Nhân Vật
Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, người thầy y khoa gương mẫu
Việt Nguyên
Tập San Y Sĩ của hội Y Sĩ Việt Nam tại Gia Nã Ðại đến với tôi qua hai đàn anh y khoa, bác sĩ Nghiêm Ðạo Ðại và Lê Quang Dũng, là tập san đặc biệt tưởng niệm Giáo Sư Phạm Biểu Tâm một người thầy đáng kính của nền Y Khoa Việt Nam. Tập san tổng hợp nhiều cây viết và tiếng nói qua các đàn em, bạn và đồng nghiệp của ông như các Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, Ðào Ðức Hoành, Ðào Hữu Anh, Vũ Quí Ðài, Nguyễn Khắc Minh, Bác Sĩ Trần Văn Tích, Bác Sĩ Nghiêm Thị Thuần cùng những học trò đã nổi danh trong ngành phẫu thuật như các Bác Sĩ Nghiêm Ðạo Ðại, Trần Xuân Ninh, Văn Kỳ Chương, Ðặng Phú Ân, Lê Quang Dũng, đã vẽ lại đầy đủ chân dung và cuộc đời của Giáo Sư Phạm Biểu Tâm.
|
Như mùi bánh Madelaine thơm phức đã đánh thức Marcel Proust “đi tìm
lại thời gian đã mất,” tập san với những trang giấy trắng mới còn thơm
mùi mực đã đánh thức những kỷ niệm trong tôi về thời gian đi học trường
Y, những kỷ niệm với thầy cũ trường xưa đổ về như “để tưởng nhớ một mùi
hương” ( Mai Thảo ) nhưng mùi thơm của tập sách đã gợi về hai mùi hương
thời gian khác biệt, một mùi thơm của ngôi trường Y Nha Khoa mới, kiến
trúc mới ở đường Hồng Bàng Chợ Lớn với mùi gạch mới, tường vôi mới, gỗ
mới, khuôn viên mới, được xây lên năm 1962 do Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ,
được Giáo Sư Phạm Biểu Tâm khánh thành cùng với Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm và một mùi “đặc biệt” của bệnh viện Bình Dân Sài Gòn nằm trên đường
Phan Thanh Giản gần góc đường Cao Thắng quận ba, do nhiều mùi khác nhau
từ những khu bệnh giải phẫu, chỉnh trực, ung thư, ngoài da, tai mũi
họng, mắt, răng hàm mặt, tiết niệu, quang tuyến hòa lẫn, bệnh viện với
Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm làm giám đốc năm 1954 sau ngày di cư, hậu thân của
bệnh viện Phủ Doãn Hà Nội.
Hình ảnh thầy Phạm Biểu Tâm luôn có
mặt trong những bài viết của tôi về các thầy cũ, Giáo Sư Ðào Ðức Hoành,
Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, cùng những kỷ niệm về Bệnh Viện Bình Dân mặc dầu
tôi không phải là học trò của thầy như các bạn cùng lớp với tôi, Phan
Thượng Hải, Nguyễn Nho Ðức, Nguyễn Quảng Ðức, Soma Ganesan, Trần Ðông
Giang nội trú khu ngoại khoa tổng quát.
Trong đời tôi có những
cơ duyên với những người thầy đáng kính. Tôi biết Giáo Sư Phạm Biểu Tâm
và Giáo Sư Trần Quang Ðệ trước khi tôi vào học y khoa năm 1968. Hai
người thầy, đại Giáo Sư phẫu thuật tổng quát của trường Y Khoa Sài Gòn,
là hai khác biệt. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm sinh tại Huế, từ trường tiểu học
Huế lên học trung học ở Vinh khi cha ông làm quan Bố Chính tỉnh Thanh
Hóa, sáng lập “lò” giải phẫu Bình Dân, còn Giáo Sư Trần Quang Ðệ người
Nam, cựu viện trưởng viện đại học Sài Gòn, sáng lập “lò” giải phẫu Chợ
Rẫy. Bình Dân đa số gốc Bắc, Chợ Rẫy đa số gốc Nam. Giáo Sư Tâm nhỏ
người ăn nói nhỏ nhẹ, Giáo Sư Ðệ cao lớn ăn nói giọng oai vệ, khi tôi
mới gặp, hai ông đều nói tiếng Tây, tôi chỉ nể mà không hiểu hai ông bác
sĩ nói gì. Năm tôi năm tuổi, trước khi đi học, cha tôi đem tôi vào bệnh
viện Chợ Rẫy để cắt ngón tay thừa bên cạnh ngón tay cái bàn tay phải,
ngón tay vướng víu khi cầm viết. Bạn của cha tôi là ông y tá Huệ, phụ tá
số một của Bác Sĩ Trần Quang Ðệ trong phòng mổ, (bác Huệ là ba của
Nguyễn Hoàng Tuấn bạn học y khoa cùng lớp với tôi) đã đem tôi vào bệnh
viện Chợ Rẫy. Hồi năm tuổi tôi không biết là cậu nhỏ được vinh dự giải
phẫu bởi đại giáo sư giải phẫu sau khi nằm ở bệnh viện Chợ Rẫy hai ngày.
Những năm học tiểu học, vào những ngày cuối tuần, tôi hay theo cha mẹ
tôi đi dự hội Trung Việt Ái Hữu ở ngã ba Ông Tạ. Cha tôi trong ban quản
trị, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm trong thành phần cố vấn của hội. Tôi biết ông
qua cặp mắt kính nể của cha tôi và các chú bác trong hội mặc dù ông kém
cha tôi mười tuổi. Ông là một hãnh diện của hội, một cựu học sinh
trường Vinh, cha làm quan ở Thanh Hóa, là một dân chính gốc Thanh Nghệ
Tĩnh! Ông đã làm vẻ vang dân Trung vì đậu trường thuốc ở Hà Nội và đậu
thạc sĩ y khoa ở Pháp năm 1948. Ở những năm 1950, bác sĩ y khoa hiếm và
được quý trọng trong xã hội. Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm , về sau khi tôi lớn
lên mới hiểu hết, được các chú các bác bạn cha tôi trong hội quý trọng
là vì nhân cách của ông ngoài nghề y khoa. Cứ mỗi năm, hội Trung Việt Ái
Hữu tổ chức cây mùa Xuân và phát phần thưởng cho con em học giỏi. Năm
lớp nhất, tôi được sắp hàng trong đám học sinh trường tiểu học Phan Ðình
Phùng vào Dinh Ðộc Lập để nhận phần thưởng từ tay Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm (mặc dù thất vọng, năm ấy tổng thống bận phải để Phó Tổng Thống
Nguyễn Ngọc Thơ thay mặt) sau đó ngày chúa nhật ở hội Trung Việt Ái Hữu,
tôi được nhận phần thưởng từ tay Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm. Giọng nói nhẹ
nhàng từ con người nhỏ nhắn của Bác Sĩ Tâm ngày tôi mười một tuổi gây
khiến tôi kính phục.
Bảy năm sau tôi vào y khoa. Năm 1968 Mậu
Thân là một năm lịch sử. Vào trường y khoa sau cái Tết biến động, thế hệ
chúng tôi được xem là thế hệ y khoa do Hoa Kỳ đào tạo. Giáo Sư Phạm
Biểu Tâm, người thầy y khoa nhiều thế hệ, đối với chúng tôi cao vời vợi
và khoảng cách giữa thầy và chúng tôi như cha và con. Năm 1968 đem đến
nhiều thay đổi nhưng đối với người thầy của chúng tôi năm 1967 trước đó
đã đánh dấu khúc quanh của cuộc đời người thầy tận tâm cho y học. Sau
khi đậu Thạc Sĩ Y Khoa Pháp năm 1948, ông dạy Y Khoa Ðại Học Hà Nội từ
1949 đến 1954, đồng thời kiêm nhiệm giám đốc Bệnh Viện Yersin Hà Nội
(nhà thương Phủ Doãn). Vào Nam sau di cư ông vẫn tiếp tục được cử làm
Khoa Trưởng Ðại Học Y Dược và giám đốc Bệnh Viện Bình Dân. Nhưng năm
1967, chính phủ “cách mạng” của chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương,
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm một cuộc đảo chính, lật đổ Khoa Trưởng
Phạm Biểu Tâm, lập hội đồng khoa mới, lý do là các thầy theo hệ thống
Pháp không chịu chuyển ngữ dạy tiếng Việt. Thiếu tướng cảnh sát Nguyễn
Ngọc Loan theo lệnh ông Nguyễn Cao Kỳ làm cuộc đảo chính đưa quân vào
trường trái với tinh thần tự trị của viện đại học. Số phận của giáo sư y
khoa Phạm Biểu Tâm may mắn hơn là số phận của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.
Bốn mươi bảy năm sau nhìn lại thì cuộc “cách mạng” của ông Kỳ
là cuộc cách mạng có tính cách “biểu diễn.” Tài liệu qua nhiều nhân vật
trong tập san y sĩ kỳ này cho thấy các thầy thuộc thế hệ được đào tạo
thời Pháp đang chuẩn bị một sự thay đổi từ từ như chấp nhận kỳ thi trắc
nghiệm và giảng dậy bằng tiếng Việt. Cách mạng của ông Kỳ cũng như cách
mạng cộng sản của Hồ Chí Minh là một cuộc “chiến tranh vô ích.” Những
cuộc cách mạng đập phá ấy khác với tinh thần của Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ
khi ông nói trước nhân viên bệnh viên Phủ Doãn sau khi cộng sản nắm
chính quyền năm 1954: “Cách mạng có nghĩa là phải làm việc nhiều và tốt
hơn nữa.”
Sinh viên y khoa lớp chúng tôi chỉ bắt đầu gặp Giáo Sư
Pham Biểu Tâm vào năm thứ hai, sau năm dự bị và năm thứ nhất, khi được
đi thực tập lâm sàng và được thầy giảng môn triệu chứng học trong giảng
đường. Ông giản dị, từ tốn, giọng nhỏ nhẹ nhưng thâm thúy, người ông
trông không có gì hấp dẫn khi mới tiếp xúc, người ốm, mặt gầy, tóc quăn
(Bác Sĩ Nguyễn Chấn Hùng nói những người tóc quăn thông minh, đàn anh
của tôi cũng tóc quăn!) dạy trong giảng đường chừng mực, cái vẽ thông
thái của ông khác với vẽ thông thái của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh.
Ở
bệnh viện Bình Dân, chúng tôi chỉ được gặp ông sau khi đi qua các giảng
nghiệm viên khu giải phẫu tổng quát, Bác Sĩ Nguyễn Khắc Lân, Bác Sĩ
Nguyễn Minh Tuyến, Tôi còn nhớ ông dạy lâm sàng, dặn dò phải “xem bệnh
nhân như người nhà, nếu bệnh nhân lớn tuổi xem họ như cha mẹ.” Ông đã
dạy chúng tôi cách khám bệnh “nghe, sờ, gõ,” xin phép bệnh nhân được cởi
áo trước khi khám bệnh. “Phút đầu gặp gỡ ấy” với bệnh nhân phòng 8 bệnh
viện Bình Dân bên cạnh người thầy là những giây phút không quên trong
đời. Cách khám bệnh nhân ấy rất nhân bản. Ông kính trọng bệnh nhân, thực
hành những lời ông đã dặn học trò, và ông đã săn sóc bệnh nhân với tấm
lòng nhân ái, có lẽ vì bản thân ông cũng đã là một bài học cho chính
ông. Năm 2000, Giáo Sư Nguyễn Khắc Minh có ghé nhà tôi ở Galveston, ông
đã được mẹ vợ tôi, “chị Vân Anh” y tá trưởng phòng dụng cụ lâu đời ở
bệnh viện Phủ Doãn và Bình Dân, kể lại câu chuyện thầy Phạm Biểu Tâm đau
ruột dư để lâu ngày mới mổ, khi đánh thuốc mê áp huyết bị xuống thấp và
gần ngưng thở phải được cấp cứu bằng phương pháp Sylvester. Năm ngoái,
sau bài viết về Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, tôi qua California được thầy
Ninh và sau đó cũng được Bác Sĩ Nghiêm Ðạo Ðại kể lại thầy Tâm đã khóc
sau khi con thầy mất vì bệnh lao màng óc, một căn bệnh ngặt nghèo không
chữa được bằng thuốc Steptomycin chích bởi tay Giáo Sư Ninh.
Năm
thứ nhất y khoa, tôi vào bệnh viện Bình Dân đi theo các anh nội trú
Nguyễn Chấn Hùng, Nguyễn Lương Truyền, Ðặng Phú Ân, Nguyễn Văn Quang để
học mổ và phụ mổ, sống và thức khuya để học như những con chuột cống
trực gác trong nhà thương buổi tối. Tôi đã chứng kiến những cái nhìn
kính trọng của các anh nội trú với thầy, chưa được thấy thầy mổ nhưng bà
mẹ vợ tương lai cũng đã khuyên tôi “nếu muốn theo ngành giải phẫu con
nên theo thầy Tâm, ông mổ cẩn thận.” Cách mổ của các học trò ruột của
thầy vào lúc ấy như Bác Sĩ Nghiêm Ðạo Ðại (sau 1975 là Giáo Sư giải phẫu
đại học Pittsburgh) Bác Sĩ Lê Quang Dũng, Bác Sĩ Nguyễn Khắc Lân, Bác
Sĩ Nguyễn Minh Tuyến, Bác Sĩ Văn Kỳ Chương cho thấy đức tính cẩn thận
của thầy đã truyền cho học trò. Ông luôn luôn nhắc nhở các nội trú bệnh
viện Bình Dân không nên ham mổ. Năm 1975, tôi đã tận mắt nhìn thấy kinh
nghiêm giảng dạy của thầy. Một đêm tháng sáu năm 1975 tôi đưa cha tôi
vào bệnh viện Bình Dân sau khi ông lên cơn đau bụng. Khoảng thời gian
này là những năm tháng cuối của cha tôi. Ông bị nhiều chứng bệnh nặng.
Bác Sĩ Phan Văn Tường hôm ấy trực đã khám cho cha tôi, định bệnh viêm
ruột dư định đưa lên bàn mổ nhưng vẫn phải đợi thầy Tâm vào xem lại.
Mười giờ đêm thầy Tâm vào thăm bệnh cho cha tôi, sau khi khám lại kỹ
lưỡng ông nói với tôi: “Anh nên hội chẩn với Hồ Hội, tôi nghĩ ông cụ đau
bụng vì bệnh nội thương.” Bác Sĩ Hồ Hội (trên tôi một năm) đã chuyển
cha tôi về bệnh viện Chợ Quán để chữa bệnh gan. Hình ảnh và giọng nói
của thầy Phạm Biểu Tâm đứng cạnh cha tôi trên giường bệnh đúng 39 năm
sau vẫn không phai mờ trong ký ức tôi.
Năm thứ năm y khoa, tôi
đậu kỳ thi nội trú các bệnh viện, về làm nội trú khu ung thư với Giáo Sư
Ðào Ðức Hoành (đáng lẽ tôi phải chọn làm nội trú khu giải phẫu tổng
quát trước khi làm nội trú khu ung thư mới đúng con đường giải phẫu). Vì
vậy cái duyên giữa tôi với thầy cũng chỉ là cái duyên “Kính nhi viễn
chi” cho đến ngày ba mươi tháng 4 năm 1975, cái ngày đổi đời của cả đất
nước thì tôi mới có duyên gần gũi với thầy.
Ngày 1 tháng 5, trước
khi ủy ban quân quản tiếp thu bệnh viện Bình Dân, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm
tập hợp nội trú vá các bác sĩ điều trị, ông thay Giáo Sư Ðào Ðức Hoành
giám đốc bệnh viện đã di tản, bằng giọng nói nhỏ nhẹ ông kết luận bài
nói chuyện ngắn bằng câu cay đắng: “ Nay cách mạng thành công, trong đây
có anh đã đạt được mục đích, nếu thấy tôi có lỗi cứ lên đây tát tai
tôi.” Tôi không hiểu ông muốn ám chỉ ai lúc đó, trong số bác sĩ và nhân
viên bệnh viện không ai là cán bộ nằm vùng, về sau chỉ một số theo ngọn
gió 30 tháng 4 đổi chiều quay lại đạp những giá trị cũ để tiến lên, hay
là vì ông đã có nhiều kinh nghiệm trong đời ngay cả trước khi Việt cộng
vào Sài Gòn. Năm 1967 ông bị đảo chính vì bị xem là thành phần thủ cựu
thân Pháp nhưng cộng sản vào ông có thể bị kết tội thân Mỹ vì ông đã mời
Giáo Sư Henry Bahnson đại học Pittsburg cộng tác chương trình hậu đại
học phẫu khoa ở Bệnh Viện Bình Dân từ năm 1972. Ông đã phải đối đầu với
sinh viên, những sinh viên quá khích, như năm 1972 sinh viên chống
chương trình nội trú, đòi bỏ chế độ nội trú như Pháp để có một chương
trình nội trú cho tất cả sinh viên như ở Hoa Kỳ. Sinh viên Bùi Trọng Hậu
(em ruột Bác Sĩ Bùi Mộng Hùng học trò giải phẫu của ông) đã bước lên
sân khấu cầm micro chỉ mặt ông đang ngồi hàng đầu la mắng ông là người
không biết cải thiện. Năm đó sinh viên chống thi nội trú một phần cũng
vì chống giáo sư Khoa Trưởng Ðặng Văn Chiếu. Ông đã điềm đạm cầm micro
đáp lại anh Hậu “sở dĩ chưa có chương trình nội trú cho mọi người vì
ngân khoản bộ y tế hạn hẹp chưa có thể thực hiện được.” Một lần khác,
vào đêm thứ năm ở Bệnh Viện Bình Dân, đêm học hỏi với những trường hợp
bệnh lý, bàn thảo giữa các sinh viên, giáo sư và giảng nghiệm viên. Ðêm
hôm đó một lần nữa, ông lại bị nội trú nội khoa Nguyễn Xuân Ngãi, một
sinh viên xuất sắc chuyên về ngành nội khoa cầm micro dạy cho giáo sư
giải phẫu nổi tiếng Phạm Biểu Tâm một bài học: “Thầy là người cổ lỗ sĩ,
không học cái mới, thủng ruột vì sốt thương hàn bây giờ Mỹ không mổ chỉ
cho trụ sinh và đặt ống hút.” Ông trả lời nhã nhặn “chúng tôi đã già nếu
có gì mới các anh xin chỉ bảo.” Ðêm hôm ấy bạn tôi Soma Ganesan nổi
nóng nói với tôi “mày chặn cửa sau, tao chặn cửa hông cho thằng Ngãi một
bài học” chuyện đánh nhau không xảy ra nhưng tôi cố đọc sách và qua Mỹ
củng cố hỏi các bác sĩ giải phẫu mà không tìm ra câu trả lời chữa nội
khoa cho bệnh thủng ruột do biến chứng bệnh sốt thương hàn.
Tư
cách của ông được học trò kính nể, ông là người có tinh thần dân chủ.
Một sáng ông đến bệnh viện, văn phòng ông nằm bên tay phải, phòng cấp
cứu với phòng may vá khẩn cấp nằm bên tay trái, trước khi đến văn phòng
ông đến xem sinh viên làm việc như thế nào. Một sinh viên năm thứ hai
thấy ông mặc áo trắng thắt cà vạt đã đuổi ông ra vì ông không mang mặt
nạ và không đội mũ theo đúng luật của phòng tiểu giải phẫu. Ông về văn
phòng, sau đó trở lại với khẩu trang và mũ. Cậu sinh viên biết đại giáo
sư đã lo sợ nhưng ông không la lối mắng mỏ, tôn trọng luật và tinh thần
dân chủ của ông ít có giáo sư nào so sánh được. Ông có tiếng thẳng thắn
trong thập niên 1960 khi ông không nhận cô Ngô Ðình Lệ Thủy con ông cố
vấn Ngô Ðình Nhu vào trường y khoa vì không đủ điểm cũng như em ruột của
ông học đến năm thứ tư vẫn bị đánh rớt, là khoa trưởng ông không can
thiệp, em ông phải đi trợ y.
Ông là người đã “khóc cười theo mệnh
nước nổi trôi.” Qua lời của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, năm 1946, quân Pháp
đột nhập bệnh viện Phủ Doãn cầm đầu là một viên Trung Úy cố tìm thủ
phạm đã phá hủy thân thể một phụ nữ Pháp bằng thủ thuật, thủ phạm như
vậy phải là một bác sĩ giải phẫu. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm đã trả lời vững
vàng điềm tĩnh đối thoại với viên trung úy như một người Pháp chính
cống. Triết lý sống cũng đã giúp ông qua thời kỳ Bác Sĩ Meynard (được ủy
ban quân quản Pháp cử đến làm giám đốc bệnh viện Phủ Doãn) cho đến khi
Giáo Sư Huard người thầy của ông đến.
Sau 30 tháng 4, con người
của Giáo Sư Phạm Biểu Tâm không đổi. Riêng cá nhân tôi, tôi kính trọng
hai vị thầy khả kính đã đứng thẳng người sau cơn bão mặc dù hai người
với hai cá tính. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm thận trọng, biết nhiều chính trị
nhưng không hoạt động chính trị, con người thâm trầm cân nhắc lời nói.
Giáo Sư Trần Ngọc Ninh phê bình thẳng thừng đôi khi châm chọc. Cả hai
ông đều đúng là trí thức, sống với chính mình. Sau ba mươi tháng 4, bệnh
viện Bình Dân giống như các bệnh viện khác, là sân khấu của những vở
kịch khôi hài cười ra nước mắt. Mỗi sáng các giáo sư thạc sĩ ngồi trong
buổi giao ban được y sĩ Năm Lực giảng dạy cách mổ. Giám đốc Mười Nhâm tư
cách hơn, chỉ lo thủ tục hành chính. Các giáo sư được gọi là anh, mọi
người được bình đẳng trên phương diện lao động, các thầy cũng giống như
mọi ngươi, đi xe đạp và lãnh nhu yếu phẩm, mỗi sáng bác sĩ chùi nhà chùi
cầu tiêu dưới cặp mắt ái ngại của ông “chủ mới của chế độ” anh Ðược y
công của bệnh viện. Thầy Tâm đi chùi nhà, đổ rác mặc dù học trò nói thầy
đừng làm, té bầm tay thầy than với chúng tôi “có hai lần đổi đời 54 và
75, hồi 54 tôi còn trẻ bây giờ tôi già rồi!”
Tình trạng thay đổi
khi Giáo Sư Tôn Thất Tùng vào Nam. Các ông Năm Lực, Mười Nhâm được chỉ
thị gọi các giáo sư bằng thầy. Lãnh đạo miền Bắc thay đổi cũng nhờ việc
tham quan của giáo sư giải phẫu Tôn Thất Tùng đàn anh của Giáo Sư Phạm
Biểu Tâm và Trần Ngọc Ninh. Giống như các ngành khác, Giáo Sư Tôn Thất
Tùng được thần tượng hóa, thần thoại hóa qua phẫu thuật cắt gan như là
đại giáo sư quốc tế sắp đoạt giải Nobel về y học. Ngày Giáo Sư Tùng đi
thăm bệnh viện giáo sư Tâm đã mời ông mổ cho nội trú học, Giáo Sư Tùng
đã trả lời ông không mổ vì đã xem “nội trú trong Nam mổ giỏi hơn ngoài
Bắc.” Giáo Sư Tùng là người có tư cách khi trả lời Giáo Sư Tâm như vậy.
Giáo Sư T.N. Ninh đã viết Giáo Sư Tôn Thất Tùng như là bác sĩ riêng của
ông Hồ Chí Minh và huyền thoại ngoài Bắc vẫn nói Bác Sĩ T T Tùng ngồi
cạnh ông Hồ Chí Minh khi ông Hồ mất nhưng năm 1994 qua Houston học, giáo
sư nội khoa Ðặng Văn Chung nói cho tôi biết ông chính là người săn sóc
và ngồi cạnh ông Hồ Chí Minh khi ông này mất.)
Năm 1976, học trò
cũ của ông là Bác Sĩ Bùi Mộng Hùng từ Pháp cùng với vợ về VN đến thăm
bệnh viện Bình Dân. Bác Sĩ Bùi Mộng Hùng là chủ tịch hội y sĩ Việt Kiều
Yêu Nước tại Pháp, vào lúc tranh tối tranh sáng không ai lúc ấy biết ông
Hùng qua Pháp chỉ làm giải phẫu thực nghiệm không hành nghề giải phẫu.
Trong cảnh “hàng thần lơ láo” Giáo Sư Tâm đã đón tiếp ông học trò rất
nhã nhặn bằng giọng rất “thâm” của anh đồ Nghệ để hỏi thăm học trò về
tình hình chính trị bên ngoài và trong nước.
Bác Sĩ Trần Xuân
Ninh đã có mặt trong buổi họp Hội Trí Thức Yêu Nước với sự có mặt của
Tướng Võ Nguyên Giáp. Những trí thức ba mươi tháng tư đã có bộ mặt sợ
hãi nịnh bợ nhưng “uy vũ bất năng khuất,” Giáo Sư Phạm Biểu Tâm phát
biểu đàng hoàng chừng mực, vắn tắt, nhẹ nhàng không ca tụng chế độ hay
nịnh bợ. Ông có tài nói chuyện thâm trầm đâm vào tim óc người nghe nhưng
ông không dùng chữ hai nghĩa đôi lời nhiều ẩn dụ như những người đã
sống lâu trong chế độ cộng sản.
Giáo Sư Trần Ngọc Ninh viết, sở
dĩ Giáo Sư Phạm Biểu Tâm hành xử thẳng thắn (như lần ông qua bệnh viện
Cộng Hòa cũ với Bác Sĩ Ðặng Phú Ân mai mỉa chế độ ưu đãi cho cán bộ cao
cấp trong khi ở bệnh viện Bình Dân hai bệnh nhân nằm chung giường) là vì
có “tâm của y sĩ phẫu khoa.” Tôi nhỏ hơn các thầy, nhìn lên, tôi thấy
thầy là kết quả của hai nền giáo dục kim cổ, con người còn giữ tinh thần
“kẻ sĩ” của tổ phụ, tinh thần nho giáo từ đời ông Tổ là Tổng Binh Phạm
Tấn không thay đổi, dù ông theo Tây học, con người ấy thẳng thắn hơn nhờ
tinh thầy Hướng Ðạo. Ông là cựu tráng sinh đoàn Lam Sơn Hà Nội với
tráng trưởng Hoàng Ðạo Thúy.
Trưởng Mai Liệu nay 96 tuổi, lớn
tuổi không về dự trại Thẳng Tiến 10 toàn thế giới ở Houston năm nay,
thường hay kể cho chúng tôi nghe về Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm.
Tên
ông có trong danh sách cố vấn hội Hướng Ðạo Việt Nam trước 1975. Trại
toàn quốc lần chót ở Suối Tiên năm 1972 cũng có tên ông trong ban cố
vấn. Các Bác Sĩ trưởng Hướng Ðạo như Bác Sĩ Trần Tiễn Huyến tổng ủy viên
Hướng Ðạo, Bác sĩ Trần Bình Chi đạo trưởng hải đoàn Bạch Ðằng cũng
thường nhắc đến trưởng Phạm Biểu Tâm trong những lần họp trại mặc dù tôi
chưa được thấy ông mặc đồng phục Hướng Ðạo lại trong những năm 1970.
Bác Sĩ Nguyễn Văn Thơ chủ tịch hội Hướng Ðạo cũng như trưởng Nghiêm Văn
Thạch (ở Pháp) nhắc đến ông 12 năm trước ngày trại Thẳng Tiến 7 tổ chức ở
Houston. Tôi cố tìm tên rừng của ông nhưng không ai nhớ. Tráng sinh lên
đường là người trưởng thành, buổi tối mang ba lô vào rừng đi cắm trại
một mình, tay cầm cây gậy từ cành cây chĩa đôi, hai con đường đi một
chính một tà, người tráng sinh tự chọn và tráng sinh Phạm Biểu Tâm đã
chọn đúng con đường Baden Powell ông tổ phong trào Hướng Ðạo vạch ra.
Người Hướng Ðạo không làm chính trị, yêu nước với 3 lời hứa và giữ 10
điều luật. Người Hướng Ðạo có con đường tâm linh, không vô thần nên cho
đến nay Hướng Ðạo quốc doanh của CSVN không được phong trào thế giới
công nhận. Ngày trưởng Hướng Ðạo Thúy, tác giả cuốn “Ðội của tôi” cẩm
nang cầm đội của các đội trưởng, theo ông Hồ Chí Minh làm giám đốc
trường sĩ quan “Tông” triệu tập Ðại Hội Hướng Ðạo Việt Nam tại Hà Nội để
thành lập “Hướng đạo cứu quốc” thuộc mặt trận Việt Minh, trưởng Võ
Thành Minh (người thổi sáo bên bờ hồ Genève Thụy Sĩ ngày Hiệp Ðịnh
Genève chia cắt đất nước) đã phản đối cùng với tráng sinh Phạm Biểu Tâm
(Bạch Mã tráng khóa 5 tại Huế). Tráng sinh Tâm đã tuyên bố: “Không phải
gia nhập cứu quốc mới là yêu nước. Hướng đạo là người yêu nước từ lúc
tuyên hứa.”
Năm 1975, một lần nữa “yêu nước là yêu xã hội chủ
nghĩa,” các cán bộ cộng sản biết tiếng tăm của Giáo Sư Phạm Biểu Tâm đã
đưa ông vào đại biểu thành phố, hội trí thức yêu nước khiến mọi người
hiểu lầm con người Thanh Nghệ Tĩnh ấy là người cộng sản. Sự thật là tên
tuổi ông được dùng vì người học trò cũ, Bác Sĩ Vân, cũng như Trưởng Khuê
đạo trưởng Ðạo Cửu Long (Giáo Sư Tâm là trưởng ban bảo trợ Tráng đoàn
Bạch Ðằng). Các hội viện hội Trung Việt Ái Hữu cũng đóng phần vào việc
đưa tên tuổi ông vào các tổ chức gọi là yêu nước của cộng sản, hội
trưởng Nguyễn Khắc Quyến là người hoạt động cho cộng sản bị Tổng Thống
Ngô Ðình Diệm bắt khi chở gạo qua vĩ tuyến 18 tiếp tế khi VNCH cấm vận.
Trong hội có những người Thanh Nghệ Tĩnh quốc gia như có Bác Sĩ Phạm
Biểu Tâm, Bác Sĩ Phan Huy Quát, Bác Sĩ Phan Quang Ðán nhưng một số khác
hoạt động cho cộng sản.
Bác sĩ Trần Xuân Ninh kể chuyện một lần
“láo” với thầy Phạm Biểu Tâm khi Bác Sĩ Ninh xem thường khu “răng hàm
mặt” làm tôi nhớ đến một lần cũng “ngổ ngáo” sau ngày 30 tháng 4, 1975.
Giáo sư Ðào Ðức Hoành di tản, Bác Sĩ Trần Ngọc Quang giảng nghiệm viên
đi Pháp, Bác Sĩ Nguyễn Quang Huấn và Bác Sĩ Nguyễn Chấn Hùng đi tù cải
tạo. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm đứng ra trông coi khu ung thư với chị Nguyễn
Thị Thanh Thảo nội trú trên tôi một lớp điều hợp công việc. Một hôm
trong phòng mổ tôi được sắp ca mổ tuyến giáp trạng với nội trú Nguyễn
Tấn Lộc phụ mổ. Sau khi mổ xong tôi tự khoác lác khoe tài “chỉ có khu
ung thư mới mổ tuyến giáp trạng đẹp như vầy,” nói xong tôi thấy Lộc và
bà Phòng đánh thuốc mê im lặng không lên tiếng phụ họa, phòng mổ không
một tiếng động, Lộc nhìn sau lưng tôi, quay lưng lại tôi mới biết thầy
Tâm đứng sau lưng tôi không nói xem tôi mổ từ đầu! Ông im lặng không
mắng tôi, không phê bình, quả thật là một người thầy đáng kính, mà có lẽ
trong đời trên 30 năm dạy học ông cũng hiểu nội trú giải phẫu bệnh viện
Bình Dân đa số ngông nghênh?
Năm 1989, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm qua
Mỹ, tôi không gặp lại thầy từ ngày thầy định cư đến ngày ông mất 10 năm
sau. Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ năm ấy do Bác Sĩ Trương Ngọc Tích là
chủ tịch đã đến thăm thầy với số tiền giúp thầy định cư nhưng thầy từ
chối ngược lại thầy đã nhận số tiền nhỏ của tôi với bức thư trả lời của
thầy gởi cho người học trò cũ. Ông đã vui vẻ viết về những chuyện xưa
khi trong thơ tôi nhắc lại “những người cùng quê Thanh Nghệ Tĩnh đã xem
thầy là đại ân nhân của họ” vì thầy đã chữa bệnh không lấy tiền ở bệnh
viện St. Paul ngay cả những người phải giải phẫu. Thầy không làm phòng
mạch tư nhưng làm việc thêm ở bệnh viện St. Paul. Thời buổi khó khăn
trong những năm chiến tranh ông cũng giống như các bác sĩ khác phải kiếm
sống để đắp thêm tiền lương công chức nhưng ông đã luôn giữ tư cách
không để công tư lẫn lộn.
Năm 1995 tôi có dịp về thăm bệnh viện
Bình Dân, ở phòng làm việc cũ của thầy nay là phòng làm việc của Bác Sĩ
Văn Tần có treo hình thầy. Bác Sĩ Văn Tần treo hình ngay ngày thầy đi
qua Hoa Kỳ đoàn tụ trong khoảng thời gian mà cả nước chỉ được treo hình
Hồ Chí Minh. Tôi không phục Bác Sĩ Văn Tần vì ông không chính gốc Bình
Dân, về Bình Dân từ quân đội để học hậu đại học phẫu khoa, nhưng hành
động của ông đã thay đổi tình cảm của tôi dành cho ông. Thái độ quân tử
thẳng thắn của thầy đã truyền qua người học trò nối tiếp con đường giải
phẫu ngoại khoa tổng quát bệnh viện Bình Dân và trường Y khoa Sài Gòn .
Năm
ngoái, sau bài viết về giáo sư Trần Ngọc Ninh, tôi nhận được điện thư
của một người đàn em đồng nghiệp, thế hệ đàn em y khoa sau 1975 Bác Sĩ
Hồng Minh đã viết: “may mắn em vẫn còn được học một số thầy ở Bình Dân
và trường y khoa Sài Gòn . Ðược hưởng tình thâm thầy trò huynh đệ của
gia đình y khoa mình thật là hạnh phúc, trong em tấm lòng và hình ảnh
yêu thương người bệnh và học trò của các thầy cô đã giữ lại trong suốt
thời gian còn lại tuy em chỉ được học với số ít thầy trong thời gian dài
nhưng chỉ bao nhiêu đó cũng hình thành tính cách chung của gia đình y
khoa Sài Gòn mà tận đến bây giờ em vẫn tự hào.” Tinh thần ấy của trường y
khoa Sài Gòn đã có nhờ công của các giáo sư thành lập trường từ năm
1954 trong đó công của Giáo Sư Phạm Biểu Tâm rất lớn. Ðời người ngắn
ngủi, trăm năm chỉ còn lại một tấm lòng và học trò y khoa qua bao thế hệ
biển dâu vẫn không quên tấm lòng của người thầy giản dị khiêm nhượng
Phạm Biểu Tâm.
( Song Phương chuyển )
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, người thầy y khoa gương mẫu
Việt Nguyên
Tập San Y Sĩ của hội Y Sĩ Việt Nam tại Gia Nã Ðại đến với tôi qua hai đàn anh y khoa, bác sĩ Nghiêm Ðạo Ðại và Lê Quang Dũng, là tập san đặc biệt tưởng niệm Giáo Sư Phạm Biểu Tâm một người thầy đáng kính của nền Y Khoa Việt Nam. Tập san tổng hợp nhiều cây viết và tiếng nói qua các đàn em, bạn và đồng nghiệp của ông như các Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, Ðào Ðức Hoành, Ðào Hữu Anh, Vũ Quí Ðài, Nguyễn Khắc Minh, Bác Sĩ Trần Văn Tích, Bác Sĩ Nghiêm Thị Thuần cùng những học trò đã nổi danh trong ngành phẫu thuật như các Bác Sĩ Nghiêm Ðạo Ðại, Trần Xuân Ninh, Văn Kỳ Chương, Ðặng Phú Ân, Lê Quang Dũng, đã vẽ lại đầy đủ chân dung và cuộc đời của Giáo Sư Phạm Biểu Tâm.
|
Như mùi bánh Madelaine thơm phức đã đánh thức Marcel Proust “đi tìm
lại thời gian đã mất,” tập san với những trang giấy trắng mới còn thơm
mùi mực đã đánh thức những kỷ niệm trong tôi về thời gian đi học trường
Y, những kỷ niệm với thầy cũ trường xưa đổ về như “để tưởng nhớ một mùi
hương” ( Mai Thảo ) nhưng mùi thơm của tập sách đã gợi về hai mùi hương
thời gian khác biệt, một mùi thơm của ngôi trường Y Nha Khoa mới, kiến
trúc mới ở đường Hồng Bàng Chợ Lớn với mùi gạch mới, tường vôi mới, gỗ
mới, khuôn viên mới, được xây lên năm 1962 do Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ,
được Giáo Sư Phạm Biểu Tâm khánh thành cùng với Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm và một mùi “đặc biệt” của bệnh viện Bình Dân Sài Gòn nằm trên đường
Phan Thanh Giản gần góc đường Cao Thắng quận ba, do nhiều mùi khác nhau
từ những khu bệnh giải phẫu, chỉnh trực, ung thư, ngoài da, tai mũi
họng, mắt, răng hàm mặt, tiết niệu, quang tuyến hòa lẫn, bệnh viện với
Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm làm giám đốc năm 1954 sau ngày di cư, hậu thân của
bệnh viện Phủ Doãn Hà Nội.
Hình ảnh thầy Phạm Biểu Tâm luôn có
mặt trong những bài viết của tôi về các thầy cũ, Giáo Sư Ðào Ðức Hoành,
Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, cùng những kỷ niệm về Bệnh Viện Bình Dân mặc dầu
tôi không phải là học trò của thầy như các bạn cùng lớp với tôi, Phan
Thượng Hải, Nguyễn Nho Ðức, Nguyễn Quảng Ðức, Soma Ganesan, Trần Ðông
Giang nội trú khu ngoại khoa tổng quát.
Trong đời tôi có những
cơ duyên với những người thầy đáng kính. Tôi biết Giáo Sư Phạm Biểu Tâm
và Giáo Sư Trần Quang Ðệ trước khi tôi vào học y khoa năm 1968. Hai
người thầy, đại Giáo Sư phẫu thuật tổng quát của trường Y Khoa Sài Gòn,
là hai khác biệt. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm sinh tại Huế, từ trường tiểu học
Huế lên học trung học ở Vinh khi cha ông làm quan Bố Chính tỉnh Thanh
Hóa, sáng lập “lò” giải phẫu Bình Dân, còn Giáo Sư Trần Quang Ðệ người
Nam, cựu viện trưởng viện đại học Sài Gòn, sáng lập “lò” giải phẫu Chợ
Rẫy. Bình Dân đa số gốc Bắc, Chợ Rẫy đa số gốc Nam. Giáo Sư Tâm nhỏ
người ăn nói nhỏ nhẹ, Giáo Sư Ðệ cao lớn ăn nói giọng oai vệ, khi tôi
mới gặp, hai ông đều nói tiếng Tây, tôi chỉ nể mà không hiểu hai ông bác
sĩ nói gì. Năm tôi năm tuổi, trước khi đi học, cha tôi đem tôi vào bệnh
viện Chợ Rẫy để cắt ngón tay thừa bên cạnh ngón tay cái bàn tay phải,
ngón tay vướng víu khi cầm viết. Bạn của cha tôi là ông y tá Huệ, phụ tá
số một của Bác Sĩ Trần Quang Ðệ trong phòng mổ, (bác Huệ là ba của
Nguyễn Hoàng Tuấn bạn học y khoa cùng lớp với tôi) đã đem tôi vào bệnh
viện Chợ Rẫy. Hồi năm tuổi tôi không biết là cậu nhỏ được vinh dự giải
phẫu bởi đại giáo sư giải phẫu sau khi nằm ở bệnh viện Chợ Rẫy hai ngày.
Những năm học tiểu học, vào những ngày cuối tuần, tôi hay theo cha mẹ
tôi đi dự hội Trung Việt Ái Hữu ở ngã ba Ông Tạ. Cha tôi trong ban quản
trị, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm trong thành phần cố vấn của hội. Tôi biết ông
qua cặp mắt kính nể của cha tôi và các chú bác trong hội mặc dù ông kém
cha tôi mười tuổi. Ông là một hãnh diện của hội, một cựu học sinh
trường Vinh, cha làm quan ở Thanh Hóa, là một dân chính gốc Thanh Nghệ
Tĩnh! Ông đã làm vẻ vang dân Trung vì đậu trường thuốc ở Hà Nội và đậu
thạc sĩ y khoa ở Pháp năm 1948. Ở những năm 1950, bác sĩ y khoa hiếm và
được quý trọng trong xã hội. Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm , về sau khi tôi lớn
lên mới hiểu hết, được các chú các bác bạn cha tôi trong hội quý trọng
là vì nhân cách của ông ngoài nghề y khoa. Cứ mỗi năm, hội Trung Việt Ái
Hữu tổ chức cây mùa Xuân và phát phần thưởng cho con em học giỏi. Năm
lớp nhất, tôi được sắp hàng trong đám học sinh trường tiểu học Phan Ðình
Phùng vào Dinh Ðộc Lập để nhận phần thưởng từ tay Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm (mặc dù thất vọng, năm ấy tổng thống bận phải để Phó Tổng Thống
Nguyễn Ngọc Thơ thay mặt) sau đó ngày chúa nhật ở hội Trung Việt Ái Hữu,
tôi được nhận phần thưởng từ tay Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm. Giọng nói nhẹ
nhàng từ con người nhỏ nhắn của Bác Sĩ Tâm ngày tôi mười một tuổi gây
khiến tôi kính phục.
Bảy năm sau tôi vào y khoa. Năm 1968 Mậu
Thân là một năm lịch sử. Vào trường y khoa sau cái Tết biến động, thế hệ
chúng tôi được xem là thế hệ y khoa do Hoa Kỳ đào tạo. Giáo Sư Phạm
Biểu Tâm, người thầy y khoa nhiều thế hệ, đối với chúng tôi cao vời vợi
và khoảng cách giữa thầy và chúng tôi như cha và con. Năm 1968 đem đến
nhiều thay đổi nhưng đối với người thầy của chúng tôi năm 1967 trước đó
đã đánh dấu khúc quanh của cuộc đời người thầy tận tâm cho y học. Sau
khi đậu Thạc Sĩ Y Khoa Pháp năm 1948, ông dạy Y Khoa Ðại Học Hà Nội từ
1949 đến 1954, đồng thời kiêm nhiệm giám đốc Bệnh Viện Yersin Hà Nội
(nhà thương Phủ Doãn). Vào Nam sau di cư ông vẫn tiếp tục được cử làm
Khoa Trưởng Ðại Học Y Dược và giám đốc Bệnh Viện Bình Dân. Nhưng năm
1967, chính phủ “cách mạng” của chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương,
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm một cuộc đảo chính, lật đổ Khoa Trưởng
Phạm Biểu Tâm, lập hội đồng khoa mới, lý do là các thầy theo hệ thống
Pháp không chịu chuyển ngữ dạy tiếng Việt. Thiếu tướng cảnh sát Nguyễn
Ngọc Loan theo lệnh ông Nguyễn Cao Kỳ làm cuộc đảo chính đưa quân vào
trường trái với tinh thần tự trị của viện đại học. Số phận của giáo sư y
khoa Phạm Biểu Tâm may mắn hơn là số phận của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.
Bốn mươi bảy năm sau nhìn lại thì cuộc “cách mạng” của ông Kỳ
là cuộc cách mạng có tính cách “biểu diễn.” Tài liệu qua nhiều nhân vật
trong tập san y sĩ kỳ này cho thấy các thầy thuộc thế hệ được đào tạo
thời Pháp đang chuẩn bị một sự thay đổi từ từ như chấp nhận kỳ thi trắc
nghiệm và giảng dậy bằng tiếng Việt. Cách mạng của ông Kỳ cũng như cách
mạng cộng sản của Hồ Chí Minh là một cuộc “chiến tranh vô ích.” Những
cuộc cách mạng đập phá ấy khác với tinh thần của Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ
khi ông nói trước nhân viên bệnh viên Phủ Doãn sau khi cộng sản nắm
chính quyền năm 1954: “Cách mạng có nghĩa là phải làm việc nhiều và tốt
hơn nữa.”
Sinh viên y khoa lớp chúng tôi chỉ bắt đầu gặp Giáo Sư
Pham Biểu Tâm vào năm thứ hai, sau năm dự bị và năm thứ nhất, khi được
đi thực tập lâm sàng và được thầy giảng môn triệu chứng học trong giảng
đường. Ông giản dị, từ tốn, giọng nhỏ nhẹ nhưng thâm thúy, người ông
trông không có gì hấp dẫn khi mới tiếp xúc, người ốm, mặt gầy, tóc quăn
(Bác Sĩ Nguyễn Chấn Hùng nói những người tóc quăn thông minh, đàn anh
của tôi cũng tóc quăn!) dạy trong giảng đường chừng mực, cái vẽ thông
thái của ông khác với vẽ thông thái của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh.
Ở
bệnh viện Bình Dân, chúng tôi chỉ được gặp ông sau khi đi qua các giảng
nghiệm viên khu giải phẫu tổng quát, Bác Sĩ Nguyễn Khắc Lân, Bác Sĩ
Nguyễn Minh Tuyến, Tôi còn nhớ ông dạy lâm sàng, dặn dò phải “xem bệnh
nhân như người nhà, nếu bệnh nhân lớn tuổi xem họ như cha mẹ.” Ông đã
dạy chúng tôi cách khám bệnh “nghe, sờ, gõ,” xin phép bệnh nhân được cởi
áo trước khi khám bệnh. “Phút đầu gặp gỡ ấy” với bệnh nhân phòng 8 bệnh
viện Bình Dân bên cạnh người thầy là những giây phút không quên trong
đời. Cách khám bệnh nhân ấy rất nhân bản. Ông kính trọng bệnh nhân, thực
hành những lời ông đã dặn học trò, và ông đã săn sóc bệnh nhân với tấm
lòng nhân ái, có lẽ vì bản thân ông cũng đã là một bài học cho chính
ông. Năm 2000, Giáo Sư Nguyễn Khắc Minh có ghé nhà tôi ở Galveston, ông
đã được mẹ vợ tôi, “chị Vân Anh” y tá trưởng phòng dụng cụ lâu đời ở
bệnh viện Phủ Doãn và Bình Dân, kể lại câu chuyện thầy Phạm Biểu Tâm đau
ruột dư để lâu ngày mới mổ, khi đánh thuốc mê áp huyết bị xuống thấp và
gần ngưng thở phải được cấp cứu bằng phương pháp Sylvester. Năm ngoái,
sau bài viết về Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, tôi qua California được thầy
Ninh và sau đó cũng được Bác Sĩ Nghiêm Ðạo Ðại kể lại thầy Tâm đã khóc
sau khi con thầy mất vì bệnh lao màng óc, một căn bệnh ngặt nghèo không
chữa được bằng thuốc Steptomycin chích bởi tay Giáo Sư Ninh.
Năm
thứ nhất y khoa, tôi vào bệnh viện Bình Dân đi theo các anh nội trú
Nguyễn Chấn Hùng, Nguyễn Lương Truyền, Ðặng Phú Ân, Nguyễn Văn Quang để
học mổ và phụ mổ, sống và thức khuya để học như những con chuột cống
trực gác trong nhà thương buổi tối. Tôi đã chứng kiến những cái nhìn
kính trọng của các anh nội trú với thầy, chưa được thấy thầy mổ nhưng bà
mẹ vợ tương lai cũng đã khuyên tôi “nếu muốn theo ngành giải phẫu con
nên theo thầy Tâm, ông mổ cẩn thận.” Cách mổ của các học trò ruột của
thầy vào lúc ấy như Bác Sĩ Nghiêm Ðạo Ðại (sau 1975 là Giáo Sư giải phẫu
đại học Pittsburgh) Bác Sĩ Lê Quang Dũng, Bác Sĩ Nguyễn Khắc Lân, Bác
Sĩ Nguyễn Minh Tuyến, Bác Sĩ Văn Kỳ Chương cho thấy đức tính cẩn thận
của thầy đã truyền cho học trò. Ông luôn luôn nhắc nhở các nội trú bệnh
viện Bình Dân không nên ham mổ. Năm 1975, tôi đã tận mắt nhìn thấy kinh
nghiêm giảng dạy của thầy. Một đêm tháng sáu năm 1975 tôi đưa cha tôi
vào bệnh viện Bình Dân sau khi ông lên cơn đau bụng. Khoảng thời gian
này là những năm tháng cuối của cha tôi. Ông bị nhiều chứng bệnh nặng.
Bác Sĩ Phan Văn Tường hôm ấy trực đã khám cho cha tôi, định bệnh viêm
ruột dư định đưa lên bàn mổ nhưng vẫn phải đợi thầy Tâm vào xem lại.
Mười giờ đêm thầy Tâm vào thăm bệnh cho cha tôi, sau khi khám lại kỹ
lưỡng ông nói với tôi: “Anh nên hội chẩn với Hồ Hội, tôi nghĩ ông cụ đau
bụng vì bệnh nội thương.” Bác Sĩ Hồ Hội (trên tôi một năm) đã chuyển
cha tôi về bệnh viện Chợ Quán để chữa bệnh gan. Hình ảnh và giọng nói
của thầy Phạm Biểu Tâm đứng cạnh cha tôi trên giường bệnh đúng 39 năm
sau vẫn không phai mờ trong ký ức tôi.
Năm thứ năm y khoa, tôi
đậu kỳ thi nội trú các bệnh viện, về làm nội trú khu ung thư với Giáo Sư
Ðào Ðức Hoành (đáng lẽ tôi phải chọn làm nội trú khu giải phẫu tổng
quát trước khi làm nội trú khu ung thư mới đúng con đường giải phẫu). Vì
vậy cái duyên giữa tôi với thầy cũng chỉ là cái duyên “Kính nhi viễn
chi” cho đến ngày ba mươi tháng 4 năm 1975, cái ngày đổi đời của cả đất
nước thì tôi mới có duyên gần gũi với thầy.
Ngày 1 tháng 5, trước
khi ủy ban quân quản tiếp thu bệnh viện Bình Dân, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm
tập hợp nội trú vá các bác sĩ điều trị, ông thay Giáo Sư Ðào Ðức Hoành
giám đốc bệnh viện đã di tản, bằng giọng nói nhỏ nhẹ ông kết luận bài
nói chuyện ngắn bằng câu cay đắng: “ Nay cách mạng thành công, trong đây
có anh đã đạt được mục đích, nếu thấy tôi có lỗi cứ lên đây tát tai
tôi.” Tôi không hiểu ông muốn ám chỉ ai lúc đó, trong số bác sĩ và nhân
viên bệnh viện không ai là cán bộ nằm vùng, về sau chỉ một số theo ngọn
gió 30 tháng 4 đổi chiều quay lại đạp những giá trị cũ để tiến lên, hay
là vì ông đã có nhiều kinh nghiệm trong đời ngay cả trước khi Việt cộng
vào Sài Gòn. Năm 1967 ông bị đảo chính vì bị xem là thành phần thủ cựu
thân Pháp nhưng cộng sản vào ông có thể bị kết tội thân Mỹ vì ông đã mời
Giáo Sư Henry Bahnson đại học Pittsburg cộng tác chương trình hậu đại
học phẫu khoa ở Bệnh Viện Bình Dân từ năm 1972. Ông đã phải đối đầu với
sinh viên, những sinh viên quá khích, như năm 1972 sinh viên chống
chương trình nội trú, đòi bỏ chế độ nội trú như Pháp để có một chương
trình nội trú cho tất cả sinh viên như ở Hoa Kỳ. Sinh viên Bùi Trọng Hậu
(em ruột Bác Sĩ Bùi Mộng Hùng học trò giải phẫu của ông) đã bước lên
sân khấu cầm micro chỉ mặt ông đang ngồi hàng đầu la mắng ông là người
không biết cải thiện. Năm đó sinh viên chống thi nội trú một phần cũng
vì chống giáo sư Khoa Trưởng Ðặng Văn Chiếu. Ông đã điềm đạm cầm micro
đáp lại anh Hậu “sở dĩ chưa có chương trình nội trú cho mọi người vì
ngân khoản bộ y tế hạn hẹp chưa có thể thực hiện được.” Một lần khác,
vào đêm thứ năm ở Bệnh Viện Bình Dân, đêm học hỏi với những trường hợp
bệnh lý, bàn thảo giữa các sinh viên, giáo sư và giảng nghiệm viên. Ðêm
hôm đó một lần nữa, ông lại bị nội trú nội khoa Nguyễn Xuân Ngãi, một
sinh viên xuất sắc chuyên về ngành nội khoa cầm micro dạy cho giáo sư
giải phẫu nổi tiếng Phạm Biểu Tâm một bài học: “Thầy là người cổ lỗ sĩ,
không học cái mới, thủng ruột vì sốt thương hàn bây giờ Mỹ không mổ chỉ
cho trụ sinh và đặt ống hút.” Ông trả lời nhã nhặn “chúng tôi đã già nếu
có gì mới các anh xin chỉ bảo.” Ðêm hôm ấy bạn tôi Soma Ganesan nổi
nóng nói với tôi “mày chặn cửa sau, tao chặn cửa hông cho thằng Ngãi một
bài học” chuyện đánh nhau không xảy ra nhưng tôi cố đọc sách và qua Mỹ
củng cố hỏi các bác sĩ giải phẫu mà không tìm ra câu trả lời chữa nội
khoa cho bệnh thủng ruột do biến chứng bệnh sốt thương hàn.
Tư
cách của ông được học trò kính nể, ông là người có tinh thần dân chủ.
Một sáng ông đến bệnh viện, văn phòng ông nằm bên tay phải, phòng cấp
cứu với phòng may vá khẩn cấp nằm bên tay trái, trước khi đến văn phòng
ông đến xem sinh viên làm việc như thế nào. Một sinh viên năm thứ hai
thấy ông mặc áo trắng thắt cà vạt đã đuổi ông ra vì ông không mang mặt
nạ và không đội mũ theo đúng luật của phòng tiểu giải phẫu. Ông về văn
phòng, sau đó trở lại với khẩu trang và mũ. Cậu sinh viên biết đại giáo
sư đã lo sợ nhưng ông không la lối mắng mỏ, tôn trọng luật và tinh thần
dân chủ của ông ít có giáo sư nào so sánh được. Ông có tiếng thẳng thắn
trong thập niên 1960 khi ông không nhận cô Ngô Ðình Lệ Thủy con ông cố
vấn Ngô Ðình Nhu vào trường y khoa vì không đủ điểm cũng như em ruột của
ông học đến năm thứ tư vẫn bị đánh rớt, là khoa trưởng ông không can
thiệp, em ông phải đi trợ y.
Ông là người đã “khóc cười theo mệnh
nước nổi trôi.” Qua lời của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, năm 1946, quân Pháp
đột nhập bệnh viện Phủ Doãn cầm đầu là một viên Trung Úy cố tìm thủ
phạm đã phá hủy thân thể một phụ nữ Pháp bằng thủ thuật, thủ phạm như
vậy phải là một bác sĩ giải phẫu. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm đã trả lời vững
vàng điềm tĩnh đối thoại với viên trung úy như một người Pháp chính
cống. Triết lý sống cũng đã giúp ông qua thời kỳ Bác Sĩ Meynard (được ủy
ban quân quản Pháp cử đến làm giám đốc bệnh viện Phủ Doãn) cho đến khi
Giáo Sư Huard người thầy của ông đến.
Sau 30 tháng 4, con người
của Giáo Sư Phạm Biểu Tâm không đổi. Riêng cá nhân tôi, tôi kính trọng
hai vị thầy khả kính đã đứng thẳng người sau cơn bão mặc dù hai người
với hai cá tính. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm thận trọng, biết nhiều chính trị
nhưng không hoạt động chính trị, con người thâm trầm cân nhắc lời nói.
Giáo Sư Trần Ngọc Ninh phê bình thẳng thừng đôi khi châm chọc. Cả hai
ông đều đúng là trí thức, sống với chính mình. Sau ba mươi tháng 4, bệnh
viện Bình Dân giống như các bệnh viện khác, là sân khấu của những vở
kịch khôi hài cười ra nước mắt. Mỗi sáng các giáo sư thạc sĩ ngồi trong
buổi giao ban được y sĩ Năm Lực giảng dạy cách mổ. Giám đốc Mười Nhâm tư
cách hơn, chỉ lo thủ tục hành chính. Các giáo sư được gọi là anh, mọi
người được bình đẳng trên phương diện lao động, các thầy cũng giống như
mọi ngươi, đi xe đạp và lãnh nhu yếu phẩm, mỗi sáng bác sĩ chùi nhà chùi
cầu tiêu dưới cặp mắt ái ngại của ông “chủ mới của chế độ” anh Ðược y
công của bệnh viện. Thầy Tâm đi chùi nhà, đổ rác mặc dù học trò nói thầy
đừng làm, té bầm tay thầy than với chúng tôi “có hai lần đổi đời 54 và
75, hồi 54 tôi còn trẻ bây giờ tôi già rồi!”
Tình trạng thay đổi
khi Giáo Sư Tôn Thất Tùng vào Nam. Các ông Năm Lực, Mười Nhâm được chỉ
thị gọi các giáo sư bằng thầy. Lãnh đạo miền Bắc thay đổi cũng nhờ việc
tham quan của giáo sư giải phẫu Tôn Thất Tùng đàn anh của Giáo Sư Phạm
Biểu Tâm và Trần Ngọc Ninh. Giống như các ngành khác, Giáo Sư Tôn Thất
Tùng được thần tượng hóa, thần thoại hóa qua phẫu thuật cắt gan như là
đại giáo sư quốc tế sắp đoạt giải Nobel về y học. Ngày Giáo Sư Tùng đi
thăm bệnh viện giáo sư Tâm đã mời ông mổ cho nội trú học, Giáo Sư Tùng
đã trả lời ông không mổ vì đã xem “nội trú trong Nam mổ giỏi hơn ngoài
Bắc.” Giáo Sư Tùng là người có tư cách khi trả lời Giáo Sư Tâm như vậy.
Giáo Sư T.N. Ninh đã viết Giáo Sư Tôn Thất Tùng như là bác sĩ riêng của
ông Hồ Chí Minh và huyền thoại ngoài Bắc vẫn nói Bác Sĩ T T Tùng ngồi
cạnh ông Hồ Chí Minh khi ông Hồ mất nhưng năm 1994 qua Houston học, giáo
sư nội khoa Ðặng Văn Chung nói cho tôi biết ông chính là người săn sóc
và ngồi cạnh ông Hồ Chí Minh khi ông này mất.)
Năm 1976, học trò
cũ của ông là Bác Sĩ Bùi Mộng Hùng từ Pháp cùng với vợ về VN đến thăm
bệnh viện Bình Dân. Bác Sĩ Bùi Mộng Hùng là chủ tịch hội y sĩ Việt Kiều
Yêu Nước tại Pháp, vào lúc tranh tối tranh sáng không ai lúc ấy biết ông
Hùng qua Pháp chỉ làm giải phẫu thực nghiệm không hành nghề giải phẫu.
Trong cảnh “hàng thần lơ láo” Giáo Sư Tâm đã đón tiếp ông học trò rất
nhã nhặn bằng giọng rất “thâm” của anh đồ Nghệ để hỏi thăm học trò về
tình hình chính trị bên ngoài và trong nước.
Bác Sĩ Trần Xuân
Ninh đã có mặt trong buổi họp Hội Trí Thức Yêu Nước với sự có mặt của
Tướng Võ Nguyên Giáp. Những trí thức ba mươi tháng tư đã có bộ mặt sợ
hãi nịnh bợ nhưng “uy vũ bất năng khuất,” Giáo Sư Phạm Biểu Tâm phát
biểu đàng hoàng chừng mực, vắn tắt, nhẹ nhàng không ca tụng chế độ hay
nịnh bợ. Ông có tài nói chuyện thâm trầm đâm vào tim óc người nghe nhưng
ông không dùng chữ hai nghĩa đôi lời nhiều ẩn dụ như những người đã
sống lâu trong chế độ cộng sản.
Giáo Sư Trần Ngọc Ninh viết, sở
dĩ Giáo Sư Phạm Biểu Tâm hành xử thẳng thắn (như lần ông qua bệnh viện
Cộng Hòa cũ với Bác Sĩ Ðặng Phú Ân mai mỉa chế độ ưu đãi cho cán bộ cao
cấp trong khi ở bệnh viện Bình Dân hai bệnh nhân nằm chung giường) là vì
có “tâm của y sĩ phẫu khoa.” Tôi nhỏ hơn các thầy, nhìn lên, tôi thấy
thầy là kết quả của hai nền giáo dục kim cổ, con người còn giữ tinh thần
“kẻ sĩ” của tổ phụ, tinh thần nho giáo từ đời ông Tổ là Tổng Binh Phạm
Tấn không thay đổi, dù ông theo Tây học, con người ấy thẳng thắn hơn nhờ
tinh thầy Hướng Ðạo. Ông là cựu tráng sinh đoàn Lam Sơn Hà Nội với
tráng trưởng Hoàng Ðạo Thúy.
Trưởng Mai Liệu nay 96 tuổi, lớn
tuổi không về dự trại Thẳng Tiến 10 toàn thế giới ở Houston năm nay,
thường hay kể cho chúng tôi nghe về Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm.
Tên
ông có trong danh sách cố vấn hội Hướng Ðạo Việt Nam trước 1975. Trại
toàn quốc lần chót ở Suối Tiên năm 1972 cũng có tên ông trong ban cố
vấn. Các Bác Sĩ trưởng Hướng Ðạo như Bác Sĩ Trần Tiễn Huyến tổng ủy viên
Hướng Ðạo, Bác sĩ Trần Bình Chi đạo trưởng hải đoàn Bạch Ðằng cũng
thường nhắc đến trưởng Phạm Biểu Tâm trong những lần họp trại mặc dù tôi
chưa được thấy ông mặc đồng phục Hướng Ðạo lại trong những năm 1970.
Bác Sĩ Nguyễn Văn Thơ chủ tịch hội Hướng Ðạo cũng như trưởng Nghiêm Văn
Thạch (ở Pháp) nhắc đến ông 12 năm trước ngày trại Thẳng Tiến 7 tổ chức ở
Houston. Tôi cố tìm tên rừng của ông nhưng không ai nhớ. Tráng sinh lên
đường là người trưởng thành, buổi tối mang ba lô vào rừng đi cắm trại
một mình, tay cầm cây gậy từ cành cây chĩa đôi, hai con đường đi một
chính một tà, người tráng sinh tự chọn và tráng sinh Phạm Biểu Tâm đã
chọn đúng con đường Baden Powell ông tổ phong trào Hướng Ðạo vạch ra.
Người Hướng Ðạo không làm chính trị, yêu nước với 3 lời hứa và giữ 10
điều luật. Người Hướng Ðạo có con đường tâm linh, không vô thần nên cho
đến nay Hướng Ðạo quốc doanh của CSVN không được phong trào thế giới
công nhận. Ngày trưởng Hướng Ðạo Thúy, tác giả cuốn “Ðội của tôi” cẩm
nang cầm đội của các đội trưởng, theo ông Hồ Chí Minh làm giám đốc
trường sĩ quan “Tông” triệu tập Ðại Hội Hướng Ðạo Việt Nam tại Hà Nội để
thành lập “Hướng đạo cứu quốc” thuộc mặt trận Việt Minh, trưởng Võ
Thành Minh (người thổi sáo bên bờ hồ Genève Thụy Sĩ ngày Hiệp Ðịnh
Genève chia cắt đất nước) đã phản đối cùng với tráng sinh Phạm Biểu Tâm
(Bạch Mã tráng khóa 5 tại Huế). Tráng sinh Tâm đã tuyên bố: “Không phải
gia nhập cứu quốc mới là yêu nước. Hướng đạo là người yêu nước từ lúc
tuyên hứa.”
Năm 1975, một lần nữa “yêu nước là yêu xã hội chủ
nghĩa,” các cán bộ cộng sản biết tiếng tăm của Giáo Sư Phạm Biểu Tâm đã
đưa ông vào đại biểu thành phố, hội trí thức yêu nước khiến mọi người
hiểu lầm con người Thanh Nghệ Tĩnh ấy là người cộng sản. Sự thật là tên
tuổi ông được dùng vì người học trò cũ, Bác Sĩ Vân, cũng như Trưởng Khuê
đạo trưởng Ðạo Cửu Long (Giáo Sư Tâm là trưởng ban bảo trợ Tráng đoàn
Bạch Ðằng). Các hội viện hội Trung Việt Ái Hữu cũng đóng phần vào việc
đưa tên tuổi ông vào các tổ chức gọi là yêu nước của cộng sản, hội
trưởng Nguyễn Khắc Quyến là người hoạt động cho cộng sản bị Tổng Thống
Ngô Ðình Diệm bắt khi chở gạo qua vĩ tuyến 18 tiếp tế khi VNCH cấm vận.
Trong hội có những người Thanh Nghệ Tĩnh quốc gia như có Bác Sĩ Phạm
Biểu Tâm, Bác Sĩ Phan Huy Quát, Bác Sĩ Phan Quang Ðán nhưng một số khác
hoạt động cho cộng sản.
Bác sĩ Trần Xuân Ninh kể chuyện một lần
“láo” với thầy Phạm Biểu Tâm khi Bác Sĩ Ninh xem thường khu “răng hàm
mặt” làm tôi nhớ đến một lần cũng “ngổ ngáo” sau ngày 30 tháng 4, 1975.
Giáo sư Ðào Ðức Hoành di tản, Bác Sĩ Trần Ngọc Quang giảng nghiệm viên
đi Pháp, Bác Sĩ Nguyễn Quang Huấn và Bác Sĩ Nguyễn Chấn Hùng đi tù cải
tạo. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm đứng ra trông coi khu ung thư với chị Nguyễn
Thị Thanh Thảo nội trú trên tôi một lớp điều hợp công việc. Một hôm
trong phòng mổ tôi được sắp ca mổ tuyến giáp trạng với nội trú Nguyễn
Tấn Lộc phụ mổ. Sau khi mổ xong tôi tự khoác lác khoe tài “chỉ có khu
ung thư mới mổ tuyến giáp trạng đẹp như vầy,” nói xong tôi thấy Lộc và
bà Phòng đánh thuốc mê im lặng không lên tiếng phụ họa, phòng mổ không
một tiếng động, Lộc nhìn sau lưng tôi, quay lưng lại tôi mới biết thầy
Tâm đứng sau lưng tôi không nói xem tôi mổ từ đầu! Ông im lặng không
mắng tôi, không phê bình, quả thật là một người thầy đáng kính, mà có lẽ
trong đời trên 30 năm dạy học ông cũng hiểu nội trú giải phẫu bệnh viện
Bình Dân đa số ngông nghênh?
Năm 1989, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm qua
Mỹ, tôi không gặp lại thầy từ ngày thầy định cư đến ngày ông mất 10 năm
sau. Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ năm ấy do Bác Sĩ Trương Ngọc Tích là
chủ tịch đã đến thăm thầy với số tiền giúp thầy định cư nhưng thầy từ
chối ngược lại thầy đã nhận số tiền nhỏ của tôi với bức thư trả lời của
thầy gởi cho người học trò cũ. Ông đã vui vẻ viết về những chuyện xưa
khi trong thơ tôi nhắc lại “những người cùng quê Thanh Nghệ Tĩnh đã xem
thầy là đại ân nhân của họ” vì thầy đã chữa bệnh không lấy tiền ở bệnh
viện St. Paul ngay cả những người phải giải phẫu. Thầy không làm phòng
mạch tư nhưng làm việc thêm ở bệnh viện St. Paul. Thời buổi khó khăn
trong những năm chiến tranh ông cũng giống như các bác sĩ khác phải kiếm
sống để đắp thêm tiền lương công chức nhưng ông đã luôn giữ tư cách
không để công tư lẫn lộn.
Năm 1995 tôi có dịp về thăm bệnh viện
Bình Dân, ở phòng làm việc cũ của thầy nay là phòng làm việc của Bác Sĩ
Văn Tần có treo hình thầy. Bác Sĩ Văn Tần treo hình ngay ngày thầy đi
qua Hoa Kỳ đoàn tụ trong khoảng thời gian mà cả nước chỉ được treo hình
Hồ Chí Minh. Tôi không phục Bác Sĩ Văn Tần vì ông không chính gốc Bình
Dân, về Bình Dân từ quân đội để học hậu đại học phẫu khoa, nhưng hành
động của ông đã thay đổi tình cảm của tôi dành cho ông. Thái độ quân tử
thẳng thắn của thầy đã truyền qua người học trò nối tiếp con đường giải
phẫu ngoại khoa tổng quát bệnh viện Bình Dân và trường Y khoa Sài Gòn .
Năm
ngoái, sau bài viết về giáo sư Trần Ngọc Ninh, tôi nhận được điện thư
của một người đàn em đồng nghiệp, thế hệ đàn em y khoa sau 1975 Bác Sĩ
Hồng Minh đã viết: “may mắn em vẫn còn được học một số thầy ở Bình Dân
và trường y khoa Sài Gòn . Ðược hưởng tình thâm thầy trò huynh đệ của
gia đình y khoa mình thật là hạnh phúc, trong em tấm lòng và hình ảnh
yêu thương người bệnh và học trò của các thầy cô đã giữ lại trong suốt
thời gian còn lại tuy em chỉ được học với số ít thầy trong thời gian dài
nhưng chỉ bao nhiêu đó cũng hình thành tính cách chung của gia đình y
khoa Sài Gòn mà tận đến bây giờ em vẫn tự hào.” Tinh thần ấy của trường y
khoa Sài Gòn đã có nhờ công của các giáo sư thành lập trường từ năm
1954 trong đó công của Giáo Sư Phạm Biểu Tâm rất lớn. Ðời người ngắn
ngủi, trăm năm chỉ còn lại một tấm lòng và học trò y khoa qua bao thế hệ
biển dâu vẫn không quên tấm lòng của người thầy giản dị khiêm nhượng
Phạm Biểu Tâm.
( Song Phương chuyển )