Văn Học & Nghệ Thuật
Giọng hò miền Nam .
Hò là một trong những thể loại âm nhạc dân gian ở Miền Nam Việt Nam được du nhập bởi những đợt sóng di dân từ đất Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Tín,
Hò ơ... (chớ) Anh về để áo lại đây
Để khuya em đắp... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng
Hò ơ... (chớ) Anh với em má tựa vai kề
Dầu em có lạc Sở sang Tề
Thì em cũng nhớ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thì em cũng nhớ gởi thơ về cho anh
Hò ơ... (chớ) Bạc với vàng còn đen còn đỏ
Đôi đứa mình còn nhỏ thương nhiều... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Vừa nghe tiếng em là anh muốn như anh
Kim Trọng thương chị Thuý Kiều thuở xưa
Hò ơ... (chớ) Bậu với qua gá nghĩa chung tình
Dầu ăn cơm quán... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Dầu ăn cơm quán, ngủ đình cũng cam
Hò ơ... Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chuà Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua ?
Hò ơ...(chớ) Bên nầy sông em bắc cây cầu mười tấm ván
Bên kia sông em cất cái quán mười hai từng
Bán buôn nuôi me.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh
Hò ơ... (chớ) Bình bồng ở giữa Giang Tân
Bên tình bên nghĩa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bên tình bên nghĩa, biết phân bên nào
Hò ơ... (chớ) Bớ này em ơi
Nhứt lê, nhì lựu, tam đào
Bên tình bên nghĩa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bên tình bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân
Hò ơ... (chớ) Bớ này anh nó ơi
Số phận em giao phó cho trời xanh
Lấy anh em không lấy,
Nhưng dạ cũng không đành làm ngơ
Vốn em cũng chẳng bơ thờ
Em đã hằng chọn trong lóng đục,
Nhưng vẫn còn chờ nợ duyên
Vốn em muốn lấy ông thầy thuốc cho giàu sang,
Nhưng lại sợ ổng hay gia hay giảm
Em muốn lấy ông thầy pháp cho đảm,
Nhưng lại sợ ổng hét la ghê gốc
Em muốn lấy chú thợ mộc,
Nhưng lại sợ chú hay đục khoét rầy rà
Em muốn lấy anh thợ cưa cho thật thà,
Nhưng lại sợ trên tàn dưới mạt
Em muốn lấy người hạ bạc,
Nhưng lại sợ mang lưới mang chài
Em muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai,
Nhưng lại sợ ảnh hay đào hay bới
Em cũng muốn chọn anh thợ rèn kết ngỡi,
Nhưng lại sợ ảnh nói tức nói êm
Bằng lấy anh đặt rượu làm men,
Thì lại sợ ảnh hay cà riềng cà tỏi
Em muốn lấy ông nhạc công cho giỏi,
Nhưng lại sợ giọng quyển giọng kèn
Em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn,
Nhưng lại sợ nhiều điều thá ví
Em muốn lấy anh lái buôn thành thị,
Nhưng lại sợ ảnh kêu mắc rẻ khó lòng
Em muốn lấy anh thợ đóng thùng,
Nhưng lại sợ ảnh kêu trật niền trật ngỗng
Em muốn lấy ông Hương ông Tổng,
Nhưng lại sợ việc trống việc gông
Em muốn lấy anh hàng gánh tay không,
Nhưng lại sợ đầu treo đầu quảy
Em muốn lấy chú hàng heo khi nãy,
Nhưng lại sợ chú làm lộn ruột lộn gan
Em muốn lấy anh thợ đát thợ đan,
Nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải bắt lỗi
Em muốn lấy anh hát bè hát bội,
Nhưng lại sợ giọng rỗi giọng tuồng
Em muốn lấy anh thợ đóng xuồng,
Nhưng lại sợ ảnh hay dằn hay thúc...
Hò ơ... (chớ) Mấy lời trong đục chẳng dám nói ra
Có thầy giáo tập dạy trong làng xa, hay dạy hay răn
So đức hạnh chẳng ai bằng, lại con nhà Nho học
Sử kinh thầy thường đọc, nên biết việc thánh hiền
Gặp nhau em kết liền, không chờ chẳng đợi... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Không chẳng chờ chẳng đợi phỉ nguyền phụng loan
Hò ơ... (chớ) Biết anh thích mắm cá trè
Nên em chịu khó... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Nên em chịu khó bẻ thêm đọt xoài
Hò ơ... (chớ) Chớ bông trang trước cửa ai sửa bông trang vàng
Ngày thời chuyện vãn... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ngày thời chuyện vãn nên tối lại mơ màng thấy em
Hò ơ... (chớ) Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi
Kẻo khuất khúc sông nầy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Kẻo khuất khúc sông nầy bờ bụi tối tăm
Hò ơ... (chớ) Buồn thay số kiếp con người
Cơm ăn không đủ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chớ cơm ăn không đủ nụ cười ốm nhom
Hò ơ... (chớ) Bữa nay loan phụng hiệp bầy
Hò chơi nhơn đạo... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hò chơi nhơn đạo, sau vầy nhơn duyên
Hò ơ... (chớ) Bước xuống cầu cầu oằn cầu oại
Bước xuống thoàn thoàn chích thoàn nghiêng
Em cả tiếng kêu ai người nghĩa Phong Điền
Người nghĩa ôi! Duyên đây không kết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Duyên đây không kết người nghĩa tìm nơi đâu
Hò ơ... (chớ) Bớ người không quen ơi
Nghe anh em cũng muốn thương nhiều
Nhưng hoa đà có chủ...(ờ)
Hò ơ... (chớ) Nhưng hoa đà có chủ, khó chiều dạ anh
Hò ơ... (chớ) Cái răng, Ba láng
Vàm Xáng, Phong Điền
Anh thương em cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay
Hò ơ... (chớ) Cất mái chèo loan em nhìn chàng rơi lụy
Thổn thức gan vàng tấn dị thối nan
Nhái kêu chiều xuống mé mương
Thiếp nay đà an phận... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thiếp nay đà an phận còn thương nổi chàng
Hò ơ... (chớ) Chèo dài sông hẹp khó lùa
Thấy em ở ruộng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thấy em ở ruộng quê mùa anh thương
Hò ơ... (chớ) Chim kia thỏ thẻ trên cành
Nghe em nói vậy
Hò ơ... (chớ) Nghe em nói vậy, dạ không đành rẽ phân
Hò ơ... (chớ) Con cá lý ngư sầu tư biếng lội
Con chim xa cành sầu cội biếng bay
Sao hôm còn đợi sao mai
Chồng mà xa vơ.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chồng mà xa vợ hỏi ai không buồn ?
Hò ơ ... Cúc mọc dưới sông anh kêu là cúc thủy
Sàigòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Gởi thơ thăm hết nội nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em
Hò ơ... (chớ) Củi đậu nấu đậu ra dầu
Anh cưới em không đặng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Anh cưới em không đặng anh cạo đầu đi tu
Hò ơ... (chớ) Dao phay cứa cổ máu đổ không màng
Chết thì chịu chết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chết thì chịu chết buông nàng không buông
Hò ơ... (chớ) Dang tay đánh thiếp sao đành
Tấm rách ai vá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Tấm rách ai vá tấm lành ai may
Hò ơ... (chớ) Dõi dõi theo anh
Về nơi Châu thành
Coi nam thanh nữ tú
Ở chi đất này... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ở chi đất này vượn hú chim kêu
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn
Đồng hồ điểm nhặt nhớ chàng không quên
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya ra đứng giữa trời
Giơ tay ngoắc nguyệt... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Giơ tay bắt nguyệt nguyệt dời phương nao
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya thắp chút dầu dư
Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng ?
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya, trăng dọi lầu son
Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng
Hò ơ... (chớ) Bển qua đây đàng đã xa đàng
Dầu tui có lâm nguy thất thế
Hỏi con bạn vàng nó cứu không ?
Hò ơ... (chớ) Chiều rồi kẻ Bắc, người Đông
Trách lòng người nghĩa, nói không thiệt lời
Hò ơ... (chớ) Đêm nằm tàu chuối có đôi
Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình
Hò ơ... (chớ) Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng
Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài
Hò ơ... (chớ) Bây giờ chàng đã nghe ai
Aó ngắn chẳng đắp, aó dài không chung
Hò ơ... (chớ) Bây giờ sự đã nhạt nhùng
Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua
Hò ơ... (chớ) Cá lên mặt nước, cá khô
Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm
Hò ơ... (chớ) Đêm qua nguyệt lặn về Tây
Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài
Hò ơ... (chớ) Trúc với mai, mai về trúc nhớ
Trúc trở về, mai nhớ trúc không
Hò ơ... (chớ) Bây giờ kẻ Bắc, người Đông
Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư
Hò ơ... (chớ) Đèn cầu tàu ngọn lu, ngọn tỏ
Anh trông không rõ, anh ngỡ đèn màu
Hò ơ... (chớ) Rút gươm đâm họng, máu trào
Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh
Hò ơ... (chớ) Đèn nhà lầu hết dầu, đèn tắt
Lửa nhà máy hết cháy thành than
Hò ơ... (chớ) Nhang chùa Ông hết mạt, nhang tàn
Kể từ khi em biết được chàng
Đêm về em lăn lộn như con chim phượng hoàng bị tên
Hò ơ... (chớ) Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc
Gái nào đảm bằng gái Nha Mân
Hò ơ... (chớ) Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần
Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run
Hò ơ... (chớ) Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu
Hò ơ... (chớ) Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ
Hò ơ... (chớ)Đèn treo cột Phướng gió chướng lồng đèn rung.
Anh thương em thắm thiết vô cùng.
Đĩa nghiêng mài mực tạm dùng câu thơ
Câu thơ ba bốn câu thơ:
Câu đợi, câu chờ, câu nhớ, câu thương.
Hò ơ... (chớ) Đèn treo ngang quán
Tỏ rạng bờ kinh
Hò ơ... (chớ) Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình
Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ
Hò ơ... (chớ) Đèo nào cao bằng đèo Châu Đốc
Xứ nào dốc bằng xứ Nam Vang
Hò ơ... (chớ) Một tiếng anh than ba bốn đôi vàng em không tiếc
Anh lấy đặng em rồi anh trốn biệt lánh thân
Hò ơ... (chớ) Đồng tiền Vạn lịch
Thích bốn chữ vàng
Hò ơ... (chớ) Anh tiếc công anh gắn bó với nàng bấy lâu
Bây giờ nàng lấy chồng đâu ?
Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng
Năm trăm anh đốt cho nàng,
Còn năm trăm nữa giải oan lời thề.
Xưa kia nói nói, thề thề,
Bây giờ bẻ khóa, trao thìa cho ai ?
Bây giờ nàng đã nghe ai,
Gặp anh ghé nón, chạm vai chẳng chào ?
Hò ơ... (chớ) Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, đi bán giỏ nuôi mẹ
Anh gặp em đây không cửa không nhà
Muốn vô gá nghĩa, biết là đặng chăng ?
Hò ơ... (chớ) Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Hò ơ... (chớ) Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Hò ơ... (chớ) Chiều nay qua phản bạn hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào
Hò ơ... (chớ) Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông
Hò ơ... (chớ) Em ôm bó mạ xuống đồng
Miệng hò tay cấy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Miệng hò tay cấy mà lòng nhớ ai
Hò ơ... (chớ) Mạ xanh mơn mởn nên tình
Bao nhiêu lá mạ .... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bao nhiêu lá mạ thương mình bấy nhiêu
Hò ơ... (chớ) Nói vậy mà chơi
Chớ gió thổi hiu hiu, lục bình trôi líu ríu
Anh đừng bận bịu, bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn...(ờ)
Hò ơ... (chớ) Con nhạn bay cao khó bắn, con cá ở ao quỳnh khó câu
Hò ơ... (chớ) Ớ này em ơi, hãy nghe cho kỹ
Xưa nay gái không cưới chồng, trai không ở goá
Đoái thấy thương nàng xinh đã quá xinh
Buông lời vừa vỗ vế non,
Nếu như nàng lo việc cháu con
Sao không kiếm chốn trao thân, gởi thế ?
Trên đời bá công bá nghệ
Dưới lại đà tứ thứ tứ dân
Làm người sao khỏi chữ lương nhân
Mà nàng chịu để phòng không ở goá?
Sách có chữ rằng phụ thân nan hoá, ít kẻ yêu vì
Nên lấy chồng phải luận phải suy
Phải xem trong lóng đục
Đây đã đến thời phải lúc
Hay là nàng còn cúc đục cù lao
Để anh ngơ ngẩn ra vào...(ờ)
Hò ơ... (chớ) Để anh ngơ ngẩn ra vào,
Vì thầm yêu trộm nhớ thì dạ nào em bỏ anh ?
Hò ơ... (chớ) Thương sao cho được mà thương
Nước kia muốn chảy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Nước kia muốn chảy mà mương chưa đào
Hò ơ... (chớ) Bây giờ đã rõ âm hao
Còn chờ chi nữa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Còn chờ chi nữa má đào phôi pha
Hò ơ... (chớ) Chờ anh em hết sức chờ
Chờ cho rau muống... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông
Hò ơ... (chớ) Gạo Ba Thắt trắng như bông bưởi
Nước phông-tên tiền rưỡi một đôi
Hò ơ... (chớ) Saigon vui lắm em ơi
Lấy chồng về đó, một đời sướng thân
Hò ơ... (chớ) Ghe anh mỏng ván, bóng láng nhẹ chèo
Xin anh bớt mái, nương lèo đợi em
Hò ơ... (chớ) Ghe em rẽ vô ngọn, anh chẳng đón chẳng chờ
Ghe anh tách bến tách bờ, em buồn cho trăng mờ sao lặn
Hò ơ... (chớ) Mình lấy nhau chẳng đặng bởi bà mai lưỡi vắn ít lời
Mật đường dù chẳng đi đôi
Chút hương rớt lại, một đời chưa quên
Hò ơ... (chớ) Ghe lên ghe xuống dầm dề
Sao anh không gởi thơ về thăm em ?
Hò ơ... (chớ) Ghét con xẩm lai mê trai, mi lai nhãn khứ
Ôm bụng trống chầu, bỏ xứ ra đi
Hò ơ... (chớ) Giấy hồng đơn bán mấy
Cho anh mua lấy một tờ
Viết thơ quốc ngữ
Hò ơ... (chớ) Dán trên trái bưởi
Thả xuống giang hà
Hò ơ... (chớ) Bớ cô gánh nước bên bờ
Xuống sông vớt bưởi để mà xem thơ
Hò ơ... (chớ) Gò Công giáp biển, nổi tiếng mắm tôm chà
Mắm tôm chua ai ai cũng chắt lưỡi hít hà
Saigon, chợ Mỹ ai mà không hay
Hò ơ... (chớ) Gió đưa bụi cúc ngã bụi sả tàn
Nương theo chéo áo con bạn vàng
Dầu sanh dầu tử... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Dầu sanh dầu tử một mình nàng mà thôi
Hò ơ... (chớ) Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Về sông ăn cá về đồng ăn cua
Hò ơ... (chớ) Hỏi anh anh nói học trò
Sao em lại thấy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Sao em lại thấy anh cỡi bò hôm qua
Hò ơ... (chớ) Hồi nào em nói mà anh không nghe
Bây giờ anh xách nón... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bây giờ anh xách nón chèo ghe đi tìm
Hò ơ... (chớ) Không chồng đi dọc đi ngang
Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi
Trót sanh làm phận nữ nhi
Giữ sao cho khỏi tiếng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Giữ sao cho khỏi tiếng thị phi chê cười
Hò ơ... (chớ) Lấy ai lấy khính chồng người ?
Lấy chồng kiểu đó... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Lấy chồng kiểu đó lấy thằng cùi sướng hơn !
Hò ơ... (chớ) Lòng con thảo như giọt sương hạt bụi
Công mẫu từ như ngọn núi Thái Sơn
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không me.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Không cha không mẹ như đờn đứt giây
Hò ơ... (chớ) Lục bình bát giác cắm các thứ bông hường
Cha mẹ em kén rể... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cha mẹ em kén rể mà lỡ anh tầm thường biết đặng hay không ?
Hò ơ... (chớ) Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên
Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày
Hò ơ... (chớ) Mậu Thìn vốn thiệt năm nay
Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang
Hò ơ... (chớ) Phong Thạnh vốn thiệt tên làng
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung
Hò ơ... (chớ) Anh em Mười Chức công khùng
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...
Hò ơ... (chớ) Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa ló
Hò ơ... (chớ) Nè em Hai ôi, lại đây cho anh tỏ một đôi lời
Nước bèo gặp gỡ vậy thôi
Mai anh ra cửa biển, em sống đời biệt ly
Hò ơ... (chớ) Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa ló
Quới nương em ơi, anh xin tỏ với nàng
Hò ơ... (chớ) Con gái ông Bang, con gái ông Phủ
Qua cũng không màng
Chỉ chuộng con bạn ngọc biết đá vàng, thủy chung
Hò ơ... (chớ) Nè em Tiên Bửu ôi
Nhớ em chưa ăn xôi mà anh như gặp hồi no bụng
Hò ơ... (chớ) Chưa ăn bún mà anh cũng no hơi
Thương em quên đứng, quên ngồi
Ngứa đầu quên gãi, đứt ruột rồi quên đau
Hò ơ... (chớ) Nếm muỗng đường om (nồi đất), mùi thơm vị ngọt
Qua thương nhớ bậu thức trót canh gà
Hò ơ... (chớ) Phận bậu như hạt mưa sa
Phận qua như gió thổi tuốt ra vàm ngoài
Hò ơ... (chớ) Má ơi con vịt chết chìm
Con thò tay vớt... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Con thò tay vớt con cá lìm kìm nó cắn tay con
Hò ơ... (chớ) Miễn bậu đành ừ
Qua chẳng từ lao khổ
Dẫu lên rừng tìm hổ
Hay xuống biển kiếm rồng
Trước sau vẫn giữ vẹn một lòng
Vào lòn ra cúi... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Vào lòn ra cúi anh cũng một lòng thương em
Hò ơ... (chớ) Miễu linh ai dám lại gần
Đứng xa mà khấn.. (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đứng xa mà khấn thánh thần chứng chi
Hò ơ... (chớ) Nàng đành phụ mẫu không đành
Lá cao che khuất... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Lá cao che khuất ngọn ngành nàng ơi !
Hò ơ... (chớ) Nghiêng vai ngửa vái Phật trời
Đương cơn hoạn nạn... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân
Hò ơ... (chớ) Ngó lên Châu Đốc vàm Nao
Thấy buồm em chạy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thấy buồm em chạy như dao cắt lòng
Hò ơ... (chớ) Ngó lên nhang tắt đèn mờ
Muốn nuôi cha me... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Muốn nuôi cha mẹ bây giờ còn đâu
Hò ơ... (chớ) Ngó lên chùa lớn làm chay
Thỉnh ông Tiêu Diện... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thỉnh ông Tiêu Diện, thỉnh ngài Quan Âm
Hò ơ... (chớ) Ngó lên trời trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông
Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong
Anh đi lục tỉnh giáp vòng
Đến đây xui khiến... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đến đây xui khiến đem lòng thương em
Hò ơ... (chớ)Ngó lên trời thấy mây vân vũ.
Ngó dưới Âm Phủ thấy đủ mặt bá quan.
Hò ơ... (chớ)Ngó lên Nam Vang thấy bốn chữ vàng.
Ngó xuống Cà Mau thấy sóng bủa lao xaọ
Hò ơ... (chớ)Anh thương em hồi thuở bao giờ?
Chớ anh có biết em thương lại lúc nào hay không ?
Hò ơ... (chớ) Ngọc Hoàng giũ sổ ôm bộ về quê
Đồ gia cang để lại... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đồ gia cang để lại bạn hiền thê giữ dùm
Hò ơ... (chớ) Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Giữa canh khuya nghe tiếng ai thỏ thẻ bên thuyền
Hỏi thăm quân tử... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hỏi thăm quân tử vượt biên nơi nào ?
Hò ơ... (chớ) Người ta giàu, đầu heo nọng thịt
Tụi mình nghèo cặp vịt đôi bông
Sao mai mọc buổi hừng đông
Ước sao nên vơ.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ước sao nên vợ nên chồng thì thôi
Hò ơ... (chớ)Nhìn trên trời thấy cặp cu đương đá.
Dòm xuống biển thấy cặp cá đương đuạ
Hò ơ... (chớ)Em biểu anh về lập miếu thờ vua;
Lập trang thờ mẹ; lập chùa thờ chạ
Hò ơ... (chớ)Anh về bán đất cây đạ
Bán cặp trâu già mới cưới được em.
Hò ơ... (chớ)Nhìn trên trời thấy sao giăng tứ hướng;
Ngó ra ngoài biển đá dựng tứ bề.
Hò ơ... (chớ)Biết làm sao đặng chữ phu thê ?
Đây, chồng; đó, vợ; ra về có đôị
Hò ơ... (chớ)Mắc mãn có đôi anh hồi về có vơ..
Nghĩ đã đáo đầu không phải duyên nợ thì thôị
Hò ơ... (chớ) Ôi thôi bình tích bể rồi
Chén chung lỡ bộ ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chén chung lỡ bộ đứng ngồi sao yên
Hò ơ... (chớ) Phù sa nước đục khó dòm
Nhớ anh em khóc... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi
Hò ơ... (chớ) Ra đi anh có dặn dò
Ruộng sâu cấy trước ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau
Hò ơ... (chớ) Rảo bước qua nhịp cầu tre
Trở về nơi mái lá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Trở về nơi mái lá con mới hay mẹ đã qua đời
Hò ơ... (chớ) Sao vua chín cái nằm chồng
Anh thương em từ thuở... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Anh thương em từ thuở má bồng trên tay
Hò ơ... (chớ) Sáng trăng giã gạo ngoài trời
Cám bay phưởng phất... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cám bay phưởng phất nhớ lời em than
Hò ơ... (chớ)Sao Vua chín cái nằm chồng.
Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên taỵ
Hò ơ... (chớ)Sao Vua chín cái nằm ngang.
Anh thương em từ thưở mẹ mang trong lòng.
Hò ơ... (chớ)Sao Vua chín cái nằm kề.
Anh thương em từ thưở mẹ về với chạ
Hò ơ... (chớ)Sông Sàigon chảy dài Chợ Cũ, Nước mênh mông nước đổ phù sạ Ngọt ngào ngọn lúa bát ngát hương (thơm) Hương lúa của quê nhà (hò hò); Hướng về quê mẹ đậm đà tình thương.
Hò ơ... (chớ) Sông sâu kiếm chẳng đặng đò
Muốn lội qua thăm bậu... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Muốn lội qua thăm bậu mà sợ hụt giò chết trôi
Hò ơ... (chớ) Bớ này anh nó ôi, nếu anh lỡ có hụt giò
Thì em sẽ lội xuống... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thì em sẽ lội xuống đặng mò anh lên
Hò ơ... (chớ) Thôi em ơi mò chi cái xác không hồn
Bận tâm lối xóm... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bận tâm lối xóm phải chôn cất giùm
Hò ơ... (chớ) Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy
Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng
Ai về Mỹ Thuận Tiền Giang
Có thương nhớ gã... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa
Hò ơ... (chớ) Tai em nghe anh đau đầu chưa khá
Em băng đồng chi sá, đi bẻ nạm lá về xông
Hò ơ... (chớ) Ở làm sao đây cho trọn nghĩa vợ chồng
Đổ mồ hôi em chặm, ngọn gió lồng em che
Hò ơ... (chớ) Thuở sanh tiền kiếp sống lình bình
Đến khi nhắm mắt... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đến khi nhắm mắt phải trọn tình với cá tôm
Hò ơ... (chớ) Tay cầm sợi lạt đôi cua
Hỏi em làm mướn... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hỏi em làm mướn một mùa bao nhiêu
Hò ơ... (chớ) Thấy ai lo lắng cho mình
Mình nghe tràn ngập... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Mình nghe tràn ngập chuyện tình trầu cau
Hò ơ... (chớ) Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nết lại tươi răng vàng
Vậy nay anh gởi thơ sang
Thiệt tình anh quyết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thiệt tình anh quyết lấy nàng mà thôi
Hò ơ... (chớ) Thấy cô nho nhỏ tui muốn bỏ cái nghề đờn
Theo cô mần tùng giả ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Theo cô mần tùng giả quách quờn cho cô coi
Hò ơ... (chớ) Tiếng anh ăn học làu thông
Hỏi anh có biết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hỏi anh có biết khăn lông mấy đường
Hò ơ... (chớ) Em về đếm hết cỏ vườn
Lại đây anh nói ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Lại đây anh nói khăn lông mấy đường
Hò ơ... (chớ) Trách lòng con chó sủa dai
Đêm năm canh viếng bậu... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đêm năm canh viếng bậu sủa hoài sáng đêm
Hò ơ... (chớ) Trắng da vì bởi phấn dồi
Đem da vì bởi... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đem da vì bởi em ngồi chợ trưa
Hò ơ... (chớ) Trời mưa cho lúa chín vàng
Cho anh gặt lúa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cho anh gặt lúa cho nàng đem cơm
Hò ơ... (chớ)Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai dợ phải thương cho đồng (đều)
Hò ơ... (chớ) Uổng công anh se nhợ uốn cần
Uốn xong con cá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Uốn xong con cá nó lần ra khơi
Hò ơ... (chớ) Ví dầu cá bống hai mang
Cá trê hai ngạnh... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cá trê hai ngạnh tôm càng hai đuôi
Hò ơ... (chớ) Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Cám cảnh thương chồng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cám cảnh thương chồng nhạn lạc đường xa
Hò ơ... (chớ) Xa xa quê tiá bốn phía mây giăng
Quê má rừng ngăn, núi chặn
Quê anh sông dài, rạch vắn, rồng rắn lượn quanh
Đi không nỡ, ở không đành
Chiều chiều gắng gượng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chiều chiều gắng gượng lên gành ngó mông
Hò ơ... (chớ) Xin anh đừng ham bông quế bỏ phế cái bông lài
Mai sau quế rụng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Mai sau quế rụng bông lài thơm lâu
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Sóng sầm sịch lưng chưng ngoài bể bắc,
Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên...
Gió vàng hiu hắt đêm thanh
Đường xa dặm vắng, xin anh đừng về
Mảnh trăng đã trót lời thề
Làm chi để gánh nặng nề riêng ai!
Đường lên xứ Lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi! đứng lại mà trông
Kìa núi Thành Lạc, kìa sông Tam Cờ.
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn thẳng như tờ giấy phong..
Giọng hò miền Nam
Hò là một trong những thể loại âm nhạc dân gian ở Miền Nam Việt Nam được du nhập bởi những đợt sóng di dân từ đất Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Tín, Quảng Nam và Quảng Ngãi) vô vùng đất mới phía cực Nam của đất nước vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17.
Hò có sức hấp dẫn và quyến rũ lạ thường. Người ta gây cuộc hò trong các vụ cấy trên đồng ruộng, hò đối đáp “đuổi” nhau trên sông rạch, hò thi bên cối xay lúa, hò tâm tình bên cối giả gạo, hò “bắt xác’ trong dịp cưới hỏi, mừng tân gia hoặc giỗ quảy… Lời hò chứa đựng nội dung trữ tình, phản ánh những mối quan hệ trai gái, quan hệ hôn nhân và gia đình, đề cao cách đối nhân xử thế. Hò trở thành một phong trào quần chúng, càng có nhiều người tham gia cuộc hò càng thêm rộn rả:
Hò chơi phỉ dạ hai đường,
Công anh ở trên băng rừng xuống đây.
Tới đây không lẽ ngồi không,
Cầm chày giả gạo cho đông miệng hò.
Gặp phải cô nàng nhút nhát thì chàng trai phải giải bày:
Hò ít câu có chi đâu mà sợ
Chiều hai đứa lên bờ anh trả căn nợ lại cho em.
Hò chơi hai gái hai trai
Thưa cùng cô bác đừng ai nghi ngờ.
Các cô e dè cũng có lý vì không phải là không có những anh chàng:
Tay cầm bó mạ rẽ hai
Miệng hò tay cấy cẳng xà lai…quèo nàng.
Trong dân gian, hò, đối đáp thường là ứng khẩu, ngẫu hứng. Bà con gọi là hò môi hò mép. Bên trai và bên gái luân phiên đối đáp, bên bắt, bên bỏ, bên buộc, bên mở. Nếu “kẹt” thì tung ra những câu hò gỡ gạc:
Câu hò tôi đựng một khạp da bò
Ðến khi hò cuộc tôi mò không ra.
Câu hò tôi đựng một bầu
Ngủ đêm đến sáng nó rầu nó đi.
Câu hò tôi đựng trong lu,
Tới khi hò cuộc tôi chổng khu mò hoài.
Hò huê tình (nhiều người gọi không đúng là hò sông Hậu) vốn phổ biến từ Ðồng Nai xuống miền Cà Mau, ra tận đảo Phú Quốc. Lối hò này bình dị, dễ hò, nốt nhạc lượn trên thang bốn âm (re, fa, sol, la).
Hò cấy: Ở khắp miền Nam có hàng chục giọng hò cấy khác nhau. Hò cấy kiểu nào cũng đều phải trải qua ba chặng hò: Chặng một là hò rao, hò dạo, hò thăm hỏi, hò chào mời.
Có một anh chàng từ xa đến, lạ nước lạ cái, bị bao quanh gần một tiểu đội hoa khôi trong một vạn cấy. Anh ta bèn “nịnh đầm” tía lia như vầy:
Tôi chào cô Hai như sao mai rạng mọc
Tôi chào cô Ba như hạt ngọc lung linh.
Tôi chào cô Tư như thủy tinh trong vắt.
Tôi chào cô Năm như hương ngát bông lan.
Tôi chào cô Sáu như hào quang lóng lánh
Tôi chào cô Bảy như cuốn sách chạm bìa vàng.
Tôi chào cô Tám như hai làng liễu cẩn.
Chào cô Chín như rồng ẩn mây xanh
Chào cô Mười như chim oanh uốn lưỡi trên cành.
Chào rồi tôi chụp hỏi rành rành
Hỏi căn cơ hà xứ phụ mẫu cùng huynh đệ thiểu đa
Hỏi cho biết cửa biết nhà
Nhờ ông mai tới nói, nay tới chết tôi cũng quyết giao hòa với một cô.
Chặng hai là hò đối đáp, hò kết bạn, hò xe duyên. Ðây là giai đoạn chính của cuộc hò. Không khí lúc này trở nên sôi nổi, gây cấn.
Bên gái đố:
Chữ gì chôn dưới đất
Chữ gì mang không có nổi
Chữ gì gió thổi không có bay?
Trai như anh mà đối đặng thì em ngửa bàn tay cho ngồi.
Anh chàng không phải là tay tầm thường, đáp liền:
Chữ thọ đường chôn dưới đất
Còn chữ hiếu cất trên trang
Chữ tình mang không có nổi
Còn cái chữ tạc đá bia vàng gió thổi không có bay…
Anh đà đối đặng, vậy em hãy ngữa bàn tay cho anh… ngồi!
Cô nàng vẫn chưa chịu thua đổi đề tài:
Hò ơ… con trâu già kén cỏ, còn con bò nhỏ kén rơm.
Anh đừng chê em ốm yếu lưng tôm.
Ði kiếm nơi cho mập đặng anh ôm phỉ tình.
Anh chàng “lí lắc” không kém:
Hò ơ… Em đừng chê anh nhỏ thó mà anh buồn tình.
Vậy chớ con thằn lằn kia bao lớn mà nó ôm cột đình cũng sát đeo!
Hò ơ… Em chớ thấy anh nhỏ thó mà anh rầu.
Vậy chớ con ong kia bao lớn nó chính trái bầu cũng phải teo.
Chặng ba là hò giã biệt, hò tiễn bạn, hò hẹn:
Trưa mười hai giờ
Nàng với tôi bước cẵng lên bờ
Mặt đối mặt tôi giã từ
Lòng khăng khăng rưng rưng nước mắt
Ðây nhìn đó dạ sầu phủ mặt
Ðó nhìn đây lòng nọ ai bi.
Có thương nhau thì xin nhớ mảnh tình si nơi này.
Chia tay làm sao không bịn rịn, phải chi:
Ve kêu réo rắt đầu truông
Liệu bề thương đặng thương luôn cho tới già.
Trong các phong cách hò thì có hò nhơn đạo và hò ngạnh trê.
Hò nhơn đạo là hò sành điệu nghệ. Chẵng những điệu hò phải hấp dẫn, lôi cuốn mà lời hò cũng phải mang ý nghĩa lành mạnh:
Hò nhơn đạo chớ không phải hò gạo hò tiền
Ðó có thuốc ngon xin cho một điếu, không phải vì ghiền tôi xin.
Trái lại, có nơi có lúc hai bên trai gái đối đáp đến độ đỏ mặt tía tai, dùng những câu hò xốc hông khiến đối phương nhức nhối như bị ngạnh cá trê đâm phải (hò ngạnh trê):
Mới gặp gái mà đã chọc ghẹo:
Nước Tân Ba chảy qua Vàm Cú,
Thấy bộ em chèo cặp vú muốn hun.
Cô nàng tức khí:
Anh muốn hun vậy mà cũng khó
Anh trở về bắt … chó anh hun.
Chàng trai tự ái khiêu khích:
Nắm tay em, anh hỏi có ngằn
Từ nhỏ tới lớn có đãi đằng ai chưa?
Cô nàng không chịu thua, “ngạnh trê” liền:
Thân em như thể trái dừa,
Ðãi người trên trước, cặn thừa đãi anh.
Từ lâu có người cho rằng ở chỉ có hai lối hò tiêu biểu: hò Ðồng Tháp và hò Sông Hậu. Thực tế thì có trên vài chục lối hò như: hò mái cụt, hò mái dài, hò mái ba, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò ố ả, hò í á, hò khoan, hò giọng đồng, hò hơ, hò lơ, hò thơ, hò xay lúa, hò giã gạo, hò thẻ mực, hò cống chùa, hò bản đờn, hò ống, hò đưa linh v…v…
Ðặc biệt hò mái dài Mõ Cày (Bến Tre) không giống hò mái Thốt Nốt (Hậu Giang), lại càng xa lạ với hò mái dài Ðức Hòa (Long An). Có thể nói hò cấy rất phong phú , là đặc sản của một vùng nhất định. Hò cấy sông Bé, hò cấy Bến Tre, hò cấy Cửu Long, hò cấy Hậu Giang, hò cấy Kiên Giang đều mang dáng dấp riêng, không thể coi là những dị bản. Ở Hậu Giang, bà con có thể phân biệt đươc 3 loại hò cấy ở Mỹ Tú, Long Mỹ và Phụng Hiệp. Tại Tân Uyên, sông Bé có loại hò cấy nổi tiếng chẳng giống ở bất cứ nơi nào về làn điệu (dù lời hò có thể trùng).
Hò ơ ớ… ruông gò anh cấy lúa Nàng Co
Em thương anh thì thương đại đừng để anh gò mất công!
(Yêu mà cũng làm biếng)
Ruộng gò anh cấy lúa Nàng Xe
Anh thấy em còn nhỏ anh ve để dành
(Yêu mà cũng biết lo xa)
Từ lâu Bến Cát là nơi sản sinh những người thợ cấy giỏi, những giọng hò vang bóng một thời:
Bên hữu con thiên lý mã, bên tả con vạn lý vân
Hai bên nhắm cũng cân phân
Mà lòng anh muốn cỡi một lần hai con.
Ngoài ra còn một hình thức diễn xướng hết sức thú vị vốn được lưu hành từ Bắc chí Nam: đó là loại hò ống (hay hát ống). Theo lời kể của nhiều nghệ sĩ xưa thì tại đất sông Bé (Thủ Dầu Một, Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát) đã từng thịnh hành hình thức này. Cứ mỗi đêm trăng thanh gió mát, trai gái rủ nhau ra đồng hò hát đối đáp. Người đối hò hát qua ống tre, một đầu ống được bịt giấy quyến (giấy quấn thuốc rê) hoặc da ếch, bao tử heo, nối bằng sợi chỉ dài với ống tre cho người nghe như điện thoại bây giờ:
Hò quăn hò quíu
Hò trong ống điếu hò ra
Hò cho tuyệt diệu bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn
Có cá ở ao huỳnh lại khó câu.
Hình thức hát ống này cũng thấy lưu truyền lâu đời trong sinh hoạt âm nhạc dân gian của người Chàm ở Thuận Hải. Và tận đất tổ Hùng Vương (Vĩnh Phú) “lại có hình thức hát ví thật là kỳ lạ: người hát ngồi trong nhà hát đối đáp qua một ống tre bịt da ếch và nối ống của người kia bằng một sợi chỉ dài như một chiếc telephone cổ xưa vậy. Tuy nhiên cuộc hát không vì thế mà kém vẻ hấp dẫn lôi cuốn.
Ðã từ lâu, không ít người cho rằng hình thể đất đai ở miền Nam làm “ruộng đồng cò bay thẳng cánh” sông rạch chằng chịt nên các điệu hò miền Nam mang âm hưởng an nhàn thư thái, trải rộng triền miên, ít có tiết tấu khỏe khoắn, mạnh mẽ. Ðiều nầy có phần đúng, nhưng chưa đủ! Nếu ta chèo ghe, bơi xuống lai rai trên cánh đồng Tháp Mười mùa nước nổi hoặc thả chèo xuôi theo con nước lớn ròng trên những sông rạch kinh xáng… thì tội gì phải lấy hết gân cốt để “hò hụi” cho mệt xác! Ở đây không có thác ghềnh chảy xiết, ít thấy cảnh sinh hoạt lao động kéo bè,kéo gỗ… nên khó sản sinh nhưng lới hò dồdập, vạm vỡ nhằm huy động sức lực theo chu kỳ để nâng, để kéo ,để khiêng một vật gì đi vượt qua chướng ngại. Còn cấy lúa là một công việc tuy thấy nhẹ nhàng, nhưng lập đi lập lại cùng động tác mãi rồi cũng đâm ra nặng nhọc và uể oải dưới sức nắng chói chang, nên bà con hò lơ để giải khuây, để giao lưu tình cảnh, nhằm quên đi nỗi nhọc nhằn mỏi tay, mỏi chân, đau lưng vì phải khòm cả ngày cho lao tác. Cho nên hò cấy không phải là hò tập thể có tiết tấu gãy gọn, dồn dập để điều khiển hàng chục tay cấy một cách máy móc. Chủ ruộng thường hay gây cuộc hò để khuyến khích bà con cấy chậm mà sâu và thẳng lối.
Hò có nhịp điệu thôi thúc như hò xay lúa (còn gọi là hò giằng) của Gò Công; uyển chuyển như hò cổng chùa, hò bản đờn, hò lơ, khoan thai như hò í á hò khoan, của Bình Chánh, nhịp nhàng như hò giã gạo của Chơn Thành; sôi động như hò thơ của Ðức Hòa; khỏe mạnh như hò thẻ mực của Kiên Giang v…v… Ðặc biệt hò giã gạo (Sông Bé) và hò thơ (Long An) đều theo nhịp 6/8. Hò xay lúa Gò Công có 2 loại, mỗi loại đều lệ thuộc hoàn cảnh sinh hoạt và mục đích diễn xướng. Nếu có nhiều xay lúa thi nhau thì sử dụng loại hò giằng cối xay đến chóng mặt. Càng cối xay thì kéo về phía ngực phải ăn khớp với nhịp mạnh của câu hò, nếu không thì thua cuộc.
Xay lúa xong trai gái kéo nhau về nhà, chỉ còn lại một cặp vốn có tình ý với nhau trước. Bấy giờ nếu không con lúa thì đổ trấu vô cối mà xay vậy! Mục đích của đôi trai gái nầy là để tỏ tình giao duyên nhân ngãi. Mà xay trấu là cái cớ cho họ gần gũi nhau thì dại gì mà hò giằng cối xay cho đổ mồ hôi mất hứng! Vì vậy mà họ rỉ rả hò đối đáp nhau một cách khoan thai, ung dung, mùi mẫn.
Những câu Hò miền Nam
Hò là một trong những thể loại âm nhạc dân gian ở Miền Nam Việt Nam được du nhập bởi những đợt sóng di dân từ đất Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Tín, Quảng Nam và Quảng Ngãi) vô vùng đất mới phía cực Nam của đất nước vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17.
Hò có sức hấp dẫn và quyến rũ lạ thường. Người ta gây cuộc hò trong các vụ cấy trên đồng ruộng, hò đối đáp “đuổi” nhau trên sông rạch, hò thi bên cối xay lúa, hò tâm tình bên cối giả gạo, hò “bắt xác’ trong dịp cưới hỏi, mừng tân gia hoặc giỗ quảy… Lời hò chứa đựng nội dung trữ tình, phản ánh những mối quan hệ trai gái, quan hệ hôn nhân và gia đình, đề cao cách đối nhân xử thế. Hò trở thành một phong trào quần chúng, càng có nhiều người tham gia cuộc hò càng thêm rộn rả:
Hò chơi phỉ dạ hai đường,
Công anh ở trên băng rừng xuống đây.
Tới đây không lẽ ngồi không,
Cầm chày giả gạo cho đông miệng hò.
Gặp phải cô nàng nhút nhát thì chàng trai phải giải bày:
Hò ít câu có chi đâu mà sợ
Chiều hai đứa lên bờ anh trả căn nợ lại cho em.
Hò chơi hai gái hai trai
Thưa cùng cô bác đừng ai nghi ngờ.
Các cô e dè cũng có lý vì không phải là không có những anh chàng:
Tay cầm bó mạ rẽ hai
Miệng hò tay cấy cẳng xà lai…quèo nàng.
Trong dân gian, hò, đối đáp thường là ứng khẩu, ngẫu hứng. Bà con gọi là hò môi hò mép. Bên trai và bên gái luân phiên đối đáp, bên bắt, bên bỏ, bên buộc, bên mở. Nếu “kẹt” thì tung ra những câu hò gỡ gạc:
Câu hò tôi đựng một khạp da bò
Ðến khi hò cuộc tôi mò không ra.
Câu hò tôi đựng một bầu
Ngủ đêm đến sáng nó rầu nó đi.
Câu hò tôi đựng trong lu,
Tới khi hò cuộc tôi chổng khu mò hoài.
Hò huê tình (nhiều người gọi không đúng là hò sông Hậu) vốn phổ biến từ Ðồng Nai xuống miền Cà Mau, ra tận đảo Phú Quốc. Lối hò này bình dị, dễ hò, nốt nhạc lượn trên thang bốn âm (re, fa, sol, la).
Hò cấy: Ở khắp miền Nam có hàng chục giọng hò cấy khác nhau. Hò cấy kiểu nào cũng đều phải trải qua ba chặng hò: Chặng một là hò rao, hò dạo, hò thăm hỏi, hò chào mời.
Có một anh chàng từ xa đến, lạ nước lạ cái, bị bao quanh gần một tiểu đội hoa khôi trong một vạn cấy. Anh ta bèn “nịnh đầm” tía lia như vầy:
Tôi chào cô Hai như sao mai rạng mọc
Tôi chào cô Ba như hạt ngọc lung linh.
Tôi chào cô Tư như thủy tinh trong vắt.
Tôi chào cô Năm như hương ngát bông lan.
Tôi chào cô Sáu như hào quang lóng lánh
Tôi chào cô Bảy như cuốn sách chạm bìa vàng.
Tôi chào cô Tám như hai làng liễu cẩn.
Chào cô Chín như rồng ẩn mây xanh
Chào cô Mười như chim oanh uốn lưỡi trên cành.
Chào rồi tôi chụp hỏi rành rành
Hỏi căn cơ hà xứ phụ mẫu cùng huynh đệ thiểu đa
Hỏi cho biết cửa biết nhà
Nhờ ông mai tới nói, nay tới chết tôi cũng quyết giao hòa với một cô.
Chặng hai là hò đối đáp, hò kết bạn, hò xe duyên. Ðây là giai đoạn chính của cuộc hò. Không khí lúc này trở nên sôi nổi, gây cấn.
Bên gái đố:
Chữ gì chôn dưới đất
Chữ gì mang không có nổi
Chữ gì gió thổi không có bay?
Trai như anh mà đối đặng thì em ngửa bàn tay cho ngồi.
Anh chàng không phải là tay tầm thường, đáp liền:
Chữ thọ đường chôn dưới đất
Còn chữ hiếu cất trên trang
Chữ tình mang không có nổi
Còn cái chữ tạc đá bia vàng gió thổi không có bay…
Anh đà đối đặng, vậy em hãy ngữa bàn tay cho anh… ngồi!
Cô nàng vẫn chưa chịu thua đổi đề tài:
Hò ơ… con trâu già kén cỏ, còn con bò nhỏ kén rơm.
Anh đừng chê em ốm yếu lưng tôm.
Ði kiếm nơi cho mập đặng anh ôm phỉ tình.
Anh chàng “lí lắc” không kém:
Hò ơ… Em đừng chê anh nhỏ thó mà anh buồn tình.
Vậy chớ con thằn lằn kia bao lớn mà nó ôm cột đình cũng sát đeo!
Hò ơ… Em chớ thấy anh nhỏ thó mà anh rầu.
Vậy chớ con ong kia bao lớn nó chính trái bầu cũng phải teo.
Chặng ba là hò giã biệt, hò tiễn bạn, hò hẹn:
Trưa mười hai giờ
Nàng với tôi bước cẵng lên bờ
Mặt đối mặt tôi giã từ
Lòng khăng khăng rưng rưng nước mắt
Ðây nhìn đó dạ sầu phủ mặt
Ðó nhìn đây lòng nọ ai bi.
Có thương nhau thì xin nhớ mảnh tình si nơi này.
Chia tay làm sao không bịn rịn, phải chi:
Ve kêu réo rắt đầu truông
Liệu bề thương đặng thương luôn cho tới già.
Trong các phong cách hò thì có hò nhơn đạo và hò ngạnh trê.
Hò nhơn đạo là hò sành điệu nghệ. Chẵng những điệu hò phải hấp dẫn, lôi cuốn mà lời hò cũng phải mang ý nghĩa lành mạnh:
Hò nhơn đạo chớ không phải hò gạo hò tiền
Ðó có thuốc ngon xin cho một điếu, không phải vì ghiền tôi xin.
Trái lại, có nơi có lúc hai bên trai gái đối đáp đến độ đỏ mặt tía tai, dùng những câu hò xốc hông khiến đối phương nhức nhối như bị ngạnh cá trê đâm phải (hò ngạnh trê):
Mới gặp gái mà đã chọc ghẹo:
Nước Tân Ba chảy qua Vàm Cú,
Thấy bộ em chèo cặp vú muốn hun.
Cô nàng tức khí:
Anh muốn hun vậy mà cũng khó
Anh trở về bắt … chó anh hun.
Chàng trai tự ái khiêu khích:
Nắm tay em, anh hỏi có ngằn
Từ nhỏ tới lớn có đãi đằng ai chưa?
Cô nàng không chịu thua, “ngạnh trê” liền:
Thân em như thể trái dừa,
Ðãi người trên trước, cặn thừa đãi anh.
Từ lâu có người cho rằng ở chỉ có hai lối hò tiêu biểu: hò Ðồng Tháp và hò Sông Hậu. Thực tế thì có trên vài chục lối hò như: hò mái cụt, hò mái dài, hò mái ba, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò ố ả, hò í á, hò khoan, hò giọng đồng, hò hơ, hò lơ, hò thơ, hò xay lúa, hò giã gạo, hò thẻ mực, hò cống chùa, hò bản đờn, hò ống, hò đưa linh v…v…
Ðặc biệt hò mái dài Mõ Cày (Bến Tre) không giống hò mái Thốt Nốt (Hậu Giang), lại càng xa lạ với hò mái dài Ðức Hòa (Long An). Có thể nói hò cấy rất phong phú , là đặc sản của một vùng nhất định. Hò cấy sông Bé, hò cấy Bến Tre, hò cấy Cửu Long, hò cấy Hậu Giang, hò cấy Kiên Giang đều mang dáng dấp riêng, không thể coi là những dị bản. Ở Hậu Giang, bà con có thể phân biệt đươc 3 loại hò cấy ở Mỹ Tú, Long Mỹ và Phụng Hiệp. Tại Tân Uyên, sông Bé có loại hò cấy nổi tiếng chẳng giống ở bất cứ nơi nào về làn điệu (dù lời hò có thể trùng).
Hò ơ ớ… ruông gò anh cấy lúa Nàng Co
Em thương anh thì thương đại đừng để anh gò mất công!
(Yêu mà cũng làm biếng)
Ruộng gò anh cấy lúa Nàng Xe
Anh thấy em còn nhỏ anh ve để dành
(Yêu mà cũng biết lo xa)
Từ lâu Bến Cát là nơi sản sinh những người thợ cấy giỏi, những giọng hò vang bóng một thời:
Bên hữu con thiên lý mã, bên tả con vạn lý vân
Hai bên nhắm cũng cân phân
Mà lòng anh muốn cỡi một lần hai con.
Ngoài ra còn một hình thức diễn xướng hết sức thú vị vốn được lưu hành từ Bắc chí Nam: đó là loại hò ống (hay hát ống). Theo lời kể của nhiều nghệ sĩ xưa thì tại đất sông Bé (Thủ Dầu Một, Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát) đã từng thịnh hành hình thức này. Cứ mỗi đêm trăng thanh gió mát, trai gái rủ nhau ra đồng hò hát đối đáp. Người đối hò hát qua ống tre, một đầu ống được bịt giấy quyến (giấy quấn thuốc rê) hoặc da ếch, bao tử heo, nối bằng sợi chỉ dài với ống tre cho người nghe như điện thoại bây giờ:
Hò quăn hò quíu
Hò trong ống điếu hò ra
Hò cho tuyệt diệu bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn
Có cá ở ao huỳnh lại khó câu.
Hình thức hát ống này cũng thấy lưu truyền lâu đời trong sinh hoạt âm nhạc dân gian của người Chàm ở Thuận Hải. Và tận đất tổ Hùng Vương (Vĩnh Phú) “lại có hình thức hát ví thật là kỳ lạ: người hát ngồi trong nhà hát đối đáp qua một ống tre bịt da ếch và nối ống của người kia bằng một sợi chỉ dài như một chiếc telephone cổ xưa vậy. Tuy nhiên cuộc hát không vì thế mà kém vẻ hấp dẫn lôi cuốn.
Ðã từ lâu, không ít người cho rằng hình thể đất đai ở miền Nam làm “ruộng đồng cò bay thẳng cánh” sông rạch chằng chịt nên các điệu hò miền Nam mang âm hưởng an nhàn thư thái, trải rộng triền miên, ít có tiết tấu khỏe khoắn, mạnh mẽ. Ðiều nầy có phần đúng, nhưng chưa đủ! Nếu ta chèo ghe, bơi xuống lai rai trên cánh đồng Tháp Mười mùa nước nổi hoặc thả chèo xuôi theo con nước lớn ròng trên những sông rạch kinh xáng… thì tội gì phải lấy hết gân cốt để “hò hụi” cho mệt xác! Ở đây không có thác ghềnh chảy xiết, ít thấy cảnh sinh hoạt lao động kéo bè,kéo gỗ… nên khó sản sinh nhưng lới hò dồdập, vạm vỡ nhằm huy động sức lực theo chu kỳ để nâng, để kéo ,để khiêng một vật gì đi vượt qua chướng ngại. Còn cấy lúa là một công việc tuy thấy nhẹ nhàng, nhưng lập đi lập lại cùng động tác mãi rồi cũng đâm ra nặng nhọc và uể oải dưới sức nắng chói chang, nên bà con hò lơ để giải khuây, để giao lưu tình cảnh, nhằm quên đi nỗi nhọc nhằn mỏi tay, mỏi chân, đau lưng vì phải khòm cả ngày cho lao tác. Cho nên hò cấy không phải là hò tập thể có tiết tấu gãy gọn, dồn dập để điều khiển hàng chục tay cấy một cách máy móc. Chủ ruộng thường hay gây cuộc hò để khuyến khích bà con cấy chậm mà sâu và thẳng lối.
Hò có nhịp điệu thôi thúc như hò xay lúa (còn gọi là hò giằng) của Gò Công; uyển chuyển như hò cổng chùa, hò bản đờn, hò lơ, khoan thai như hò í á hò khoan, của Bình Chánh, nhịp nhàng như hò giã gạo của Chơn Thành; sôi động như hò thơ của Ðức Hòa; khỏe mạnh như hò thẻ mực của Kiên Giang v…v… Ðặc biệt hò giã gạo (Sông Bé) và hò thơ (Long An) đều theo nhịp 6/8. Hò xay lúa Gò Công có 2 loại, mỗi loại đều lệ thuộc hoàn cảnh sinh hoạt và mục đích diễn xướng. Nếu có nhiều xay lúa thi nhau thì sử dụng loại hò giằng cối xay đến chóng mặt. Càng cối xay thì kéo về phía ngực phải ăn khớp với nhịp mạnh của câu hò, nếu không thì thua cuộc.
Xay lúa xong trai gái kéo nhau về nhà, chỉ còn lại một cặp vốn có tình ý với nhau trước. Bấy giờ nếu không con lúa thì đổ trấu vô cối mà xay vậy! Mục đích của đôi trai gái nầy là để tỏ tình giao duyên nhân ngãi. Mà xay trấu là cái cớ cho họ gần gũi nhau thì dại gì mà hò giằng cối xay cho đổ mồ hôi mất hứng! Vì vậy mà họ rỉ rả hò đối đáp nhau một cách khoan thai, ung dung, mùi mẫn.
Những câu Hò miền Nam
Hò ơ... (chớ) Anh về để áo lại đây
Để khuya em đắp... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng
Hò ơ... (chớ) Anh với em má tựa vai kề
Dầu em có lạc Sở sang Tề
Thì em cũng nhớ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thì em cũng nhớ gởi thơ về cho anh
Hò ơ... (chớ) Bạc với vàng còn đen còn đỏ
Đôi đứa mình còn nhỏ thương nhiều... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Vừa nghe tiếng em là anh muốn như anh
Kim Trọng thương chị Thuý Kiều thuở xưa
Hò ơ... (chớ) Bậu với qua gá nghĩa chung tình
Dầu ăn cơm quán... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Dầu ăn cơm quán, ngủ đình cũng cam
Hò ơ... Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chuà Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua ?
Hò ơ...(chớ) Bên nầy sông em bắc cây cầu mười tấm ván
Bên kia sông em cất cái quán mười hai từng
Bán buôn nuôi me.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh
Hò ơ... (chớ) Bình bồng ở giữa Giang Tân
Bên tình bên nghĩa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bên tình bên nghĩa, biết phân bên nào
Hò ơ... (chớ) Bớ này em ơi
Nhứt lê, nhì lựu, tam đào
Bên tình bên nghĩa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bên tình bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân
Hò ơ... (chớ) Bớ này anh nó ơi
Số phận em giao phó cho trời xanh
Lấy anh em không lấy,
Nhưng dạ cũng không đành làm ngơ
Vốn em cũng chẳng bơ thờ
Em đã hằng chọn trong lóng đục,
Nhưng vẫn còn chờ nợ duyên
Vốn em muốn lấy ông thầy thuốc cho giàu sang,
Nhưng lại sợ ổng hay gia hay giảm
Em muốn lấy ông thầy pháp cho đảm,
Nhưng lại sợ ổng hét la ghê gốc
Em muốn lấy chú thợ mộc,
Nhưng lại sợ chú hay đục khoét rầy rà
Em muốn lấy anh thợ cưa cho thật thà,
Nhưng lại sợ trên tàn dưới mạt
Em muốn lấy người hạ bạc,
Nhưng lại sợ mang lưới mang chài
Em muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai,
Nhưng lại sợ ảnh hay đào hay bới
Em cũng muốn chọn anh thợ rèn kết ngỡi,
Nhưng lại sợ ảnh nói tức nói êm
Bằng lấy anh đặt rượu làm men,
Thì lại sợ ảnh hay cà riềng cà tỏi
Em muốn lấy ông nhạc công cho giỏi,
Nhưng lại sợ giọng quyển giọng kèn
Em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn,
Nhưng lại sợ nhiều điều thá ví
Em muốn lấy anh lái buôn thành thị,
Nhưng lại sợ ảnh kêu mắc rẻ khó lòng
Em muốn lấy anh thợ đóng thùng,
Nhưng lại sợ ảnh kêu trật niền trật ngỗng
Em muốn lấy ông Hương ông Tổng,
Nhưng lại sợ việc trống việc gông
Em muốn lấy anh hàng gánh tay không,
Nhưng lại sợ đầu treo đầu quảy
Em muốn lấy chú hàng heo khi nãy,
Nhưng lại sợ chú làm lộn ruột lộn gan
Em muốn lấy anh thợ đát thợ đan,
Nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải bắt lỗi
Em muốn lấy anh hát bè hát bội,
Nhưng lại sợ giọng rỗi giọng tuồng
Em muốn lấy anh thợ đóng xuồng,
Nhưng lại sợ ảnh hay dằn hay thúc...
Hò ơ... (chớ) Mấy lời trong đục chẳng dám nói ra
Có thầy giáo tập dạy trong làng xa, hay dạy hay răn
So đức hạnh chẳng ai bằng, lại con nhà Nho học
Sử kinh thầy thường đọc, nên biết việc thánh hiền
Gặp nhau em kết liền, không chờ chẳng đợi... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Không chẳng chờ chẳng đợi phỉ nguyền phụng loan
Hò ơ... (chớ) Biết anh thích mắm cá trè
Nên em chịu khó... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Nên em chịu khó bẻ thêm đọt xoài
Hò ơ... (chớ) Chớ bông trang trước cửa ai sửa bông trang vàng
Ngày thời chuyện vãn... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ngày thời chuyện vãn nên tối lại mơ màng thấy em
Hò ơ... (chớ) Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi
Kẻo khuất khúc sông nầy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Kẻo khuất khúc sông nầy bờ bụi tối tăm
Hò ơ... (chớ) Buồn thay số kiếp con người
Cơm ăn không đủ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chớ cơm ăn không đủ nụ cười ốm nhom
Hò ơ... (chớ) Bữa nay loan phụng hiệp bầy
Hò chơi nhơn đạo... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hò chơi nhơn đạo, sau vầy nhơn duyên
Hò ơ... (chớ) Bước xuống cầu cầu oằn cầu oại
Bước xuống thoàn thoàn chích thoàn nghiêng
Em cả tiếng kêu ai người nghĩa Phong Điền
Người nghĩa ôi! Duyên đây không kết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Duyên đây không kết người nghĩa tìm nơi đâu
Hò ơ... (chớ) Bớ người không quen ơi
Nghe anh em cũng muốn thương nhiều
Nhưng hoa đà có chủ...(ờ)
Hò ơ... (chớ) Nhưng hoa đà có chủ, khó chiều dạ anh
Hò ơ... (chớ) Cái răng, Ba láng
Vàm Xáng, Phong Điền
Anh thương em cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay
Hò ơ... (chớ) Cất mái chèo loan em nhìn chàng rơi lụy
Thổn thức gan vàng tấn dị thối nan
Nhái kêu chiều xuống mé mương
Thiếp nay đà an phận... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thiếp nay đà an phận còn thương nổi chàng
Hò ơ... (chớ) Chèo dài sông hẹp khó lùa
Thấy em ở ruộng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thấy em ở ruộng quê mùa anh thương
Hò ơ... (chớ) Chim kia thỏ thẻ trên cành
Nghe em nói vậy
Hò ơ... (chớ) Nghe em nói vậy, dạ không đành rẽ phân
Hò ơ... (chớ) Con cá lý ngư sầu tư biếng lội
Con chim xa cành sầu cội biếng bay
Sao hôm còn đợi sao mai
Chồng mà xa vơ.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chồng mà xa vợ hỏi ai không buồn ?
Hò ơ ... Cúc mọc dưới sông anh kêu là cúc thủy
Sàigòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Gởi thơ thăm hết nội nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em
Hò ơ... (chớ) Củi đậu nấu đậu ra dầu
Anh cưới em không đặng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Anh cưới em không đặng anh cạo đầu đi tu
Hò ơ... (chớ) Dao phay cứa cổ máu đổ không màng
Chết thì chịu chết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chết thì chịu chết buông nàng không buông
Hò ơ... (chớ) Dang tay đánh thiếp sao đành
Tấm rách ai vá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Tấm rách ai vá tấm lành ai may
Hò ơ... (chớ) Dõi dõi theo anh
Về nơi Châu thành
Coi nam thanh nữ tú
Ở chi đất này... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ở chi đất này vượn hú chim kêu
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn
Đồng hồ điểm nhặt nhớ chàng không quên
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya ra đứng giữa trời
Giơ tay ngoắc nguyệt... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Giơ tay bắt nguyệt nguyệt dời phương nao
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya thắp chút dầu dư
Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng ?
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya, trăng dọi lầu son
Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng
Hò ơ... (chớ) Bển qua đây đàng đã xa đàng
Dầu tui có lâm nguy thất thế
Hỏi con bạn vàng nó cứu không ?
Hò ơ... (chớ) Chiều rồi kẻ Bắc, người Đông
Trách lòng người nghĩa, nói không thiệt lời
Hò ơ... (chớ) Đêm nằm tàu chuối có đôi
Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình
Hò ơ... (chớ) Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng
Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài
Hò ơ... (chớ) Bây giờ chàng đã nghe ai
Aó ngắn chẳng đắp, aó dài không chung
Hò ơ... (chớ) Bây giờ sự đã nhạt nhùng
Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua
Hò ơ... (chớ) Cá lên mặt nước, cá khô
Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm
Hò ơ... (chớ) Đêm qua nguyệt lặn về Tây
Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài
Hò ơ... (chớ) Trúc với mai, mai về trúc nhớ
Trúc trở về, mai nhớ trúc không
Hò ơ... (chớ) Bây giờ kẻ Bắc, người Đông
Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư
Hò ơ... (chớ) Đèn cầu tàu ngọn lu, ngọn tỏ
Anh trông không rõ, anh ngỡ đèn màu
Hò ơ... (chớ) Rút gươm đâm họng, máu trào
Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh
Hò ơ... (chớ) Đèn nhà lầu hết dầu, đèn tắt
Lửa nhà máy hết cháy thành than
Hò ơ... (chớ) Nhang chùa Ông hết mạt, nhang tàn
Kể từ khi em biết được chàng
Đêm về em lăn lộn như con chim phượng hoàng bị tên
Hò ơ... (chớ) Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc
Gái nào đảm bằng gái Nha Mân
Hò ơ... (chớ) Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần
Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run
Hò ơ... (chớ) Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu
Hò ơ... (chớ) Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ
Hò ơ... (chớ)Đèn treo cột Phướng gió chướng lồng đèn rung.
Anh thương em thắm thiết vô cùng.
Đĩa nghiêng mài mực tạm dùng câu thơ
Câu thơ ba bốn câu thơ:
Câu đợi, câu chờ, câu nhớ, câu thương.
Hò ơ... (chớ) Đèn treo ngang quán
Tỏ rạng bờ kinh
Hò ơ... (chớ) Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình
Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ
Hò ơ... (chớ) Đèo nào cao bằng đèo Châu Đốc
Xứ nào dốc bằng xứ Nam Vang
Hò ơ... (chớ) Một tiếng anh than ba bốn đôi vàng em không tiếc
Anh lấy đặng em rồi anh trốn biệt lánh thân
Hò ơ... (chớ) Đồng tiền Vạn lịch
Thích bốn chữ vàng
Hò ơ... (chớ) Anh tiếc công anh gắn bó với nàng bấy lâu
Bây giờ nàng lấy chồng đâu ?
Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng
Năm trăm anh đốt cho nàng,
Còn năm trăm nữa giải oan lời thề.
Xưa kia nói nói, thề thề,
Bây giờ bẻ khóa, trao thìa cho ai ?
Bây giờ nàng đã nghe ai,
Gặp anh ghé nón, chạm vai chẳng chào ?
Hò ơ... (chớ) Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, đi bán giỏ nuôi mẹ
Anh gặp em đây không cửa không nhà
Muốn vô gá nghĩa, biết là đặng chăng ?
Hò ơ... (chớ) Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Hò ơ... (chớ) Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Hò ơ... (chớ) Chiều nay qua phản bạn hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào
Hò ơ... (chớ) Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông
Hò ơ... (chớ) Em ôm bó mạ xuống đồng
Miệng hò tay cấy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Miệng hò tay cấy mà lòng nhớ ai
Hò ơ... (chớ) Mạ xanh mơn mởn nên tình
Bao nhiêu lá mạ .... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bao nhiêu lá mạ thương mình bấy nhiêu
Hò ơ... (chớ) Nói vậy mà chơi
Chớ gió thổi hiu hiu, lục bình trôi líu ríu
Anh đừng bận bịu, bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn...(ờ)
Hò ơ... (chớ) Con nhạn bay cao khó bắn, con cá ở ao quỳnh khó câu
Hò ơ... (chớ) Ớ này em ơi, hãy nghe cho kỹ
Xưa nay gái không cưới chồng, trai không ở goá
Đoái thấy thương nàng xinh đã quá xinh
Buông lời vừa vỗ vế non,
Nếu như nàng lo việc cháu con
Sao không kiếm chốn trao thân, gởi thế ?
Trên đời bá công bá nghệ
Dưới lại đà tứ thứ tứ dân
Làm người sao khỏi chữ lương nhân
Mà nàng chịu để phòng không ở goá?
Sách có chữ rằng phụ thân nan hoá, ít kẻ yêu vì
Nên lấy chồng phải luận phải suy
Phải xem trong lóng đục
Đây đã đến thời phải lúc
Hay là nàng còn cúc đục cù lao
Để anh ngơ ngẩn ra vào...(ờ)
Hò ơ... (chớ) Để anh ngơ ngẩn ra vào,
Vì thầm yêu trộm nhớ thì dạ nào em bỏ anh ?
Hò ơ... (chớ) Thương sao cho được mà thương
Nước kia muốn chảy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Nước kia muốn chảy mà mương chưa đào
Hò ơ... (chớ) Bây giờ đã rõ âm hao
Còn chờ chi nữa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Còn chờ chi nữa má đào phôi pha
Hò ơ... (chớ) Chờ anh em hết sức chờ
Chờ cho rau muống... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông
Hò ơ... (chớ) Gạo Ba Thắt trắng như bông bưởi
Nước phông-tên tiền rưỡi một đôi
Hò ơ... (chớ) Saigon vui lắm em ơi
Lấy chồng về đó, một đời sướng thân
Hò ơ... (chớ) Ghe anh mỏng ván, bóng láng nhẹ chèo
Xin anh bớt mái, nương lèo đợi em
Hò ơ... (chớ) Ghe em rẽ vô ngọn, anh chẳng đón chẳng chờ
Ghe anh tách bến tách bờ, em buồn cho trăng mờ sao lặn
Hò ơ... (chớ) Mình lấy nhau chẳng đặng bởi bà mai lưỡi vắn ít lời
Mật đường dù chẳng đi đôi
Chút hương rớt lại, một đời chưa quên
Hò ơ... (chớ) Ghe lên ghe xuống dầm dề
Sao anh không gởi thơ về thăm em ?
Hò ơ... (chớ) Ghét con xẩm lai mê trai, mi lai nhãn khứ
Ôm bụng trống chầu, bỏ xứ ra đi
Hò ơ... (chớ) Giấy hồng đơn bán mấy
Cho anh mua lấy một tờ
Viết thơ quốc ngữ
Hò ơ... (chớ) Dán trên trái bưởi
Thả xuống giang hà
Hò ơ... (chớ) Bớ cô gánh nước bên bờ
Xuống sông vớt bưởi để mà xem thơ
Hò ơ... (chớ) Gò Công giáp biển, nổi tiếng mắm tôm chà
Mắm tôm chua ai ai cũng chắt lưỡi hít hà
Saigon, chợ Mỹ ai mà không hay
Hò ơ... (chớ) Gió đưa bụi cúc ngã bụi sả tàn
Nương theo chéo áo con bạn vàng
Dầu sanh dầu tử... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Dầu sanh dầu tử một mình nàng mà thôi
Hò ơ... (chớ) Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Về sông ăn cá về đồng ăn cua
Hò ơ... (chớ) Hỏi anh anh nói học trò
Sao em lại thấy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Sao em lại thấy anh cỡi bò hôm qua
Hò ơ... (chớ) Hồi nào em nói mà anh không nghe
Bây giờ anh xách nón... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bây giờ anh xách nón chèo ghe đi tìm
Hò ơ... (chớ) Không chồng đi dọc đi ngang
Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi
Trót sanh làm phận nữ nhi
Giữ sao cho khỏi tiếng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Giữ sao cho khỏi tiếng thị phi chê cười
Hò ơ... (chớ) Lấy ai lấy khính chồng người ?
Lấy chồng kiểu đó... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Lấy chồng kiểu đó lấy thằng cùi sướng hơn !
Hò ơ... (chớ) Lòng con thảo như giọt sương hạt bụi
Công mẫu từ như ngọn núi Thái Sơn
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không me.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Không cha không mẹ như đờn đứt giây
Hò ơ... (chớ) Lục bình bát giác cắm các thứ bông hường
Cha mẹ em kén rể... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cha mẹ em kén rể mà lỡ anh tầm thường biết đặng hay không ?
Hò ơ... (chớ) Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên
Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày
Hò ơ... (chớ) Mậu Thìn vốn thiệt năm nay
Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang
Hò ơ... (chớ) Phong Thạnh vốn thiệt tên làng
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung
Hò ơ... (chớ) Anh em Mười Chức công khùng
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...
Hò ơ... (chớ) Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa ló
Hò ơ... (chớ) Nè em Hai ôi, lại đây cho anh tỏ một đôi lời
Nước bèo gặp gỡ vậy thôi
Mai anh ra cửa biển, em sống đời biệt ly
Hò ơ... (chớ) Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa ló
Quới nương em ơi, anh xin tỏ với nàng
Hò ơ... (chớ) Con gái ông Bang, con gái ông Phủ
Qua cũng không màng
Chỉ chuộng con bạn ngọc biết đá vàng, thủy chung
Hò ơ... (chớ) Nè em Tiên Bửu ôi
Nhớ em chưa ăn xôi mà anh như gặp hồi no bụng
Hò ơ... (chớ) Chưa ăn bún mà anh cũng no hơi
Thương em quên đứng, quên ngồi
Ngứa đầu quên gãi, đứt ruột rồi quên đau
Hò ơ... (chớ) Nếm muỗng đường om (nồi đất), mùi thơm vị ngọt
Qua thương nhớ bậu thức trót canh gà
Hò ơ... (chớ) Phận bậu như hạt mưa sa
Phận qua như gió thổi tuốt ra vàm ngoài
Hò ơ... (chớ) Má ơi con vịt chết chìm
Con thò tay vớt... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Con thò tay vớt con cá lìm kìm nó cắn tay con
Hò ơ... (chớ) Miễn bậu đành ừ
Qua chẳng từ lao khổ
Dẫu lên rừng tìm hổ
Hay xuống biển kiếm rồng
Trước sau vẫn giữ vẹn một lòng
Vào lòn ra cúi... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Vào lòn ra cúi anh cũng một lòng thương em
Hò ơ... (chớ) Miễu linh ai dám lại gần
Đứng xa mà khấn.. (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đứng xa mà khấn thánh thần chứng chi
Hò ơ... (chớ) Nàng đành phụ mẫu không đành
Lá cao che khuất... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Lá cao che khuất ngọn ngành nàng ơi !
Hò ơ... (chớ) Nghiêng vai ngửa vái Phật trời
Đương cơn hoạn nạn... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân
Hò ơ... (chớ) Ngó lên Châu Đốc vàm Nao
Thấy buồm em chạy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thấy buồm em chạy như dao cắt lòng
Hò ơ... (chớ) Ngó lên nhang tắt đèn mờ
Muốn nuôi cha me... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Muốn nuôi cha mẹ bây giờ còn đâu
Hò ơ... (chớ) Ngó lên chùa lớn làm chay
Thỉnh ông Tiêu Diện... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thỉnh ông Tiêu Diện, thỉnh ngài Quan Âm
Hò ơ... (chớ) Ngó lên trời trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông
Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong
Anh đi lục tỉnh giáp vòng
Đến đây xui khiến... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đến đây xui khiến đem lòng thương em
Hò ơ... (chớ)Ngó lên trời thấy mây vân vũ.
Ngó dưới Âm Phủ thấy đủ mặt bá quan.
Hò ơ... (chớ)Ngó lên Nam Vang thấy bốn chữ vàng.
Ngó xuống Cà Mau thấy sóng bủa lao xaọ
Hò ơ... (chớ)Anh thương em hồi thuở bao giờ?
Chớ anh có biết em thương lại lúc nào hay không ?
Hò ơ... (chớ) Ngọc Hoàng giũ sổ ôm bộ về quê
Đồ gia cang để lại... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đồ gia cang để lại bạn hiền thê giữ dùm
Hò ơ... (chớ) Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Giữa canh khuya nghe tiếng ai thỏ thẻ bên thuyền
Hỏi thăm quân tử... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hỏi thăm quân tử vượt biên nơi nào ?
Hò ơ... (chớ) Người ta giàu, đầu heo nọng thịt
Tụi mình nghèo cặp vịt đôi bông
Sao mai mọc buổi hừng đông
Ước sao nên vơ.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ước sao nên vợ nên chồng thì thôi
Hò ơ... (chớ)Nhìn trên trời thấy cặp cu đương đá.
Dòm xuống biển thấy cặp cá đương đuạ
Hò ơ... (chớ)Em biểu anh về lập miếu thờ vua;
Lập trang thờ mẹ; lập chùa thờ chạ
Hò ơ... (chớ)Anh về bán đất cây đạ
Bán cặp trâu già mới cưới được em.
Hò ơ... (chớ)Nhìn trên trời thấy sao giăng tứ hướng;
Ngó ra ngoài biển đá dựng tứ bề.
Hò ơ... (chớ)Biết làm sao đặng chữ phu thê ?
Đây, chồng; đó, vợ; ra về có đôị
Hò ơ... (chớ)Mắc mãn có đôi anh hồi về có vơ..
Nghĩ đã đáo đầu không phải duyên nợ thì thôị
Hò ơ... (chớ) Ôi thôi bình tích bể rồi
Chén chung lỡ bộ ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chén chung lỡ bộ đứng ngồi sao yên
Hò ơ... (chớ) Phù sa nước đục khó dòm
Nhớ anh em khóc... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi
Hò ơ... (chớ) Ra đi anh có dặn dò
Ruộng sâu cấy trước ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau
Hò ơ... (chớ) Rảo bước qua nhịp cầu tre
Trở về nơi mái lá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Trở về nơi mái lá con mới hay mẹ đã qua đời
Hò ơ... (chớ) Sao vua chín cái nằm chồng
Anh thương em từ thuở... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Anh thương em từ thuở má bồng trên tay
Hò ơ... (chớ) Sáng trăng giã gạo ngoài trời
Cám bay phưởng phất... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cám bay phưởng phất nhớ lời em than
Hò ơ... (chớ)Sao Vua chín cái nằm chồng.
Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên taỵ
Hò ơ... (chớ)Sao Vua chín cái nằm ngang.
Anh thương em từ thưở mẹ mang trong lòng.
Hò ơ... (chớ)Sao Vua chín cái nằm kề.
Anh thương em từ thưở mẹ về với chạ
Hò ơ... (chớ)Sông Sàigon chảy dài Chợ Cũ, Nước mênh mông nước đổ phù sạ Ngọt ngào ngọn lúa bát ngát hương (thơm) Hương lúa của quê nhà (hò hò); Hướng về quê mẹ đậm đà tình thương.
Hò ơ... (chớ) Sông sâu kiếm chẳng đặng đò
Muốn lội qua thăm bậu... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Muốn lội qua thăm bậu mà sợ hụt giò chết trôi
Hò ơ... (chớ) Bớ này anh nó ôi, nếu anh lỡ có hụt giò
Thì em sẽ lội xuống... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thì em sẽ lội xuống đặng mò anh lên
Hò ơ... (chớ) Thôi em ơi mò chi cái xác không hồn
Bận tâm lối xóm... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bận tâm lối xóm phải chôn cất giùm
Hò ơ... (chớ) Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy
Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng
Ai về Mỹ Thuận Tiền Giang
Có thương nhớ gã... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa
Hò ơ... (chớ) Tai em nghe anh đau đầu chưa khá
Em băng đồng chi sá, đi bẻ nạm lá về xông
Hò ơ... (chớ) Ở làm sao đây cho trọn nghĩa vợ chồng
Đổ mồ hôi em chặm, ngọn gió lồng em che
Hò ơ... (chớ) Thuở sanh tiền kiếp sống lình bình
Đến khi nhắm mắt... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đến khi nhắm mắt phải trọn tình với cá tôm
Hò ơ... (chớ) Tay cầm sợi lạt đôi cua
Hỏi em làm mướn... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hỏi em làm mướn một mùa bao nhiêu
Hò ơ... (chớ) Thấy ai lo lắng cho mình
Mình nghe tràn ngập... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Mình nghe tràn ngập chuyện tình trầu cau
Hò ơ... (chớ) Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nết lại tươi răng vàng
Vậy nay anh gởi thơ sang
Thiệt tình anh quyết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thiệt tình anh quyết lấy nàng mà thôi
Hò ơ... (chớ) Thấy cô nho nhỏ tui muốn bỏ cái nghề đờn
Theo cô mần tùng giả ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Theo cô mần tùng giả quách quờn cho cô coi
Hò ơ... (chớ) Tiếng anh ăn học làu thông
Hỏi anh có biết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hỏi anh có biết khăn lông mấy đường
Hò ơ... (chớ) Em về đếm hết cỏ vườn
Lại đây anh nói ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Lại đây anh nói khăn lông mấy đường
Hò ơ... (chớ) Trách lòng con chó sủa dai
Đêm năm canh viếng bậu... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đêm năm canh viếng bậu sủa hoài sáng đêm
Hò ơ... (chớ) Trắng da vì bởi phấn dồi
Đem da vì bởi... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đem da vì bởi em ngồi chợ trưa
Hò ơ... (chớ) Trời mưa cho lúa chín vàng
Cho anh gặt lúa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cho anh gặt lúa cho nàng đem cơm
Hò ơ... (chớ)Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai dợ phải thương cho đồng (đều)
Hò ơ... (chớ) Uổng công anh se nhợ uốn cần
Uốn xong con cá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Uốn xong con cá nó lần ra khơi
Hò ơ... (chớ) Ví dầu cá bống hai mang
Cá trê hai ngạnh... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cá trê hai ngạnh tôm càng hai đuôi
Hò ơ... (chớ) Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Cám cảnh thương chồng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cám cảnh thương chồng nhạn lạc đường xa
Hò ơ... (chớ) Xa xa quê tiá bốn phía mây giăng
Quê má rừng ngăn, núi chặn
Quê anh sông dài, rạch vắn, rồng rắn lượn quanh
Đi không nỡ, ở không đành
Chiều chiều gắng gượng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chiều chiều gắng gượng lên gành ngó mông
Hò ơ... (chớ) Xin anh đừng ham bông quế bỏ phế cái bông lài
Mai sau quế rụng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Mai sau quế rụng bông lài thơm lâu
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Sóng sầm sịch lưng chưng ngoài bể bắc,
Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên...
Gió vàng hiu hắt đêm thanh
Đường xa dặm vắng, xin anh đừng về
Mảnh trăng đã trót lời thề
Làm chi để gánh nặng nề riêng ai!
Đường lên xứ Lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi! đứng lại mà trông
Kìa núi Thành Lạc, kìa sông Tam Cờ.
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn thẳng như tờ giấy phong..
( Nguyễn Đắc Song Phương chuyển )
Bàn ra tán vào (0)
Giọng hò miền Nam .
Hò là một trong những thể loại âm nhạc dân gian ở Miền Nam Việt Nam được du nhập bởi những đợt sóng di dân từ đất Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Tín,
Giọng hò miền Nam
Hò là một trong những thể loại âm nhạc dân gian ở Miền Nam Việt Nam được du nhập bởi những đợt sóng di dân từ đất Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Tín, Quảng Nam và Quảng Ngãi) vô vùng đất mới phía cực Nam của đất nước vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17.
Hò có sức hấp dẫn và quyến rũ lạ thường. Người ta gây cuộc hò trong các vụ cấy trên đồng ruộng, hò đối đáp “đuổi” nhau trên sông rạch, hò thi bên cối xay lúa, hò tâm tình bên cối giả gạo, hò “bắt xác’ trong dịp cưới hỏi, mừng tân gia hoặc giỗ quảy… Lời hò chứa đựng nội dung trữ tình, phản ánh những mối quan hệ trai gái, quan hệ hôn nhân và gia đình, đề cao cách đối nhân xử thế. Hò trở thành một phong trào quần chúng, càng có nhiều người tham gia cuộc hò càng thêm rộn rả:
Hò chơi phỉ dạ hai đường,
Công anh ở trên băng rừng xuống đây.
Tới đây không lẽ ngồi không,
Cầm chày giả gạo cho đông miệng hò.
Gặp phải cô nàng nhút nhát thì chàng trai phải giải bày:
Hò ít câu có chi đâu mà sợ
Chiều hai đứa lên bờ anh trả căn nợ lại cho em.
Hò chơi hai gái hai trai
Thưa cùng cô bác đừng ai nghi ngờ.
Các cô e dè cũng có lý vì không phải là không có những anh chàng:
Tay cầm bó mạ rẽ hai
Miệng hò tay cấy cẳng xà lai…quèo nàng.
Trong dân gian, hò, đối đáp thường là ứng khẩu, ngẫu hứng. Bà con gọi là hò môi hò mép. Bên trai và bên gái luân phiên đối đáp, bên bắt, bên bỏ, bên buộc, bên mở. Nếu “kẹt” thì tung ra những câu hò gỡ gạc:
Câu hò tôi đựng một khạp da bò
Ðến khi hò cuộc tôi mò không ra.
Câu hò tôi đựng một bầu
Ngủ đêm đến sáng nó rầu nó đi.
Câu hò tôi đựng trong lu,
Tới khi hò cuộc tôi chổng khu mò hoài.
Hò huê tình (nhiều người gọi không đúng là hò sông Hậu) vốn phổ biến từ Ðồng Nai xuống miền Cà Mau, ra tận đảo Phú Quốc. Lối hò này bình dị, dễ hò, nốt nhạc lượn trên thang bốn âm (re, fa, sol, la).
Hò cấy: Ở khắp miền Nam có hàng chục giọng hò cấy khác nhau. Hò cấy kiểu nào cũng đều phải trải qua ba chặng hò: Chặng một là hò rao, hò dạo, hò thăm hỏi, hò chào mời.
Có một anh chàng từ xa đến, lạ nước lạ cái, bị bao quanh gần một tiểu đội hoa khôi trong một vạn cấy. Anh ta bèn “nịnh đầm” tía lia như vầy:
Tôi chào cô Hai như sao mai rạng mọc
Tôi chào cô Ba như hạt ngọc lung linh.
Tôi chào cô Tư như thủy tinh trong vắt.
Tôi chào cô Năm như hương ngát bông lan.
Tôi chào cô Sáu như hào quang lóng lánh
Tôi chào cô Bảy như cuốn sách chạm bìa vàng.
Tôi chào cô Tám như hai làng liễu cẩn.
Chào cô Chín như rồng ẩn mây xanh
Chào cô Mười như chim oanh uốn lưỡi trên cành.
Chào rồi tôi chụp hỏi rành rành
Hỏi căn cơ hà xứ phụ mẫu cùng huynh đệ thiểu đa
Hỏi cho biết cửa biết nhà
Nhờ ông mai tới nói, nay tới chết tôi cũng quyết giao hòa với một cô.
Chặng hai là hò đối đáp, hò kết bạn, hò xe duyên. Ðây là giai đoạn chính của cuộc hò. Không khí lúc này trở nên sôi nổi, gây cấn.
Bên gái đố:
Chữ gì chôn dưới đất
Chữ gì mang không có nổi
Chữ gì gió thổi không có bay?
Trai như anh mà đối đặng thì em ngửa bàn tay cho ngồi.
Anh chàng không phải là tay tầm thường, đáp liền:
Chữ thọ đường chôn dưới đất
Còn chữ hiếu cất trên trang
Chữ tình mang không có nổi
Còn cái chữ tạc đá bia vàng gió thổi không có bay…
Anh đà đối đặng, vậy em hãy ngữa bàn tay cho anh… ngồi!
Cô nàng vẫn chưa chịu thua đổi đề tài:
Hò ơ… con trâu già kén cỏ, còn con bò nhỏ kén rơm.
Anh đừng chê em ốm yếu lưng tôm.
Ði kiếm nơi cho mập đặng anh ôm phỉ tình.
Anh chàng “lí lắc” không kém:
Hò ơ… Em đừng chê anh nhỏ thó mà anh buồn tình.
Vậy chớ con thằn lằn kia bao lớn mà nó ôm cột đình cũng sát đeo!
Hò ơ… Em chớ thấy anh nhỏ thó mà anh rầu.
Vậy chớ con ong kia bao lớn nó chính trái bầu cũng phải teo.
Chặng ba là hò giã biệt, hò tiễn bạn, hò hẹn:
Trưa mười hai giờ
Nàng với tôi bước cẵng lên bờ
Mặt đối mặt tôi giã từ
Lòng khăng khăng rưng rưng nước mắt
Ðây nhìn đó dạ sầu phủ mặt
Ðó nhìn đây lòng nọ ai bi.
Có thương nhau thì xin nhớ mảnh tình si nơi này.
Chia tay làm sao không bịn rịn, phải chi:
Ve kêu réo rắt đầu truông
Liệu bề thương đặng thương luôn cho tới già.
Trong các phong cách hò thì có hò nhơn đạo và hò ngạnh trê.
Hò nhơn đạo là hò sành điệu nghệ. Chẵng những điệu hò phải hấp dẫn, lôi cuốn mà lời hò cũng phải mang ý nghĩa lành mạnh:
Hò nhơn đạo chớ không phải hò gạo hò tiền
Ðó có thuốc ngon xin cho một điếu, không phải vì ghiền tôi xin.
Trái lại, có nơi có lúc hai bên trai gái đối đáp đến độ đỏ mặt tía tai, dùng những câu hò xốc hông khiến đối phương nhức nhối như bị ngạnh cá trê đâm phải (hò ngạnh trê):
Mới gặp gái mà đã chọc ghẹo:
Nước Tân Ba chảy qua Vàm Cú,
Thấy bộ em chèo cặp vú muốn hun.
Cô nàng tức khí:
Anh muốn hun vậy mà cũng khó
Anh trở về bắt … chó anh hun.
Chàng trai tự ái khiêu khích:
Nắm tay em, anh hỏi có ngằn
Từ nhỏ tới lớn có đãi đằng ai chưa?
Cô nàng không chịu thua, “ngạnh trê” liền:
Thân em như thể trái dừa,
Ðãi người trên trước, cặn thừa đãi anh.
Từ lâu có người cho rằng ở chỉ có hai lối hò tiêu biểu: hò Ðồng Tháp và hò Sông Hậu. Thực tế thì có trên vài chục lối hò như: hò mái cụt, hò mái dài, hò mái ba, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò ố ả, hò í á, hò khoan, hò giọng đồng, hò hơ, hò lơ, hò thơ, hò xay lúa, hò giã gạo, hò thẻ mực, hò cống chùa, hò bản đờn, hò ống, hò đưa linh v…v…
Ðặc biệt hò mái dài Mõ Cày (Bến Tre) không giống hò mái Thốt Nốt (Hậu Giang), lại càng xa lạ với hò mái dài Ðức Hòa (Long An). Có thể nói hò cấy rất phong phú , là đặc sản của một vùng nhất định. Hò cấy sông Bé, hò cấy Bến Tre, hò cấy Cửu Long, hò cấy Hậu Giang, hò cấy Kiên Giang đều mang dáng dấp riêng, không thể coi là những dị bản. Ở Hậu Giang, bà con có thể phân biệt đươc 3 loại hò cấy ở Mỹ Tú, Long Mỹ và Phụng Hiệp. Tại Tân Uyên, sông Bé có loại hò cấy nổi tiếng chẳng giống ở bất cứ nơi nào về làn điệu (dù lời hò có thể trùng).
Hò ơ ớ… ruông gò anh cấy lúa Nàng Co
Em thương anh thì thương đại đừng để anh gò mất công!
(Yêu mà cũng làm biếng)
Ruộng gò anh cấy lúa Nàng Xe
Anh thấy em còn nhỏ anh ve để dành
(Yêu mà cũng biết lo xa)
Từ lâu Bến Cát là nơi sản sinh những người thợ cấy giỏi, những giọng hò vang bóng một thời:
Bên hữu con thiên lý mã, bên tả con vạn lý vân
Hai bên nhắm cũng cân phân
Mà lòng anh muốn cỡi một lần hai con.
Ngoài ra còn một hình thức diễn xướng hết sức thú vị vốn được lưu hành từ Bắc chí Nam: đó là loại hò ống (hay hát ống). Theo lời kể của nhiều nghệ sĩ xưa thì tại đất sông Bé (Thủ Dầu Một, Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát) đã từng thịnh hành hình thức này. Cứ mỗi đêm trăng thanh gió mát, trai gái rủ nhau ra đồng hò hát đối đáp. Người đối hò hát qua ống tre, một đầu ống được bịt giấy quyến (giấy quấn thuốc rê) hoặc da ếch, bao tử heo, nối bằng sợi chỉ dài với ống tre cho người nghe như điện thoại bây giờ:
Hò quăn hò quíu
Hò trong ống điếu hò ra
Hò cho tuyệt diệu bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn
Có cá ở ao huỳnh lại khó câu.
Hình thức hát ống này cũng thấy lưu truyền lâu đời trong sinh hoạt âm nhạc dân gian của người Chàm ở Thuận Hải. Và tận đất tổ Hùng Vương (Vĩnh Phú) “lại có hình thức hát ví thật là kỳ lạ: người hát ngồi trong nhà hát đối đáp qua một ống tre bịt da ếch và nối ống của người kia bằng một sợi chỉ dài như một chiếc telephone cổ xưa vậy. Tuy nhiên cuộc hát không vì thế mà kém vẻ hấp dẫn lôi cuốn.
Ðã từ lâu, không ít người cho rằng hình thể đất đai ở miền Nam làm “ruộng đồng cò bay thẳng cánh” sông rạch chằng chịt nên các điệu hò miền Nam mang âm hưởng an nhàn thư thái, trải rộng triền miên, ít có tiết tấu khỏe khoắn, mạnh mẽ. Ðiều nầy có phần đúng, nhưng chưa đủ! Nếu ta chèo ghe, bơi xuống lai rai trên cánh đồng Tháp Mười mùa nước nổi hoặc thả chèo xuôi theo con nước lớn ròng trên những sông rạch kinh xáng… thì tội gì phải lấy hết gân cốt để “hò hụi” cho mệt xác! Ở đây không có thác ghềnh chảy xiết, ít thấy cảnh sinh hoạt lao động kéo bè,kéo gỗ… nên khó sản sinh nhưng lới hò dồdập, vạm vỡ nhằm huy động sức lực theo chu kỳ để nâng, để kéo ,để khiêng một vật gì đi vượt qua chướng ngại. Còn cấy lúa là một công việc tuy thấy nhẹ nhàng, nhưng lập đi lập lại cùng động tác mãi rồi cũng đâm ra nặng nhọc và uể oải dưới sức nắng chói chang, nên bà con hò lơ để giải khuây, để giao lưu tình cảnh, nhằm quên đi nỗi nhọc nhằn mỏi tay, mỏi chân, đau lưng vì phải khòm cả ngày cho lao tác. Cho nên hò cấy không phải là hò tập thể có tiết tấu gãy gọn, dồn dập để điều khiển hàng chục tay cấy một cách máy móc. Chủ ruộng thường hay gây cuộc hò để khuyến khích bà con cấy chậm mà sâu và thẳng lối.
Hò có nhịp điệu thôi thúc như hò xay lúa (còn gọi là hò giằng) của Gò Công; uyển chuyển như hò cổng chùa, hò bản đờn, hò lơ, khoan thai như hò í á hò khoan, của Bình Chánh, nhịp nhàng như hò giã gạo của Chơn Thành; sôi động như hò thơ của Ðức Hòa; khỏe mạnh như hò thẻ mực của Kiên Giang v…v… Ðặc biệt hò giã gạo (Sông Bé) và hò thơ (Long An) đều theo nhịp 6/8. Hò xay lúa Gò Công có 2 loại, mỗi loại đều lệ thuộc hoàn cảnh sinh hoạt và mục đích diễn xướng. Nếu có nhiều xay lúa thi nhau thì sử dụng loại hò giằng cối xay đến chóng mặt. Càng cối xay thì kéo về phía ngực phải ăn khớp với nhịp mạnh của câu hò, nếu không thì thua cuộc.
Xay lúa xong trai gái kéo nhau về nhà, chỉ còn lại một cặp vốn có tình ý với nhau trước. Bấy giờ nếu không con lúa thì đổ trấu vô cối mà xay vậy! Mục đích của đôi trai gái nầy là để tỏ tình giao duyên nhân ngãi. Mà xay trấu là cái cớ cho họ gần gũi nhau thì dại gì mà hò giằng cối xay cho đổ mồ hôi mất hứng! Vì vậy mà họ rỉ rả hò đối đáp nhau một cách khoan thai, ung dung, mùi mẫn.
Những câu Hò miền Nam
Hò là một trong những thể loại âm nhạc dân gian ở Miền Nam Việt Nam được du nhập bởi những đợt sóng di dân từ đất Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Tín, Quảng Nam và Quảng Ngãi) vô vùng đất mới phía cực Nam của đất nước vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17.
Hò có sức hấp dẫn và quyến rũ lạ thường. Người ta gây cuộc hò trong các vụ cấy trên đồng ruộng, hò đối đáp “đuổi” nhau trên sông rạch, hò thi bên cối xay lúa, hò tâm tình bên cối giả gạo, hò “bắt xác’ trong dịp cưới hỏi, mừng tân gia hoặc giỗ quảy… Lời hò chứa đựng nội dung trữ tình, phản ánh những mối quan hệ trai gái, quan hệ hôn nhân và gia đình, đề cao cách đối nhân xử thế. Hò trở thành một phong trào quần chúng, càng có nhiều người tham gia cuộc hò càng thêm rộn rả:
Hò chơi phỉ dạ hai đường,
Công anh ở trên băng rừng xuống đây.
Tới đây không lẽ ngồi không,
Cầm chày giả gạo cho đông miệng hò.
Gặp phải cô nàng nhút nhát thì chàng trai phải giải bày:
Hò ít câu có chi đâu mà sợ
Chiều hai đứa lên bờ anh trả căn nợ lại cho em.
Hò chơi hai gái hai trai
Thưa cùng cô bác đừng ai nghi ngờ.
Các cô e dè cũng có lý vì không phải là không có những anh chàng:
Tay cầm bó mạ rẽ hai
Miệng hò tay cấy cẳng xà lai…quèo nàng.
Trong dân gian, hò, đối đáp thường là ứng khẩu, ngẫu hứng. Bà con gọi là hò môi hò mép. Bên trai và bên gái luân phiên đối đáp, bên bắt, bên bỏ, bên buộc, bên mở. Nếu “kẹt” thì tung ra những câu hò gỡ gạc:
Câu hò tôi đựng một khạp da bò
Ðến khi hò cuộc tôi mò không ra.
Câu hò tôi đựng một bầu
Ngủ đêm đến sáng nó rầu nó đi.
Câu hò tôi đựng trong lu,
Tới khi hò cuộc tôi chổng khu mò hoài.
Hò huê tình (nhiều người gọi không đúng là hò sông Hậu) vốn phổ biến từ Ðồng Nai xuống miền Cà Mau, ra tận đảo Phú Quốc. Lối hò này bình dị, dễ hò, nốt nhạc lượn trên thang bốn âm (re, fa, sol, la).
Hò cấy: Ở khắp miền Nam có hàng chục giọng hò cấy khác nhau. Hò cấy kiểu nào cũng đều phải trải qua ba chặng hò: Chặng một là hò rao, hò dạo, hò thăm hỏi, hò chào mời.
Có một anh chàng từ xa đến, lạ nước lạ cái, bị bao quanh gần một tiểu đội hoa khôi trong một vạn cấy. Anh ta bèn “nịnh đầm” tía lia như vầy:
Tôi chào cô Hai như sao mai rạng mọc
Tôi chào cô Ba như hạt ngọc lung linh.
Tôi chào cô Tư như thủy tinh trong vắt.
Tôi chào cô Năm như hương ngát bông lan.
Tôi chào cô Sáu như hào quang lóng lánh
Tôi chào cô Bảy như cuốn sách chạm bìa vàng.
Tôi chào cô Tám như hai làng liễu cẩn.
Chào cô Chín như rồng ẩn mây xanh
Chào cô Mười như chim oanh uốn lưỡi trên cành.
Chào rồi tôi chụp hỏi rành rành
Hỏi căn cơ hà xứ phụ mẫu cùng huynh đệ thiểu đa
Hỏi cho biết cửa biết nhà
Nhờ ông mai tới nói, nay tới chết tôi cũng quyết giao hòa với một cô.
Chặng hai là hò đối đáp, hò kết bạn, hò xe duyên. Ðây là giai đoạn chính của cuộc hò. Không khí lúc này trở nên sôi nổi, gây cấn.
Bên gái đố:
Chữ gì chôn dưới đất
Chữ gì mang không có nổi
Chữ gì gió thổi không có bay?
Trai như anh mà đối đặng thì em ngửa bàn tay cho ngồi.
Anh chàng không phải là tay tầm thường, đáp liền:
Chữ thọ đường chôn dưới đất
Còn chữ hiếu cất trên trang
Chữ tình mang không có nổi
Còn cái chữ tạc đá bia vàng gió thổi không có bay…
Anh đà đối đặng, vậy em hãy ngữa bàn tay cho anh… ngồi!
Cô nàng vẫn chưa chịu thua đổi đề tài:
Hò ơ… con trâu già kén cỏ, còn con bò nhỏ kén rơm.
Anh đừng chê em ốm yếu lưng tôm.
Ði kiếm nơi cho mập đặng anh ôm phỉ tình.
Anh chàng “lí lắc” không kém:
Hò ơ… Em đừng chê anh nhỏ thó mà anh buồn tình.
Vậy chớ con thằn lằn kia bao lớn mà nó ôm cột đình cũng sát đeo!
Hò ơ… Em chớ thấy anh nhỏ thó mà anh rầu.
Vậy chớ con ong kia bao lớn nó chính trái bầu cũng phải teo.
Chặng ba là hò giã biệt, hò tiễn bạn, hò hẹn:
Trưa mười hai giờ
Nàng với tôi bước cẵng lên bờ
Mặt đối mặt tôi giã từ
Lòng khăng khăng rưng rưng nước mắt
Ðây nhìn đó dạ sầu phủ mặt
Ðó nhìn đây lòng nọ ai bi.
Có thương nhau thì xin nhớ mảnh tình si nơi này.
Chia tay làm sao không bịn rịn, phải chi:
Ve kêu réo rắt đầu truông
Liệu bề thương đặng thương luôn cho tới già.
Trong các phong cách hò thì có hò nhơn đạo và hò ngạnh trê.
Hò nhơn đạo là hò sành điệu nghệ. Chẵng những điệu hò phải hấp dẫn, lôi cuốn mà lời hò cũng phải mang ý nghĩa lành mạnh:
Hò nhơn đạo chớ không phải hò gạo hò tiền
Ðó có thuốc ngon xin cho một điếu, không phải vì ghiền tôi xin.
Trái lại, có nơi có lúc hai bên trai gái đối đáp đến độ đỏ mặt tía tai, dùng những câu hò xốc hông khiến đối phương nhức nhối như bị ngạnh cá trê đâm phải (hò ngạnh trê):
Mới gặp gái mà đã chọc ghẹo:
Nước Tân Ba chảy qua Vàm Cú,
Thấy bộ em chèo cặp vú muốn hun.
Cô nàng tức khí:
Anh muốn hun vậy mà cũng khó
Anh trở về bắt … chó anh hun.
Chàng trai tự ái khiêu khích:
Nắm tay em, anh hỏi có ngằn
Từ nhỏ tới lớn có đãi đằng ai chưa?
Cô nàng không chịu thua, “ngạnh trê” liền:
Thân em như thể trái dừa,
Ðãi người trên trước, cặn thừa đãi anh.
Từ lâu có người cho rằng ở chỉ có hai lối hò tiêu biểu: hò Ðồng Tháp và hò Sông Hậu. Thực tế thì có trên vài chục lối hò như: hò mái cụt, hò mái dài, hò mái ba, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò ố ả, hò í á, hò khoan, hò giọng đồng, hò hơ, hò lơ, hò thơ, hò xay lúa, hò giã gạo, hò thẻ mực, hò cống chùa, hò bản đờn, hò ống, hò đưa linh v…v…
Ðặc biệt hò mái dài Mõ Cày (Bến Tre) không giống hò mái Thốt Nốt (Hậu Giang), lại càng xa lạ với hò mái dài Ðức Hòa (Long An). Có thể nói hò cấy rất phong phú , là đặc sản của một vùng nhất định. Hò cấy sông Bé, hò cấy Bến Tre, hò cấy Cửu Long, hò cấy Hậu Giang, hò cấy Kiên Giang đều mang dáng dấp riêng, không thể coi là những dị bản. Ở Hậu Giang, bà con có thể phân biệt đươc 3 loại hò cấy ở Mỹ Tú, Long Mỹ và Phụng Hiệp. Tại Tân Uyên, sông Bé có loại hò cấy nổi tiếng chẳng giống ở bất cứ nơi nào về làn điệu (dù lời hò có thể trùng).
Hò ơ ớ… ruông gò anh cấy lúa Nàng Co
Em thương anh thì thương đại đừng để anh gò mất công!
(Yêu mà cũng làm biếng)
Ruộng gò anh cấy lúa Nàng Xe
Anh thấy em còn nhỏ anh ve để dành
(Yêu mà cũng biết lo xa)
Từ lâu Bến Cát là nơi sản sinh những người thợ cấy giỏi, những giọng hò vang bóng một thời:
Bên hữu con thiên lý mã, bên tả con vạn lý vân
Hai bên nhắm cũng cân phân
Mà lòng anh muốn cỡi một lần hai con.
Ngoài ra còn một hình thức diễn xướng hết sức thú vị vốn được lưu hành từ Bắc chí Nam: đó là loại hò ống (hay hát ống). Theo lời kể của nhiều nghệ sĩ xưa thì tại đất sông Bé (Thủ Dầu Một, Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát) đã từng thịnh hành hình thức này. Cứ mỗi đêm trăng thanh gió mát, trai gái rủ nhau ra đồng hò hát đối đáp. Người đối hò hát qua ống tre, một đầu ống được bịt giấy quyến (giấy quấn thuốc rê) hoặc da ếch, bao tử heo, nối bằng sợi chỉ dài với ống tre cho người nghe như điện thoại bây giờ:
Hò quăn hò quíu
Hò trong ống điếu hò ra
Hò cho tuyệt diệu bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn
Có cá ở ao huỳnh lại khó câu.
Hình thức hát ống này cũng thấy lưu truyền lâu đời trong sinh hoạt âm nhạc dân gian của người Chàm ở Thuận Hải. Và tận đất tổ Hùng Vương (Vĩnh Phú) “lại có hình thức hát ví thật là kỳ lạ: người hát ngồi trong nhà hát đối đáp qua một ống tre bịt da ếch và nối ống của người kia bằng một sợi chỉ dài như một chiếc telephone cổ xưa vậy. Tuy nhiên cuộc hát không vì thế mà kém vẻ hấp dẫn lôi cuốn.
Ðã từ lâu, không ít người cho rằng hình thể đất đai ở miền Nam làm “ruộng đồng cò bay thẳng cánh” sông rạch chằng chịt nên các điệu hò miền Nam mang âm hưởng an nhàn thư thái, trải rộng triền miên, ít có tiết tấu khỏe khoắn, mạnh mẽ. Ðiều nầy có phần đúng, nhưng chưa đủ! Nếu ta chèo ghe, bơi xuống lai rai trên cánh đồng Tháp Mười mùa nước nổi hoặc thả chèo xuôi theo con nước lớn ròng trên những sông rạch kinh xáng… thì tội gì phải lấy hết gân cốt để “hò hụi” cho mệt xác! Ở đây không có thác ghềnh chảy xiết, ít thấy cảnh sinh hoạt lao động kéo bè,kéo gỗ… nên khó sản sinh nhưng lới hò dồdập, vạm vỡ nhằm huy động sức lực theo chu kỳ để nâng, để kéo ,để khiêng một vật gì đi vượt qua chướng ngại. Còn cấy lúa là một công việc tuy thấy nhẹ nhàng, nhưng lập đi lập lại cùng động tác mãi rồi cũng đâm ra nặng nhọc và uể oải dưới sức nắng chói chang, nên bà con hò lơ để giải khuây, để giao lưu tình cảnh, nhằm quên đi nỗi nhọc nhằn mỏi tay, mỏi chân, đau lưng vì phải khòm cả ngày cho lao tác. Cho nên hò cấy không phải là hò tập thể có tiết tấu gãy gọn, dồn dập để điều khiển hàng chục tay cấy một cách máy móc. Chủ ruộng thường hay gây cuộc hò để khuyến khích bà con cấy chậm mà sâu và thẳng lối.
Hò có nhịp điệu thôi thúc như hò xay lúa (còn gọi là hò giằng) của Gò Công; uyển chuyển như hò cổng chùa, hò bản đờn, hò lơ, khoan thai như hò í á hò khoan, của Bình Chánh, nhịp nhàng như hò giã gạo của Chơn Thành; sôi động như hò thơ của Ðức Hòa; khỏe mạnh như hò thẻ mực của Kiên Giang v…v… Ðặc biệt hò giã gạo (Sông Bé) và hò thơ (Long An) đều theo nhịp 6/8. Hò xay lúa Gò Công có 2 loại, mỗi loại đều lệ thuộc hoàn cảnh sinh hoạt và mục đích diễn xướng. Nếu có nhiều xay lúa thi nhau thì sử dụng loại hò giằng cối xay đến chóng mặt. Càng cối xay thì kéo về phía ngực phải ăn khớp với nhịp mạnh của câu hò, nếu không thì thua cuộc.
Xay lúa xong trai gái kéo nhau về nhà, chỉ còn lại một cặp vốn có tình ý với nhau trước. Bấy giờ nếu không con lúa thì đổ trấu vô cối mà xay vậy! Mục đích của đôi trai gái nầy là để tỏ tình giao duyên nhân ngãi. Mà xay trấu là cái cớ cho họ gần gũi nhau thì dại gì mà hò giằng cối xay cho đổ mồ hôi mất hứng! Vì vậy mà họ rỉ rả hò đối đáp nhau một cách khoan thai, ung dung, mùi mẫn.
Những câu Hò miền Nam
Hò ơ... (chớ) Anh về để áo lại đây
Để khuya em đắp... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng
Hò ơ... (chớ) Anh với em má tựa vai kề
Dầu em có lạc Sở sang Tề
Thì em cũng nhớ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thì em cũng nhớ gởi thơ về cho anh
Hò ơ... (chớ) Bạc với vàng còn đen còn đỏ
Đôi đứa mình còn nhỏ thương nhiều... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Vừa nghe tiếng em là anh muốn như anh
Kim Trọng thương chị Thuý Kiều thuở xưa
Hò ơ... (chớ) Bậu với qua gá nghĩa chung tình
Dầu ăn cơm quán... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Dầu ăn cơm quán, ngủ đình cũng cam
Hò ơ... Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chuà Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua ?
Hò ơ...(chớ) Bên nầy sông em bắc cây cầu mười tấm ván
Bên kia sông em cất cái quán mười hai từng
Bán buôn nuôi me.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh
Hò ơ... (chớ) Bình bồng ở giữa Giang Tân
Bên tình bên nghĩa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bên tình bên nghĩa, biết phân bên nào
Hò ơ... (chớ) Bớ này em ơi
Nhứt lê, nhì lựu, tam đào
Bên tình bên nghĩa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bên tình bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân
Hò ơ... (chớ) Bớ này anh nó ơi
Số phận em giao phó cho trời xanh
Lấy anh em không lấy,
Nhưng dạ cũng không đành làm ngơ
Vốn em cũng chẳng bơ thờ
Em đã hằng chọn trong lóng đục,
Nhưng vẫn còn chờ nợ duyên
Vốn em muốn lấy ông thầy thuốc cho giàu sang,
Nhưng lại sợ ổng hay gia hay giảm
Em muốn lấy ông thầy pháp cho đảm,
Nhưng lại sợ ổng hét la ghê gốc
Em muốn lấy chú thợ mộc,
Nhưng lại sợ chú hay đục khoét rầy rà
Em muốn lấy anh thợ cưa cho thật thà,
Nhưng lại sợ trên tàn dưới mạt
Em muốn lấy người hạ bạc,
Nhưng lại sợ mang lưới mang chài
Em muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai,
Nhưng lại sợ ảnh hay đào hay bới
Em cũng muốn chọn anh thợ rèn kết ngỡi,
Nhưng lại sợ ảnh nói tức nói êm
Bằng lấy anh đặt rượu làm men,
Thì lại sợ ảnh hay cà riềng cà tỏi
Em muốn lấy ông nhạc công cho giỏi,
Nhưng lại sợ giọng quyển giọng kèn
Em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn,
Nhưng lại sợ nhiều điều thá ví
Em muốn lấy anh lái buôn thành thị,
Nhưng lại sợ ảnh kêu mắc rẻ khó lòng
Em muốn lấy anh thợ đóng thùng,
Nhưng lại sợ ảnh kêu trật niền trật ngỗng
Em muốn lấy ông Hương ông Tổng,
Nhưng lại sợ việc trống việc gông
Em muốn lấy anh hàng gánh tay không,
Nhưng lại sợ đầu treo đầu quảy
Em muốn lấy chú hàng heo khi nãy,
Nhưng lại sợ chú làm lộn ruột lộn gan
Em muốn lấy anh thợ đát thợ đan,
Nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải bắt lỗi
Em muốn lấy anh hát bè hát bội,
Nhưng lại sợ giọng rỗi giọng tuồng
Em muốn lấy anh thợ đóng xuồng,
Nhưng lại sợ ảnh hay dằn hay thúc...
Hò ơ... (chớ) Mấy lời trong đục chẳng dám nói ra
Có thầy giáo tập dạy trong làng xa, hay dạy hay răn
So đức hạnh chẳng ai bằng, lại con nhà Nho học
Sử kinh thầy thường đọc, nên biết việc thánh hiền
Gặp nhau em kết liền, không chờ chẳng đợi... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Không chẳng chờ chẳng đợi phỉ nguyền phụng loan
Hò ơ... (chớ) Biết anh thích mắm cá trè
Nên em chịu khó... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Nên em chịu khó bẻ thêm đọt xoài
Hò ơ... (chớ) Chớ bông trang trước cửa ai sửa bông trang vàng
Ngày thời chuyện vãn... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ngày thời chuyện vãn nên tối lại mơ màng thấy em
Hò ơ... (chớ) Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi
Kẻo khuất khúc sông nầy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Kẻo khuất khúc sông nầy bờ bụi tối tăm
Hò ơ... (chớ) Buồn thay số kiếp con người
Cơm ăn không đủ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chớ cơm ăn không đủ nụ cười ốm nhom
Hò ơ... (chớ) Bữa nay loan phụng hiệp bầy
Hò chơi nhơn đạo... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hò chơi nhơn đạo, sau vầy nhơn duyên
Hò ơ... (chớ) Bước xuống cầu cầu oằn cầu oại
Bước xuống thoàn thoàn chích thoàn nghiêng
Em cả tiếng kêu ai người nghĩa Phong Điền
Người nghĩa ôi! Duyên đây không kết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Duyên đây không kết người nghĩa tìm nơi đâu
Hò ơ... (chớ) Bớ người không quen ơi
Nghe anh em cũng muốn thương nhiều
Nhưng hoa đà có chủ...(ờ)
Hò ơ... (chớ) Nhưng hoa đà có chủ, khó chiều dạ anh
Hò ơ... (chớ) Cái răng, Ba láng
Vàm Xáng, Phong Điền
Anh thương em cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay
Hò ơ... (chớ) Cất mái chèo loan em nhìn chàng rơi lụy
Thổn thức gan vàng tấn dị thối nan
Nhái kêu chiều xuống mé mương
Thiếp nay đà an phận... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thiếp nay đà an phận còn thương nổi chàng
Hò ơ... (chớ) Chèo dài sông hẹp khó lùa
Thấy em ở ruộng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thấy em ở ruộng quê mùa anh thương
Hò ơ... (chớ) Chim kia thỏ thẻ trên cành
Nghe em nói vậy
Hò ơ... (chớ) Nghe em nói vậy, dạ không đành rẽ phân
Hò ơ... (chớ) Con cá lý ngư sầu tư biếng lội
Con chim xa cành sầu cội biếng bay
Sao hôm còn đợi sao mai
Chồng mà xa vơ.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chồng mà xa vợ hỏi ai không buồn ?
Hò ơ ... Cúc mọc dưới sông anh kêu là cúc thủy
Sàigòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Gởi thơ thăm hết nội nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em
Hò ơ... (chớ) Củi đậu nấu đậu ra dầu
Anh cưới em không đặng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Anh cưới em không đặng anh cạo đầu đi tu
Hò ơ... (chớ) Dao phay cứa cổ máu đổ không màng
Chết thì chịu chết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chết thì chịu chết buông nàng không buông
Hò ơ... (chớ) Dang tay đánh thiếp sao đành
Tấm rách ai vá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Tấm rách ai vá tấm lành ai may
Hò ơ... (chớ) Dõi dõi theo anh
Về nơi Châu thành
Coi nam thanh nữ tú
Ở chi đất này... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ở chi đất này vượn hú chim kêu
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn
Đồng hồ điểm nhặt nhớ chàng không quên
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya ra đứng giữa trời
Giơ tay ngoắc nguyệt... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Giơ tay bắt nguyệt nguyệt dời phương nao
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya thắp chút dầu dư
Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng ?
Hò ơ... (chớ) Đêm khuya, trăng dọi lầu son
Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng
Hò ơ... (chớ) Bển qua đây đàng đã xa đàng
Dầu tui có lâm nguy thất thế
Hỏi con bạn vàng nó cứu không ?
Hò ơ... (chớ) Chiều rồi kẻ Bắc, người Đông
Trách lòng người nghĩa, nói không thiệt lời
Hò ơ... (chớ) Đêm nằm tàu chuối có đôi
Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình
Hò ơ... (chớ) Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng
Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài
Hò ơ... (chớ) Bây giờ chàng đã nghe ai
Aó ngắn chẳng đắp, aó dài không chung
Hò ơ... (chớ) Bây giờ sự đã nhạt nhùng
Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua
Hò ơ... (chớ) Cá lên mặt nước, cá khô
Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm
Hò ơ... (chớ) Đêm qua nguyệt lặn về Tây
Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài
Hò ơ... (chớ) Trúc với mai, mai về trúc nhớ
Trúc trở về, mai nhớ trúc không
Hò ơ... (chớ) Bây giờ kẻ Bắc, người Đông
Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư
Hò ơ... (chớ) Đèn cầu tàu ngọn lu, ngọn tỏ
Anh trông không rõ, anh ngỡ đèn màu
Hò ơ... (chớ) Rút gươm đâm họng, máu trào
Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh
Hò ơ... (chớ) Đèn nhà lầu hết dầu, đèn tắt
Lửa nhà máy hết cháy thành than
Hò ơ... (chớ) Nhang chùa Ông hết mạt, nhang tàn
Kể từ khi em biết được chàng
Đêm về em lăn lộn như con chim phượng hoàng bị tên
Hò ơ... (chớ) Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc
Gái nào đảm bằng gái Nha Mân
Hò ơ... (chớ) Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần
Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run
Hò ơ... (chớ) Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu
Hò ơ... (chớ) Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ
Hò ơ... (chớ)Đèn treo cột Phướng gió chướng lồng đèn rung.
Anh thương em thắm thiết vô cùng.
Đĩa nghiêng mài mực tạm dùng câu thơ
Câu thơ ba bốn câu thơ:
Câu đợi, câu chờ, câu nhớ, câu thương.
Hò ơ... (chớ) Đèn treo ngang quán
Tỏ rạng bờ kinh
Hò ơ... (chớ) Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình
Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ
Hò ơ... (chớ) Đèo nào cao bằng đèo Châu Đốc
Xứ nào dốc bằng xứ Nam Vang
Hò ơ... (chớ) Một tiếng anh than ba bốn đôi vàng em không tiếc
Anh lấy đặng em rồi anh trốn biệt lánh thân
Hò ơ... (chớ) Đồng tiền Vạn lịch
Thích bốn chữ vàng
Hò ơ... (chớ) Anh tiếc công anh gắn bó với nàng bấy lâu
Bây giờ nàng lấy chồng đâu ?
Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng
Năm trăm anh đốt cho nàng,
Còn năm trăm nữa giải oan lời thề.
Xưa kia nói nói, thề thề,
Bây giờ bẻ khóa, trao thìa cho ai ?
Bây giờ nàng đã nghe ai,
Gặp anh ghé nón, chạm vai chẳng chào ?
Hò ơ... (chớ) Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, đi bán giỏ nuôi mẹ
Anh gặp em đây không cửa không nhà
Muốn vô gá nghĩa, biết là đặng chăng ?
Hò ơ... (chớ) Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Hò ơ... (chớ) Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Hò ơ... (chớ) Chiều nay qua phản bạn hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào
Hò ơ... (chớ) Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông
Hò ơ... (chớ) Em ôm bó mạ xuống đồng
Miệng hò tay cấy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Miệng hò tay cấy mà lòng nhớ ai
Hò ơ... (chớ) Mạ xanh mơn mởn nên tình
Bao nhiêu lá mạ .... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bao nhiêu lá mạ thương mình bấy nhiêu
Hò ơ... (chớ) Nói vậy mà chơi
Chớ gió thổi hiu hiu, lục bình trôi líu ríu
Anh đừng bận bịu, bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn...(ờ)
Hò ơ... (chớ) Con nhạn bay cao khó bắn, con cá ở ao quỳnh khó câu
Hò ơ... (chớ) Ớ này em ơi, hãy nghe cho kỹ
Xưa nay gái không cưới chồng, trai không ở goá
Đoái thấy thương nàng xinh đã quá xinh
Buông lời vừa vỗ vế non,
Nếu như nàng lo việc cháu con
Sao không kiếm chốn trao thân, gởi thế ?
Trên đời bá công bá nghệ
Dưới lại đà tứ thứ tứ dân
Làm người sao khỏi chữ lương nhân
Mà nàng chịu để phòng không ở goá?
Sách có chữ rằng phụ thân nan hoá, ít kẻ yêu vì
Nên lấy chồng phải luận phải suy
Phải xem trong lóng đục
Đây đã đến thời phải lúc
Hay là nàng còn cúc đục cù lao
Để anh ngơ ngẩn ra vào...(ờ)
Hò ơ... (chớ) Để anh ngơ ngẩn ra vào,
Vì thầm yêu trộm nhớ thì dạ nào em bỏ anh ?
Hò ơ... (chớ) Thương sao cho được mà thương
Nước kia muốn chảy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Nước kia muốn chảy mà mương chưa đào
Hò ơ... (chớ) Bây giờ đã rõ âm hao
Còn chờ chi nữa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Còn chờ chi nữa má đào phôi pha
Hò ơ... (chớ) Chờ anh em hết sức chờ
Chờ cho rau muống... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông
Hò ơ... (chớ) Gạo Ba Thắt trắng như bông bưởi
Nước phông-tên tiền rưỡi một đôi
Hò ơ... (chớ) Saigon vui lắm em ơi
Lấy chồng về đó, một đời sướng thân
Hò ơ... (chớ) Ghe anh mỏng ván, bóng láng nhẹ chèo
Xin anh bớt mái, nương lèo đợi em
Hò ơ... (chớ) Ghe em rẽ vô ngọn, anh chẳng đón chẳng chờ
Ghe anh tách bến tách bờ, em buồn cho trăng mờ sao lặn
Hò ơ... (chớ) Mình lấy nhau chẳng đặng bởi bà mai lưỡi vắn ít lời
Mật đường dù chẳng đi đôi
Chút hương rớt lại, một đời chưa quên
Hò ơ... (chớ) Ghe lên ghe xuống dầm dề
Sao anh không gởi thơ về thăm em ?
Hò ơ... (chớ) Ghét con xẩm lai mê trai, mi lai nhãn khứ
Ôm bụng trống chầu, bỏ xứ ra đi
Hò ơ... (chớ) Giấy hồng đơn bán mấy
Cho anh mua lấy một tờ
Viết thơ quốc ngữ
Hò ơ... (chớ) Dán trên trái bưởi
Thả xuống giang hà
Hò ơ... (chớ) Bớ cô gánh nước bên bờ
Xuống sông vớt bưởi để mà xem thơ
Hò ơ... (chớ) Gò Công giáp biển, nổi tiếng mắm tôm chà
Mắm tôm chua ai ai cũng chắt lưỡi hít hà
Saigon, chợ Mỹ ai mà không hay
Hò ơ... (chớ) Gió đưa bụi cúc ngã bụi sả tàn
Nương theo chéo áo con bạn vàng
Dầu sanh dầu tử... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Dầu sanh dầu tử một mình nàng mà thôi
Hò ơ... (chớ) Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Về sông ăn cá về đồng ăn cua
Hò ơ... (chớ) Hỏi anh anh nói học trò
Sao em lại thấy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Sao em lại thấy anh cỡi bò hôm qua
Hò ơ... (chớ) Hồi nào em nói mà anh không nghe
Bây giờ anh xách nón... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bây giờ anh xách nón chèo ghe đi tìm
Hò ơ... (chớ) Không chồng đi dọc đi ngang
Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi
Trót sanh làm phận nữ nhi
Giữ sao cho khỏi tiếng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Giữ sao cho khỏi tiếng thị phi chê cười
Hò ơ... (chớ) Lấy ai lấy khính chồng người ?
Lấy chồng kiểu đó... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Lấy chồng kiểu đó lấy thằng cùi sướng hơn !
Hò ơ... (chớ) Lòng con thảo như giọt sương hạt bụi
Công mẫu từ như ngọn núi Thái Sơn
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không me.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Không cha không mẹ như đờn đứt giây
Hò ơ... (chớ) Lục bình bát giác cắm các thứ bông hường
Cha mẹ em kén rể... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cha mẹ em kén rể mà lỡ anh tầm thường biết đặng hay không ?
Hò ơ... (chớ) Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên
Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày
Hò ơ... (chớ) Mậu Thìn vốn thiệt năm nay
Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang
Hò ơ... (chớ) Phong Thạnh vốn thiệt tên làng
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung
Hò ơ... (chớ) Anh em Mười Chức công khùng
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...
Hò ơ... (chớ) Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa ló
Hò ơ... (chớ) Nè em Hai ôi, lại đây cho anh tỏ một đôi lời
Nước bèo gặp gỡ vậy thôi
Mai anh ra cửa biển, em sống đời biệt ly
Hò ơ... (chớ) Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa ló
Quới nương em ơi, anh xin tỏ với nàng
Hò ơ... (chớ) Con gái ông Bang, con gái ông Phủ
Qua cũng không màng
Chỉ chuộng con bạn ngọc biết đá vàng, thủy chung
Hò ơ... (chớ) Nè em Tiên Bửu ôi
Nhớ em chưa ăn xôi mà anh như gặp hồi no bụng
Hò ơ... (chớ) Chưa ăn bún mà anh cũng no hơi
Thương em quên đứng, quên ngồi
Ngứa đầu quên gãi, đứt ruột rồi quên đau
Hò ơ... (chớ) Nếm muỗng đường om (nồi đất), mùi thơm vị ngọt
Qua thương nhớ bậu thức trót canh gà
Hò ơ... (chớ) Phận bậu như hạt mưa sa
Phận qua như gió thổi tuốt ra vàm ngoài
Hò ơ... (chớ) Má ơi con vịt chết chìm
Con thò tay vớt... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Con thò tay vớt con cá lìm kìm nó cắn tay con
Hò ơ... (chớ) Miễn bậu đành ừ
Qua chẳng từ lao khổ
Dẫu lên rừng tìm hổ
Hay xuống biển kiếm rồng
Trước sau vẫn giữ vẹn một lòng
Vào lòn ra cúi... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Vào lòn ra cúi anh cũng một lòng thương em
Hò ơ... (chớ) Miễu linh ai dám lại gần
Đứng xa mà khấn.. (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đứng xa mà khấn thánh thần chứng chi
Hò ơ... (chớ) Nàng đành phụ mẫu không đành
Lá cao che khuất... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Lá cao che khuất ngọn ngành nàng ơi !
Hò ơ... (chớ) Nghiêng vai ngửa vái Phật trời
Đương cơn hoạn nạn... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân
Hò ơ... (chớ) Ngó lên Châu Đốc vàm Nao
Thấy buồm em chạy... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thấy buồm em chạy như dao cắt lòng
Hò ơ... (chớ) Ngó lên nhang tắt đèn mờ
Muốn nuôi cha me... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Muốn nuôi cha mẹ bây giờ còn đâu
Hò ơ... (chớ) Ngó lên chùa lớn làm chay
Thỉnh ông Tiêu Diện... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thỉnh ông Tiêu Diện, thỉnh ngài Quan Âm
Hò ơ... (chớ) Ngó lên trời trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông
Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong
Anh đi lục tỉnh giáp vòng
Đến đây xui khiến... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đến đây xui khiến đem lòng thương em
Hò ơ... (chớ)Ngó lên trời thấy mây vân vũ.
Ngó dưới Âm Phủ thấy đủ mặt bá quan.
Hò ơ... (chớ)Ngó lên Nam Vang thấy bốn chữ vàng.
Ngó xuống Cà Mau thấy sóng bủa lao xaọ
Hò ơ... (chớ)Anh thương em hồi thuở bao giờ?
Chớ anh có biết em thương lại lúc nào hay không ?
Hò ơ... (chớ) Ngọc Hoàng giũ sổ ôm bộ về quê
Đồ gia cang để lại... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đồ gia cang để lại bạn hiền thê giữ dùm
Hò ơ... (chớ) Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Giữa canh khuya nghe tiếng ai thỏ thẻ bên thuyền
Hỏi thăm quân tử... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hỏi thăm quân tử vượt biên nơi nào ?
Hò ơ... (chớ) Người ta giàu, đầu heo nọng thịt
Tụi mình nghèo cặp vịt đôi bông
Sao mai mọc buổi hừng đông
Ước sao nên vơ.... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ước sao nên vợ nên chồng thì thôi
Hò ơ... (chớ)Nhìn trên trời thấy cặp cu đương đá.
Dòm xuống biển thấy cặp cá đương đuạ
Hò ơ... (chớ)Em biểu anh về lập miếu thờ vua;
Lập trang thờ mẹ; lập chùa thờ chạ
Hò ơ... (chớ)Anh về bán đất cây đạ
Bán cặp trâu già mới cưới được em.
Hò ơ... (chớ)Nhìn trên trời thấy sao giăng tứ hướng;
Ngó ra ngoài biển đá dựng tứ bề.
Hò ơ... (chớ)Biết làm sao đặng chữ phu thê ?
Đây, chồng; đó, vợ; ra về có đôị
Hò ơ... (chớ)Mắc mãn có đôi anh hồi về có vơ..
Nghĩ đã đáo đầu không phải duyên nợ thì thôị
Hò ơ... (chớ) Ôi thôi bình tích bể rồi
Chén chung lỡ bộ ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chén chung lỡ bộ đứng ngồi sao yên
Hò ơ... (chớ) Phù sa nước đục khó dòm
Nhớ anh em khóc... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi
Hò ơ... (chớ) Ra đi anh có dặn dò
Ruộng sâu cấy trước ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau
Hò ơ... (chớ) Rảo bước qua nhịp cầu tre
Trở về nơi mái lá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Trở về nơi mái lá con mới hay mẹ đã qua đời
Hò ơ... (chớ) Sao vua chín cái nằm chồng
Anh thương em từ thuở... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Anh thương em từ thuở má bồng trên tay
Hò ơ... (chớ) Sáng trăng giã gạo ngoài trời
Cám bay phưởng phất... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cám bay phưởng phất nhớ lời em than
Hò ơ... (chớ)Sao Vua chín cái nằm chồng.
Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên taỵ
Hò ơ... (chớ)Sao Vua chín cái nằm ngang.
Anh thương em từ thưở mẹ mang trong lòng.
Hò ơ... (chớ)Sao Vua chín cái nằm kề.
Anh thương em từ thưở mẹ về với chạ
Hò ơ... (chớ)Sông Sàigon chảy dài Chợ Cũ, Nước mênh mông nước đổ phù sạ Ngọt ngào ngọn lúa bát ngát hương (thơm) Hương lúa của quê nhà (hò hò); Hướng về quê mẹ đậm đà tình thương.
Hò ơ... (chớ) Sông sâu kiếm chẳng đặng đò
Muốn lội qua thăm bậu... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Muốn lội qua thăm bậu mà sợ hụt giò chết trôi
Hò ơ... (chớ) Bớ này anh nó ôi, nếu anh lỡ có hụt giò
Thì em sẽ lội xuống... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thì em sẽ lội xuống đặng mò anh lên
Hò ơ... (chớ) Thôi em ơi mò chi cái xác không hồn
Bận tâm lối xóm... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Bận tâm lối xóm phải chôn cất giùm
Hò ơ... (chớ) Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy
Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng
Ai về Mỹ Thuận Tiền Giang
Có thương nhớ gã... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa
Hò ơ... (chớ) Tai em nghe anh đau đầu chưa khá
Em băng đồng chi sá, đi bẻ nạm lá về xông
Hò ơ... (chớ) Ở làm sao đây cho trọn nghĩa vợ chồng
Đổ mồ hôi em chặm, ngọn gió lồng em che
Hò ơ... (chớ) Thuở sanh tiền kiếp sống lình bình
Đến khi nhắm mắt... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đến khi nhắm mắt phải trọn tình với cá tôm
Hò ơ... (chớ) Tay cầm sợi lạt đôi cua
Hỏi em làm mướn... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hỏi em làm mướn một mùa bao nhiêu
Hò ơ... (chớ) Thấy ai lo lắng cho mình
Mình nghe tràn ngập... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Mình nghe tràn ngập chuyện tình trầu cau
Hò ơ... (chớ) Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nết lại tươi răng vàng
Vậy nay anh gởi thơ sang
Thiệt tình anh quyết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Thiệt tình anh quyết lấy nàng mà thôi
Hò ơ... (chớ) Thấy cô nho nhỏ tui muốn bỏ cái nghề đờn
Theo cô mần tùng giả ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Theo cô mần tùng giả quách quờn cho cô coi
Hò ơ... (chớ) Tiếng anh ăn học làu thông
Hỏi anh có biết... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Hỏi anh có biết khăn lông mấy đường
Hò ơ... (chớ) Em về đếm hết cỏ vườn
Lại đây anh nói ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Lại đây anh nói khăn lông mấy đường
Hò ơ... (chớ) Trách lòng con chó sủa dai
Đêm năm canh viếng bậu... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đêm năm canh viếng bậu sủa hoài sáng đêm
Hò ơ... (chớ) Trắng da vì bởi phấn dồi
Đem da vì bởi... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đem da vì bởi em ngồi chợ trưa
Hò ơ... (chớ) Trời mưa cho lúa chín vàng
Cho anh gặt lúa... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cho anh gặt lúa cho nàng đem cơm
Hò ơ... (chớ)Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai dợ phải thương cho đồng (đều)
Hò ơ... (chớ) Uổng công anh se nhợ uốn cần
Uốn xong con cá... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Uốn xong con cá nó lần ra khơi
Hò ơ... (chớ) Ví dầu cá bống hai mang
Cá trê hai ngạnh... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cá trê hai ngạnh tôm càng hai đuôi
Hò ơ... (chớ) Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Cám cảnh thương chồng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Cám cảnh thương chồng nhạn lạc đường xa
Hò ơ... (chớ) Xa xa quê tiá bốn phía mây giăng
Quê má rừng ngăn, núi chặn
Quê anh sông dài, rạch vắn, rồng rắn lượn quanh
Đi không nỡ, ở không đành
Chiều chiều gắng gượng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chiều chiều gắng gượng lên gành ngó mông
Hò ơ... (chớ) Xin anh đừng ham bông quế bỏ phế cái bông lài
Mai sau quế rụng... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Mai sau quế rụng bông lài thơm lâu
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Sóng sầm sịch lưng chưng ngoài bể bắc,
Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên...
Gió vàng hiu hắt đêm thanh
Đường xa dặm vắng, xin anh đừng về
Mảnh trăng đã trót lời thề
Làm chi để gánh nặng nề riêng ai!
Đường lên xứ Lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi! đứng lại mà trông
Kìa núi Thành Lạc, kìa sông Tam Cờ.
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn thẳng như tờ giấy phong..
( Nguyễn Đắc Song Phương chuyển )