Văn Học & Nghệ Thuật
Hồ Biểu Chánh và tiếng Phật
Về sau, nghiền ngẫm những tác phẩm của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Vương Hồng Sễnh, đặc biệt là nhà văn Hồ Biểu Chánh, tôi như tìm về các ngõ ngách, ruộng đồng, kinh rạch,
Hồi nhỏ tới giờ tôi vẫn ưa đọc sách, đọc đủ các thể loại truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, khoa học dã tưởng, dịch thuật… Về sau, nghiền ngẫm những tác phẩm của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Vương Hồng Sễnh, đặc biệt là nhà văn Hồ Biểu Chánh, tôi như tìm về các ngõ ngách, ruộng đồng, kinh rạch, sông nước miền Tây quê nội tôi.
Phan Ni Tấn
http://www.banvannghe.com/p10a8166/ho-bieu-chanh-va-tieng-phat-phan-ni-tan
Nhà văn Hồ Biểu Chánh (1884–1958)
Hồi nhỏ tới giờ tôi vẫn ưa đọc sách, đọc đủ các thể loại truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, khoa học dã tưởng, dịch thuật… Về sau, nghiền ngẫm những tác phẩm của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Vương Hồng Sễnh, đặc biệt là nhà văn Hồ Biểu Chánh, tôi như tìm về các ngõ ngách, ruộng đồng, kinh rạch, sông nước miền Tây quê nội tôi.
Đọc Hồ
Biểu Chánh để thấy một tâm hồn mộc mạc, đơn thuần như những cuộc đất
khẩn hoang với những con lạch muỗi mồng, âm u gợi lên từng địa danh xa
vời. Hồ Biểu Chánh sở trường về văn xuôi ẩn chứa một triết lý nhân sinh
góp phần bồi đắp nền văn học miền Nam qua hàng trăm tác phẩm giá trị.
Người đọc tìm đến Hồ Biểu Chánh bởi nhân cách sống với phong độ nho gia
đạm bạc và những trang viết giản dị, trong sáng, lấy bối cảnh miền Nam
làm đề tài với những cảnh đời phức tạp, những thành kiến hủ bại của gia
đình xã hội thời phong kiến. Phần lớn ông viết về đời sống phong phú của
những người dân cần cù lao động làm nổi bậc truyền thống dũng cảm, sức
chịu đựng, lòng nghĩa hiệp và tinh thần vượt qua mọi gian lao thử thách
vào giai đoạn lịch sử dưới thời Pháp thuộc.
Đặc tính trong cách hành văn của Hồ Biểu Chánh là luôn luôn nhấn mạnh vào từng tiếng địa phương, từng chữ đơn sơ, từng nghĩa mộc mạc của ngôn ngữ miền đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi câu truyện của Hồ Biểu Chánh là một bức khắc họa có chiều sâu với những hình thể và màu sắc khác biệt. Nói đến Hồ Biểu Chánh là nói đến dòng thời gian xa thẳm, là tìm về miền ký ức mờ sương. Cho nên đọc Hồ Biểu Chánh, ta có cảm tưởng như đi ngược về dĩ vãng để tha thiết tìm lại hồn đời của từng nếp sống xa xưa.
Đặc tính trong cách hành văn của Hồ Biểu Chánh là luôn luôn nhấn mạnh vào từng tiếng địa phương, từng chữ đơn sơ, từng nghĩa mộc mạc của ngôn ngữ miền đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi câu truyện của Hồ Biểu Chánh là một bức khắc họa có chiều sâu với những hình thể và màu sắc khác biệt. Nói đến Hồ Biểu Chánh là nói đến dòng thời gian xa thẳm, là tìm về miền ký ức mờ sương. Cho nên đọc Hồ Biểu Chánh, ta có cảm tưởng như đi ngược về dĩ vãng để tha thiết tìm lại hồn đời của từng nếp sống xa xưa.
Hồ Biểu
Chánh viết văn giản dị như nói chuyện. Ông say sưa kể chuyện với cả tâm
tình. Những câu chuyện về đồng áng, kinh rạch, sông ngòi, đất đai, nhà
cửa…, về bà Hội đồng, ông Hương cả, thầy Tham bái, vị Cai tổng, Quan
tham biện cho tới người ăn kẻ ở quê mùa, chất phác đều toát ra cái thần
hồn thần tính của họ… Tất cả những cảnh đời nói trên đều được Hồ Biểu
Chánh làm sống lại trong văn chương tả chân, phản ánh đúng lề lối sinh
hoạt của người dân miền sông nước Cửu Long trong giai đoạn thực dân hóa.
Nhớ mùa
hè năm 1969, tôi và một người bạn cùng quê đi Honda ngao du về miền Lục
tỉnh Nam kỳ. Cuộc hành trình từ Sài Gòn qua Nhà Bè tới Cần Đước, theo
những con đường lồi lõm, sỏi đá và bụi, băng qua những thửa ruộng, những
bờ đê ghé về quê nội tôi là huyện Cần Giuộc; thuở ấy làng quê chỉ có
những dẫy nhà tranh lụp xụp với con đường đất chạy xuyên qua đầm lau sậy
âm u. Từ Cần Giuộc qua cầu Rạch Kiến cặp theo dòng sông Soài Rạp tới
cửa Cần Giờ, rồi từ đó xuôi theo hướng Đông ghé vào chợ Dinh, Gò Công
nhắm chút rượu chuối với cá khô đồng.
Ban đêm
ngủ trong nhà người bà con nghèo khó mà tốt bụng của anh bạn đồng hành
nghe tiếng vạc kêu sương, nghe giun dế nỉ non, nghe tiếng heo ụt ịt đòi
ăn sau hè làm tôi bồi hồi nhớ tới những câu chuyện tiểu thuyết thời sự
xa xưa của nhà văn lão thành Hồ Biểu Chánh.
Đêm hôm
đó, nằm trên chiếc chõng tre ọp ẹp, tôi ngắm ánh trăng lặng lẽ luồn qua
liếp cửa chảy xuống đọng thành những vũng sáng trên nền đất mà nhớ tới
người. Tôi mơ hồ tưởng chừng như ông vẫn còn ở đâu đó trên mảnh đất Gò
Công hiền hòa này. Hồ Biểu Chánh sanh trưởng tại làng Bình Thành, tỉnh
Gò Công, nơi xưa kia là vùng đồi núi có nhiều chim công. Ông sinh ra để
sống và viết. Lúc mất đi, ông để lại cho đời những áng văn chương bất
hủ, góp phần bồi đắp cho nền văn học Việt Nam thêm phong phú.
Trong hàng trăm tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh, cuốn tiểu thuyết Tại Tôi, khi đọc tôi cảm thấy tự đáy sâu lòng mình thường dâng lên từng đợt sóng u hoài.
Tại Tôi
có những bối cảnh, những diễn biến cũng như những nhân vật đầy bi thảm.
“Thằng Ba”, tức Lý Như Thạch, con thứ của bà Cả Kim và cô con dâu tên
Nhung là những nạn nhân của chế độ gia đình thuở xưa. Sinh ra dưới thời
phong kiến, Như Thạch chịu sự giáo huấn nghiêm khắc của bà mẹ đồng thời
hấp thụ nền văn học Tây phương. Lý Như Thạch đi học xa nhà, cảm nhiễm
phong hóa Âu Tây, cưới vợ mà không thưa với bà Cả là trái với gia pháp
nên rốt cuộc cả cậu Thạch lẫn cô dâu đều bị bà Cả dứt tình đuổi ra khỏi
nhà.
Đoạn thê thảm nhất trong tác phẩm Tại Tôi
của Hồ Biểu Chánh là, tuy hai người trôi giạt về chốn xa xăm, thương
yêu, đùm bọc nhau trong hoạn nạn, chịu đựng nỗi cơ cực, bần hàn, nhưng
“họa vô đơn chi”. Lý Như Thạch đã hỏng về phương tộc, người bạn đường mà
anh yêu quí hết lòng hết dạ, trời xui đất khiến lại bị bịnh tim mà đứt
gánh giữa đường. Cô Nhung chết đi để lại người chồng bất đắc chí và
“nhánh lá nhà họ Lý” là con Thanh Nguyên còn thơ dại. Vậy mà trời nào
chịu buông tha, vẫn bắt số kiếp bi đát của Lý Như Thạch, trong mình mang
sẵn bịnh lao, không có tiền chạy chữa thuốc than; cuộc sống quá đày ải
lại gặp sự buồn rầu dồn dập, thân thể gầy mòn nên lần hồi ngắc ngoải lìa
đời. Không có gì bất hạnh cho bằng con còn nhỏ mà phải trải qua nỗi đau
mất cả mẹ lẫn cha.
Cái
chết và sự sống qua những câu văn thật bình dị và vô cùng cảm động của
Hồ Biểu Chánh khiến tâm hồn người đọc cũng theo ông nghiêng xuống nỗi
đau của cuộc đời. Nhưng người chết đã đành, người sống thì sao? May mắn
thay, trước khi chết Như Thạch đã để lại một tờ di ngôn cho người bạn
chí cốt tên Tự Cường và nhờ bạn nuôi dưỡng giùm đứa con vô gia đình, vô
thân tộc. Nhờ vậy, Thanh Nguyên lớn lên trong sự yêu thương hết lòng của
người dưỡng phụ, tuy không phải là cha đẻ nhưng tình nghĩa đã gần như
một bổn phận thiêng liêng đối với ông.
Tác phẩm Tại Tôi
của Hồ Biểu Chánh là tiếng thở dài não nuột trước sự bạc bẽo của nhân
tình thế thái. Vì lẽ đó, ở cuối chương tác gỉả đã ôn tồn đưa triết lý
Phật giáo vào cốt truyện như muốn khơi lại tánh bổn thiện của những thói
đời hệ lụy. Ngọn lửa từ bi là ánh sáng soi đường dẫn lối cho sinh linh
thành khẩn chắp tay hướng Phật. Nhưng vì gia tài đồ sộ của dòng họ Lý đã
che mờ lý trí của Lý Thị Phụng; con đầu lòng của bà Cả Kim, tự cô chọn
vị trí đứng ngoài bóng mát của hạnh từ bi nên y thị không có duyên với
nhà Phật, không hề nghe được tiếng Phật. Vì thiếu đức tin nên trong
truyện cô Phụng đành đoạn giấu nhẹm lá thư cầu cứu của em mình đang
trong cơn thập tử nhất sinh từ xa gởi về, không cho bà Cả hay. Giấu nhẹm
thư tuyệt mệnh của em mình để làm gì, nếu không phải là lòng tham không
đáy muốn chiếm trọn gia tài đồ sộ kia?
Sự kiện chua xót này được thể hiện bằng lời trách móc của thầy Hội đồng nhắm vào vợ chồng cô Phụng thật là đáng.
“Phụng,
thiệt rõ ràng vợ chồng mầy hiệp nhau mà giết em mầỵ Ngày thằng Thạch
dắt vợ nó về, chị Cả giận đuổi nó, vợ chồng mầy không có được một lời
can gián. Khi nó gần chết, nó viết thư như vầy, mà vợ chồng mầy giấu
biệt không cho chị Cả hay. Bây ăn ở như vầy thì khốn nạn quá. Tao hiểu
hết. Bây muốn cho thằng Thạch chết mà lại tuyệt tộc nữa đặng bây muốn ăn
gia tài cho trọn. Không được đâu, thái độ của bây như vậy trời không
cho bây hưởng trọn giàu sang đâu…”
Nhừng
mà trời Phật có bỏ ai dâu, chẳng qua người xấu gieo nhân xấu thì gặt quả
xấu, đúng như nhà Phật có câu gieo nhân gặp quả, vậy thôi. Đó là sự
công bằng, cũng là chuyện thường hằng của nhân thế.
Và rồi
việc gì tới phải tới. Từ ngày vợ chồng Lý Như Thạch chết đi, con Thanh
Nguyên, cháu nội bà Cả Kim lớn lên biết chuyện, không chịu nhận cội
nguồn; còn thằng Hữu Nhơn, con của vợ chồng cô Phụng bạc nghĩa kia lại
mắc phải chứng dở khùng dở điên. Cái cơ ngơi to lớn của bà Cả lúc nào
cũng tràn đầy ánh nắng, sau cuộc tang thương đã trở nên lạnh lẽo khác
thường. Cái gì làm cho ngôi nhà kia âm u, và thân tộc kia trở nên buồn
bã? Cuộc bể dâu vỗ từng cơn sóng dữ vào lòng nhân thế là như thế. Cũng
là chuyện thường tình.
Ta hãy nghe Hồ Biểu Chánh kết thúc câu chuyện đầy chua chát này:
Ông cai tổng Quyền lắc đầu rồi cười gằn: “Rõ ràng hễ làm dữ thì gặp dữ”.
Còn bà Cả Kim ngồi im lìm, mắt ngó sững ra ngoài sân một hồi lâu, bà thở một hơi dài thiệt dài rồi nói: “Tại tôi hết thảy!”.
Nhìn
lại suốt quãng đời cầm bút của nhà văn lão thành Hồ Biểu Chánh, vì sự
thôi thúc của bản năng và nỗi dằn vặt nội tâm khiến cho cuộc sống cổ sơ
và các tác phẩm văn chương của ông đều toát ra vẻ hiền hòa, chân thực
không những dành riêng cho mình mà con dành cho những con người miền Nam
quê mùa, chất phác.
Hồ Biểu
Chánh là một trong những nhà văn có giá trị của miền Nam nước Việt nói
chung và của miền đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
Phan Ni Tấn
http://www.banvannghe.com/p10a8166/ho-bieu-chanh-va-tieng-phat-phan-ni-tan
Bàn ra tán vào (0)
Hồ Biểu Chánh và tiếng Phật
Về sau, nghiền ngẫm những tác phẩm của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Vương Hồng Sễnh, đặc biệt là nhà văn Hồ Biểu Chánh, tôi như tìm về các ngõ ngách, ruộng đồng, kinh rạch,
Nhà văn Hồ Biểu Chánh (1884–1958)
Hồi nhỏ tới giờ tôi vẫn ưa đọc sách, đọc đủ các thể loại truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, khoa học dã tưởng, dịch thuật… Về sau, nghiền ngẫm những tác phẩm của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Vương Hồng Sễnh, đặc biệt là nhà văn Hồ Biểu Chánh, tôi như tìm về các ngõ ngách, ruộng đồng, kinh rạch, sông nước miền Tây quê nội tôi.
Đọc Hồ
Biểu Chánh để thấy một tâm hồn mộc mạc, đơn thuần như những cuộc đất
khẩn hoang với những con lạch muỗi mồng, âm u gợi lên từng địa danh xa
vời. Hồ Biểu Chánh sở trường về văn xuôi ẩn chứa một triết lý nhân sinh
góp phần bồi đắp nền văn học miền Nam qua hàng trăm tác phẩm giá trị.
Người đọc tìm đến Hồ Biểu Chánh bởi nhân cách sống với phong độ nho gia
đạm bạc và những trang viết giản dị, trong sáng, lấy bối cảnh miền Nam
làm đề tài với những cảnh đời phức tạp, những thành kiến hủ bại của gia
đình xã hội thời phong kiến. Phần lớn ông viết về đời sống phong phú của
những người dân cần cù lao động làm nổi bậc truyền thống dũng cảm, sức
chịu đựng, lòng nghĩa hiệp và tinh thần vượt qua mọi gian lao thử thách
vào giai đoạn lịch sử dưới thời Pháp thuộc.
Đặc tính trong cách hành văn của Hồ Biểu Chánh là luôn luôn nhấn mạnh vào từng tiếng địa phương, từng chữ đơn sơ, từng nghĩa mộc mạc của ngôn ngữ miền đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi câu truyện của Hồ Biểu Chánh là một bức khắc họa có chiều sâu với những hình thể và màu sắc khác biệt. Nói đến Hồ Biểu Chánh là nói đến dòng thời gian xa thẳm, là tìm về miền ký ức mờ sương. Cho nên đọc Hồ Biểu Chánh, ta có cảm tưởng như đi ngược về dĩ vãng để tha thiết tìm lại hồn đời của từng nếp sống xa xưa.
Đặc tính trong cách hành văn của Hồ Biểu Chánh là luôn luôn nhấn mạnh vào từng tiếng địa phương, từng chữ đơn sơ, từng nghĩa mộc mạc của ngôn ngữ miền đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi câu truyện của Hồ Biểu Chánh là một bức khắc họa có chiều sâu với những hình thể và màu sắc khác biệt. Nói đến Hồ Biểu Chánh là nói đến dòng thời gian xa thẳm, là tìm về miền ký ức mờ sương. Cho nên đọc Hồ Biểu Chánh, ta có cảm tưởng như đi ngược về dĩ vãng để tha thiết tìm lại hồn đời của từng nếp sống xa xưa.
Hồ Biểu
Chánh viết văn giản dị như nói chuyện. Ông say sưa kể chuyện với cả tâm
tình. Những câu chuyện về đồng áng, kinh rạch, sông ngòi, đất đai, nhà
cửa…, về bà Hội đồng, ông Hương cả, thầy Tham bái, vị Cai tổng, Quan
tham biện cho tới người ăn kẻ ở quê mùa, chất phác đều toát ra cái thần
hồn thần tính của họ… Tất cả những cảnh đời nói trên đều được Hồ Biểu
Chánh làm sống lại trong văn chương tả chân, phản ánh đúng lề lối sinh
hoạt của người dân miền sông nước Cửu Long trong giai đoạn thực dân hóa.
Nhớ mùa
hè năm 1969, tôi và một người bạn cùng quê đi Honda ngao du về miền Lục
tỉnh Nam kỳ. Cuộc hành trình từ Sài Gòn qua Nhà Bè tới Cần Đước, theo
những con đường lồi lõm, sỏi đá và bụi, băng qua những thửa ruộng, những
bờ đê ghé về quê nội tôi là huyện Cần Giuộc; thuở ấy làng quê chỉ có
những dẫy nhà tranh lụp xụp với con đường đất chạy xuyên qua đầm lau sậy
âm u. Từ Cần Giuộc qua cầu Rạch Kiến cặp theo dòng sông Soài Rạp tới
cửa Cần Giờ, rồi từ đó xuôi theo hướng Đông ghé vào chợ Dinh, Gò Công
nhắm chút rượu chuối với cá khô đồng.
Ban đêm
ngủ trong nhà người bà con nghèo khó mà tốt bụng của anh bạn đồng hành
nghe tiếng vạc kêu sương, nghe giun dế nỉ non, nghe tiếng heo ụt ịt đòi
ăn sau hè làm tôi bồi hồi nhớ tới những câu chuyện tiểu thuyết thời sự
xa xưa của nhà văn lão thành Hồ Biểu Chánh.
Đêm hôm
đó, nằm trên chiếc chõng tre ọp ẹp, tôi ngắm ánh trăng lặng lẽ luồn qua
liếp cửa chảy xuống đọng thành những vũng sáng trên nền đất mà nhớ tới
người. Tôi mơ hồ tưởng chừng như ông vẫn còn ở đâu đó trên mảnh đất Gò
Công hiền hòa này. Hồ Biểu Chánh sanh trưởng tại làng Bình Thành, tỉnh
Gò Công, nơi xưa kia là vùng đồi núi có nhiều chim công. Ông sinh ra để
sống và viết. Lúc mất đi, ông để lại cho đời những áng văn chương bất
hủ, góp phần bồi đắp cho nền văn học Việt Nam thêm phong phú.
Trong hàng trăm tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh, cuốn tiểu thuyết Tại Tôi, khi đọc tôi cảm thấy tự đáy sâu lòng mình thường dâng lên từng đợt sóng u hoài.
Tại Tôi
có những bối cảnh, những diễn biến cũng như những nhân vật đầy bi thảm.
“Thằng Ba”, tức Lý Như Thạch, con thứ của bà Cả Kim và cô con dâu tên
Nhung là những nạn nhân của chế độ gia đình thuở xưa. Sinh ra dưới thời
phong kiến, Như Thạch chịu sự giáo huấn nghiêm khắc của bà mẹ đồng thời
hấp thụ nền văn học Tây phương. Lý Như Thạch đi học xa nhà, cảm nhiễm
phong hóa Âu Tây, cưới vợ mà không thưa với bà Cả là trái với gia pháp
nên rốt cuộc cả cậu Thạch lẫn cô dâu đều bị bà Cả dứt tình đuổi ra khỏi
nhà.
Đoạn thê thảm nhất trong tác phẩm Tại Tôi
của Hồ Biểu Chánh là, tuy hai người trôi giạt về chốn xa xăm, thương
yêu, đùm bọc nhau trong hoạn nạn, chịu đựng nỗi cơ cực, bần hàn, nhưng
“họa vô đơn chi”. Lý Như Thạch đã hỏng về phương tộc, người bạn đường mà
anh yêu quí hết lòng hết dạ, trời xui đất khiến lại bị bịnh tim mà đứt
gánh giữa đường. Cô Nhung chết đi để lại người chồng bất đắc chí và
“nhánh lá nhà họ Lý” là con Thanh Nguyên còn thơ dại. Vậy mà trời nào
chịu buông tha, vẫn bắt số kiếp bi đát của Lý Như Thạch, trong mình mang
sẵn bịnh lao, không có tiền chạy chữa thuốc than; cuộc sống quá đày ải
lại gặp sự buồn rầu dồn dập, thân thể gầy mòn nên lần hồi ngắc ngoải lìa
đời. Không có gì bất hạnh cho bằng con còn nhỏ mà phải trải qua nỗi đau
mất cả mẹ lẫn cha.
Cái
chết và sự sống qua những câu văn thật bình dị và vô cùng cảm động của
Hồ Biểu Chánh khiến tâm hồn người đọc cũng theo ông nghiêng xuống nỗi
đau của cuộc đời. Nhưng người chết đã đành, người sống thì sao? May mắn
thay, trước khi chết Như Thạch đã để lại một tờ di ngôn cho người bạn
chí cốt tên Tự Cường và nhờ bạn nuôi dưỡng giùm đứa con vô gia đình, vô
thân tộc. Nhờ vậy, Thanh Nguyên lớn lên trong sự yêu thương hết lòng của
người dưỡng phụ, tuy không phải là cha đẻ nhưng tình nghĩa đã gần như
một bổn phận thiêng liêng đối với ông.
Tác phẩm Tại Tôi
của Hồ Biểu Chánh là tiếng thở dài não nuột trước sự bạc bẽo của nhân
tình thế thái. Vì lẽ đó, ở cuối chương tác gỉả đã ôn tồn đưa triết lý
Phật giáo vào cốt truyện như muốn khơi lại tánh bổn thiện của những thói
đời hệ lụy. Ngọn lửa từ bi là ánh sáng soi đường dẫn lối cho sinh linh
thành khẩn chắp tay hướng Phật. Nhưng vì gia tài đồ sộ của dòng họ Lý đã
che mờ lý trí của Lý Thị Phụng; con đầu lòng của bà Cả Kim, tự cô chọn
vị trí đứng ngoài bóng mát của hạnh từ bi nên y thị không có duyên với
nhà Phật, không hề nghe được tiếng Phật. Vì thiếu đức tin nên trong
truyện cô Phụng đành đoạn giấu nhẹm lá thư cầu cứu của em mình đang
trong cơn thập tử nhất sinh từ xa gởi về, không cho bà Cả hay. Giấu nhẹm
thư tuyệt mệnh của em mình để làm gì, nếu không phải là lòng tham không
đáy muốn chiếm trọn gia tài đồ sộ kia?
Sự kiện chua xót này được thể hiện bằng lời trách móc của thầy Hội đồng nhắm vào vợ chồng cô Phụng thật là đáng.
“Phụng,
thiệt rõ ràng vợ chồng mầy hiệp nhau mà giết em mầỵ Ngày thằng Thạch
dắt vợ nó về, chị Cả giận đuổi nó, vợ chồng mầy không có được một lời
can gián. Khi nó gần chết, nó viết thư như vầy, mà vợ chồng mầy giấu
biệt không cho chị Cả hay. Bây ăn ở như vầy thì khốn nạn quá. Tao hiểu
hết. Bây muốn cho thằng Thạch chết mà lại tuyệt tộc nữa đặng bây muốn ăn
gia tài cho trọn. Không được đâu, thái độ của bây như vậy trời không
cho bây hưởng trọn giàu sang đâu…”
Nhừng
mà trời Phật có bỏ ai dâu, chẳng qua người xấu gieo nhân xấu thì gặt quả
xấu, đúng như nhà Phật có câu gieo nhân gặp quả, vậy thôi. Đó là sự
công bằng, cũng là chuyện thường hằng của nhân thế.
Và rồi
việc gì tới phải tới. Từ ngày vợ chồng Lý Như Thạch chết đi, con Thanh
Nguyên, cháu nội bà Cả Kim lớn lên biết chuyện, không chịu nhận cội
nguồn; còn thằng Hữu Nhơn, con của vợ chồng cô Phụng bạc nghĩa kia lại
mắc phải chứng dở khùng dở điên. Cái cơ ngơi to lớn của bà Cả lúc nào
cũng tràn đầy ánh nắng, sau cuộc tang thương đã trở nên lạnh lẽo khác
thường. Cái gì làm cho ngôi nhà kia âm u, và thân tộc kia trở nên buồn
bã? Cuộc bể dâu vỗ từng cơn sóng dữ vào lòng nhân thế là như thế. Cũng
là chuyện thường tình.
Ta hãy nghe Hồ Biểu Chánh kết thúc câu chuyện đầy chua chát này:
Ông cai tổng Quyền lắc đầu rồi cười gằn: “Rõ ràng hễ làm dữ thì gặp dữ”.
Còn bà Cả Kim ngồi im lìm, mắt ngó sững ra ngoài sân một hồi lâu, bà thở một hơi dài thiệt dài rồi nói: “Tại tôi hết thảy!”.
Nhìn
lại suốt quãng đời cầm bút của nhà văn lão thành Hồ Biểu Chánh, vì sự
thôi thúc của bản năng và nỗi dằn vặt nội tâm khiến cho cuộc sống cổ sơ
và các tác phẩm văn chương của ông đều toát ra vẻ hiền hòa, chân thực
không những dành riêng cho mình mà con dành cho những con người miền Nam
quê mùa, chất phác.
Hồ Biểu
Chánh là một trong những nhà văn có giá trị của miền Nam nước Việt nói
chung và của miền đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
Phan Ni Tấn
http://www.banvannghe.com/p10a8166/ho-bieu-chanh-va-tieng-phat-phan-ni-tan