Cõi Người Ta
Hậu giàn khoan
                Quan sát cách mà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đánh giá lại tác động của Thành Đô, xem xét lại cách đối xử với Trung Quốc, chúng ta có thể phán đoán ttương lai của đất nước sẽ đi về đâu.
            
                
Nguyễn Xương Hùng/ Thông luận
   

Hội Nghị Thành Đô
            
        Nguyễn Xương Hùng/ Thông luận
![]()  | 
| Ông Đặng Xương Hùng | 
“…Chưa
 bao giờ lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam đứng trước áp lực cần phải 
thay đổi lớn như hiện nay. Mọi thay đổi phải bắt nguồn từ thay đổi tư 
tưởng, thay đổi cách suy nghĩ và đánh giá sự việc. Liệu các nhà lãnh đạo
 hiện nay có đủ nghị lực để chiến thắng được chính mình, chiến thắng 
được ràng buộc về lợi ích cá nhân, phe nhóm…”
 Trung
 quốc tuyên bố đã rút giàn khoan. Tình thế thúc ép lãnh đạo Việt Nam 
phải đưa ra một quyết định dứt khoát, tạm thời lắng xuống. Nhưng với 
những ai đang quan tâm đến vận mệnh của đất nước, đặt ra một câu hỏi: 
triển vọng tình hình Việt Nam hậu giàn khoan sẽ ra sao? Hầu hết đều mong
 mỏi, khi đã được bình tâm, giới lãnh đạo sẽ đánh giá lại toàn bộ sự 
kiện, điều chỉnh chính sách để có được những quyết sách phù hợp, đưa 
Việt Nam ra khỏi vòng luẩn quẩn 25 năm thời kỳ đô hộ kiểu mởi của Trung 
quốc. Đây là một cơ hội.
Hai
 mươi lăm (25) năm sau lựa chọn “giải pháp đỏ” Thành Đô, giàn khoan đã 
cho một cơ hội, cơ hội cho những ai dù kém cỏi nhất cũng nhìn ra bộ mặt 
thật của mưu đồ Đại Hán. Nói đúng ra, Trung quốc đã không còn giấu giếm 
tham vọng bành trướng của mình. Quan sát cách
 mà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đánh giá lại tác động của Thành Đô, xem 
xét lại cách đối xử với Trung Quốc, chúng ta có thể phán đoán ttương lai
 của đất nước sẽ đi về đâu.
Thành Đô và hậu quả của nó.
Sự
 kiện giàn khoan nằm trong tiến trình tất yếu sẽ xảy ra trong chuỗi 
chính sách Trung quốc áp đặt lên Việt Nam sau Hội nghị Thành Đô tháng 
9/1990. Đó là, không ngừng lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải; không ngừng tác
 động vào giới lãnh đạo cao nhất của Việt Nam; không ngừng dùng mọi biện
 pháp về ngoại giao, an ninh, quốc phòng, kinh tế và văn hóa, đưa Việt 
Nam vào sự lệ thuộc hoàn toàn và cuối cùng là âm mưu sát nhập Việt Nam 
vào với Trung Quốc.
Cần
 nhắc lại rằng “giải pháp đỏ” Thành Đô là kết quả của ảo tưởng trong 
giới lãnh đạo thời bấy giờ khi bị sa lầy ở Cămpuchia và của nỗi sợ hãi 
khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang dần sụp đổ hoàn toàn. Ảo 
tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ XHCN (thay thế cho Liên Xô đã 
sụp đổ) để làm chỗ dựa cho CNXH ở Việt Nam, chống lại “diễn biến hòa 
bình” của Mỹ. Trong khi lãnh đạo Việt Nam nuôi kỳ vọng Trung Quốc “bảo 
vệ XHCN chống đế quốc” thì ngay từ đầu, giới lãnh đạo Trung Quốc đã xác 
định rõ “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu” (thân 
nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau). 
Nhưng trong bước đường cùng, giới lãnh đạo Việt Nam lúc đó đã hàng phục 
Trung Quốc không điều kiện, chuyển từ thế coi Trung Quốc là kẻ thù số 1 
sang thế làm chư hầu ngoan ngoãn, đưa đất nước vào “thời kỳ độ hộ mới 
của Trung Quốc”.
Kết
 quả sau 25 năm đó là: một Việt Nam “muốn” làm bạn với tất cả các nước, 
nhưng chẳng còn ai là bạn; một chế độ “hèn với giặc, ác với dân” bị trói
 chặt vào sự lệ thuộc hoàn toàn vào phương Bắc bởi vòng kim cô “4 tốt, 
16 chữ vàng”; một Việt Nam đón Tập Cận Bình bằng cờ đỏ một sao lớn, 5 
sao nhỏ; một Bộ Ngoại giao phải triển khai thực hiện chỉ thị từ một tỉnh
 của Trung Quốc ( tỉnh Quảng Đông), một Việt Nam lấy biển đảo, lãnh thổ 
để gán nợ, trả phí bảo đảm an toàn cho cuộc thí nghiệm điên rồ “100 năm 
nữa chưa chắc đã có xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, một Việt Nam giam hãm 
90 triệu con tim khát khao tự do, giam hãm tầng lớp trí thức, những cá 
nhân vẫn còn tầm, còn tâm, không để họ có thể vươn ra được với văn minh,
 dân chủ bên ngoài.
Giàn khoan và tác động của nó
Giàn
 khoan có tác dụng thăm dò dầu khí. Nhưng lần này người Trung Quốc đưa 
giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam có thêm tác dụng để thăm dò lòng 
người. Đặc biệt là thăm dò thái độ của lãnh đạo cao cấp Việt Nam, đã 
xuất hiện những dấu hiệu “chập chững” muốn “xoay trục”. Nhưng tác dụng 
lớn nhất của nó mà chúng ta phải cảm ơn, đó là nó đã tạo cơ hội để nhiều
 sự thật trong quan hệ Việt-Trung bị phơi bày, để tham vọng lấn chiếm 
Biển Đông của Trung Quốc không còn muốn giấu diếm thêm nữa.
Đầu tiên, giàn khoan đã chứng tỏ khả năng chịu nhịn nhục của lãnh đạo Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc vẫn còn.   
Ngày
 2/52014, Trung Quốc ngang nhiên hạ giàn khoan. Khắp nơi sôi sục, mong 
đợi giới lãnh đạo cấp cao tỏ thái độ rõ ràng. Không một ai lên tiếng. 
Thậm chí, ngày 8/5/2014, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khai mạc, không 
một lời bàn về Biển Đông, lại bàn chủ đề lãng nhách “xây dựng và phát 
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Ngoài
 biển, các chiếc tàu Việt Nam bị tàu Trung Quốc uy hiếp, hình ảnh kiềm 
chế đến nhẫn nhục của thủy thủ Việt Nam. Trong đất liền, các cuộc họp 
báo với những phản ứng yếu ớt, được lập đi lập lại, có cao hơn bình 
thường nhưng được giữ nguyên ở một mức độ. Không hề có một tuyên bố của 
Bộ Ngoại giao chứ chưa nói đến một Tuyên bố của Chính phủ. Trong khi 
trong nước phản ứng nhạt nhòa, thì người phát ngôn BNG lại kêu gọi Mỹ và
 EU cần lên tiếng mạnh mẽ.
Ngày
 31/5/2014, tại Hội nghị Shangri La, Đại tướng Phùng Quang Thanh, người 
đứng đầu Quân lực Việt Nam XHCN, nhũn nhặn tuyên bố "Quan hệ giữa Việt 
Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát
 triển tốt đẹp” và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với “mâu 
thuẫn gia đình”. Thế đấy, kẻ đang xâm phạm lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
 tế của Việt nam vẫn là bạn?
Trong
 khi đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trấn an, cam kết tự khóa mình bằng 
tuyên bố: "Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống
 lại một quốc gia khác” và “Việt Nam không bao giờ đơn phương sử dụng 
biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ 
khi bị bắt buộc phải tự vệ”.
Tất
 cả những diễn biến trên, dường như muốn gửi đi một thông điệp: “Trung 
Quốc nên hoàn toàn  \yên tâm, Việt Nam chưa thay đổi, cứ bình tĩnh mà 
đặt giàn khoan, miễn là không có chiến tranh”.
Cuối
 cùng, nó đã rút, rút trước thời hạn. Vì nó đã hoàn thành nhiệm vụ, vì 
nó đã nhận được đúng thông điệp. Vì Mỹ đã lên tiếng. Và vì tính toán 
đừng quá già néo, đẩy Việt Nam vào đường cùng, sẽ sụp đổ, Trung Quốc sẽ 
sụp đổ theo.
Kế đến, giàn khoan đã phát hiện “hội chứng Nguyễn Cơ Thạch” vẫn có tác dụng.
“Hội
 chứng Nguyễn Cơ Thạch” có thể diễn giải là chính sách của Trung Quốc 
khống chế lãnh đạo cao cấp Việt Nam, áp đặt bố trí nhân sự trong lãnh 
đạo đảng và nhà nước, dùng các biện pháp trấn áp, bắt bớ, đe dọa, gạt bỏ
 những người có tư tưởng chống đối lại Trung Quốc.

Hội Nghị Thành Đô
Sau
 Hội nghị Thành Đô, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đã trở thành 
“vật tế thần”, để đổi lấy bình thường hóa quan hệ hai nước. Tạp chí Times
 thời bấy giờ đã có bức biếm họa ngoài bìa vẽ ông Thạch làm thành một 
cái cầu để hai nhân vật lãnh đạo hàng đầu hai nước đứng trên đó bắt tay 
nhau bình thường hóa quan hệ.
Trước
 khi có giàn khoan, một loạt các nhân vật như Cù Huy Hà Vũ, Đinh Đăng 
Định, các thanh niên như Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Phương Uyên bị kết án 
rất nặng vì chống Trung Quốc xâm lược Biển Đông. Các cuộc biểu tình 
chống Trung Quốc, kỷ niệm ngày mất Hoàng Sa, ngày chiến tranh biên giới 
phía Bắc đều bị phá đám và dẹp bỏ nhanh chóng.
Ngay
 sau khi giàn khoan hạ đặt, ngày 5/5/2014, Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh bị
 bắt khẩn cấp. Vì “từ khi khởi đầu đến nay đều ưu tiên cho những thông 
tin về Trung - Việt, cảnh báo và phản đối những hành động xâm phạm chủ 
quyền Việt Nam của Trung Quốc”.
Diễn
 biến rõ nhất về “hội chứng Nguyễn Cơ Thạch” là chuyến đi của Ủy viên 
Quốc vụ Dương Khiết Trì được báo chí Trung Quốc mô tả như một người thầy
 kiên nhẫn đến để xử sự với một học trò cứng đầu cứng cổ, như một món 
quà của Trung Quốc, nhằm tặng cho Việt Nam một cơ hội nữa để "tự kiềm 
chế trước khi quá muộn". Tờ báo Hoàn Cầu còn viết: Nói chuyện với Việt 
Nam, Trung Quốc "thúc giục đứa con hoang đàng hãy trở về nhà". Có vẻ như
 họ Dương đến Hà Nội không phải để đối thoại thực sự, mà chỉ để giảng 
bài. Y như Từ Đôn Tín đến Hà nội thời Thành Đô, tuyên bố “Lần này tôi 
sang Hà nội để xem xét nguyện vọng của các đồng chí..” Từ cho phép mình 
mắng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, khi ngoại trưởng ta đáp trả vỗ mặt 
thì Từ nổi giận bỏ về.
Thế
 rồi sau đó, người đối thoại chính với Dương Khiết Trì là Bộ trưởng 
Ngoại giao Phạm Bình Minh, không đi Mỹ như lời mời và kế hoạch đã định 
từ phía Mỹ, mà thay đó bằng Bí thư Hà nội Phạm Quang Nghị. Nó hao hao 
giống và làm người ta nhớ lại câu chuyện tại Hội nghị Paris, ngoại 
trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm và 
được trả lời rằng không có thì giờ tiếp Nguyễn Cơ Thạch, nhưng thứ 
trưởng Trần Quang Cơ muốn gặp thì đồng ý.
Sau
 rốt, giàn khoan cho thấy chiều hướng kiện Trung Quốc ra trọng tài quốc 
tế là rất thấp trong khi đó khả năng tiếp tục “gác tranh chấp cùng khai 
thác” có vẻ lớn hơn nhiều.
Ở
 một thời điểm nào đó, trong giới lãnh đạo Việt Nam đã nảy sinh tư 
tưởng, Hoàng Sa và một phần Trường Sa mất thì đã mất rồi, không có thể 
đòi lại được nữa, thà rằng chiều theo lời gạ gẫm của Trung Quốc “gác 
tranh chấp, cùng khai thác” thì còn thu về lợi ích gì đó, chứ cứ tiếp 
tục khẳng định chủ quyền có khi không có lợi mà còn gây lo ngại cho các 
nước khác đang tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Tư
 tưởng này ảnh hưởng không nhỏ đến các thỏa thuận hai bên, trong các 
chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tháng 10-2011 
và của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, tháng 6-2013, thống nhất chủ 
trương các tranh chấp về chủ quyền được giải quyết thông qua các cuộc 
đàm phán song phương giữa các bên liên quan trực tiếp. Ký “Thỏa thuận về
 nguyên tắc cơ bản chỉ đạo về giải quyết các vấn đề trên biển”; “Thiết 
lập đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng chương trình hành 
động”; “Xử lý thỏa đáng bất đồng nhất là trên biển”, không để bất đồng 
ảnh hưởng các mặt hợp tác giữa hai nước, cũng như tình hữu nghị giữa hai
 nước, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông phù hợp với lợi ích cơ bản 
của hai nước. Tăng cường đàm phán, nhóm công tác về vùng biển cửa Vịnh 
Bắc Bộ và nhóm chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm 
trên biển Việt Trung. Thiết lập đường dây nóng Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc 
phòng hai bên.
Những
 thỏa thuận này vẫn còn nóng hổi khi giàn khoan được đưa vào. Nó gây khó
 chịu đôi chút cho lãnh đạo Việt Nam bởi sự lọc lừa, ngang ngược của 
Trung quốc, chứ các thỏa thuận nóng hổi này đủ sức khóa chặt miệng các 
vị vì lợi ích “đại cục” và vì quyền lợi sát sườn của bản thân.
Khi
 tình hình căng thẳng như dây đàn, Việt Nam không nhanh chân kiện Trung 
Quốc ra tòa án quốc tế như Philippines đã làm, thì sau khi giàn khoan đã
 rút, khí thế đã nguội lạnh, một đề án kiện Trung Quốc để được thông qua
 Bộ Chính trị lúc này càng khó khăn hơn. Các dấu hiệu phân rẽ các phe 
sau giàn khoan rõ nét hơn nhiều. 
Thậm
 chí, ngay sau khi giàn khoan được rút đi, Đại sứ, Trưởng phái đoàn 
thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc, Lê Hoài Trung tuyên bố : Việt 
Nam sẵn sàng xem xét những khả năng hợp tác với Trung Quốc trong hoạt 
động thăm dò dầu mỏ trên Biển Đông.
Triển vọng tình hình Việt Nam hậu giàn khoan sẽ ra sao?
Áp lực và mong mỏi của dư luận
Trong
 nước, ngày 28/7/2014 vừa qua, 61 đảng viên được nhiều người biết đến, 
đã ký tên vào bức thư ngỏ gửi cho Ban chấp hành Trung ương và toàn thể 
đảng viên đảng cộng sản Việt Nam.
Thư
 ngỏ yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam phải “tự giác và chủ động thay đổi 
Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển
 hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế 
chính trị từ toàn trị sang dân chủ”. “Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời 
đứng trước cơ hội lớn để thay đổi!”, “Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân
 tộc!”. Thư ngỏ còn yêu cầu “minh bạch hóa thỏa thuận Thành Đô”.
Từ
 khi có giàn khoan, dư luận đã rộ lên bàn về cách “thoát Trung”, về tìm 
kiếm đồng minh, xây dựng một mối quan hệ tin cậy với nước Mỹ và phương 
Tây, đủ sức chống chọi lại với Trung Quốc. Bên cạnh đó, những đòi hỏi về
 cải thiện dân chủ và nhân quyền trong nước ngày một lên cao. Phong trào
 đòi thả tự do cho các tù nhân lương tâm, tố cáo tra tấn tù nhân, tố cáo
 lực lượng an ninh trấn áp và đánh đập dân thường, phong trào dân oan 
đòi đất liên tục không mệt mỏi. Chứng tỏ người dân đang quyết tử khi lợi
 ích sống còn cuối cùng của họ bị xâm phạm.
Khi
 xã hội hiện tại đang đầy rẫy những bất công, tệ nạn xã hội ngày càng 
phát triển, văn hóa và quan hệ con người xuống cấp trầm trọng thì nhiều 
người đang nuối tiếc chế độ Việt Nam Cộng hòa. Lúc này đây, người ta 
đang làm những con phép so sánh và cái tên Việt Nam Cộng hòa ngày càng 
được nghe thấy công khai hơn. Chương trình “Nhịp cầu Hoàng Sa” được sự 
hưởng ứng rộng rãi và cao thượng cả trong và ngoài nước.
Ở
 ngoài nước, dư luận có phần khắt khe hơn. Thoát Trung trước tiên phải 
thoát cộng. Người ta thường hỏi nhau: bao giờ thì cộng sản sụp đổ. Một 
điều rõ nét là đồng bào hải ngoại đã ngày càng đồng cảm và trợ giúp rất 
hào phóng, đắc lực cho các phong trào trong nước. Sự liên thông giữa bên
 trong và bên ngoài đã khác xa những năm trước đây.
Sự
 khắt khe của dư luận bên ngoài nước còn biểu hiện ở chỗ. Họ coi chính 
quyền trong nước không đủ năng lực để điều hành đất nước, ngày càng quay
 lưng lại với nhân dân, hơn nữa không phải do dân bầu ra, dẫn tới việc 
người ta đang mập mờ nói tới việc thành lập chính phủ lưu vong đối lập 
với chính quyền trong nước.
Khả năng đáp ứng của lãnh đạo đảng và nhà nước.
Chưa
 bao giờ lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam đứng trước áp lực cần phải 
thay đổi lớn như hiện nay. Mọi thay đổi phải bắt nguồn từ thay đổi tư 
tưởng, thay đổi cách suy nghĩ và đánh giá sự việc. Liệu các nhà lãnh đạo
 hiện nay có đủ nghị lực để chiến thắng được chính mình, chiến thắng 
được ràng buộc về lợi ích cá nhân, phe nhóm. Có đủ can đảm để đưa ra 
công khai những thỏa thuận sai lầm trong quá khứ. Một khi đã nhận sai 
lầm, minh bạch hóa nó, không phải bỏ công để che giấu và bao bọc nó. 
Canh bạc đã thua, càng ham gỡ, càng thua. Hãy từ bỏ nó, chơi một cuộc 
chơi mới. Một bài toán phải giải theo cách khác mới có một kết quả mới 
khác trước.
Hãy
 từ bỏ trò chơi cân bằng trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Ta chỉ đủ 
khôn lỏi, chứ không đủ khôn ngoan và không đủ lực để tiếp tục đánh đu 
trong quan hệ với hai nước lớn này. Không dễ gì đạt được TPP và không có
 cải thiện dân chủ và nhân quyền trong nước. Không dễ gì lúc nào cũng 
muốn hưởng sự bao che của Trung Quốc mà không phải trả giá của sự lệ 
thuộc nhẫn nhịn. Hãy chìa tay ra để dựa vào sự hỗ trợ rất nhân bản của 
nước Mỹ đưa đất nước dần một đi lên và lúc đó câu chuyện quan hệ với ông
 láng giềng bất hảo phương Bắc sẽ dễ đi rất nhiều.
Bài học Miến điện là bài học dễ học nhất.
Hậu giàn khoan
                Quan sát cách mà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đánh giá lại tác động của Thành Đô, xem xét lại cách đối xử với Trung Quốc, chúng ta có thể phán đoán ttương lai của đất nước sẽ đi về đâu.
            
            Nguyễn Xương Hùng/ Thông luận
![]()  | 
| Ông Đặng Xương Hùng | 
“…Chưa
 bao giờ lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam đứng trước áp lực cần phải 
thay đổi lớn như hiện nay. Mọi thay đổi phải bắt nguồn từ thay đổi tư 
tưởng, thay đổi cách suy nghĩ và đánh giá sự việc. Liệu các nhà lãnh đạo
 hiện nay có đủ nghị lực để chiến thắng được chính mình, chiến thắng 
được ràng buộc về lợi ích cá nhân, phe nhóm…”
 Trung
 quốc tuyên bố đã rút giàn khoan. Tình thế thúc ép lãnh đạo Việt Nam 
phải đưa ra một quyết định dứt khoát, tạm thời lắng xuống. Nhưng với 
những ai đang quan tâm đến vận mệnh của đất nước, đặt ra một câu hỏi: 
triển vọng tình hình Việt Nam hậu giàn khoan sẽ ra sao? Hầu hết đều mong
 mỏi, khi đã được bình tâm, giới lãnh đạo sẽ đánh giá lại toàn bộ sự 
kiện, điều chỉnh chính sách để có được những quyết sách phù hợp, đưa 
Việt Nam ra khỏi vòng luẩn quẩn 25 năm thời kỳ đô hộ kiểu mởi của Trung 
quốc. Đây là một cơ hội.
Hai
 mươi lăm (25) năm sau lựa chọn “giải pháp đỏ” Thành Đô, giàn khoan đã 
cho một cơ hội, cơ hội cho những ai dù kém cỏi nhất cũng nhìn ra bộ mặt 
thật của mưu đồ Đại Hán. Nói đúng ra, Trung quốc đã không còn giấu giếm 
tham vọng bành trướng của mình. Quan sát cách
 mà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đánh giá lại tác động của Thành Đô, xem 
xét lại cách đối xử với Trung Quốc, chúng ta có thể phán đoán ttương lai
 của đất nước sẽ đi về đâu.
Thành Đô và hậu quả của nó.
Sự
 kiện giàn khoan nằm trong tiến trình tất yếu sẽ xảy ra trong chuỗi 
chính sách Trung quốc áp đặt lên Việt Nam sau Hội nghị Thành Đô tháng 
9/1990. Đó là, không ngừng lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải; không ngừng tác
 động vào giới lãnh đạo cao nhất của Việt Nam; không ngừng dùng mọi biện
 pháp về ngoại giao, an ninh, quốc phòng, kinh tế và văn hóa, đưa Việt 
Nam vào sự lệ thuộc hoàn toàn và cuối cùng là âm mưu sát nhập Việt Nam 
vào với Trung Quốc.
Cần
 nhắc lại rằng “giải pháp đỏ” Thành Đô là kết quả của ảo tưởng trong 
giới lãnh đạo thời bấy giờ khi bị sa lầy ở Cămpuchia và của nỗi sợ hãi 
khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang dần sụp đổ hoàn toàn. Ảo 
tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ XHCN (thay thế cho Liên Xô đã 
sụp đổ) để làm chỗ dựa cho CNXH ở Việt Nam, chống lại “diễn biến hòa 
bình” của Mỹ. Trong khi lãnh đạo Việt Nam nuôi kỳ vọng Trung Quốc “bảo 
vệ XHCN chống đế quốc” thì ngay từ đầu, giới lãnh đạo Trung Quốc đã xác 
định rõ “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu” (thân 
nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau). 
Nhưng trong bước đường cùng, giới lãnh đạo Việt Nam lúc đó đã hàng phục 
Trung Quốc không điều kiện, chuyển từ thế coi Trung Quốc là kẻ thù số 1 
sang thế làm chư hầu ngoan ngoãn, đưa đất nước vào “thời kỳ độ hộ mới 
của Trung Quốc”.
Kết
 quả sau 25 năm đó là: một Việt Nam “muốn” làm bạn với tất cả các nước, 
nhưng chẳng còn ai là bạn; một chế độ “hèn với giặc, ác với dân” bị trói
 chặt vào sự lệ thuộc hoàn toàn vào phương Bắc bởi vòng kim cô “4 tốt, 
16 chữ vàng”; một Việt Nam đón Tập Cận Bình bằng cờ đỏ một sao lớn, 5 
sao nhỏ; một Bộ Ngoại giao phải triển khai thực hiện chỉ thị từ một tỉnh
 của Trung Quốc ( tỉnh Quảng Đông), một Việt Nam lấy biển đảo, lãnh thổ 
để gán nợ, trả phí bảo đảm an toàn cho cuộc thí nghiệm điên rồ “100 năm 
nữa chưa chắc đã có xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, một Việt Nam giam hãm 
90 triệu con tim khát khao tự do, giam hãm tầng lớp trí thức, những cá 
nhân vẫn còn tầm, còn tâm, không để họ có thể vươn ra được với văn minh,
 dân chủ bên ngoài.
Giàn khoan và tác động của nó
Giàn
 khoan có tác dụng thăm dò dầu khí. Nhưng lần này người Trung Quốc đưa 
giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam có thêm tác dụng để thăm dò lòng 
người. Đặc biệt là thăm dò thái độ của lãnh đạo cao cấp Việt Nam, đã 
xuất hiện những dấu hiệu “chập chững” muốn “xoay trục”. Nhưng tác dụng 
lớn nhất của nó mà chúng ta phải cảm ơn, đó là nó đã tạo cơ hội để nhiều
 sự thật trong quan hệ Việt-Trung bị phơi bày, để tham vọng lấn chiếm 
Biển Đông của Trung Quốc không còn muốn giấu diếm thêm nữa.
Đầu tiên, giàn khoan đã chứng tỏ khả năng chịu nhịn nhục của lãnh đạo Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc vẫn còn.   
Ngày
 2/52014, Trung Quốc ngang nhiên hạ giàn khoan. Khắp nơi sôi sục, mong 
đợi giới lãnh đạo cấp cao tỏ thái độ rõ ràng. Không một ai lên tiếng. 
Thậm chí, ngày 8/5/2014, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khai mạc, không 
một lời bàn về Biển Đông, lại bàn chủ đề lãng nhách “xây dựng và phát 
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Ngoài
 biển, các chiếc tàu Việt Nam bị tàu Trung Quốc uy hiếp, hình ảnh kiềm 
chế đến nhẫn nhục của thủy thủ Việt Nam. Trong đất liền, các cuộc họp 
báo với những phản ứng yếu ớt, được lập đi lập lại, có cao hơn bình 
thường nhưng được giữ nguyên ở một mức độ. Không hề có một tuyên bố của 
Bộ Ngoại giao chứ chưa nói đến một Tuyên bố của Chính phủ. Trong khi 
trong nước phản ứng nhạt nhòa, thì người phát ngôn BNG lại kêu gọi Mỹ và
 EU cần lên tiếng mạnh mẽ.
Ngày
 31/5/2014, tại Hội nghị Shangri La, Đại tướng Phùng Quang Thanh, người 
đứng đầu Quân lực Việt Nam XHCN, nhũn nhặn tuyên bố "Quan hệ giữa Việt 
Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát
 triển tốt đẹp” và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với “mâu 
thuẫn gia đình”. Thế đấy, kẻ đang xâm phạm lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
 tế của Việt nam vẫn là bạn?
Trong
 khi đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trấn an, cam kết tự khóa mình bằng 
tuyên bố: "Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống
 lại một quốc gia khác” và “Việt Nam không bao giờ đơn phương sử dụng 
biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ 
khi bị bắt buộc phải tự vệ”.
Tất
 cả những diễn biến trên, dường như muốn gửi đi một thông điệp: “Trung 
Quốc nên hoàn toàn  \yên tâm, Việt Nam chưa thay đổi, cứ bình tĩnh mà 
đặt giàn khoan, miễn là không có chiến tranh”.
Cuối
 cùng, nó đã rút, rút trước thời hạn. Vì nó đã hoàn thành nhiệm vụ, vì 
nó đã nhận được đúng thông điệp. Vì Mỹ đã lên tiếng. Và vì tính toán 
đừng quá già néo, đẩy Việt Nam vào đường cùng, sẽ sụp đổ, Trung Quốc sẽ 
sụp đổ theo.
Kế đến, giàn khoan đã phát hiện “hội chứng Nguyễn Cơ Thạch” vẫn có tác dụng.
“Hội
 chứng Nguyễn Cơ Thạch” có thể diễn giải là chính sách của Trung Quốc 
khống chế lãnh đạo cao cấp Việt Nam, áp đặt bố trí nhân sự trong lãnh 
đạo đảng và nhà nước, dùng các biện pháp trấn áp, bắt bớ, đe dọa, gạt bỏ
 những người có tư tưởng chống đối lại Trung Quốc.

Hội Nghị Thành Đô
Sau
 Hội nghị Thành Đô, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đã trở thành 
“vật tế thần”, để đổi lấy bình thường hóa quan hệ hai nước. Tạp chí Times
 thời bấy giờ đã có bức biếm họa ngoài bìa vẽ ông Thạch làm thành một 
cái cầu để hai nhân vật lãnh đạo hàng đầu hai nước đứng trên đó bắt tay 
nhau bình thường hóa quan hệ.
Trước
 khi có giàn khoan, một loạt các nhân vật như Cù Huy Hà Vũ, Đinh Đăng 
Định, các thanh niên như Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Phương Uyên bị kết án 
rất nặng vì chống Trung Quốc xâm lược Biển Đông. Các cuộc biểu tình 
chống Trung Quốc, kỷ niệm ngày mất Hoàng Sa, ngày chiến tranh biên giới 
phía Bắc đều bị phá đám và dẹp bỏ nhanh chóng.
Ngay
 sau khi giàn khoan hạ đặt, ngày 5/5/2014, Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh bị
 bắt khẩn cấp. Vì “từ khi khởi đầu đến nay đều ưu tiên cho những thông 
tin về Trung - Việt, cảnh báo và phản đối những hành động xâm phạm chủ 
quyền Việt Nam của Trung Quốc”.
Diễn
 biến rõ nhất về “hội chứng Nguyễn Cơ Thạch” là chuyến đi của Ủy viên 
Quốc vụ Dương Khiết Trì được báo chí Trung Quốc mô tả như một người thầy
 kiên nhẫn đến để xử sự với một học trò cứng đầu cứng cổ, như một món 
quà của Trung Quốc, nhằm tặng cho Việt Nam một cơ hội nữa để "tự kiềm 
chế trước khi quá muộn". Tờ báo Hoàn Cầu còn viết: Nói chuyện với Việt 
Nam, Trung Quốc "thúc giục đứa con hoang đàng hãy trở về nhà". Có vẻ như
 họ Dương đến Hà Nội không phải để đối thoại thực sự, mà chỉ để giảng 
bài. Y như Từ Đôn Tín đến Hà nội thời Thành Đô, tuyên bố “Lần này tôi 
sang Hà nội để xem xét nguyện vọng của các đồng chí..” Từ cho phép mình 
mắng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, khi ngoại trưởng ta đáp trả vỗ mặt 
thì Từ nổi giận bỏ về.
Thế
 rồi sau đó, người đối thoại chính với Dương Khiết Trì là Bộ trưởng 
Ngoại giao Phạm Bình Minh, không đi Mỹ như lời mời và kế hoạch đã định 
từ phía Mỹ, mà thay đó bằng Bí thư Hà nội Phạm Quang Nghị. Nó hao hao 
giống và làm người ta nhớ lại câu chuyện tại Hội nghị Paris, ngoại 
trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm và 
được trả lời rằng không có thì giờ tiếp Nguyễn Cơ Thạch, nhưng thứ 
trưởng Trần Quang Cơ muốn gặp thì đồng ý.
Sau
 rốt, giàn khoan cho thấy chiều hướng kiện Trung Quốc ra trọng tài quốc 
tế là rất thấp trong khi đó khả năng tiếp tục “gác tranh chấp cùng khai 
thác” có vẻ lớn hơn nhiều.
Ở
 một thời điểm nào đó, trong giới lãnh đạo Việt Nam đã nảy sinh tư 
tưởng, Hoàng Sa và một phần Trường Sa mất thì đã mất rồi, không có thể 
đòi lại được nữa, thà rằng chiều theo lời gạ gẫm của Trung Quốc “gác 
tranh chấp, cùng khai thác” thì còn thu về lợi ích gì đó, chứ cứ tiếp 
tục khẳng định chủ quyền có khi không có lợi mà còn gây lo ngại cho các 
nước khác đang tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Tư
 tưởng này ảnh hưởng không nhỏ đến các thỏa thuận hai bên, trong các 
chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tháng 10-2011 
và của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, tháng 6-2013, thống nhất chủ 
trương các tranh chấp về chủ quyền được giải quyết thông qua các cuộc 
đàm phán song phương giữa các bên liên quan trực tiếp. Ký “Thỏa thuận về
 nguyên tắc cơ bản chỉ đạo về giải quyết các vấn đề trên biển”; “Thiết 
lập đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng chương trình hành 
động”; “Xử lý thỏa đáng bất đồng nhất là trên biển”, không để bất đồng 
ảnh hưởng các mặt hợp tác giữa hai nước, cũng như tình hữu nghị giữa hai
 nước, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông phù hợp với lợi ích cơ bản 
của hai nước. Tăng cường đàm phán, nhóm công tác về vùng biển cửa Vịnh 
Bắc Bộ và nhóm chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm 
trên biển Việt Trung. Thiết lập đường dây nóng Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc 
phòng hai bên.
Những
 thỏa thuận này vẫn còn nóng hổi khi giàn khoan được đưa vào. Nó gây khó
 chịu đôi chút cho lãnh đạo Việt Nam bởi sự lọc lừa, ngang ngược của 
Trung quốc, chứ các thỏa thuận nóng hổi này đủ sức khóa chặt miệng các 
vị vì lợi ích “đại cục” và vì quyền lợi sát sườn của bản thân.
Khi
 tình hình căng thẳng như dây đàn, Việt Nam không nhanh chân kiện Trung 
Quốc ra tòa án quốc tế như Philippines đã làm, thì sau khi giàn khoan đã
 rút, khí thế đã nguội lạnh, một đề án kiện Trung Quốc để được thông qua
 Bộ Chính trị lúc này càng khó khăn hơn. Các dấu hiệu phân rẽ các phe 
sau giàn khoan rõ nét hơn nhiều. 
Thậm
 chí, ngay sau khi giàn khoan được rút đi, Đại sứ, Trưởng phái đoàn 
thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc, Lê Hoài Trung tuyên bố : Việt 
Nam sẵn sàng xem xét những khả năng hợp tác với Trung Quốc trong hoạt 
động thăm dò dầu mỏ trên Biển Đông.
Triển vọng tình hình Việt Nam hậu giàn khoan sẽ ra sao?
Áp lực và mong mỏi của dư luận
Trong
 nước, ngày 28/7/2014 vừa qua, 61 đảng viên được nhiều người biết đến, 
đã ký tên vào bức thư ngỏ gửi cho Ban chấp hành Trung ương và toàn thể 
đảng viên đảng cộng sản Việt Nam.
Thư
 ngỏ yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam phải “tự giác và chủ động thay đổi 
Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển
 hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế 
chính trị từ toàn trị sang dân chủ”. “Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời 
đứng trước cơ hội lớn để thay đổi!”, “Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân
 tộc!”. Thư ngỏ còn yêu cầu “minh bạch hóa thỏa thuận Thành Đô”.
Từ
 khi có giàn khoan, dư luận đã rộ lên bàn về cách “thoát Trung”, về tìm 
kiếm đồng minh, xây dựng một mối quan hệ tin cậy với nước Mỹ và phương 
Tây, đủ sức chống chọi lại với Trung Quốc. Bên cạnh đó, những đòi hỏi về
 cải thiện dân chủ và nhân quyền trong nước ngày một lên cao. Phong trào
 đòi thả tự do cho các tù nhân lương tâm, tố cáo tra tấn tù nhân, tố cáo
 lực lượng an ninh trấn áp và đánh đập dân thường, phong trào dân oan 
đòi đất liên tục không mệt mỏi. Chứng tỏ người dân đang quyết tử khi lợi
 ích sống còn cuối cùng của họ bị xâm phạm.
Khi
 xã hội hiện tại đang đầy rẫy những bất công, tệ nạn xã hội ngày càng 
phát triển, văn hóa và quan hệ con người xuống cấp trầm trọng thì nhiều 
người đang nuối tiếc chế độ Việt Nam Cộng hòa. Lúc này đây, người ta 
đang làm những con phép so sánh và cái tên Việt Nam Cộng hòa ngày càng 
được nghe thấy công khai hơn. Chương trình “Nhịp cầu Hoàng Sa” được sự 
hưởng ứng rộng rãi và cao thượng cả trong và ngoài nước.
Ở
 ngoài nước, dư luận có phần khắt khe hơn. Thoát Trung trước tiên phải 
thoát cộng. Người ta thường hỏi nhau: bao giờ thì cộng sản sụp đổ. Một 
điều rõ nét là đồng bào hải ngoại đã ngày càng đồng cảm và trợ giúp rất 
hào phóng, đắc lực cho các phong trào trong nước. Sự liên thông giữa bên
 trong và bên ngoài đã khác xa những năm trước đây.
Sự
 khắt khe của dư luận bên ngoài nước còn biểu hiện ở chỗ. Họ coi chính 
quyền trong nước không đủ năng lực để điều hành đất nước, ngày càng quay
 lưng lại với nhân dân, hơn nữa không phải do dân bầu ra, dẫn tới việc 
người ta đang mập mờ nói tới việc thành lập chính phủ lưu vong đối lập 
với chính quyền trong nước.
Khả năng đáp ứng của lãnh đạo đảng và nhà nước.
Chưa
 bao giờ lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam đứng trước áp lực cần phải 
thay đổi lớn như hiện nay. Mọi thay đổi phải bắt nguồn từ thay đổi tư 
tưởng, thay đổi cách suy nghĩ và đánh giá sự việc. Liệu các nhà lãnh đạo
 hiện nay có đủ nghị lực để chiến thắng được chính mình, chiến thắng 
được ràng buộc về lợi ích cá nhân, phe nhóm. Có đủ can đảm để đưa ra 
công khai những thỏa thuận sai lầm trong quá khứ. Một khi đã nhận sai 
lầm, minh bạch hóa nó, không phải bỏ công để che giấu và bao bọc nó. 
Canh bạc đã thua, càng ham gỡ, càng thua. Hãy từ bỏ nó, chơi một cuộc 
chơi mới. Một bài toán phải giải theo cách khác mới có một kết quả mới 
khác trước.
Hãy
 từ bỏ trò chơi cân bằng trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Ta chỉ đủ 
khôn lỏi, chứ không đủ khôn ngoan và không đủ lực để tiếp tục đánh đu 
trong quan hệ với hai nước lớn này. Không dễ gì đạt được TPP và không có
 cải thiện dân chủ và nhân quyền trong nước. Không dễ gì lúc nào cũng 
muốn hưởng sự bao che của Trung Quốc mà không phải trả giá của sự lệ 
thuộc nhẫn nhịn. Hãy chìa tay ra để dựa vào sự hỗ trợ rất nhân bản của 
nước Mỹ đưa đất nước dần một đi lên và lúc đó câu chuyện quan hệ với ông
 láng giềng bất hảo phương Bắc sẽ dễ đi rất nhiều.
Bài học Miến điện là bài học dễ học nhất.
       

















