Khoa Học Thực Nghiệm & Tâm Linh
Kinh tế: Tổng kết 8 năm Barack Obama
Lên cầm quyền vào lúc kinh tế Mỹ bước vào giai đoạn đen tối nhất, sau hai nhiệm kỳ tổng thống, Barack Obama chuẩn bị rời Nhà Trắng với hơn 50 % tỷ lệ được lòng dân nhờ ông đã vực dậy cỗ xe kinh tế
Tổng thống Mỹ Barack Obama, ngày 06/11/2016.
REUTERS/Mike Theiler
Lên cầm quyền vào lúc kinh tế Mỹ bước vào giai đoạn đen tối nhất, sau hai nhiệm kỳ tổng thống, Barack Obama chuẩn bị rời Nhà Trắng với hơn 50 % tỷ lệ được lòng dân nhờ ông đã vực dậy cỗ xe kinh tế, tạo 15 triệu công việc làm cho người dân. Bên cạnh những thành tích đó, vẫn tồn đọng nhiều khó khăn mà vị tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ đã không thể vượt qua.
Vài tuần lễ sau vụ ngân hàng Lehman Brothers phá sản tạo nên một trận đại hồng thủy trên sàn chứng khoán New York và đe dọa toàn bộ bền tài chính toàn cầu, Hoa Kỳ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng nhất từ năm 1929, một tia hy vọng đã lóe lên ngày 04/11/2008 khi gần 53 % dân Mỹ bỏ phiếu cho ông Obama. Như trong suốt cuộc vận động tranh cử, khẩu hiệu của ứng viên đảng Dân Chủ này là hãy « cùng nhau, làm thay đổi bộ mặt của nước Mỹ và thế giới ».
Tám năm sau, nhìn lại kinh tế Mỹ, đâu là những thành tựu và thất bại của tổng thống Obama trong hai nhiệm kỳ vừa qua ?
Năm tháng đen tối đầu nhiệm kỳ
Tháng 01/2009, Barack Hussein Obama chính thức tuyên thệ nhậm chức, trở thành vị tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ. Kinh tế Mỹ suy thoái vì ba cuộc khủng hoảng « lồng vào làm một » : bất động sản, tín dụng địa ốc – subprime ; khủng hoảng trong ngành tài chính ngân hàng khi cổ phiếu bị tuột giá, và sự sụp đổ của ngành tài chính đã kéo nền kinh tế thực xuống vực thẳm. Điển hình nhất là cả mảng công nghệ xe hơi của Mỹ bị đe dọa.
Hậu quả trực tiếp từ những biến cố dồn dập nói trên là 8 triệu người lao động mất việc làm, 7 triệu bị tịch biên nhà ở, thị trường địa ốc đóng băng. Lần đầu tiên từ năm 1946, tổng sản phẩm nội địa - GDP của Mỹ trong năm 2009 giảm 2,4 %.
Nhìn đến một chỉ số quan trọng khác là tỷ lệ thất nghiệp, theo thống kê của bộ Lao Động Mỹ, chỉ riêng trong tháng 02/2009, hơn 650.000 chỗ làm bị giải tán, hơn 8 % người lao động không có công việc làm - tỷ lệ tồi tệ nhất từ năm 1983. Đến tháng 11/2009, thất nghiệp ở Mỹ vượt quá ngưỡng tâm lý 10 %. Trong suốt năm đầu tiên của nhiệm kỳ Obama, mỗi tuần hàng chục ngàn người bị sa thải.
Gói kích cầu gần 800 tỷ đô la
Trước tình hình nguy kịch đó, tháng 02/2009 tổng thống Obama thông qua kế hoạch kích cầu gần 800 tỷ đô la với mục đích đây phải là « điểm khởi đầu để tạo nên những nền tảng vững chắc, đưa nước Mỹ trở lại với con đường tăng trưởng dài lâu », như chính ông tuyên bố trước khi hạ bút ký sắc lệnh cho gói kích cầu đó.
Tại một đất nước có truyền thống theo chủ nghĩa « tự do » như Hoa Kỳ, công luận đã không khỏi chỉ trích chính sách can thiệp vào các hoạt động kinh tế - dù là mang tính « chữa cháy » - nói trên và cho là tổng thống Barack Obama muốn đi theo thuyết học của Keynes, dùng chi tiêu công cộng để kích thích tiêu thụ và đầu tư.
Một sự kết hợp khéo léo của Obama
Giáo sư Frank Khalifa trường cao đẳng Billières, Toulouse cho rằng, khác với truyền thống trong học thuyết Keynes là thuần túy sử dụng ngân sách để kích cầu, tổng thống Barack Obama đã vận dụng cùng một lúc ngân sách nhà nước và thuyết phục Ngân Hàng Trung Ương nới lỏng chính sách tiền tệ, giữ lãi suất chỉ đạo 0% trong nhiều năm trời.
« Thực ra trường phái theo học thuyết của Keynes bắt rễ tại châu Âu. Trong khi đó, Hoa Kỳ luôn nghiêng về chủ nghĩa tự do. Ngay cả trong chính sách kích cầu của Mỹ cũng có những khác biệt lớn so với châu Âu. Ở Mỹ, năm 2009, tổng thống Barack Obama đã ban hành kế hoạch kích cầu 787 tỷ đô la, tăng ngân sách nhà nước liên bang và bơm khoản tiền đó vào các hoạt động kinh tế, chủ yếu là tăng một loạt các chương trình đầu tư công.
Nhưng đồng thời ông Obama cũng đã thuyết phục được cả Ngân Hàng Trung Ương Fed nới lỏng chính sách tiền tệ. Cả hai biện pháp này cộng lại đã cho phép Hoa Kỳ nhanh chóng phục hồi. Tôi cũng xin lưu ý thêm là trong lúc khu vực đồng euro quy định thâm hụt ngân sách nhà nước không được vượt quá ngưỡng 3 % tổng sản phẩm nội địa, thì nước Mỹ của ông Obama đã mạnh dạn thông báo gói kích cầu gần 800 tỷ đô la, tương đương với 20 % ngân sách của cả nước trong năm 2009 ».
Nhà báo chuyên theo dõi các hồ sơ kinh tế và chính sách đầu tư Laurent Hattchouel cũng cho rằng điểm son của tổng thống Obama là đã thuyết phục được cả Quốc hội lẫn Ngân Hàng Trung Ương chung sức với Nhà Trắng. Lãnh đạo Fed khi đó là thống đốc Ben Bernanke, người được chính quyền Bush bổ nhiệm:
«Thành công rõ rệt nhất của tổng thống Barack Obama là ông đã huy động được cùng lúc cả ngân sách nhà nước lẫn chính sách tiền tệ thuộc quyền hạn của Cục Dự Trữ Liên Bang, tức là Ngân Hàng Trung Ương. Thuyết phục được Quốc Hội lưỡng viện thông qua một gói kích cầu gần 800 tỷ đô la hồi năm 2009 không phải là dễ. Trong số gần 800 tỷ đô la nói trên, có tới 500 tỷ là để đầu tư vào các công trình công cộng. Nhờ gói đầu tư quan trọng đó mà các chỉ số kinh tế Mỹ đã khởi sắc sau giai đoạn khó khăn nhất kéo dài trong vòng 18 tháng.
Đừng quên là đầu năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ tăng lên tới gần 11 %. Giờ đây, hai tháng trước khi ông Obama rời Nhà Trắng, chỉ còn có 5 % dân Mỹ không có việc làm. Các kế hoạch bơm tiền vào cho khu vực kinh tế cũng đã mang lại hiệu quả nhờ các doanh nghiệp chịu đầu tư.
Song song với chương trình kích cầu, chính quyền Obama còn làm tất cả để các ngân hàng Mỹ không thiếu thanh khoản, để vẫn có thể cấp vốn cho các doanh nghiệp. Một thành công khác của ông Obama được thể hiện qua thống kê về mức thâm hụt ngân sách của nhà nước : Năm 2009 khi ông lên cầm quyền, bội chi ngân sách của chính quyền liên bang tương đương với 9,8 % GDP, hiện tại, tỷ lệ này rơi xuống còn chưa đầy 3 %. Tuy nhiên, để cứu nguy một cỗ máy kinh tế lớn như của Hoa Kỳ, Washington đã phải huy động rất nhiều vốn, khiến nợ công của cả nước tăng lên, đang từ 75 % đầu nhiệm kỳ 1 nay tỷ lệ này tương đương với khoảng 110 % GDP của Mỹ ».
Hiệu quả của chính sách Obama
Dù bênh hay chống chính sách kinh tế của ông Obama trong hai nhiệm kỳ tổng thống sắp bước vào hồi kết, không ai có thể phủ nhận một số các thành tựu sau đây :
Tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục 11 % năm 2011, nay đã rơi xuống mức tối thiểu là 5 % ; 15 triệu công việc làm được tạo ra và cũng nhờ chính sách can thiệp của ông Obama, ngành công nghệ xe hơi Mỹ đã hồi sinh, cứu vãn được từ 1 đến 3 triệu việc làm (tùy theo cách tính toán của các viện nghiên cứu) cho người lao động qua việc « quốc hữu hóa » hai tập đoàn GM và Chrysler.
Nhìn đến chỉ số tăng trưởng, Barack Obama chuẩn bị rời Nhà Trắng vào lúc GDP của Hoa Kỳ tăng trưởng trở lại với tỷ lệ trên dưới 3 %. Một điểm son khác trong bảng thành tích của ông Obama là đã thu hẹp thâm hụt ngân sách nhà nước đang từ 9,8 % GDP năm 2009 nay đã giảm xuống còn 3,8 %.
Tuy nhiên, cái giá phải trả là tổng nợ công của Hoa Kỳ trong 8 năm vừa qua đã tăng 80 %, đang từ 10.600 tỷ đô la nhảy vọt lên thành 19.000 tỷ !
Cải tổ hệ thống tài chính ngân hàng
Với ngành tài chính ngân hàng, đạo luật Dodd Frank được thông qua vào mùa hè 2010, nhưng chỉ chính thức có hiệu lực vào năm 2014, tăng cường các biện pháp giám sát các hoạt động ngân hàng, bảo vệ người tiêu dùng trước những sản phẩm tài chính có mức độ rủi ro cao. Giới quan sát coi đây là một công cụ để chính quyền can thiệp sâu hơn vào lĩnh vực tài chính.
Sau cơn ác mộng năm 2008, các ngân hàng Mỹ được coi là « ổn định », các tập đoàn tên tuổi như JP Morgan hay Goldman Sachs đã làm ăn có lãi trở lại. JP Morgan thông báo lãi hơn 24 tỷ đô la. Chủ tịch tổng giám đốc ngân hàng này, Jamie Dimon, đã nhận được một khoản tiền thưởng hơn 25 triệu đô la trong tài khóa 2015.
Sáu năm sau khi Barack Obama « tuyên chiến » với những khoản tiền thưởng quá lố của các ông vua tài chính, những người được mệnh danh là « những con sói của Wall Street » lại càng giàu thêm.
Tổng giám đốc Goldman Sachs, Lloyd Blankfein cách nay 8 năm từ chối nhận tiền thưởng trước những trách nhiệm của tập đoàn ngân hàng này trong vụ khủng hoảng subprime, nhưng đến 2016, Blankfein vẫn được coi là một trong ba doanh nhân thế lực nhất. Tháng 04/2016, ông vua tài chính này chấp nhận nộp phạt 5 tỷ đô la để khỏi bị tiếp tục truy tố về trách nhiệm trong cuộc khủng hoảng địa ốc Hoa Kỳ.
Trong 8 năm nhiệm kỳ tổng thống Obama, chỉ số chứng khoán Dow Jones và NASDAQ theo thứ tự đã được nhân lên gấp 2 và gấp 3 lần. Nhìn chung, giới tài chính Wall Street có nhiều thiện cảm với Barack Obama.
Obamacare và cái giá chính trị phải trả
Về mặt xã hội, Barack Obama đi vào lịch sử nhờ đạo luật được biết dưới cái tên « Obamacare », với ý tưởng nhà nước trợ cấp cho thành phần nghèo khó nhất để mọi người đều được chăm sóc khi đau ốm. Đây là một trong những cam kết của ứng cử viên tổng thống Barack Obama.
Tháng 03/2010, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật gây nhiều tranh cãi này, và bốn năm sau, Obamacare chính thức có hiệu lực.
Người ủng hộ thì cho rằng đây là một « tiến bộ lớn về mặt xã hội ». Ngược lại, phe chống đối thì xem luật bảo hiểm mang tên vị tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ là một chương trình quá tốn kém.
Cho đến cuối năm 2015, mới chỉ có 20 triệu trên tổng số 320 triệu dân Mỹ đóng bảo hiểm y tế trong khuôn khổ Obamacare, và chỉ có 83 % số người đó được hưởng trợ cấp của chính phủ cho khoản chi tiêu phụ trội nói trên. Thêm một lý do khác để chỉ trích luật bảo hiểm y tế Mỹ là với Obamacare, kinh phí bảo hiểm đã tăng mạnh, sức mua của các hộ gia đình qua đó giảm đi.
Theo cơ quan thống kê dân số Hoa Kỳ, vẫn còn trên 9 % dân Mỹ không có bảo hiểm y tế. Cũng vì luật bảo hiểm Obamacare mà trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ 2010, đảng Dân Chủ đã thua đậm.
Bất bình đẳng xã hội
Một thất bại khác về phương diện xã hội trong hai nhiệm kỳ Obama là cách biệt giàu nghèo tại Mỹ ngày càng lớn. Năm 2009, 1% những người giàu nhất nắm giữ 16,7 % tổng sản phẩm của cả nước. Khi Barack Obama sắp mãn nhiệm, tỷ lệ đó tăng lên tới 18,4 %.
Nhà báo chuyên theo dõi các hồ sơ kinh tế và chính sách đầu tư Laurent Hattchouel xem những bất công xã hội là nguyên nhân khiến cử tri Hoa Kỳ dễ dàng nghe theo các luận điểm mị dân của nhà tỷ phú New York Donald Trump :
« Tỷ lệ người nghèo ở Mỹ đã tăng lên sau hai nhiệm kỳ Obama. Nếu như vị tổng thống thứ 44 của nước Mỹ thành công trên mặt trận kinh tế thì ngược lại, trong lĩnh vực xã hội, tầng lớp trung lưu đã nghèo đi trong hai nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nước Mỹ đang trong giai đoạn phi công nghiệp hóa.
Có 320 triệu dân Mỹ, 150 triệu công ăn việc làm, 80 % trong số đó hướng về khu vực dịch vụ, chỉ có 15 % làm việc trong ngành công nghiệp, 5 % là nông gia. Vấn đề đặt ra là trong lĩnh vực dịch vụ, lương của nhân viên trong 8 năm qua không tăng, hay có tăng thì rất tăng rất chậm.
Trong khi đó thì những người giàu thì lại giàu thêm : hiện nay 1 % người giàu nhất ở Mỹ nắm giữ một số tiền tương đương với hơn 18 % tổng sản phẩm nội địa. Đó là mầm mống để những lập luận mị dân của ông Donald Trump được phát triển và nhà tỷ phú New York này khai thác những thất bại của Barack Obama về mặt xã hội để chiêu dụ cử tri ».
Vào những tuần lễ cuối Barack Obama ở Nhà Trắng, khoảng cách giàu nghèo ở Mỹ đã lớn hơn so với 8 năm trước, xã hội Hoa Kỳ vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, từ vấn đề nhập cư, đến khác biệt về màu da và chủng tộc. Nhưng xét cho cùng, có lẽ thất bại lớn nhất của ông Obama trong hai nhiệm kỳ vừa qua là đã không đáp ứng được tất cả những chờ đợi quá lớn của 320 triệu dân Mỹ, trong lúc công luận Hoa Kỳ và cả thế giới thì lại kỳ vọng quá nhiều vào vị tổng thống thứ 44 này.
Tổng thống Mỹ Barack Obama, ngày 06/11/2016.
REUTERS/Mike Theiler
Lên cầm quyền vào lúc kinh tế Mỹ bước vào giai đoạn đen tối nhất, sau hai nhiệm kỳ tổng thống, Barack Obama chuẩn bị rời Nhà Trắng với hơn 50 % tỷ lệ được lòng dân nhờ ông đã vực dậy cỗ xe kinh tế, tạo 15 triệu công việc làm cho người dân. Bên cạnh những thành tích đó, vẫn tồn đọng nhiều khó khăn mà vị tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ đã không thể vượt qua.
Vài tuần lễ sau vụ ngân hàng Lehman Brothers phá sản tạo nên một trận đại hồng thủy trên sàn chứng khoán New York và đe dọa toàn bộ bền tài chính toàn cầu, Hoa Kỳ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng nhất từ năm 1929, một tia hy vọng đã lóe lên ngày 04/11/2008 khi gần 53 % dân Mỹ bỏ phiếu cho ông Obama. Như trong suốt cuộc vận động tranh cử, khẩu hiệu của ứng viên đảng Dân Chủ này là hãy « cùng nhau, làm thay đổi bộ mặt của nước Mỹ và thế giới ».
Tám năm sau, nhìn lại kinh tế Mỹ, đâu là những thành tựu và thất bại của tổng thống Obama trong hai nhiệm kỳ vừa qua ?
Năm tháng đen tối đầu nhiệm kỳ
Tháng 01/2009, Barack Hussein Obama chính thức tuyên thệ nhậm chức, trở thành vị tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ. Kinh tế Mỹ suy thoái vì ba cuộc khủng hoảng « lồng vào làm một » : bất động sản, tín dụng địa ốc – subprime ; khủng hoảng trong ngành tài chính ngân hàng khi cổ phiếu bị tuột giá, và sự sụp đổ của ngành tài chính đã kéo nền kinh tế thực xuống vực thẳm. Điển hình nhất là cả mảng công nghệ xe hơi của Mỹ bị đe dọa.
Hậu quả trực tiếp từ những biến cố dồn dập nói trên là 8 triệu người lao động mất việc làm, 7 triệu bị tịch biên nhà ở, thị trường địa ốc đóng băng. Lần đầu tiên từ năm 1946, tổng sản phẩm nội địa - GDP của Mỹ trong năm 2009 giảm 2,4 %.
Nhìn đến một chỉ số quan trọng khác là tỷ lệ thất nghiệp, theo thống kê của bộ Lao Động Mỹ, chỉ riêng trong tháng 02/2009, hơn 650.000 chỗ làm bị giải tán, hơn 8 % người lao động không có công việc làm - tỷ lệ tồi tệ nhất từ năm 1983. Đến tháng 11/2009, thất nghiệp ở Mỹ vượt quá ngưỡng tâm lý 10 %. Trong suốt năm đầu tiên của nhiệm kỳ Obama, mỗi tuần hàng chục ngàn người bị sa thải.
Gói kích cầu gần 800 tỷ đô la
Trước tình hình nguy kịch đó, tháng 02/2009 tổng thống Obama thông qua kế hoạch kích cầu gần 800 tỷ đô la với mục đích đây phải là « điểm khởi đầu để tạo nên những nền tảng vững chắc, đưa nước Mỹ trở lại với con đường tăng trưởng dài lâu », như chính ông tuyên bố trước khi hạ bút ký sắc lệnh cho gói kích cầu đó.
Tại một đất nước có truyền thống theo chủ nghĩa « tự do » như Hoa Kỳ, công luận đã không khỏi chỉ trích chính sách can thiệp vào các hoạt động kinh tế - dù là mang tính « chữa cháy » - nói trên và cho là tổng thống Barack Obama muốn đi theo thuyết học của Keynes, dùng chi tiêu công cộng để kích thích tiêu thụ và đầu tư.
Một sự kết hợp khéo léo của Obama
Giáo sư Frank Khalifa trường cao đẳng Billières, Toulouse cho rằng, khác với truyền thống trong học thuyết Keynes là thuần túy sử dụng ngân sách để kích cầu, tổng thống Barack Obama đã vận dụng cùng một lúc ngân sách nhà nước và thuyết phục Ngân Hàng Trung Ương nới lỏng chính sách tiền tệ, giữ lãi suất chỉ đạo 0% trong nhiều năm trời.
« Thực ra trường phái theo học thuyết của Keynes bắt rễ tại châu Âu. Trong khi đó, Hoa Kỳ luôn nghiêng về chủ nghĩa tự do. Ngay cả trong chính sách kích cầu của Mỹ cũng có những khác biệt lớn so với châu Âu. Ở Mỹ, năm 2009, tổng thống Barack Obama đã ban hành kế hoạch kích cầu 787 tỷ đô la, tăng ngân sách nhà nước liên bang và bơm khoản tiền đó vào các hoạt động kinh tế, chủ yếu là tăng một loạt các chương trình đầu tư công.
Nhưng đồng thời ông Obama cũng đã thuyết phục được cả Ngân Hàng Trung Ương Fed nới lỏng chính sách tiền tệ. Cả hai biện pháp này cộng lại đã cho phép Hoa Kỳ nhanh chóng phục hồi. Tôi cũng xin lưu ý thêm là trong lúc khu vực đồng euro quy định thâm hụt ngân sách nhà nước không được vượt quá ngưỡng 3 % tổng sản phẩm nội địa, thì nước Mỹ của ông Obama đã mạnh dạn thông báo gói kích cầu gần 800 tỷ đô la, tương đương với 20 % ngân sách của cả nước trong năm 2009 ».
Nhà báo chuyên theo dõi các hồ sơ kinh tế và chính sách đầu tư Laurent Hattchouel cũng cho rằng điểm son của tổng thống Obama là đã thuyết phục được cả Quốc hội lẫn Ngân Hàng Trung Ương chung sức với Nhà Trắng. Lãnh đạo Fed khi đó là thống đốc Ben Bernanke, người được chính quyền Bush bổ nhiệm:
«Thành công rõ rệt nhất của tổng thống Barack Obama là ông đã huy động được cùng lúc cả ngân sách nhà nước lẫn chính sách tiền tệ thuộc quyền hạn của Cục Dự Trữ Liên Bang, tức là Ngân Hàng Trung Ương. Thuyết phục được Quốc Hội lưỡng viện thông qua một gói kích cầu gần 800 tỷ đô la hồi năm 2009 không phải là dễ. Trong số gần 800 tỷ đô la nói trên, có tới 500 tỷ là để đầu tư vào các công trình công cộng. Nhờ gói đầu tư quan trọng đó mà các chỉ số kinh tế Mỹ đã khởi sắc sau giai đoạn khó khăn nhất kéo dài trong vòng 18 tháng.
Đừng quên là đầu năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ tăng lên tới gần 11 %. Giờ đây, hai tháng trước khi ông Obama rời Nhà Trắng, chỉ còn có 5 % dân Mỹ không có việc làm. Các kế hoạch bơm tiền vào cho khu vực kinh tế cũng đã mang lại hiệu quả nhờ các doanh nghiệp chịu đầu tư.
Song song với chương trình kích cầu, chính quyền Obama còn làm tất cả để các ngân hàng Mỹ không thiếu thanh khoản, để vẫn có thể cấp vốn cho các doanh nghiệp. Một thành công khác của ông Obama được thể hiện qua thống kê về mức thâm hụt ngân sách của nhà nước : Năm 2009 khi ông lên cầm quyền, bội chi ngân sách của chính quyền liên bang tương đương với 9,8 % GDP, hiện tại, tỷ lệ này rơi xuống còn chưa đầy 3 %. Tuy nhiên, để cứu nguy một cỗ máy kinh tế lớn như của Hoa Kỳ, Washington đã phải huy động rất nhiều vốn, khiến nợ công của cả nước tăng lên, đang từ 75 % đầu nhiệm kỳ 1 nay tỷ lệ này tương đương với khoảng 110 % GDP của Mỹ ».
Hiệu quả của chính sách Obama
Dù bênh hay chống chính sách kinh tế của ông Obama trong hai nhiệm kỳ tổng thống sắp bước vào hồi kết, không ai có thể phủ nhận một số các thành tựu sau đây :
Tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục 11 % năm 2011, nay đã rơi xuống mức tối thiểu là 5 % ; 15 triệu công việc làm được tạo ra và cũng nhờ chính sách can thiệp của ông Obama, ngành công nghệ xe hơi Mỹ đã hồi sinh, cứu vãn được từ 1 đến 3 triệu việc làm (tùy theo cách tính toán của các viện nghiên cứu) cho người lao động qua việc « quốc hữu hóa » hai tập đoàn GM và Chrysler.
Nhìn đến chỉ số tăng trưởng, Barack Obama chuẩn bị rời Nhà Trắng vào lúc GDP của Hoa Kỳ tăng trưởng trở lại với tỷ lệ trên dưới 3 %. Một điểm son khác trong bảng thành tích của ông Obama là đã thu hẹp thâm hụt ngân sách nhà nước đang từ 9,8 % GDP năm 2009 nay đã giảm xuống còn 3,8 %.
Tuy nhiên, cái giá phải trả là tổng nợ công của Hoa Kỳ trong 8 năm vừa qua đã tăng 80 %, đang từ 10.600 tỷ đô la nhảy vọt lên thành 19.000 tỷ !
Cải tổ hệ thống tài chính ngân hàng
Với ngành tài chính ngân hàng, đạo luật Dodd Frank được thông qua vào mùa hè 2010, nhưng chỉ chính thức có hiệu lực vào năm 2014, tăng cường các biện pháp giám sát các hoạt động ngân hàng, bảo vệ người tiêu dùng trước những sản phẩm tài chính có mức độ rủi ro cao. Giới quan sát coi đây là một công cụ để chính quyền can thiệp sâu hơn vào lĩnh vực tài chính.
Sau cơn ác mộng năm 2008, các ngân hàng Mỹ được coi là « ổn định », các tập đoàn tên tuổi như JP Morgan hay Goldman Sachs đã làm ăn có lãi trở lại. JP Morgan thông báo lãi hơn 24 tỷ đô la. Chủ tịch tổng giám đốc ngân hàng này, Jamie Dimon, đã nhận được một khoản tiền thưởng hơn 25 triệu đô la trong tài khóa 2015.
Sáu năm sau khi Barack Obama « tuyên chiến » với những khoản tiền thưởng quá lố của các ông vua tài chính, những người được mệnh danh là « những con sói của Wall Street » lại càng giàu thêm.
Tổng giám đốc Goldman Sachs, Lloyd Blankfein cách nay 8 năm từ chối nhận tiền thưởng trước những trách nhiệm của tập đoàn ngân hàng này trong vụ khủng hoảng subprime, nhưng đến 2016, Blankfein vẫn được coi là một trong ba doanh nhân thế lực nhất. Tháng 04/2016, ông vua tài chính này chấp nhận nộp phạt 5 tỷ đô la để khỏi bị tiếp tục truy tố về trách nhiệm trong cuộc khủng hoảng địa ốc Hoa Kỳ.
Trong 8 năm nhiệm kỳ tổng thống Obama, chỉ số chứng khoán Dow Jones và NASDAQ theo thứ tự đã được nhân lên gấp 2 và gấp 3 lần. Nhìn chung, giới tài chính Wall Street có nhiều thiện cảm với Barack Obama.
Obamacare và cái giá chính trị phải trả
Về mặt xã hội, Barack Obama đi vào lịch sử nhờ đạo luật được biết dưới cái tên « Obamacare », với ý tưởng nhà nước trợ cấp cho thành phần nghèo khó nhất để mọi người đều được chăm sóc khi đau ốm. Đây là một trong những cam kết của ứng cử viên tổng thống Barack Obama.
Tháng 03/2010, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật gây nhiều tranh cãi này, và bốn năm sau, Obamacare chính thức có hiệu lực.
Người ủng hộ thì cho rằng đây là một « tiến bộ lớn về mặt xã hội ». Ngược lại, phe chống đối thì xem luật bảo hiểm mang tên vị tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ là một chương trình quá tốn kém.
Cho đến cuối năm 2015, mới chỉ có 20 triệu trên tổng số 320 triệu dân Mỹ đóng bảo hiểm y tế trong khuôn khổ Obamacare, và chỉ có 83 % số người đó được hưởng trợ cấp của chính phủ cho khoản chi tiêu phụ trội nói trên. Thêm một lý do khác để chỉ trích luật bảo hiểm y tế Mỹ là với Obamacare, kinh phí bảo hiểm đã tăng mạnh, sức mua của các hộ gia đình qua đó giảm đi.
Theo cơ quan thống kê dân số Hoa Kỳ, vẫn còn trên 9 % dân Mỹ không có bảo hiểm y tế. Cũng vì luật bảo hiểm Obamacare mà trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ 2010, đảng Dân Chủ đã thua đậm.
Bất bình đẳng xã hội
Một thất bại khác về phương diện xã hội trong hai nhiệm kỳ Obama là cách biệt giàu nghèo tại Mỹ ngày càng lớn. Năm 2009, 1% những người giàu nhất nắm giữ 16,7 % tổng sản phẩm của cả nước. Khi Barack Obama sắp mãn nhiệm, tỷ lệ đó tăng lên tới 18,4 %.
Nhà báo chuyên theo dõi các hồ sơ kinh tế và chính sách đầu tư Laurent Hattchouel xem những bất công xã hội là nguyên nhân khiến cử tri Hoa Kỳ dễ dàng nghe theo các luận điểm mị dân của nhà tỷ phú New York Donald Trump :
« Tỷ lệ người nghèo ở Mỹ đã tăng lên sau hai nhiệm kỳ Obama. Nếu như vị tổng thống thứ 44 của nước Mỹ thành công trên mặt trận kinh tế thì ngược lại, trong lĩnh vực xã hội, tầng lớp trung lưu đã nghèo đi trong hai nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nước Mỹ đang trong giai đoạn phi công nghiệp hóa.
Có 320 triệu dân Mỹ, 150 triệu công ăn việc làm, 80 % trong số đó hướng về khu vực dịch vụ, chỉ có 15 % làm việc trong ngành công nghiệp, 5 % là nông gia. Vấn đề đặt ra là trong lĩnh vực dịch vụ, lương của nhân viên trong 8 năm qua không tăng, hay có tăng thì rất tăng rất chậm.
Trong khi đó thì những người giàu thì lại giàu thêm : hiện nay 1 % người giàu nhất ở Mỹ nắm giữ một số tiền tương đương với hơn 18 % tổng sản phẩm nội địa. Đó là mầm mống để những lập luận mị dân của ông Donald Trump được phát triển và nhà tỷ phú New York này khai thác những thất bại của Barack Obama về mặt xã hội để chiêu dụ cử tri ».
Vào những tuần lễ cuối Barack Obama ở Nhà Trắng, khoảng cách giàu nghèo ở Mỹ đã lớn hơn so với 8 năm trước, xã hội Hoa Kỳ vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, từ vấn đề nhập cư, đến khác biệt về màu da và chủng tộc. Nhưng xét cho cùng, có lẽ thất bại lớn nhất của ông Obama trong hai nhiệm kỳ vừa qua là đã không đáp ứng được tất cả những chờ đợi quá lớn của 320 triệu dân Mỹ, trong lúc công luận Hoa Kỳ và cả thế giới thì lại kỳ vọng quá nhiều vào vị tổng thống thứ 44 này.
_http://vi.rfi.fr
Thanh Hà
Thanh Hà
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Sinh thái học dưới góc nhìn của Tam giáo" - Gs Thái Công Tụng / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Chuyện Ukraine : Mặt trận không tiếng súng Cyberwar (Chiến tranh mạng) – Trần Lý ( TVQ chuyển )
- Tàu thăm dò Perseverance hạ cánh sao Hỏa sau '7 phút kinh hoàng'
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
Kinh tế: Tổng kết 8 năm Barack Obama
Lên cầm quyền vào lúc kinh tế Mỹ bước vào giai đoạn đen tối nhất, sau hai nhiệm kỳ tổng thống, Barack Obama chuẩn bị rời Nhà Trắng với hơn 50 % tỷ lệ được lòng dân nhờ ông đã vực dậy cỗ xe kinh tế
Tổng thống Mỹ Barack Obama, ngày 06/11/2016.
REUTERS/Mike Theiler
Lên cầm quyền vào lúc kinh tế Mỹ bước vào giai đoạn đen tối nhất, sau hai nhiệm kỳ tổng thống, Barack Obama chuẩn bị rời Nhà Trắng với hơn 50 % tỷ lệ được lòng dân nhờ ông đã vực dậy cỗ xe kinh tế, tạo 15 triệu công việc làm cho người dân. Bên cạnh những thành tích đó, vẫn tồn đọng nhiều khó khăn mà vị tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ đã không thể vượt qua.
Vài tuần lễ sau vụ ngân hàng Lehman Brothers phá sản tạo nên một trận đại hồng thủy trên sàn chứng khoán New York và đe dọa toàn bộ bền tài chính toàn cầu, Hoa Kỳ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng nhất từ năm 1929, một tia hy vọng đã lóe lên ngày 04/11/2008 khi gần 53 % dân Mỹ bỏ phiếu cho ông Obama. Như trong suốt cuộc vận động tranh cử, khẩu hiệu của ứng viên đảng Dân Chủ này là hãy « cùng nhau, làm thay đổi bộ mặt của nước Mỹ và thế giới ».
Tám năm sau, nhìn lại kinh tế Mỹ, đâu là những thành tựu và thất bại của tổng thống Obama trong hai nhiệm kỳ vừa qua ?
Năm tháng đen tối đầu nhiệm kỳ
Tháng 01/2009, Barack Hussein Obama chính thức tuyên thệ nhậm chức, trở thành vị tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ. Kinh tế Mỹ suy thoái vì ba cuộc khủng hoảng « lồng vào làm một » : bất động sản, tín dụng địa ốc – subprime ; khủng hoảng trong ngành tài chính ngân hàng khi cổ phiếu bị tuột giá, và sự sụp đổ của ngành tài chính đã kéo nền kinh tế thực xuống vực thẳm. Điển hình nhất là cả mảng công nghệ xe hơi của Mỹ bị đe dọa.
Hậu quả trực tiếp từ những biến cố dồn dập nói trên là 8 triệu người lao động mất việc làm, 7 triệu bị tịch biên nhà ở, thị trường địa ốc đóng băng. Lần đầu tiên từ năm 1946, tổng sản phẩm nội địa - GDP của Mỹ trong năm 2009 giảm 2,4 %.
Nhìn đến một chỉ số quan trọng khác là tỷ lệ thất nghiệp, theo thống kê của bộ Lao Động Mỹ, chỉ riêng trong tháng 02/2009, hơn 650.000 chỗ làm bị giải tán, hơn 8 % người lao động không có công việc làm - tỷ lệ tồi tệ nhất từ năm 1983. Đến tháng 11/2009, thất nghiệp ở Mỹ vượt quá ngưỡng tâm lý 10 %. Trong suốt năm đầu tiên của nhiệm kỳ Obama, mỗi tuần hàng chục ngàn người bị sa thải.
Gói kích cầu gần 800 tỷ đô la
Trước tình hình nguy kịch đó, tháng 02/2009 tổng thống Obama thông qua kế hoạch kích cầu gần 800 tỷ đô la với mục đích đây phải là « điểm khởi đầu để tạo nên những nền tảng vững chắc, đưa nước Mỹ trở lại với con đường tăng trưởng dài lâu », như chính ông tuyên bố trước khi hạ bút ký sắc lệnh cho gói kích cầu đó.
Tại một đất nước có truyền thống theo chủ nghĩa « tự do » như Hoa Kỳ, công luận đã không khỏi chỉ trích chính sách can thiệp vào các hoạt động kinh tế - dù là mang tính « chữa cháy » - nói trên và cho là tổng thống Barack Obama muốn đi theo thuyết học của Keynes, dùng chi tiêu công cộng để kích thích tiêu thụ và đầu tư.
Một sự kết hợp khéo léo của Obama
Giáo sư Frank Khalifa trường cao đẳng Billières, Toulouse cho rằng, khác với truyền thống trong học thuyết Keynes là thuần túy sử dụng ngân sách để kích cầu, tổng thống Barack Obama đã vận dụng cùng một lúc ngân sách nhà nước và thuyết phục Ngân Hàng Trung Ương nới lỏng chính sách tiền tệ, giữ lãi suất chỉ đạo 0% trong nhiều năm trời.
« Thực ra trường phái theo học thuyết của Keynes bắt rễ tại châu Âu. Trong khi đó, Hoa Kỳ luôn nghiêng về chủ nghĩa tự do. Ngay cả trong chính sách kích cầu của Mỹ cũng có những khác biệt lớn so với châu Âu. Ở Mỹ, năm 2009, tổng thống Barack Obama đã ban hành kế hoạch kích cầu 787 tỷ đô la, tăng ngân sách nhà nước liên bang và bơm khoản tiền đó vào các hoạt động kinh tế, chủ yếu là tăng một loạt các chương trình đầu tư công.
Nhưng đồng thời ông Obama cũng đã thuyết phục được cả Ngân Hàng Trung Ương Fed nới lỏng chính sách tiền tệ. Cả hai biện pháp này cộng lại đã cho phép Hoa Kỳ nhanh chóng phục hồi. Tôi cũng xin lưu ý thêm là trong lúc khu vực đồng euro quy định thâm hụt ngân sách nhà nước không được vượt quá ngưỡng 3 % tổng sản phẩm nội địa, thì nước Mỹ của ông Obama đã mạnh dạn thông báo gói kích cầu gần 800 tỷ đô la, tương đương với 20 % ngân sách của cả nước trong năm 2009 ».
Nhà báo chuyên theo dõi các hồ sơ kinh tế và chính sách đầu tư Laurent Hattchouel cũng cho rằng điểm son của tổng thống Obama là đã thuyết phục được cả Quốc hội lẫn Ngân Hàng Trung Ương chung sức với Nhà Trắng. Lãnh đạo Fed khi đó là thống đốc Ben Bernanke, người được chính quyền Bush bổ nhiệm:
«Thành công rõ rệt nhất của tổng thống Barack Obama là ông đã huy động được cùng lúc cả ngân sách nhà nước lẫn chính sách tiền tệ thuộc quyền hạn của Cục Dự Trữ Liên Bang, tức là Ngân Hàng Trung Ương. Thuyết phục được Quốc Hội lưỡng viện thông qua một gói kích cầu gần 800 tỷ đô la hồi năm 2009 không phải là dễ. Trong số gần 800 tỷ đô la nói trên, có tới 500 tỷ là để đầu tư vào các công trình công cộng. Nhờ gói đầu tư quan trọng đó mà các chỉ số kinh tế Mỹ đã khởi sắc sau giai đoạn khó khăn nhất kéo dài trong vòng 18 tháng.
Đừng quên là đầu năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ tăng lên tới gần 11 %. Giờ đây, hai tháng trước khi ông Obama rời Nhà Trắng, chỉ còn có 5 % dân Mỹ không có việc làm. Các kế hoạch bơm tiền vào cho khu vực kinh tế cũng đã mang lại hiệu quả nhờ các doanh nghiệp chịu đầu tư.
Song song với chương trình kích cầu, chính quyền Obama còn làm tất cả để các ngân hàng Mỹ không thiếu thanh khoản, để vẫn có thể cấp vốn cho các doanh nghiệp. Một thành công khác của ông Obama được thể hiện qua thống kê về mức thâm hụt ngân sách của nhà nước : Năm 2009 khi ông lên cầm quyền, bội chi ngân sách của chính quyền liên bang tương đương với 9,8 % GDP, hiện tại, tỷ lệ này rơi xuống còn chưa đầy 3 %. Tuy nhiên, để cứu nguy một cỗ máy kinh tế lớn như của Hoa Kỳ, Washington đã phải huy động rất nhiều vốn, khiến nợ công của cả nước tăng lên, đang từ 75 % đầu nhiệm kỳ 1 nay tỷ lệ này tương đương với khoảng 110 % GDP của Mỹ ».
Hiệu quả của chính sách Obama
Dù bênh hay chống chính sách kinh tế của ông Obama trong hai nhiệm kỳ tổng thống sắp bước vào hồi kết, không ai có thể phủ nhận một số các thành tựu sau đây :
Tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục 11 % năm 2011, nay đã rơi xuống mức tối thiểu là 5 % ; 15 triệu công việc làm được tạo ra và cũng nhờ chính sách can thiệp của ông Obama, ngành công nghệ xe hơi Mỹ đã hồi sinh, cứu vãn được từ 1 đến 3 triệu việc làm (tùy theo cách tính toán của các viện nghiên cứu) cho người lao động qua việc « quốc hữu hóa » hai tập đoàn GM và Chrysler.
Nhìn đến chỉ số tăng trưởng, Barack Obama chuẩn bị rời Nhà Trắng vào lúc GDP của Hoa Kỳ tăng trưởng trở lại với tỷ lệ trên dưới 3 %. Một điểm son khác trong bảng thành tích của ông Obama là đã thu hẹp thâm hụt ngân sách nhà nước đang từ 9,8 % GDP năm 2009 nay đã giảm xuống còn 3,8 %.
Tuy nhiên, cái giá phải trả là tổng nợ công của Hoa Kỳ trong 8 năm vừa qua đã tăng 80 %, đang từ 10.600 tỷ đô la nhảy vọt lên thành 19.000 tỷ !
Cải tổ hệ thống tài chính ngân hàng
Với ngành tài chính ngân hàng, đạo luật Dodd Frank được thông qua vào mùa hè 2010, nhưng chỉ chính thức có hiệu lực vào năm 2014, tăng cường các biện pháp giám sát các hoạt động ngân hàng, bảo vệ người tiêu dùng trước những sản phẩm tài chính có mức độ rủi ro cao. Giới quan sát coi đây là một công cụ để chính quyền can thiệp sâu hơn vào lĩnh vực tài chính.
Sau cơn ác mộng năm 2008, các ngân hàng Mỹ được coi là « ổn định », các tập đoàn tên tuổi như JP Morgan hay Goldman Sachs đã làm ăn có lãi trở lại. JP Morgan thông báo lãi hơn 24 tỷ đô la. Chủ tịch tổng giám đốc ngân hàng này, Jamie Dimon, đã nhận được một khoản tiền thưởng hơn 25 triệu đô la trong tài khóa 2015.
Sáu năm sau khi Barack Obama « tuyên chiến » với những khoản tiền thưởng quá lố của các ông vua tài chính, những người được mệnh danh là « những con sói của Wall Street » lại càng giàu thêm.
Tổng giám đốc Goldman Sachs, Lloyd Blankfein cách nay 8 năm từ chối nhận tiền thưởng trước những trách nhiệm của tập đoàn ngân hàng này trong vụ khủng hoảng subprime, nhưng đến 2016, Blankfein vẫn được coi là một trong ba doanh nhân thế lực nhất. Tháng 04/2016, ông vua tài chính này chấp nhận nộp phạt 5 tỷ đô la để khỏi bị tiếp tục truy tố về trách nhiệm trong cuộc khủng hoảng địa ốc Hoa Kỳ.
Trong 8 năm nhiệm kỳ tổng thống Obama, chỉ số chứng khoán Dow Jones và NASDAQ theo thứ tự đã được nhân lên gấp 2 và gấp 3 lần. Nhìn chung, giới tài chính Wall Street có nhiều thiện cảm với Barack Obama.
Obamacare và cái giá chính trị phải trả
Về mặt xã hội, Barack Obama đi vào lịch sử nhờ đạo luật được biết dưới cái tên « Obamacare », với ý tưởng nhà nước trợ cấp cho thành phần nghèo khó nhất để mọi người đều được chăm sóc khi đau ốm. Đây là một trong những cam kết của ứng cử viên tổng thống Barack Obama.
Tháng 03/2010, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật gây nhiều tranh cãi này, và bốn năm sau, Obamacare chính thức có hiệu lực.
Người ủng hộ thì cho rằng đây là một « tiến bộ lớn về mặt xã hội ». Ngược lại, phe chống đối thì xem luật bảo hiểm mang tên vị tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ là một chương trình quá tốn kém.
Cho đến cuối năm 2015, mới chỉ có 20 triệu trên tổng số 320 triệu dân Mỹ đóng bảo hiểm y tế trong khuôn khổ Obamacare, và chỉ có 83 % số người đó được hưởng trợ cấp của chính phủ cho khoản chi tiêu phụ trội nói trên. Thêm một lý do khác để chỉ trích luật bảo hiểm y tế Mỹ là với Obamacare, kinh phí bảo hiểm đã tăng mạnh, sức mua của các hộ gia đình qua đó giảm đi.
Theo cơ quan thống kê dân số Hoa Kỳ, vẫn còn trên 9 % dân Mỹ không có bảo hiểm y tế. Cũng vì luật bảo hiểm Obamacare mà trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ 2010, đảng Dân Chủ đã thua đậm.
Bất bình đẳng xã hội
Một thất bại khác về phương diện xã hội trong hai nhiệm kỳ Obama là cách biệt giàu nghèo tại Mỹ ngày càng lớn. Năm 2009, 1% những người giàu nhất nắm giữ 16,7 % tổng sản phẩm của cả nước. Khi Barack Obama sắp mãn nhiệm, tỷ lệ đó tăng lên tới 18,4 %.
Nhà báo chuyên theo dõi các hồ sơ kinh tế và chính sách đầu tư Laurent Hattchouel xem những bất công xã hội là nguyên nhân khiến cử tri Hoa Kỳ dễ dàng nghe theo các luận điểm mị dân của nhà tỷ phú New York Donald Trump :
« Tỷ lệ người nghèo ở Mỹ đã tăng lên sau hai nhiệm kỳ Obama. Nếu như vị tổng thống thứ 44 của nước Mỹ thành công trên mặt trận kinh tế thì ngược lại, trong lĩnh vực xã hội, tầng lớp trung lưu đã nghèo đi trong hai nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nước Mỹ đang trong giai đoạn phi công nghiệp hóa.
Có 320 triệu dân Mỹ, 150 triệu công ăn việc làm, 80 % trong số đó hướng về khu vực dịch vụ, chỉ có 15 % làm việc trong ngành công nghiệp, 5 % là nông gia. Vấn đề đặt ra là trong lĩnh vực dịch vụ, lương của nhân viên trong 8 năm qua không tăng, hay có tăng thì rất tăng rất chậm.
Trong khi đó thì những người giàu thì lại giàu thêm : hiện nay 1 % người giàu nhất ở Mỹ nắm giữ một số tiền tương đương với hơn 18 % tổng sản phẩm nội địa. Đó là mầm mống để những lập luận mị dân của ông Donald Trump được phát triển và nhà tỷ phú New York này khai thác những thất bại của Barack Obama về mặt xã hội để chiêu dụ cử tri ».
Vào những tuần lễ cuối Barack Obama ở Nhà Trắng, khoảng cách giàu nghèo ở Mỹ đã lớn hơn so với 8 năm trước, xã hội Hoa Kỳ vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, từ vấn đề nhập cư, đến khác biệt về màu da và chủng tộc. Nhưng xét cho cùng, có lẽ thất bại lớn nhất của ông Obama trong hai nhiệm kỳ vừa qua là đã không đáp ứng được tất cả những chờ đợi quá lớn của 320 triệu dân Mỹ, trong lúc công luận Hoa Kỳ và cả thế giới thì lại kỳ vọng quá nhiều vào vị tổng thống thứ 44 này.
_http://vi.rfi.fr
Thanh Hà
Thanh Hà