiếp dâm gần khắp lượt. Cháu mới khuyên nó vài ba lần, nó mắng cháu là hạng ‘đàn bà ghen tuông’. Nó lại nói cha cháu mượn của nhà nó năm nghìn bạc định ăn không, nó đến hỏi hai ba lần không trả. Nó lại còn trỏ vào mặt cháu nói: ‘Mày đừng có lên mặt bà với tao! Bố mày đã lấy của tao năm nghìn bạc, đem mày gạt cho tao đấy. Coi chừng tao đánh một trận, tống cổ xuống nhà dưới mà nằm! Ngày trước, ông mày còn sống, thấy nhà tao phú quý, nên chiều chuộng làm thân. Nói đúng ra thì tao với bố mày ngang hàng nhau, giờ lại dúi đầu tao, bắt tao tụt xuống một bực. Không thể có thông gia như thế được, để người ta nhìn vào lại cho là nhà tao chạy theo thế lợi’”.
Đây là câu thơ mô tả Tôn Thiệu Tổ:
Người đâu hung ác lạ lùng
Khác gì giống sói ở vung Trung San
Bấy lâu tình ái quên tràn
Kiêu dâm chỉ việc mê man tháng ngày
Bảo Ngọc thương xót chị lấy phải chồng hung ác nên van xin mẹ can thiệp. Vương phu nhân chỉ đáp rằng: “Con gái lấy chồng cũng như bát nước đã bị đổ. Đã là con gái ai chẳng phải đi lấy chồng; đã về nhà người ta thì bên nhà gái còn nhìn ngó gì được, cái đó chẳng qua là do số phận nó thế, được người chồng tốt thì hay, nhưng gặp phải đứa xấu cũng đành chịu vậy, người ta hay nói: “Lấy gà phải theo gà, lấy chó phải theo chó.”
Đến đây cần phải bàn một chút về hệ thống hôn nhân trong Hồng Lâu Mộng. Như chúng ta đã biết, ở Kim Lăng có bốn gia đình danh gia vọng tộc Giả Sử Vương Tiết, trong đó nhà họ Giả là đứng đầu. Theo học giả Eugene Cooper đã chỉ ra trong nghiên cứu Patterns of Cousin Marriage in Rural Zhejiang and in Dream of the Red Chamber, những người đàn ông thuộc chi trưởng trong nhà họ Giả đều lấy vợ là tiểu thư của ba gia tộc còn lại. Bốn thế hệ con dâu trong Hồng Lâu Mộng lần lượt thuộc họ Sử (Giả mẫu), họ Vương (Vương phu nhân và Phượng Thư), họ Tiết (Tiết Bảo Thoa). Chỉ cần chiếu theo thứ tự đó cũng đủ thấy Đại Ngọc hoàn toàn không có cơ hội trở thành vợ của Bảo Ngọc. Ngược lại, những người con gái trong nhà họ Giả lại đều kết hôn với những người nằm ngoài bốn họ trên. Nguyên Xuân được tuyển vào cung, Thám Xuân gả cho một viên võ quan ở xa, Nghênh Xuân lấy con trai nhà họ Tôn, chỉ riêng Tích Xuân đến tuổi lấy chồng khi gia cảnh mạt vận nên ở vậy đi tu theo đúng ý nguyện của nàng. Tất cả đều có lý do của nó.
Nói một cách ngắn gọn, khi gả con trai, cái mà nhà họ Giả nhắm đến là tài sản. Những nàng dâu thuộc họ Sử, họ Tiết, họ Vương, không chỉ mang về món hồi môn béo bở mà còn là chỗ dựa vững chắc về tài chính nhỡ có lúc nhà họ Giả sa cơ lỡ vận. Tuyển vợ từ ba gia tộc giàu có là cách nhà họ Giả quy tụ hết tiền của về một mối. Ngược lại, khi gả con gái, cái mà nhà họ Giả nhắm đến là quan hệ. Vì vậy những bậc trưởng bối trong nhà khi ấn định chuyện trăm năm của con gái thường chọn những gia đình quyền thế ở xa, thậm chí càng xa càng tốt. Đó là cách họ mở rộng phạm vi quyền lực thông qua hôn nhân. Ta có thể thấy điểm tương đồng trong những câu chuyện gả công chúa cho phiên bang để đổi lấy hòa bình trong lịch sử Trung Quốc. Thế nên đừng tưởng “môn đăng hộ đối” là đơn giản, bản thân cái gì “đăng,” cái gì “đối” cũng rất lắm vấn đề.
Theo quan niệm của người Trung Quốc (cũng như của Việt Nam), con gái là con người ta, vì một khi đã xuất giá thì lập tức trở thành người nhà chồng. Con dâu thì ngược lại, họ trở thành những người giữ tay hòm chìa khóa, quán xuyến mọi việc trong nhà. Ta có thể thấy điều này rất rõ trong Hồng Lâu Mộng: quyền lực trong Giả phủ chủ yếu nằm trong tay những người đàn bà ngoại tộc (Giả mẫu, Vương phu nhân, Phượng Thư). Trong khi đó mấy cô tiểu thư mang họ Giả hầu như không nhúng tay vào các việc trong nhà, ngoại trừ Thám Xuân có thể hiện bản lĩnh tí chút. Vai trò người phụ nữ được phân định rạch ròi dựa trên địa vị con gái-con dâu của họ, tất nhiên ở từng hạng mục lại chia ra chi trưởng-chi thứ, vợ cả-vợ lẽ, v.v,…Con dâu mang của cải về nên được lãnh nhiệm vụ cai quản tiền bạc, còn con gái đằng nào cũng gả đi nên chỉ cần tập trung làm đẹp, may vá thêu thùa, điểm thêm chút tài năng là được.
Những cô tiểu thư trong Giả phủ, vì thế, chẳng khác nào những món hàng được bày bán, chỉ chờ ngày “xuất xưởng”. Họ là những con tốt được người lớn dùng để đổi lấy địa vị và uy quyền, còn bản thân họ có hạnh phúc trong hôn nhân không thì nào ai quan tâm đến. Số phận của Nghênh Xuân thế là đã được an bài. Người họ Giả xót xa thương cảm cho nàng nhưng không phẫn nộ hay tìm cách trả thù nhà họ Tôn, bởi việc nàng bị Tôn Thiệu Tổ hành hạ đến chết chỉ là một thứ tổn thất ngoài dự kiến (collateral damage). Là một người đàn bà trong xã hội phong kiến, dù là một người đàn bà quý tộc đi chăng nữa, thì sướng khổ phụ thuộc chủ yếu vào may mắn mà thôi. “Thân em như hạt mưa sa, hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”. Ra ruộng cày còn đỡ, đằng này Nghênh Xuân rơi vào móng vuốt của loài hùm sói.
Đây là lá số tiền định của Nghênh Xuân:
Mặt sau lại vẽ một con lang dữ, đuổi bắt một mỹ nữ, định ăn thịt. Dưới có câu:
Rõ ràng giống sói Trung Sơn,
Gặp khi đắc ý ngông cuồng lắm thay.
Làm cho hoa liễu thân này,
Hoàng lương giấc mộng mới đầy một năm.
Sói Trung Sơn (Trung Sơn lang) là một nhân vật phản diện trong truyện cổ Trung Quốc, được dùng để chỉ hạng người độc ác, ăn cháo đá bát. Ông Đông Quách cứu nó khỏi tay thợ săn, nó lại trở mặt đòi xơi tái ông. Loài sói thường gắn với những gì xấu xa, dữ tợn, trong văn học phương Tây cũng có chó sói lớn Big Bad Wolf ăn thịt cô bé quàng khăn đỏ và ba chú heo con. Dùng sói Trung Sơn để miêu tả bản chất đê hèn, cục súc, lật lọng của Tôn Thiệu Tổ thật là chuẩn. Trở về trước, trong lời nói đùa của Đại Ngọc đã có dự báo về số phận của Nghênh Xuân. “Hùm sói đã đến thềm nhà” dùng để chỉ cuộc hôn nhân bất hạnh với Tôn Thiệu Tổ đã sắp xảy ra, nhưng Nghênh Xuân vẫn nhất nhất tin rằng chỉ cần giữ mình trong sạch, thiện lương sẽ được hưởng phúc. Đúng như trong Hồng Lâu Mộng khúc, tình cảnh của Nghênh Xuân là “Hỉ oan gia.” (Gặp oan gia không đáng mừng mà lại mừng). Trong vòng chưa đầy một năm, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, ốm không có thuốc, thường xuyên bị hành hạ, đánh đập, chửi bới, Nghênh Xuân đã từ trần.
Thán phương hồn diễm phách,
Nhất tái đãng du du.
(Một năm duyên đã bẽ bàng
Hồn thơm phách đẹp, suối vàng xa chơi.)
Nếu theo quan điểm hiện đại, tích cực kiểu “tính cách tạo nên số phận,” thì chính sự thụ động, nhu nhược của Nghênh Xuân đã góp phần đẩy nàng đến kết cục không may. Thế nhưng nói cho cùng, ở trong xã hội của Hồng Lâu Mộng, cho dù Nghênh Xuân có vùng vẫy thế nào chăng nữa cũng khó thoát khỏi sự ấn định của gia tộc. Câu đố ứng với thân phận của nàng chính là cái bàn tính:
Trời chuyển, người xoay, lý chẳng cùng,
Người xoay trời đứng cũng không xong,
Tại vì tính toán quanh co mãi,
Mà số âm dương vẫn chửa thông!
Có lẽ bởi những câu chuyện như Nghênh Xuân mà có câu “người tính không bằng trời tính” chăng? Nữa là không tính gì cả…
*
Lý Hoàn: đè nén sống đời vờ nhạt nhẽo
Trương Khánh Thiện đã nhận xét về Lý Hoàn trong cuốn Mạn đàm về Hồng Lâu Mộng như sau: “Quãng đường bi kịch của nàng càng dài, cuộc sống nhân sinh của nàng càng cay đắng”. Cùng với Lâm Đại Ngọc và Hương Lăng, nàng là một trong những nhân vật vừa xuất hiện đã mang nỗi bất hạnh đeo đẳng. Xét về địa vị và lai lịch, nhân vật Lý Hoàn lại càng có điểm độc đáo đáng được bàn tới. Nàng là một tấm gương phản chiếu xã hội phong kiến bóp nghẹt quyền sống của người phụ nữ. Có thể nói số phận của Lý Hoàn có ba phần do thiên định, nhưng tới tận bảy phần nằm ở những xiềng xích ăn sâu từ trong tiềm thức cộng đồng.
Xiềng xích ấy bắt nguồn từ đâu? Trong truyện đã nói rõ:
Nguyên họ Lý là vợ Giả Châu. Giả Châu chết sớm, có đứa con trai tên là Giả Lan, lên năm tuổi, đã đi học. Họ Lý cũng là con nhà danh hoạn đất Kim Lăng, bố là Lý Thủ Trung là Quốc tử Tế tửu. Trong họ, con trai, con gái đều được đi học. Đến đời Lý Thủ Trung thì cho “con gái bất tài, ấy là đức”. Vì thế, ông ta không cho con gái đi học đến nơi đến chốn, chỉ cho đọc “Nữ tứ thư”, “Liệt nữ truyện” để biết một số chữ, nhớ một số truyện hiền nữ đời trước là đủ, cốt sao chú trọng về thêu thùa canh cửi và việc vặt mà thôi. Nhân vậy đặt tên con là Lý Hoàn, tên chữ là Cung Tài.
Cái quan điểm “nữ tử vô tài tiện thị đức” này đã ám ảnh xã hội Trung Quốc mấy nghìn năm, đẩy bao thế hệ phụ nữ vào hố sâu của sự tăm tối và phục tùng. Lý Hoàn là tiểu thư của một gia đình quan lại mà còn như vậy, thì đủ biết những người đàn bà ở tầng lớp thấp hơn sẽ ra sao. Không được tự chủ về học vấn và của cải thì đương nhiên hôn nhân cũng phải để người khác định đoạt. Lý Hoàn trở thành vợ Giả Châu, con dâu của Giả Chính và Vương phu nhân, lại sinh được một con trai là Giả Lan. Nàng là chị dâu của Bảo Ngọc, Nguyên Xuân, Thám Xuân, là mợ cả của Giả phủ.
Truyện không nói rõ cuộc hôn nhân của hai vợ chồng Lý Hoàn êm đềm hay trúc trắc, chỉ biết Giả Châu là con người đức hạnh, nên có lẽ Lý Hoàn cũng được “Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân. Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.” Có điều ngày xuân ngắn chẳng tày gang. Giả Châu chết đột ngột, Lý Hoàn – một người con gái tuổi trẻ mơn mởn – bỗng chốc trở thành góa phụ. Quãng đường đời tươi đẹp của nàng đóng sập cửa từ lúc ấy.
Lý Hoàn trẻ tuổi, góa chồng, mặc dầu ở chỗ cao lương gấm vóc, nhưng lòng lạnh như tro tàn, cây cỗi, hết thảy không buồn hỏi, không buồn nghe việc gì; chỉ biết hầu bố mẹ chồng, nuôi con, lúc rỗi thì khâu vá, đọc sách với các cô em.
Theo bài Vãn thiều hoa (Cảnh xuân về cuối) ứng với Lý Hoàn thì cuộc hôn nhân của nàng trôi qua nhanh như một giấc mộng:
Còn gì ân ái trong gương
Còn gì giấc mộng trên đường công danh
Cảnh thiều hoa đi sao nhanh
Chăn uyên màn gấm thôi đành bỏ qua
Cũng như với các nhân vật khác, Tào Tuyết Cần đã dụng công đặt tên cho Lý Hoàn. Lá số tiền định của Lý Hoàn mở đầu bằng câu “Đào lý xuân phong kết tử hoàn,” chính là ám chỉ tên của nàng. Biện pháp chơi chữ ở đây rất hay. Chữ Lý trong tên nàng có nghĩa là cây mận, quả mận. Đào và mận thường đi chung một cặp để chỉ vẻ yêu kiều của người phụ nữ, cũng là biểu tượng cho tuổi trẻ nở hoa kết trái và tình yêu đôi lứa (Đào chi yêu yêu. Chước chước kỳ hoa,…) Đào mận gặp gió xuân kết thành quả, chữ “tử” nghĩa là đứa con trai, chữ “hoàn 完” ở đây có nghĩa là hoàn chỉnh, lại đồng âm với chữ “Hoàn 紈” trong tên nàng. Chữ Hoàn này mang nghĩa khác: lụa trắng. Một tấm lụa trắng nõn nà không tỳ vết vừa gợi đến sự cao nhã của thú chơi thư pháp, lại là biểu tượng cho sự trong sạch của người quả phụ một lòng thủ tiết. Thế nhưng nó cũng ám chỉ cái chết và tang tóc, khiến ta không khỏi liên tưởng đến những dải lụa vua ban để tự tử.
Trạng thái “sự đời đã tắt lửa lòng” của Lý Hoàn được mặc định là đương nhiên, nhất là trong một gia đình quyền quý như nhà họ Giả. Chẳng ai bận tâm hỏi han Lý Hoàn xem nàng có vừa lòng ở vậy nuôi con, không màng tình duyên hay không. Có lẽ ngay bản thân Lý Hoàn cũng không hề nghĩ, hoặc dám nghĩ đến điều đó, bởi nàng chẳng có lựa chọn nào khác. Sự ghẻ lạnh của xã hội với những người đàn bà tái giá đủ làm nàng chùn bước, chưa kể sự “rớt hạng” về địa vị mà nàng cùng Giả Lan sẽ phải gánh chịu. Ví dụ rõ nhất trong truyện là kế mẫu của Vưu thị cùng hai đứa con gái riêng: Vưu nhị thư, Vưu tam thư. Ba mẹ con bọn họ bị đối xử chỉ hơn những người hầu một chút, chẳng có thế lực gì, khi bị chèn ép cũng chẳng biết kêu ai. Lý Hoàn chấp nhận sống một cuộc đời góa bụa kiểu mẫu để đổi lấy sự an toàn, bao bọc, và danh dự. Thế nhưng Tào Tuyết Cần đã khéo cho chúng ta thấy tất cả chỉ là lớp vỏ bề ngoài.
Ở hồi mười bảy, Giả Chính và Bảo Ngọc cùng các môn khách vào thăm vườn Đại Quan. Xin chú ý đến đoạn sau:
Mọi người vừa nói chuyện vừa đi, đã đến một ngọn núi xanh chênh chếch. Đi vào trong núi, thấp thoáng có một bức tường thấp, đất vàng, trên tường có rơm che, có mấy trăm cây hoa hạnh, trông như lửa phun, ráng phủ. Mặt trong có mấy gian nhà tranh, mặt ngoài có những cây dâu, dâm bụt và găng mơn mởn tốt tươi theo nhau chỗ nhô ra, chỗ lượn vào, đan thành hai hàng rào xanh. Dưới chân núi, ngoài hàng rào có cái giếng khơi, bên cạnh có gầu và trục kéo nước; mé dưới có mảnh rộng phẳng lì, có luống rau tươi tốt, trông bát ngát mênh mông.
Giả Chính nói:
– Chỗ này thế mà có ý nghĩa lắm. Tuy tự tay người ta bày đặt ra, nhưng nhìn đến ai cũng phải cảm xúc, khêu gợi lòng ta muốn về hưởng thú điền viên. Chúng ta hãy vào đấy nghỉ ngơi xem
[…]
Nói xong, dẫn mọi người vào trong nhà tranh. Ở đây, cửa sổ dán giấy, giường gỗ đơn sơ, không có gì là hào hoa phú quý cả.
Giả Chính trong lòng rất sung sướng, lại nhìn Bảo Ngọc nói:
– Chỗ này thế nào?
Mọi người thấy hỏi, đều khẽ đẩy Bảo Ngọc, xui Bảo Ngọc nói là đẹp. Bảo Ngọc không nghe, nói ngay:
– Xem ra chỗ này kém xa “Hữu phương lai nghi”.
Giả Chính nói:
– Hứ! Đồ ngu xuẩn! Chả biết gì. Mày chỉ thích lầu son gác tía đẹp đẽ một cách thô tục, biết đâu được cái cảnh u nhã này.
[…]
Bảo Ngọc nói:
– Thế thì chỗ này đặt thành trang trại, rõ ràng là do người bày đặt ra. Xa thì không có hàng xóm, gần thì không có thành quách, dựa vào núi thì không có mạch, trông ra nước thì không có nguồn, chỗ cao thì không có tháp nhà chùa, chỗ thấp thì không có cầu ra chợ, trơ trọi đứng một mình, không phải là nơi bao la rộng rãi. Sao bằng mấy nơi trước có vẻ tự nhiên hơn. Tuy có giồng trúc, khơi suối cũng hơi xuyên tạc, nhưng không hại gì. Cổ nhân có bốn chữ “bục tranh thiên nhiên”, sợ chỗ này không đáng có thôn trang, và sơn thủy, mà gượng bày đặt ra, dù khéo léo đến đâu cũng vẫn không hợp.
Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính nổi giận thét lên:
– Thôi, bước ngay!
Đoạn này tả sự việc tưởng chừng vô thưởng vô phạt nhưng lại có hàm ý sâu xa, bút pháp kín đáo hết sức tuyệt vời. Nơi được nhắc đến sau này chính là Đạo Hương thôn – nơi ở của Lý Hoàn. Bề ngoài Đạo Hương Thôn được bố trí bình dị, quê mùa, không châu ngọc hào hoa, chẳng lụa là phú quý, chính là để phản chiếu cuộc sống phẳng lặng, giản tiện của góa phụ Lý Hoàn. Giả Chính – bố chồng Lý Hoàn là một Nho gia theo quan điểm truyền thống, thậm chí như Trương Tráng Niên nhận xét là một nguỵ quân tử, đương nhiên là ông ta ưng ý trước cảnh tượng nền nếp, khiêm nhường đó. Nhưng Bảo Ngọc với “tuệ nhãn” trong sáng và trái tim thấu hiểu tình người, đã nhìn ra sự giả tạo, gán ghép của nó.
Nên nhớ trong giấc mơ nơi Ảo Cảnh, Bảo Ngọc đã uống vào bụng hai thứ thức uống “Thiên hồng nhất quật” (đồng âm với Thiên hồng nhất khốc – ngàn bóng hồng cùng khóc) và “Vạn diễm đồng bôi” (đồng âm với Vạn diễm đồng bi – vạn vẻ đẹp đều buồn,) lại được thưởng thức mười hai khúc Hồng Lâu Mộng. Từ đáy lòng Bảo Ngọc có sự thấu hiểu vô hạn với những nỗi khổ của nữ nhi. Bằng trực quan, cậu linh cảm được sự miễn cưỡng, gò ép của Lý Hoàn nhưng không thể diễn tả bằng lời mà phải biểu hiện bằng việc chê trách Đạo Hương Thôn – nơi các bậc trưởng bối phân cho Lý Hoàn ở. Đương nhiên những câu phê bình của Bảo Ngọc khiến Giả Chính nổi xung, bởi qua đó Bảo Ngọc đã hạ thấp cả một phần của ý thức hệ phong kiến!
Lý Hoàn : tiếng hão đành vui phúc về già
Sau khi các chị em được phân về Đại Quan Viên, Lý Hoàn trở thành người phụ nữ duy nhất đã có chồng được vào ở đó. Nàng lãnh nhiệm vụ cai quản, giáo huấn các cô gái ngây thơ ấy. Đại Quan viên muôn hồng ngàn tía, có Đại Ngọc là bông phù dung kiều diễm, Thám Xuân là hoa hạnh cao sang, Tương Vân là đoá hải đường tươi tắn, Bảo Thoa là mẫu đơn quý phái. Lý Hoàn chẳng được làm hoa. Ở hồi sáu mươi ba, khi rút thẻ hoa, Lý Hoàn rút được thẻ có hình cây mai già.
Mọi người cầm thẻ xem, thấy vẽ một cành mai già, viết bốn chữ “Vóc đựng sương mai”. Mặt sau đề một câu thơ cổ: “Nhà tranh giậu trúc nhưng lòng vẫn vui”.
Thế nhưng thay vì đè nén, nghiêm khắc với những cô tiểu thư trẻ trung kia, Lý Hoàn lại một lòng bảo vệ, thương yêu, chiều chuộng bọn họ. Như Chu Chiêu Linh nhận xét, dù sống trong cảnh lòng lạnh tro tàn nhưng Lý Hoàn không mảy may oán thán, chấp nhận tuyết sương để chở che cho những cánh hoa xuân sắc, để những đóa hoa ấy tận hưởng mùa xuân tươi đẹp (dù ngắn ngủi) nơi Đại Quan Viên. Sự cao thượng của Lý Hoàn khiến tất cả người trên kẻ dưới đều phải kính phục.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn cả là chỉ sau khi Lý Hoàn vào Đại Quan Viên, Tào Tuyết Cần mới hé lộ cho ta thấy nàng có một tâm hồn thi vị, tao nhã chẳng kém gì cô Lâm, cô Tiết. Lý Hoàn không tự mình làm thơ bởi nó không phù hợp với vị trí trang nghiêm của người quả phụ, viện cớ tài mọn, nàng chỉ xin nhiệm vụ giám khảo. Nhưng mỗi cuộc thi thơ lại làm ta khám phá thêm những nét mới của Lý Hoàn. Nàng vui vẻ, cười đùa, trêu chọc các em nhỏ, lại có những phẩm bình về thơ rất súc tích, xác đáng.
Bỗng Lý Hoàn đến, cười nói:
– Nhã quá nhỉ! Định mở thi xã à! Tôi xin nhận chức Chưởng đàn. Mùa xuân vừa rồi, tôi vẫn có ý ấy, nhưng nghĩ mình không biết làm thơ, thì bày trò làm gì. Vì thế tôi quên đi, không nhắc đến nữa. Bây giờ cô Ba đã cao hứng, thì tôi cũng xin giúp để góp phần vui chung.
Đại Ngọc nói:
– Đã định mở thi xã thì chúng ta sẽ là thi nhân cả, trước hết nên bỏ những tiếng xưng hô “chị, em, chú, mợ” đi, mới không tục.
Lý Hoàn nói:
– Phải lắm. Đặt những biệt hiệu để gọi nhau mới nhã hơn. Tôi xin tự đặt cho tôi là “Đạo Hương lão nông”, không ai được giành cái tên ấy.
[…] Lý Hoàn cười nói:
– Tôi đã đặt hộ cô Tiết một biệt hiệu rất hay, chỉ có ba chữ thôi.
Mọi người vội vã hỏi:
– Chữ gì?
Lý Hoàn nói:
– Tôi phong cho cô ấy là Hành Vu Quân, các người nghĩ thế nào?
[…]
Lý Hoàn nói:
– Về tình tứ phong lưu thì bài này hay hơn, nhưng về hàm súc hồn hậu thì vẫn phải nhường cho Hành Vu Quân.
Thám Xuân nói:
– Lời phê rất đúng. Tiêu Tương phi tử phải đứng thứ hai.
Lý Hoàn nói:
– Di Hồng công tử phải đội bảng, có chịu hay không?
Bảo Ngọc nói:
– Bài của tôi thực không hay, lời bình ấy rất công bằng – Lại cười nói – Nhưng cần phải châm chước lại hai bài của Hành Vu Quân và Tiêu Tương.
Lý Hoàn nói:
– Đây là theo bình luận của tôi, không can đến các vị, nếu ai nói nữa sẽ bị phạt.
[…]
Trong Hồng Lâu Mộng thường nhắc đến cảnh Lý Hoàn dạy con học. Sự tham dự của Lý Hoàn vào Hải Đường thi xã và phong cách của nàng chứng tỏ nàng có đủ khả năng làm việc đó. Vậy nên đâu thể phán xét con người qua vẻ bề ngoài. Nếu không có những cuộc thi thơ kia, ai có thể ngờ trong Lý Hoàn vẫn chất chứa lòng yêu đời, yêu người như vậy. Thế mới biết những thứ tiếng tăm hão huyền, “Tiết hạnh khả phong” ấy làm hại người phụ nữ biết nhường nào! Trong lá số tiền định của Lý Hoàn đã nói rõ: “Nước sạch, băng trong, ghen ghét hão. Tiếng tăm còn lại ở nhân gian.” Mặc dù nàng đã có chậu lan làm niềm vui – đứa con trai Giả Lan (đáo đầu thùy tự nhất bồn lan) thì số phận của nàng cũng là điều không ai mong muốn, chẳng đáng ghen tị hay khen chê.
Nếu nhìn Lý Hoàn từ khía cạnh người vợ, người mẹ, ta lại thấy có nhiều điều khác đáng bàn.
Trước hết phải khẳng định rõ ràng một điều: Tào Tuyết Cần chia những người phụ nữ trong Hồng Lâu Mộng ra thành hai nhóm rõ rệt: những người đàn bà đã có chồng và những cô gái trinh nguyên. Cũng như Bảo Ngọc, ông nâng niu dành những tình cảm trong sáng nhất cho những người con gái ngây thơ, dù họ là tiểu thư hay con ở. Ai có thể quên được Tương Vân hào sảng, Đại Ngọc thướt tha, Tình Văn cao quý, Phương Quan tinh nghịch… Họ cũng là những cô gái tài năng: hoặc biết làm thơ, hoặc giỏi vẽ tranh, hoặc ca hát, kết hoa, thêu thùa,…
Ngược lại, những người đàn bà có chồng trong truyện, dù là bà lớn hay người hầu cũng đều có những khía cạnh thô tục và tàn nhẫn: Hình phu nhân nỡ lòng bán cháu nội, Vương phu nhân khiến Kim Xuyến, Tình Văn phải chết, Phượng Thư cay nghiệt làm hại bao người, Hạ Kim Quế ác độc, Tần Khả Khanh dâm ô, thậm chí Giả mẫu cũng vô tình lạnh lẽo. Những người đàn bà theo hầu như dì Triệu, vợ Vương Thiện Bảo, mụ Liễu, mẹ nuôi Phương Quan,… lại càng xấu xa. Những người đàn bà này cũng đầy tục khí, đa phần họ không biết làm thơ hay treo tranh gì cả (xem đoạn mô tả nơi ở của hai bậc quyền quý Hình phu nhân, Vương phu nhân.) Về điều này, Bảo Ngọc đã có nhận xét rất xác đáng:
Khi con gái chưa đi lấy chồng, khác nào một hạt chân châu rất quý; lấy chồng rồi, không hiểu sao lại sinh ra rất nhiều tật xấu. Dù vẫn là hạt chân châu đấy, nhưng đã trở thành hạt châu chết, phai mờ ánh sáng; đến già đi thì không phải hạt châu, mà là mắt cá đấy! Cũng là một người, sao lại hóa ra ba dạng như thế?
Tại sao lại có sự phân biệt như vậy? Phải chăng Tào Tuyết Cần kỳ thị các phụ nữ có chồng, cố tình khắc hoạ họ như những… phù thủy cưỡi chổi? Không phải thế. Một trong những ý tưởng xuyên suốt của Hồng Lâu Mộng là sự khác biệt giữa hai giới nam và nữ, hay nói đúng hơn là tính nam và tính nữ. Lại phải mượn lời Bảo Ngọc “Xương thịt của con gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy.” Trong Hồng Lâu Mộng, không chỉ những cô gái bẩm sinh mà những người đàn ông mang tính nữ như Tần Chung, Tưởng Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương,… cũng cao quý và thanh nhã. Còn tính nam không chỉ đục dơ từ bản chất mà còn có khả năng làm “ô nhiễm” tính nữ, chính vì thế những người phụ nữ sau khi lấy chồng đều trở nên cứng rắn và “trần tục” hơn. Tào Tuyết Cần đã làm một cuộc cách mạng lật đổ tư tưởng trọng nam khinh nữ bằng ngòi bút.
Trong cái thế lưỡng cực đó, Lý Hoàn là một trường hợp đặc biệt nhưng vẫn phản ánh đúng tinh thần trọng nữ khinh nam của tác giả. Nàng đã có chồng, nên không khỏi bị xếp hạng thấp trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách, nhưng vì xa rời ảnh hưởng ô trọc của đàn ông đã lâu, nên vẫn giữ được tính tình hiền lành và cốt cách trong sáng. Sự nhân từ của Lý Hoàn xuất phát từ trong tâm nên nàng được gia nhân trong nhà tôn là Phật sống, chỉ có nàng đến bầu bạn cùng Đại Ngọc khi nàng sắp lìa đời. Nàng vẫn giữ được tâm hồn lãng mạn và yêu nghệ thuật nên được cùng các chị em bầu bạn nơi Đại Quan Viên, dù chẳng thể sống lại tuổi trẻ để bay nhảy cùng bọn họ. Vì thế Lý Hoàn là một trong những số ít người phụ nữ có số mệnh tươi sáng hơn ở thì tương lai:
Mũ châu áo phượng thướt tha
Chống làm sao nổi vận nhà bấp bênh
Già, nghèo khó chịu đã đành
Cũng nên tích đức để dành về sau
Ngông nghênh trâm ngọc trên đầu
Ấn vàng trước ngực muôn màu sáng tươi
Uy quyền lộc vị lẫy lừng
Suối vàng buồn thảm đường chừng gần thôi
Xưa nay khanh tướng còn ai
Hoạ còn tiếng hão cho đời ngợi khen
Trong lá số tiền định Lý Hoàn chính là mỹ nhân đội mũ phượng, mặc áo màu ráng trời, ý nói Giả Lan sẽ thi đậu thành công được làm quan, mang lại phúc phận tuổi già cho mẹ. Người viết ưu ái Lý Hoàn, không để nàng chết trong tủi nhục như Phượng Thư, Nghênh Xuân, Đại Ngọc, lại không phải chịu cảnh dơ bẩn như Diệu Ngọc, Tần Khả Khanh. Sự tưởng thưởng này liệu có xứng đáng với cái tiếng hão kia chăng? Xin để cho bạn đọc tự xét.
*
Giả Thụy: sự thôi thúc của phần con
Nhân vật Giả Thụy, tên chữ Giả Thiên Tường, là một trường hợp tương đối đặc biệt của Hồng Lâu Mộng. Y xuất hiện ở hồi thứ chín, đến hồi thứ mười hai đã qua đời đột ngột theo kiểu “sét đánh không kịp bưng tai.” Cuộc đời – cái chết Giả Thụy tuy chỉ gói gọn trong vài chương ngắn ngủi nhưng diễn biến hấp dẫn, tình tiết ly kỳ, lại có nhiều ý nghĩa sâu xa khó nói hết, hoàn toàn xứng đáng dựng thành một vở bi hài kịch riêng. Câu chuyện gió trăng của Giả Thụy khiến tôi liên tưởng nhiều đến những tác phẩm của Shakespeare như The Comedy of Errors hay Love’s Labour’s Lost.
Giả Thụy là cháu nội Giả Đại Nho, thuộc một chi tương đối nghèo của họ Giả. Y đóng vai trò trông nom trường học của dòng họ, trách nhiệm không phải nhỏ. Nhưng dưới sự cai quản của y, nơi này trở thành chỗ yêu đương đồng giới của bọn học sinh, chữ nghĩa thánh hiền thảy đều bị thổi bay đi đâu mất cả. Trong truyện đã giới thiệu về Giả Thụy rõ ràng:
Giả Thụy vốn người không đứng đắn, chỉ thích lợi, khi ở trong trường hắn thường hay mượn việc công làm việc tư, hạch sách đám học trò phải mời hắn ăn uống. Hắn vào hùa với Tiết Bàn, mong kiếm tiền, kiếm rượu, nên tha hồ để mặc cho Tiết Bàn ngông nghênh làm càn, không những hắn không ngăn cấm mà còn nối giáo cho giặc để lấy lòng Tiết Bàn.
Hồng Lâu Mộng có nhiều cung bậc của tình: có tình trong sáng, tình tri kỷ, cũng có tình dâm ô và nhơ bẩn. Nói thẳng ra là Giả Thụy đã biến trường học thành ổ giai bao cho họ Tiết, bản thân y lãnh nhiệm vụ ma cô dắt khách. Khổ nỗi anh chàng Tiết Bàn là kẻ không đứng đắn, có mới nới cũ, chán chê với Kim Vinh lại chuyển sang hai nam sinh Hương Lân và Ngọc Ái. Về sau y cũng hết yêu hai cậu này, thế là Giả Thụy trở nên “bơ vơ không nơi nương tựa.” Tiết Bàn chính là kẻ thô tục bậc nhất trong Hồng Lâu Mộng, y một thân hào phú nhưng bị con lợn lòng hoàn toàn chi phối. Giả Thụy dính dáng với Tiết Bàn là đủ biết y thuộc hạng người nào. Kết cục của Giả Thụy khó mà tốt đẹp được.
Thế nhưng cuộc đời Giả Thụy chỉ hoàn toàn xoay chuyển khi y gặp phải Phượng Thư. Quả đúng là… người đâu gặp gỡ làm chi.
[…] rồi dẫn bọn người hầu và người nhà phủ Ninh ra quanh cửa đi tắt vào vườn hoa, nhìn thấy:
Hoa vàng giải đất, liễu trắng quanh bờ. Suối Nhược Gia cầu nhỏ bắc qua; núi Thiên Thai đường con rẽ tới. Khe đá dòng trong róc rách, hàng giậu đều thơm; trên cây lá đỏ rập rờn, rừng thưa như vẽ. Gió tây thổi mạnh, oanh còn thỏ thẻ bên tai; ngày ấm vui dồn, dế cũng rì rầm nói chuyện. Kìa phía đông nam, mấy tòa lầu nhấp nhô dựa núi; nọ nơi Tây bắc, ba gian hiên thấp thoáng kề sông. Vang tiếng phách sênh, tình riêng khôn tả; chen màu là lụa, cảnh đẹp nên thơ.
Phượng Thư đi thong thả xem cảnh trong vườn. Đương lúc ngắm nghía, chợt thấy một người ở sau núi giả chạy ra, đứng trước mặt, nói:
– Xin chào chị!
Phượng Thư giật mình, lùi lại hỏi:
– Có phải chú Thụy đấy không?
Giả Thụy nói:
– Chị không nhận ra tôi à?
– Không phải tôi không nhận ra, đương lúc bất thình lình không ngờ chú lại ở đây.
Giả Thụy nói:
– Có lẽ tôi với chị có duyên hay sao? Tôi vừa ở trong tiệc lẻn ra, đến chỗ thanh vắng này cho khoan khoái một tí, không ngờ lại gặp chị. Thế chẳng phải có duyên là gì.
Vừa nói, mắt hắn vừa chòng chọc nhìn Phượng Thư.
Đoạn trên rất hay, có thể nói Tào Tuyết Cần đã vận dụng biện pháp “foreshadowing” (báo trước) một cách tuyệt diệu. Về thời điểm, cảnh này diễn ra sau khi Phượng Thư thăm nom Tần thị, nàng dâu lẳng lơ dưới trần kiêm “người tình nhân thứ nhất” ở cõi tiên (hồi một trăm mười một), nên không khỏi dính dáng tới chuyện mây mưa. Sân khấu diễn ra tấn trò lại chính là vườn hoa của Ninh quốc phủ, một nơi đầy chuyện tục khí, mờ ám, đến mức Liễu Tương Liên từng nhận xét hoạ may chỉ có hai con sư tử đá bên ngoài là còn sạch! Những địa danh được nhắc đến trong cảnh cũng có ý tứ nhạo báng: suối Nhược Gia là nơi Tây Thi giặt lụa gặp Phạm Lãi, núi Thiên Thai là nơi Nguyễn Triệu diện kiến tiên nữ. Thế nhưng Phượng Thư bụng dạ độc ác, ăn nói chua cay không xứng với danh hiệu mỹ nhân, còn Giả Thuỵ lại càng không phải anh hùng cái thế hay tài tử phong nhã. Cuộc tao ngộ này chỉ là kẻ cắp bà già gặp nhau mà thôi.
Phượng Thư là người thông minh, thấy dáng bộ ấy đã đoán được tám chín phần, liền nhìn Giả Thụy, giả cách mỉm cười, nói:
– Không trách anh chú thường nhắc đến chú luôn, bảo chú tốt lắm. Nay được gặp, nghe nói mấy câu, biết ngay chú là người thông minh hòa nhã. Bây giờ tôi phải đến chỗ các bà, không tiện nói chuyện. Lúc nào rỗi, chúng ta lại sẽ gặp nhau.
Giả Thụy nói:
– Tôi muốn đến thăm chị, nhưng sợ chị trẻ tuổi không chịu tiếp khách dễ dàng.
Phượng Thư lại giả cách cười nói:
– Chỗ anh em ruột thịt trong nhà, sao lại nói trẻ tuổi với không trẻ tuổi?
Giả Thụy nghe thế, trong bụng mừng thầm: “Không ngờ hôm nay lại có cuộc gặp gỡ lạ lùng thế này!” Tình cảnh ấy càng làm cho Giả Thụy ngẩn ngơ ngơ ngẩn. Phượng Thư lại nói:
– Thôi, chú vào tiệc ngay đi. Coi chừng họ lại bắt uống phạt đấy!
Giả Thụy nghe xong, tê tái cả người, đi chầm chậm rồi cứ quay đầu lại nhìn. Phượng Thư cố ý đi thong thả. Thấy hắn đi xa rồi, trong bụng nghĩ: “Thế mới là: Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Đâu lại có hạng người chó má như thế! Nếu vậy có lúc nó phải chết với ta cho nó biết tay!”
Vậy là kết thúc hồi mười một “Gặp Hy Phượng, Giả Thuỵ động lòng dâm dục”. Khi Tào Tuyết Cần nói về sự thức tỉnh tình dục (sexual awakening) của Bảo Ngọc, ông dùng những cụm từ hết sức tinh tế, ý nhị “mộng kín,” “tình ngây.” Còn đối với Giả Thụy, tác giả gọi thẳng bản chất sự thôi thúc trong y – sự khao khát phần con chứ không phải phần người. Đoạn sau không cần nói rõ. Giả Thụy lần mò đến gặp Phượng Thư, say sưa mê mẩn, rạo rực sàm sỡ. Phượng Thư khéo léo cầm chừng, lại hẹn y một nơi vắng vẻ buổi đêm. Vở kịch bắt đầu đến hồi gay cấn. Giả Thụy đi gặp gái ra sao?
Giả Thụy : tấm gương mê gái có chết cũng (nên) soi
Vở kịch bắt đầu đến hồi gay cấn. Giả Thụy đi gặp gái ra sao?
Giả Thụy nghe nói, mừng quá, vội cáo từ, trong bụng chắc mẩm. Chờ đến chiều tối, hắn mò sang phủ Vinh. Đương lúc sắp đóng của, hắn lẻn vào cái nhà trống, quả thấy tối om, chẳng có người nào đi lại. Cửa sang bên nhà Giả mẫu đã khóa rồi, chỉ còn cửa phía đông chưa đóng. Giả Thụy lắng nghe giờ lâu chẳng thấy ai đến. Chợt nghe tiếng lách cách, cửa phía đông cũng đóng nốt. Giả Thụy sốt ruột, nhưng không dám lên tiếng, khe khẽ lần đến đẩy mấy cái, thấy cửa đóng chặt như thùng sắt. Bấy giờ hắn muốn ra cũng không được. Phía nam, phía bắc đều là tường cao, muốn trèo cũng không có chỗ vịn. Chỗ ấy lại là nơi gió lùa, chung quanh trống hốc. Trời tháng chạp đêm dài, gió bấc thổi hun hút, rét buốt đến xương, ai đứng đó một đêm có thể chết cứng được. Chờ mãi đến mờ sáng, thấy một bà già mở cửa phía đông, rồi sang gọi cửa phía tây. Lúc bà già ngoảnh mặt đi, hắn liền cắm đầu cắm cổ chạy biến mất. May trời còn sớm, chưa ai dậy, hắn lẻn ra cửa sau chạy một mạch về nhà.
Chuyến này Giả Thụy không những không được thoả nguyện mà còn bị ông nội “đánh ba bốn chục roi thật đau, lại không cho ăn cơm, bắt phải quỳ học bù mười buổi mới tha. Giả Thụy bị rét một đêm, lại bị một trận đòn đau, phải nhịn đói, quỳ ở dưới đất mà học, khổ sở muôn phần”.
Đây là trở ngại đầu tiên của Giả Thụy: bị lừa dối, bị lạnh nhạt, và bị trừng phạt về thể xác.
Lần thứ hai, Phượng Thư tiếp tục bày cuộc tương tư. Giả Thụy thì say mê sắc đẹp đến mức mất cả lý trí:
Nhưng lòng tà vẫn chưa chịu bỏ, Giả Thụy vẫn chưa biết mưu chước của Phượng Thư. Qua vài ngày được lúc rỗi, hắn lại tìm đến. Phượng Thư làm ra bộ trách móc sai hẹn. Giả Thụy vội vàng thề ngay. Phượng Thư thấy hắn tự đâm đầu vào tròng, lại bày mẹo khác để cho hắn tỉnh ngộ. Bèn giả cách hẹn:
– Tối hôm nay đừng đến chỗ cũ nữa, cứ đến chờ ở cái gian nhà bỏ không, có đường rẽ sang buồng tôi, đừng có lầm đấy!
– Thực thế chứ?
– Không tin thì đừng đến!
– Thế nào cũng đến, nhất định đến, dù chết cũng đến.
– Bây giờ hãy về đi.
Giả Thụy chắc mẩm tối ấy thế nào cũng ổn chuyện ra về ngay. Bấy giờ Phượng Thư mới điều binh khiển tướng, đặt sẵn vòng vây.
[…]
Đương lúc phân vân, thấy lù lù một bóng đen đi đến, Giả Thụy đoán chắc là Phượng Thư. Người ấy vừa đến gần, Giả Thụy ôm chầm lấy, như hổ đói vồ mồi, mèo đói vồ chuột, nói: “Chị ơi! Làm tôi chờ lâu chết đi được!” Hắn ôm ngay lên giường, hôn hít, cởi dải quần, rồi cứ “cha ôi! mẹ ôi!” kêu cuống cuồng lên. Người ấy lặng yên chẳng nói gì. Giả Thụy cũng đang cởi dải quần định nhập cuộc. Chợt có bóng đèn lòe sáng. Giả Tường cầm nến soi, hỏi:
– Ai ở trong nhà ấy?
Người nằm trên giường té ra là Giả Dung cười nói:
– Chú Thụy định hiếp tôi đấy!
Giả Thụy xấu hổ quá, không lẩn vào chỗ nào được, quay mình toan chạy. Giả Tường giữ lại, bảo:
– Không được chạy! Thím Liễn đã trình với bà Hai là chú đến ghẹo thím ấy. Thím ấy dùng kế giữ được chú ở đây. Bà Hai nghe nói, tức lộn ruột, bảo đến bắt chú. Chú phải theo tôi đi ngay!
Giả Thụy sợ hết hồn, nói:
– Cháu ơi! Cháu cứ nói là không tìm thấy chú, ngày mai chú sẽ hậu tạ.
[…]
Giả Tường lấy giấy bút, ra vẻ làm phúc làm đức, bắt Giả Thụy phải viết văn tự và ký tên vay 50 lạng. Xong xuôi đâu đấy, hắn lại bắt điều đình với Giả Dung. Lúc đầu Giả Dung nhất định không nghe, chỉ nói: “Ngày mai báo cho cả họ biết, xem họ phân xử ra sao!” Giả Thụy kêu van mãi, sau phải sụp xuống lạy, Giả Tường mới làm ra vẻ nhân từ, bắt Giả Thụy phải viết một bức văn tự vay 50 lạng bạc nữa mới thôi.
[…]
Giả Thụy không làm thế nào được, đành phải ngồi chồm chỗm ở dưới thềm. Đang lúc lo nghĩ. Chợt ở trên đỉnh đầu, nghe ào một tiếng, một thùng vừa cứt vừa nước đái đổ xuống suốt từ đầu đến chân, Giả Thụy “ối chào” một tiếng, vội bưng miệng, không dám kêu to, đầu và mặt đầy những cứt đái, người lạnh như băng, run cầm cập. Giả Tường chạy lại bảo “Chạy mau! Chạy mau!” Giả Thụy được lệnh, ba chân bốn cẳng, từ cửa sau chạy về. Bấy giờ đêm đã canh ba, phải gọi cửa.
Ở lần thứ hai này, cấp độ “bị lừa dối, bị lạnh nhạt, và bị trừng phạt về thể xác” của Giả Thụy còn nặng nề hơn! Lần trước y chịu đựng một mình, còn bây giờ có hai người chứng kiến. Giả Dung, Giả Tường trêu chọc y, sỉ vả y, bắt y lạy lục xin tha và viết văn tự nợ, đó là hành hạ tinh thần. Những thứ chất thải đổ lên đầu lại càng làm hoàn thiện bức tranh thê thảm của Giả Thụy, là ẩn dụ cho sự kiệt cùng, nhơ nhuốc của y. Dưới góc độ thể diện, nó còn tệ hơn bị đánh đòn hay bắt nhịn ăn. Rõ ràng Giả Thụy càng luyến ái Phượng Thư bao nhiêu thì lại càng phải chịu đựng sự hành hạ khốc liệt bấy nhiêu. Cơ thể bị dày vò, tinh thần bị làm nhục, có thể nói Giả Thụy đã ở đáy cùng của số phận.
Thế nhưng cái nghiệt ngã của tình lại nằm ở chỗ này: khi Phượng Thư không đùa cợt với Giả Thụy nữa, bản thân y cũng không dám bén mảng đến gần nàng, thì sự mê đắm của y mới đạt đến mức tột cùng. Giả Thụy không chỉ đơn thuần bị Phương Thư quyến rũ. Y đã bị ám ảnh với nàng, hoàn toàn lạc lối trong ma đạo của tình dục.
Bấy giờ hắn mới biết Phượng Thư lừa mình, tức giận một hồi, nhưng lại nghĩ đến bóng dáng yểu điệu của nàng, tiếc không được ôm ngay vào lòng. Hắn nghĩ vơ nghĩ vẩn suốt đêm, không chợp mắt. […] Với con người mới hai mươi tuổi đầu, chưa có vợ, mơ tưởng Phượng Thư không toại nguyện, tránh sao khỏi ngón tay rầy dã rành rơi (*), gia dĩ hai lần bị rét và đi lại đêm hôm vất vả. Mấy mặt dồn dập tấn công, hắn đâm ra mắc bệnh: bụng đầy, miệng nhạt, chân run, mắt cay, đêm sốt, ngày mỏi mệt, đi đái dắt, di tinh, ho ra máu… Chưa đầy một năm, bệnh cứ nặng lên. Không gượng được nữa, hắn phải nằm liệt trên giường, hễ nhắm mắt lại mê mẩn bàng hoàng, sợ hãi, hoảng hốt, nói nhảm luôn mồm.
Đây mới thực sự là hồi kết của Giả Thụy. Đã đến nước này, y mê luyến Phượng Thư đến nỗi không cần mượn ai hành hạ y, chính y tự tàn phá bản thân mình! Mang Mang đạo sĩ đem tới cho y chiếc gương “Phong nguyệt bảo giám” (giám sát chuyện gió trăng) với mục đích cứu y. Giả Thụy không những không làm được theo lời dặn mà còn lún sâu hơn vào nghiệp chướng, đến chết mới thôi.
Đạo sĩ thở dài:
– Bệnh ngươi không thể chữa bằng thuốc được! Ta đưa cho ngươi cái “bảo bối” này, ngày ngày ngươi ngắm vào đấy mới có thể cứu được.
Đạo sĩ lấy ở trong tay nải ra đưa cho Giả Thụy một cái gương soi cả hai mặt. Đằng sau gương khắc bốn chữ “Phong nguyệt bảo giám” và nói:
– Gương này lấy ở đền Không Linh trong cõi Thái hư ảo cảnh, do vị tiên Cảnh ảo làm ra, có công giúp người đời bảo toàn tính mệnh. Vì thế, ta mang xuống trần chỉ để cho những bọn Vương tôn công tử tuấn tú phong lưu soi thôi. Nhưng chỉ nên soi mặt trái, không được soi mặt phải. Cẩn thận đấy! Soi ngay đi! Ba ngày nữa ta lại lấy, chắc bệnh ngươi sẽ khỏi.
Nói xong, thong dong đi ra, ai giữ cũng không chịu ở. Giả Thụy cầm lấy gương nghĩ thầm:
– Đạo sĩ này chắc có ý gì đây! Ta hãy soi thử xem sao?
Bèn cầm gương mang mặt trái ra soi, thấy trong có bộ xương người. Giả Thụy sợ quá, vội giấu gương đi, mắng: “Đồ láo! Làm sao lại dọa ta! Ta hãy soi mặt phải xem sao?” Bèn soi mặt phải, thấy Phượng Thư đứng ở trong, vẫy tay gọi. Giả Thụy mừng lắm, mê mẩn đi vào trong gương, cùng Phượng Thư vui cuộc mây mưa, rồi Phượng Thư lại đưa ra nằm trên giường. Giả Thụy kêu “ái chà” một tiếng, bừng mắt ra, cái gương tự nhiên lật lại mặt trái, vẫn thấy một bộ xương người đứng sừng sững ở trong. Giả Thụy mồ hôi đầm đìa, dưới quần tinh thoát ra một đống. Dục tình vẫn chưa được thỏa, hắn lại quay mặt phải ra soi, thấy Phượng Thư lại vẫy tay gọi, hắn lại đi vào trong gương, cứ thế ba bốn lần. Đến lần cuối cùng vừa mới ở trong gương ra, thấy hai người chạy lại mang xích sắt khóa tay lôi đi, Giả Thụy kêu “Để cho tôi lấy cái gương đã”. Rồi im bặt, không nói được nữa.
Những người hầu bên cạnh thấy Giả Thụy mang gương ra soi, gương rơi xuống, mắt trợn to, lại cầm lấy gương. Cuối cùng gương rơi ra, tay không động đậy nữa. Mọi người đến xem thì đã tắt thở rồi, dưới quần đầm đìa một vũng tinh lạnh buốt.
(*) sự thủ dâm, lấy từ Tây Sương Ký
Giả Thụy: bài học cảnh giác về “si”, về “sắc” cho… Bảo Ngọc
Theo thiển ý của tôi, đoạn trích ở phần 2 là một trong những đoạn có nhiều tầng ý nghĩa nhất của Hồng Lâu Mộng.
Thứ nhất, nếu hành trình chịu đựng của Giả Thụy có nhiều bậc thì đây chính là nấc thang cuối cùng. Nỗi thống khổ y chịu đựng theo độ mê đắm mà tăng lên, y dần đánh mất sức khỏe, danh dự, ý chí, cuối cùng là mạng sống. Thứ “tinh” được nêu trong truyện là ẩn dụ cho tinh khí, tinh thần, tinh hoa của Giả Thụy. Kết cục của Giả Thụy là bài học cảnh tỉnh về sự mê muội tình dục. Sự dâng hiến cho tình của Giả Thụy tuy không đẹp đẽ thơ mộng nhưng hoàn toàn triệt để. Giả Thụy quả thực không còn gì để mất nữa rồi!
Tiếp theo, cần bàn về bộ xương người. Trong triết học phương Tây, đây là motif thường bắt gặp trong những memento mori – sự nhắc nhở về tính hữu hạn của đời người. Ai ai rồi cũng phải chết.
Đặt trong bối cảnh Hồng Lâu Mộng, bộ xương lại mang thông điệp Phật giáo rõ rệt. Trong Đại Trang Nghiêm Kinh từ thế kỉ thứ năm đã có câu chuyện tương tự: một vị Phật dùng pháp lực biến một kỹ nữ thành bộ xương cho các đệ tử nhìn rõ bản chất của nhan sắc. Chữ “sắc” trong tiếng Hán vừa chỉ sắc đẹp, vừa chỉ hình tướng mà con người có thể cảm nhận được, đối ngược với không là hình tướng mà mắt phàm không thấy được. Nhưng vạn vật luân chuyển, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Muôn vật đều là không có thật, là phù du. Phượng Thư tươi đẹp thật nhưng má hồng môi son rồi cũng thành cát bụi cả. Ngoài ra bộ xương còn là lời cảnh tỉnh: nếu Giả Thụy không quay đầu, tất mau có kết cục như bộ xương này. Ở hồi đầu truyện Chân Sĩ Ẩn khi giải nghĩa bài thơ “Hảo Liễu ca” đã nói:
Xưa sao phấn đượm hương nồng.
Mà nay sương nhuộm như bông trên đầu?
Bãi tha ma có xa đâu,
Là nơi màn thắm là lầu uyên ương.
Tất cả “sắc” đều sẽ tan biến, chỉ có sự tan biến là bất biến. Đã biết tình, sắc, dục là vô thường mà vẫn mê đắm, chẳng phải ngu ngốc sao? Thế nhưng Giả Thụy không dám đối mặt với thực tế đó. Một mặt y sợ cái chết, mặt khác y quá quyến luyến chữ “sắc” đến nỗi không thể rời bỏ. Oái oăm thay, chính việc không chịu thừa nhận tính vĩnh hằng của sự chết đã đẩy Giả Thuỵ nhanh tới nó.
Thứ ba, không thể bỏ qua chiếc gương “Phong nguyệt bảo giám”. Gương vốn là biểu tượng cho tâm hồn. Nhưng thế giới song đôi trong gương cũng là ẩn dụ cho sự gắn bó mật thiết giữa các cặp phạm trù sắc-không, thực-hư, âm-dương. Nếu Phượng Thư ngoài đời là sắc, thì Phượng Thư trong gương lại càng mơ hồ, là hư huyền của hư huyền. Phượng Thư trong gương là do trí tưởng tượng của y hun đúc nên, không có quan hệ với mợ Hai Liễn ngoài đời kia. Thay vì nhìn vào mặt trái để thấy rõ chân lý, Giả Thụy lại đắm chìm vào thế giới ảo của mặt phải. Công cuộc mò trăng đáy nước này khiến y phải trả giá bằng mạng sống. Đến phút chót, y vẫn muốn mang chiếc gương theo mình xuống âm ti, thật đáng cười mà cũng đáng thương.
Khi Giả Đại Nho, ông nội Giả Thụy định đem đốt chiếc gương, trong gương có tiếng nói vọng ra: “Ai bảo soi mặt phải! Các ngươi tự mình lấy giả làm thực, việc gì lại đốt gương của ta?” Đại Nho nghĩa đen là “nhà nho lớn,” nhưng lại họ “Giả,” ý nói lão chỉ là nhà nho giả hiệu. Tào Tuyết Cần đã dựng lên hình ảnh Giả Đại Nho để giễu cợt những kẻ theo đạo Khổng nhưng đầu óc xơ cứng, hủ lậu, không nhìn ra được bản chất của sự vật. Nhân vật này lúc trước rèn dạy Giả Thụy bằng cách đánh đập, sau lại muốn đốt chiếc gương, đúng là chữa bệnh từ ngọn, mê lầm không lối thoát.
Cuối cùng, chúng ta cần phân tích hình ảnh Giả Thụy khi chết. Hồng Lâu Mộng không thiếu những chi tiết phòng the, nhưng chỉ hai lần Tào Tuyết Cần nhắc đến chi tiết “giấc mơ ướt” một cách trần trụi như vậy: Giả Thụy khi chết, và khi Bảo Ngọc tỉnh dậy sau khi ân ái với nàng tiên.
Tập Nhân đến buộc hộ thắt lưng, vừa thò tay vào đùi Bảo Ngọc, thấy một đám dính như hồ lành lạnh, Tập Nhân giật mình co tay lại hỏi:
– Cái gì thế này?
Bảo Ngọc đỏ bừng mặt, bấm mạnh tay Tập Nhân một cái.
Theo các nhà Hồng học như Jinsheng Yi đã chỉ ra, sự giống nhau giữa Bảo Ngọc và Giả Thụy có ý nghĩa quan trọng. Nói một cách đơn giản, Giả Thụy chính là bài học cảnh giác cho Bảo Ngọc. Tên chữ của Giả Thụy là “Thiên Tường”, nghĩa đen là “điềm báo của trời”. Bảo Ngọc là ngọc quý, Thụy cũng là ngọc. Con đường tình ái mà Bảo Ngọc bước chân vào ở hồi năm, tuy phần nào trong sạch hơn Giả Thụy, về bản chất không khác gì nhau. Bảo Ngọc lần đầu trải qua sự mất mát tinh lực của người đàn ông sau giấc mơ với nàng tiên. Nếu Bảo Ngọc không biết kiềm chế, để điều đó lặp đi lặp lại, ắt sẽ phải chết như Giả Thụy. Nói rộng hơn, tính cách “phong lưu gây lấy nợ vào thân” của Bảo Ngọc chính là tiền đề cho những đau xót, thất vọng, nhục nhã trong đời cậu ta sau này: bị bố đánh, người hầu yêu và người tình phải chết, phải chứng kiến cảnh tan tác của các chị em,… Nỗi khổ mà Bảo Ngọc cũng như Giả Thụy gánh chịu, nói cho cùng, đều bắt nguồn từ một chữ “si.” Về cuối truyện, Bảo Ngọc đã kịp thời nhận ra chân lý “sắc sắc không không,” từ đó rẽ ngang, thoát khỏi luân hồi, đó vừa là bi kịch vừa là may mắn của Bảo Ngọc.
Kết luận lại, Giả Thụy là một nhân vật phụ nhưng số phận của y hàm chứa triết lý nhân sinh to lớn, có thể nói là đã hóa thành truyện ngụ ngôn răn dạy người đời. Mang Mang đạo sĩ và chiếc gương “Phong Nguyệt bảo giám” xứng đáng nhận giải bác sĩ phân tâm học của năm!
*