Nhân Vật
Hé lộ mặt tội đồ trong “LỜI HỨA CỦA TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH Ở TRƯỜNG SA LỚN”
Nghi vấn những kẻ nào phải chịu trách nhiệm trước lịch sử và toàn Dân tộc bằng quyết định buộc bộ đội Trường Sa không được nổ súng và thúc thủ trước hành động xâm chiếm dã man, ngang ngược của Trung Cộng năm 1988 vẫn còn đó.
Đã có những nguồn thông tin đáng tin cậy về vụ việc này, mà trong bài Tháng Ba – 3 ngày kỷ niệm hệ trọng liên quan chủ quyền lãnh thổ đã viết:
“Có thông tin cho là trước đó, Tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Quốc phòng đã ra lệnh cho bộ đội VN không được nổ súng. Trong cuộc họp Bộ chính trị sau đó, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã vô cùng tức giận, đập bàn lớn tiếng hạch hỏi ai ra lệnh cho bộ đội buông súng, vì sao … nhưng nhiều ủy viên BCT khi đó chỉ im lặng, vì nhiều lý do.”
Dù sao đó cũng chỉ là thông tin miệng, chưa có tài liệu nào để kiểm chứng.
Thế rồi sáng nay, đọc một bài báo trên VietnamNet, với cái tựa như ca ngợi tướng Lê Đức Anh trong trách nhiệm bảo vệ chủ quyền Trường Sa, nhưng đọc vào thì … không hẳn. Đặc biệt, nó đã góp phần giải mã cho nghi vấn nói trên.
Đó là bài phát biểu của Đại tướng Lê Đức Anh, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng, đọc tại đảo Trường Sa lớn. Tuy không ghi rõ ngày, nhưng nó được thực hiện nhân dịp ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân Việt Nam (7/5/1955-7/5/1988), có nghĩa gần như chắc chắn là phải vào tháng 5 hoặc ít nhất là cuối tháng 4, sau khi xảy ra trận Gạc Ma, 64 chiến sĩ ta hy sinh, Trung Quốc chiếm đảo, ngày 14/3/1988.
Ấy thế mà trong toàn bài diễn văn, không có một lời Tướng Lê Đức Anh nhắc tới trận chiến đó, cả trận Hải chiến Hoàng Sa 1974. Nguy hiểm hơn, bài diễn văn còn nhấn mạnh rằng “Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình” trong cuộc “Kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Nguy hiểm nữa, khi Lê Đức Anh nhắc lại lời nói lừa phỉnh của “người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ”, rằng “Trung Quốc cảm ơn Việt Nam, chính nhờ Việt Nam chống Mỹ mà Tổng thống Mỹ đã phải thân hành đến Trung Quốc để cầu thân với Trung Quốc”.
Không nhắc tới 3 cuộc xâm lăng liên tiếp chỉ trong hai thập kỷ của kẻ được gọi là “anh em môi răng”, Lê Đức Anh đổ hết “những tội lỗi” cho “các triều đại phong kiến Trung Quốc đã gây đau khổ cho dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm đô hộ.”
Đó là cái gì nếu như không phải là một hành động lừa dối, đánh lạc hướng của một vị chỉ huy quân đội cao nhất với cấp dưới của mình, không phải chỉ về kẻ thù trực tiếp nguy hiểm nhất, mà còn cả về tội lỗi tày trời mà mình đã phạm phải?
Còn nếu như chuyến thăm và bài diễn văn được thực hiện ngay trước khi xảy ra trận Gạc Ma (khả năng này rất ít), thì nó lại dễ dàng được coi là một hành động “nhắc nhở” bộ đội để chuẩn bị tinh thần chấp nhận đầu hàng khi có lệnh trên. Thậm chí còn có thể thêm nghi vấn rằng Lê Đức Anh đã biết trước cuộc xâm lăng đó, và hành động ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng là sự “phối hợp nhịp nhàng” với quân Trung Quốc theo một “mệnh lệnh” ngầm nào đó.
-
LỜI HỨA CỦA TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH Ở TRƯỜNG SA LỚN
- Năm
1988, trong chuyến thị sát tại quần đảo Trường Sa, Đại tướng Lê Đức Anh,
Bộ trưởng Quốc phòng đã dự lễ kỷ niệm 33 năm ngày truyền thống của Quân
chủng Hải quân Việt Nam (7/5/1955-7/5/1988) do Quân chủng Hải quân tổ
chức tại đảo Trường Sa lớn. Đại tướng đã có bài phát biểu quan trọng:
“Cùng với các lực lượng, các đơn vị của Hải quân nhân dân Việt Nam, hôm nay, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tổ chức mít tinh kỷ niệm lần thứ 33 ngày truyền thống vinh quang của Quân chủng (7/5/1955-7/5/1988) trên quần đảo Trường Sa, mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
Thay mặt Bộ Quốc phòng, tôi chuyển tới các đồng chí cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân lời chúc sức khỏe.
Hải quân ta ra đời trong hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt, vượt qua mọi khó khăn, thử thách bằng sức lao động thông minh và sáng tạo, từ những chiếc thuyền gỗ có gắn máy mà đi lên, Hải quân ta đã tích cực trên các mặt trận chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng, bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.
Từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Hải quân nhân dân ta đã nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết chiến, quyết thắng và đã lập nhiều chiến công oanh liệt. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, Hải quân nhân dân ta còn có nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng là đưa cán bộ, súng đạn vào miền Nam bằng loại tàu đi biển do Hải quân tự thiết kế. Loại tàu nhỏ này đã vượt biển khơi đi qua vùng biển dưới sự kiểm soát của không quân và hải quân thuộc Hạm đội 7 của Mỹ, của hạm đội tuần tiễu của quân đội ngụy Sài Gòn.
Nhưng Hải quân nhân dân ta vừa làm nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, chống lại sự phong tỏa của địch, đồng thời vận chuyển được hàng vạn tấn hàng hóa, vũ khí, đạn dược và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần xứng đáng giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta.
Nhân dịp kỉ niệm ngày truyền thống của Quân chủng, tôi nhắc lại điều đó để nói lên tinh thần dũng cảm và sự thông minh sáng tạo của cán bộ Hải quân ta trong thời kỳ đánh Mỹ. Đó là sự thông minh và dũng cảm tuyệt vời, nó được nối tiếp mãi cho đến ngày nay và mãi mãi đến các thế hệ mai sau. Thông minh dũng cảm là sức mạnh. Niềm tin là sức mạnh. Đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là sức mạnh.
Mở đầu thời kỳ đánh Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trước một tên đầu sỏ hùng mạnh nhất của chủ nghĩa đế quốc; Đảng ta đã có một vũ khí cực mạnh, đó là niềm tin, niềm tin ở chính nghĩa độc lập tự do, niềm tin ở sức mạnh của nhân dân khi đã quyết tâm thì sẽ sáng tạo muôn vàn cách đấu tranh để giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
Chính niềm tin sắt đá đó đã động viên và đoàn kết toàn dân tộc nhất tề đứng dậy đấu tranh với đế quốc cực mạnh và đã từng bước thu hút sự chú ý và sự ủng hộ của loài người tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới đã góp phần quan trọng giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết với bạn bè quốc tế, đó là sức mạnh, đó là đại nghĩa, đó là lẽ sống của cách mạng Việt Nam, của nhân dân Việt Nam.
Với mối quan hệ giữa ta và Trung Quốc: Trong những năm 50 và những năm 60 quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và hiệu quả. Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình.
Mặt khác, thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ sự bao vây của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Năm 1976, Đoàn đại biểu cao cấp của Đảng và Nhà nước ta đi thăm và cảm ơn các nước và bầu bạn trên thế giới đã ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ. Tới Trung Quốc, các đồng chí lãnh đạo của Đảng ta đã cảm ơn sự giúp đỡ to lớn của Trung Quốc đối với sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, thì người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ đã nói: Trung Quốc cảm ơn Việt Nam, chính nhờ Việt Nam chống Mỹ mà Tổng thống Mỹ đã phải thân hành đến Trung Quốc để cầu thân với Trung Quốc”.
Nói tóm lại cả hai nước đã giúp đỡ lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực, với tinh thần anh em sâu đậm. Chúng ta đinh ninh rằng tình sâu nghĩa nặng đó sẽ kéo dài mãi mãi và nhất định nó sẽ xóa nhòa, đi đến xóa hẳn trong ký ức của dân tộc Việt Nam những tội lỗi mà các triều đại phong kiến Trung Quốc đã gây đau khổ cho dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm đô hộ.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thật sự trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế.
Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam dù chế độ xã hội khác nhau qua các thời đại, xu hướng chính trị khác nhau, tôn giáo khác nhau, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ đều một lòng, một dạ kiên trì và kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt – Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, đồng thời chúng ta nhất quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta.
Hôm nay kỷ niệm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ đại diện các Tổng cục, các quân chủng, đại diện tỉnh Phú Khánh, chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.
VietNamNet
http://chepsuviet.com/2014/03/13/he-lo-mat-toi-do-trong-loi-hua-cua-tuong-le-duc-anh-o-truong-sa-lon/
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Hé lộ mặt tội đồ trong “LỜI HỨA CỦA TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH Ở TRƯỜNG SA LỚN”
Nghi vấn những kẻ nào phải chịu trách nhiệm trước lịch sử và toàn Dân tộc bằng quyết định buộc bộ đội Trường Sa không được nổ súng và thúc thủ trước hành động xâm chiếm dã man, ngang ngược của Trung Cộng năm 1988 vẫn còn đó.
Đã có những nguồn thông tin đáng tin cậy về vụ việc này, mà trong bài Tháng Ba – 3 ngày kỷ niệm hệ trọng liên quan chủ quyền lãnh thổ đã viết:
“Có thông tin cho là trước đó, Tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Quốc phòng đã ra lệnh cho bộ đội VN không được nổ súng. Trong cuộc họp Bộ chính trị sau đó, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã vô cùng tức giận, đập bàn lớn tiếng hạch hỏi ai ra lệnh cho bộ đội buông súng, vì sao … nhưng nhiều ủy viên BCT khi đó chỉ im lặng, vì nhiều lý do.”
Dù sao đó cũng chỉ là thông tin miệng, chưa có tài liệu nào để kiểm chứng.
Thế rồi sáng nay, đọc một bài báo trên VietnamNet, với cái tựa như ca ngợi tướng Lê Đức Anh trong trách nhiệm bảo vệ chủ quyền Trường Sa, nhưng đọc vào thì … không hẳn. Đặc biệt, nó đã góp phần giải mã cho nghi vấn nói trên.
Đó là bài phát biểu của Đại tướng Lê Đức Anh, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng, đọc tại đảo Trường Sa lớn. Tuy không ghi rõ ngày, nhưng nó được thực hiện nhân dịp ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân Việt Nam (7/5/1955-7/5/1988), có nghĩa gần như chắc chắn là phải vào tháng 5 hoặc ít nhất là cuối tháng 4, sau khi xảy ra trận Gạc Ma, 64 chiến sĩ ta hy sinh, Trung Quốc chiếm đảo, ngày 14/3/1988.
Ấy thế mà trong toàn bài diễn văn, không có một lời Tướng Lê Đức Anh nhắc tới trận chiến đó, cả trận Hải chiến Hoàng Sa 1974. Nguy hiểm hơn, bài diễn văn còn nhấn mạnh rằng “Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình” trong cuộc “Kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Nguy hiểm nữa, khi Lê Đức Anh nhắc lại lời nói lừa phỉnh của “người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ”, rằng “Trung Quốc cảm ơn Việt Nam, chính nhờ Việt Nam chống Mỹ mà Tổng thống Mỹ đã phải thân hành đến Trung Quốc để cầu thân với Trung Quốc”.
Không nhắc tới 3 cuộc xâm lăng liên tiếp chỉ trong hai thập kỷ của kẻ được gọi là “anh em môi răng”, Lê Đức Anh đổ hết “những tội lỗi” cho “các triều đại phong kiến Trung Quốc đã gây đau khổ cho dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm đô hộ.”
Đó là cái gì nếu như không phải là một hành động lừa dối, đánh lạc hướng của một vị chỉ huy quân đội cao nhất với cấp dưới của mình, không phải chỉ về kẻ thù trực tiếp nguy hiểm nhất, mà còn cả về tội lỗi tày trời mà mình đã phạm phải?
Còn nếu như chuyến thăm và bài diễn văn được thực hiện ngay trước khi xảy ra trận Gạc Ma (khả năng này rất ít), thì nó lại dễ dàng được coi là một hành động “nhắc nhở” bộ đội để chuẩn bị tinh thần chấp nhận đầu hàng khi có lệnh trên. Thậm chí còn có thể thêm nghi vấn rằng Lê Đức Anh đã biết trước cuộc xâm lăng đó, và hành động ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng là sự “phối hợp nhịp nhàng” với quân Trung Quốc theo một “mệnh lệnh” ngầm nào đó.
-
LỜI HỨA CỦA TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH Ở TRƯỜNG SA LỚN
- Năm
1988, trong chuyến thị sát tại quần đảo Trường Sa, Đại tướng Lê Đức Anh,
Bộ trưởng Quốc phòng đã dự lễ kỷ niệm 33 năm ngày truyền thống của Quân
chủng Hải quân Việt Nam (7/5/1955-7/5/1988) do Quân chủng Hải quân tổ
chức tại đảo Trường Sa lớn. Đại tướng đã có bài phát biểu quan trọng:
“Cùng với các lực lượng, các đơn vị của Hải quân nhân dân Việt Nam, hôm nay, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tổ chức mít tinh kỷ niệm lần thứ 33 ngày truyền thống vinh quang của Quân chủng (7/5/1955-7/5/1988) trên quần đảo Trường Sa, mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
Thay mặt Bộ Quốc phòng, tôi chuyển tới các đồng chí cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân lời chúc sức khỏe.
Hải quân ta ra đời trong hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt, vượt qua mọi khó khăn, thử thách bằng sức lao động thông minh và sáng tạo, từ những chiếc thuyền gỗ có gắn máy mà đi lên, Hải quân ta đã tích cực trên các mặt trận chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng, bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.
Từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Hải quân nhân dân ta đã nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết chiến, quyết thắng và đã lập nhiều chiến công oanh liệt. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, Hải quân nhân dân ta còn có nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng là đưa cán bộ, súng đạn vào miền Nam bằng loại tàu đi biển do Hải quân tự thiết kế. Loại tàu nhỏ này đã vượt biển khơi đi qua vùng biển dưới sự kiểm soát của không quân và hải quân thuộc Hạm đội 7 của Mỹ, của hạm đội tuần tiễu của quân đội ngụy Sài Gòn.
Nhưng Hải quân nhân dân ta vừa làm nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, chống lại sự phong tỏa của địch, đồng thời vận chuyển được hàng vạn tấn hàng hóa, vũ khí, đạn dược và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần xứng đáng giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta.
Nhân dịp kỉ niệm ngày truyền thống của Quân chủng, tôi nhắc lại điều đó để nói lên tinh thần dũng cảm và sự thông minh sáng tạo của cán bộ Hải quân ta trong thời kỳ đánh Mỹ. Đó là sự thông minh và dũng cảm tuyệt vời, nó được nối tiếp mãi cho đến ngày nay và mãi mãi đến các thế hệ mai sau. Thông minh dũng cảm là sức mạnh. Niềm tin là sức mạnh. Đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là sức mạnh.
Mở đầu thời kỳ đánh Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trước một tên đầu sỏ hùng mạnh nhất của chủ nghĩa đế quốc; Đảng ta đã có một vũ khí cực mạnh, đó là niềm tin, niềm tin ở chính nghĩa độc lập tự do, niềm tin ở sức mạnh của nhân dân khi đã quyết tâm thì sẽ sáng tạo muôn vàn cách đấu tranh để giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
Chính niềm tin sắt đá đó đã động viên và đoàn kết toàn dân tộc nhất tề đứng dậy đấu tranh với đế quốc cực mạnh và đã từng bước thu hút sự chú ý và sự ủng hộ của loài người tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới đã góp phần quan trọng giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết với bạn bè quốc tế, đó là sức mạnh, đó là đại nghĩa, đó là lẽ sống của cách mạng Việt Nam, của nhân dân Việt Nam.
Với mối quan hệ giữa ta và Trung Quốc: Trong những năm 50 và những năm 60 quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và hiệu quả. Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình.
Mặt khác, thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ sự bao vây của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Năm 1976, Đoàn đại biểu cao cấp của Đảng và Nhà nước ta đi thăm và cảm ơn các nước và bầu bạn trên thế giới đã ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ. Tới Trung Quốc, các đồng chí lãnh đạo của Đảng ta đã cảm ơn sự giúp đỡ to lớn của Trung Quốc đối với sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, thì người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ đã nói: Trung Quốc cảm ơn Việt Nam, chính nhờ Việt Nam chống Mỹ mà Tổng thống Mỹ đã phải thân hành đến Trung Quốc để cầu thân với Trung Quốc”.
Nói tóm lại cả hai nước đã giúp đỡ lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực, với tinh thần anh em sâu đậm. Chúng ta đinh ninh rằng tình sâu nghĩa nặng đó sẽ kéo dài mãi mãi và nhất định nó sẽ xóa nhòa, đi đến xóa hẳn trong ký ức của dân tộc Việt Nam những tội lỗi mà các triều đại phong kiến Trung Quốc đã gây đau khổ cho dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm đô hộ.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thật sự trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế.
Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam dù chế độ xã hội khác nhau qua các thời đại, xu hướng chính trị khác nhau, tôn giáo khác nhau, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ đều một lòng, một dạ kiên trì và kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt – Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, đồng thời chúng ta nhất quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta.
Hôm nay kỷ niệm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ đại diện các Tổng cục, các quân chủng, đại diện tỉnh Phú Khánh, chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.
VietNamNet
http://chepsuviet.com/2014/03/13/he-lo-mat-toi-do-trong-loi-hua-cua-tuong-le-duc-anh-o-truong-sa-lon/