Nhân Vật
Lê Duẩn: Kẻ tội đồ và tai ương của người Việt
Lê Duẩn là người khao khát quyền lực tuyệt đối như Stalin, Mao Trạch Đông và ông ta cô lập Hồ, Giáp để thiết lập một bộ máy chính trị trung thành.
Lê Duẩn là người khao khát quyền lực tuyệt đối như Stalin, Mao Trạch Đông
và ông ta cô lập Hồ, Giáp để thiết lập một bộ máy chính trị trung thành.
Lê Đức Thọ cánh tay mặt của Duẩn. Từ Mao đến Mao, phản bội Mao rồi trở về với Mao, chứng tỏ đường lối
thiếu uyển chuyển, luôn cực đoan thái quá của Lê Duẩn, cũng như sự kiêu
ngạo của kẻ ít học, xuất thân thường thuộc thành phần lớp dưới, đã đưa đất nước từ thảm hại này đến đau thương khác.
Các phe đảng cộng sản đang giết nhau, người Việt giết người Việt, nay
ghi lại về con người khởi đầu cho sự dã man, gây nên không biết bao đau
thương đối với người Việt có tên Lê Duẩn, Lê Văn Nhuận hay anh Ba.
Đảng Cộng sản gồm đầy những chuyện bí mật nhưng thật ra chẳng có gì là
không bị vén màn lên, vì toàn những chuyện mờ ám, xấu xa, tội lỗi nên
luôn ém nhẹm, rồi gán cho cái tên bí mật để mang tính chất oai hùng, bí
hiểm của những sứ mệnh bất khả thi mà chỉ có những người cộng sản mới
làm được. Nó trở thành huyền thoại ảo!
Anh hùng “lê văn tám”, “nguyễn văn bé”…. Hồ Chí Minh vì nước non nên
“hãy còn độc thân”, Lê Duẩn bao giờ cũng lo hoạt động cách mạng nên
“chưa có vợ”. Tất cả đều không có thật!
Các Ủy viên Trung ương đảng, Bộ chính trị, ai cũng lấy vợ hai, vợ ba,
dựa vào quyền lực để ép duyên, hoặc dùng thủ đoạn để lấy các thiếu nữ cỡ
tuổi con mình, như Lê Đức Thọ, Võ Quang Anh (Tham mưu trưởng Khu 9),
Trần Văn Trà, Hà Huy Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Hoan,...
Từ gia đình đã là những cái nôi đầy mâu thuẫn, tương tranh, đánh ghen và
giết nhau, cho nên đến xã hội khi con người khởi đầu làm sao thì thường
kết thúc cũng vậy!
Nét đặc thù của nó, từ khi đảng cộng sản ra đời tại Việt Nam đến nay,
Huế, Sài Gòn, Hà Nội luôn bị yếu tố Bắc Kỳ thống trị, thời thượng nhất
với lối nói chặn họng “chỉ có Bắc Hà mới có lý luận”. Nó mới xứng đáng
đóng vai trò lãnh đạo cả ba miền Nam Trung Bắc. Một lối nói càng bừa từ
túi tham không đáy, gây chia rẽ dân tộc.
Bài học lịch sử chỉ có người trong cuộc mới biết cái bí ẩn của Nam Kỳ
Khởi Nghĩa (22/11/1940), không phải bỗng nhiên nhóm Trung ương đảng lẫn
trốn ở Hóc Môn, Bà Điểm bị Pháp bắt trọn ổ. Đó chính là miền Bắc "chỉ
điểm cho Pháp", vì muốn dẹp cái Trung ương đảng miền Nam để đem ra Bắc
Kỳ cho người Bắc lãnh đạo.
Họ mượn tay người Pháp để diệt Nam Kỳ. Chính vì lẽ đó, Phan Đăng Lưu bị
bắt, bị đưa ra tòa kêu án tử hình và Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt trước,
cũng bị hành quyết chung (28/8/1941) với Nguyễn Văn Cừ (Tổng bí thư năm
1938), Võ Văn Tần (người Đức Hòa, Tân An, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ), Hà Huy
Tập (Ủy viên Trung ương đảng). Tất cả đều phải chết vì yếu tố Nam Kỳ.
Đầu não Cộng sản dĩ nhiên luôn nằm tại Bắc Kỳ, các đảng viên Bắc và
Trung Kỳ chia nhau nắm giữ các chức vụ then chốt trong kháng chiến cũng
như sau khi hòa bình. Đó là chủ trương thầm kín của họ Hồ.
Ngay khi chiếm miền Nam, cộng sản phân loại để cai trị, chỉ có loại A
được nắm các cơ quan đầu não, chức vụ chính, tất nhiên gốc Bắc, còn các
chức vụ phó giao cho loại B, thành phần trong Nam tập kết ra Bắc trở về,
và loại C là thứ yếu thuộc thành phần miền Nam nằm vùng.
Sau khi Nhật đầu hàng, ở Nam Kỳ, các phần tử trí thức Nam Bộ như Trần
Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Huỳnh Văn
Tiểng, Ngô Tấn Nhơn, Phạm Ngọc Thạch,... được dịp lên ngôi thao túng
miền Nam. Họ lập ra Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, muốn tách ra
khỏi sự khống chế của nhóm đảng viên Trung và Bắc Kỳ để thành lập một
quốc gia CS Nam Kỳ. Không ngờ HCM biết thâm ý này nên sai Cao Hồng Lĩnh
(tham gia Cách Mạng Thanh Niên Hội từ năm 1926), Hoàng Quốc Việt vào Nam
bắt cóc Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai đem về giam lỏng ở Hà Nội.
Sự kiện trên khiến chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ khi Nguyễn Phú Trọng
đang tìm mọi cách tiêu trừ quyền lực của nhóm miền Nam. Chỉ khác lần này
có yếu tố Hoa Nam ở phe miền Bắc, sự thâu tóm quyền lực không còn trở
về tay người Việt, dù là Bắc Kỳ, nhưng để “trở về” trong vai trò “làm
lẻ”, một chư hầu của Trung Quốc. Mao Trạch Đông luôn xem Việt Nam như
một quận, một tỉnh lẻ ở phía Nam. Giao Chỉ Mất nước!
Lê Duẩn và Mao tính khí thay đổi giống nhau, chỉ có tham vọng của kẻ thủ
ác không thay đổi. Với Mao khi chủ trương hòa bình, lúc cổ vũ nhiệt
liệt chiến tranh trong quan điểm đối với Việt Nam, thâm tâm luôn muốn
chia cắt nước Việt thành hai ba phần thuộc Nam, Trung, Bắc để cho dân
tộc này yếu đi. Còn Lê Duẩn cũng thay đổi không chừng, nào chạy sang Tàu
xin đưa quân sang, có lúc hơn ba trăm ngàn quân Tàu trong cuộc chiến
Việt Nam, lúc chạy sang Nga và chửi bành trướng Bắc Kinh thậm tệ.
Giống nhau cùng không có cái tâm đến cái hình nhi hạ, Duẩn và Mao để lại
gồm một bầy đàn thê tử, lúc mất đi người ta ước tính Lê Duẩn có đến ba
chục người con, lúc chịu tang, người vợ trẻ nhất nhỏ hơn ông đến năm
mươi tuổi, một y sĩ trẻ chăm sóc ông và là con của một quan chức dưới
triều của ông, cháu gái dẫn theo đưa bé nhỏ, thay vì gọi ông cố thì gọi
bằng cha Lê Duẩn! Thật bất nhân!
Gia tài của Lê Duẩn để lại là một đám con hoang, cùng những nghĩa trang
dày đặc các bóng ma của người lính trẻ Việt Nam, ngày nay người ta cũng
chưa kiểm tra lại xem thật sự là bao nhiêu, chỉ biết rằng khu trung tâm
Sài Gòn, với những tòa nhà sang trọng nhất, đắc tiền nhất đều có phần
của con cái Lê Duẩn. Và hằng hà sa số thanh niên, thiếu nữ đã chết còn
nằm dọc dài trên Trường Sơn.
Lê Duẩn giữ chức Tổng bí thư lâu nhất hơn 25 năm, từ 1960 đến 1986.
Người có uy quyền cao nhất, trong lịch sử CSVN, chỉ thua Nguyễn Tấn Dũng
về sau về mặt giàu có. Vì mới bắt đầu “kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội” nên của cải chưa tập
trung được nhiều để trở thành tư bản đỏ! Mặc dù số vàng 17 tấn do Ông
Thiệu để lại và các chiến dịch đánh tư sản cũng như tịch thu tài sản của
đồng bào miền Nam hàng chục tấn vàng khác, thế rồi không biết chảy về
đâu?
Ông là người đã vạch ra chiến lược cách mạng với cuốn “Đề cương cách
mạng miền Nam”, chủ trương xử dụng quân sự để chiếm miền Nam, khởi động
cuộc chiến người Việt giết người Việt, đưa đất nước vào thảm cảnh hoang
tàn, núi sông xương máu.
Người ta có ghi lại lời phát biểu của ông về chiến tranh Việt Nam “Ta
đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc...” Và suốt cuộc đời Lê
Duẩn mang nét đặc thù, đó là khủng bố dân tộc dưới chiêu bài yêu nước
để buộc dân chúng đánh thuê cho ngoại bang, theo tiết lộ của CS Hà Nội
với AFP ngày 4-4-1995, thì số lượng thường dân chết trong chiến tranh
lên đến 4 triệu người, chia đều cho hai miền Bắc Việt Nam và Nam Việt
Nam, nghĩa là mỗi miền hai triệu người. Những câu văn viết lên thì đơn
giản nhưng đau thương mất mát thì không ngôn từ nào tả hết được!
Lê Duẩn sinh ngày 7-4-1907 tại Quảng Trị trong một gia đình nông dân,
cha làm nghề thợ mộc, chủ yếu là đóng hòm, mất ngày 10-7-1986. Trình độ
học vấn tiểu học. Có tài liệu viết ông học được đến lớp 6, nghĩa là cho
nâng lên được cấp 2 của bậc trung học. Có câu chuyện liên quan đến Trần
Đức Thảo về sau, lúc ông làm Bí thư, đã mời triết gia vào để nghe ông
đọc một bài tham luận, theo người thư ký của Lê Duẩn kể lại ông đã chuẩn
bị rất kỹ, chỉ có một mình ông thuyết trình thao thao bất tuyệt và Trần
Đức Thảo là khách mời duy nhất để thẩm định. Chẳng may khi nghe xong vị
triết gia này cho ý kiến “Tôi không hiểu ông muốn nói cái gì cả”. Lê
Duẩn trố mắt, thất vọng nhưng chỉ nói “Có lẽ tôi nói tiếng Quảng Trị khó
nghe”, rồi bỏ sang phòng khác. Trần Đức Thảo lẳng lặng ra về và triết
gia phải đi nông trường chăn bò từ đó!
Năm 1926, Lê Duẩn làm nhân viên sở hỏa xa, bẻ ghi đường rầy xe lửa Đà
Nẵng, người đứng phất cờ mỗi khi tàu ra vào ga. Năm 1930 ông gia nhập
đảng CS Đông Dương, ông ra vào khám nhiều lần và tiến thân nhanh vì được
xem là thành phần cố nông, ít học, trung kiên của đảng.
Năm 1954 ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo, tới 1957 Lê Duẩn
được Hồ Chí Minh gọi ra Hà Nội gấp để giữ chức quyền Tổng bí thư đảng
thay thế Trường Chinh bị ép từ chức vì Cải cách ruộng đất. Tháng 9-1960
tại Đại hội toàn quốc lần thứ III, ông được bầu vào BCHTƯ và Bộ chính
trị, giữ chức Bí thư thứ nhất. Từ 1960 theo một số nhận định HCM sức
khỏe yếu, Lê Duẩn trở thành người có quyền hành cao nhất.
Duẩn là người khao khát quyền lực tuyệt đối như Stalin, Mao Trạch Đông
và ông ta cô lập Hồ, Giáp để thiết lập một bộ máy chính trị trung thành.
Lê Đức Thọ cánh tay mặt của Duẩn. Những hàng tướng như Lê Đức Anh, lúc
vào chào Lê Duẩn khi ra về thường giữ lễ theo cách đi xà lui, còn Đỗ
Mười, một “Thưa anh Ba”, hai “Dạ anh Ba”.
Mãi sau nhiều thập niên, khi Thọ Duẩn không còn, tiếng oan khiêng vẫn
còn giữa các đồng chí, người ta được biết đến qua lá thư xin minh oan
của Đại tá Lê Trọng Nghĩa, sinh năm 1922, là một trong ba nhà lãnh đạo
của Việt Minh ở Thủ đô Hà Nội trong những ngày sôi nổi của Cách mạng
tháng Tám. Sau đó ông làm thư ký cho tướng Võ Nguyên Giáp, Chánh Văn
phòng Bộ Quốc phòng, rồi Cục trưởng Cục Quân báo (Cục II) thuộc Bộ Tổng
Tham mưu, rồi cũng là Trưởng Ban Quân báo trong chiến dịch Điện Biên
Phủ. Vào năm 1968 ông lâm đại nạn, bị bắt giam không xét xử, suốt 8 năm
đi lao động cải tạo trong cái gọi là “Vụ án Xét lại – chống đảng, làm
gián điệp cho nước ngoài (Liên Xô)”, một vụ án dựng đứng không hề có
thật của cặp Lê Đức Thọ – Lê Duẩn nhằm hạ bệ tướng Giáp. Và hàng trăm
cán bộ đảng viên như tướng Lê Liêm; tướng Đặng Kim Giang; 2 cha con ông
Vũ Đình Huỳnh – Vũ Thư Hiên; ông Hoàng Minh Chính; ông Nguyễn Minh Cần,
phó chủ tịch Ủy ban hành chính thủ đô; Thượng tá Văn Doãn, Tổng Biên tập
báo Quân Đội Nhân Dân; Đại tá Lê Vinh Quốc….
Các nạn nhân trên đây và gia đình đã gửi hàng trăm, hàng ngàn đơn thư
khiếu nại suốt hơn 60 năm nay nhưng không hề được hồi âm. Họ bị vu cáo
và yêu cầu đảng và nhà nước phải phục hồi danh dự cho họ. Đó là ông
Nguyễn Trung Thành, nguyên Vụ trưởng Vụ Bảo vệ chính trị Trung ương
đảng; ông Lê Hồng Hà, nguyên Chánh văn phòng Bộ Công an; các Đại tướng
Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn… Ở đây nói lên tính chất bất nhân ngay cả
với những người cùng chiến đấu với họ, chỉ vì tranh giành quyền lực tối
thượng.
Từ cuối 1965 đến 1975, khi quyền lực của Lê Duẩn lên đỉnh tối cao, công
cuộc nướng quân “Sinh Bắc tử Nam”, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh
chính quy được đưa từ miền Bắc vào Nam.
Đề cương cách mạng miền Nam
Tài liệu này dài hơn 30 trang, được soạn tháng 8-1956 gồm có 5 phần,
không có gì là sáng tạo, thật sự chỉ là phản biện duy ý chí đối với tình
hình miền Nam, nhằm quyết tâm dùng bạo lực đánh phá và áp đặt chế độ
cộng sản trên toàn lãnh thổ Việt Nam dưới chiêu bài ngụy dân tộc, phản
dân chủ, chống lại tự do.
Một là củng cố miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh cách mạng ở miền Nam, tranh
thủ ủng hộ trên thế giới, đó là ba nhiệm vụ chính của cả nước. Củng cố
miền Bắc qua đấu tố Cải cách ruộng đất, tạo nên sự sợ hãi trong dân
chúng để dễ bề cai trị độc tài; đẩy mạnh cách mạng ở miền Nam với không
biết bao vụ ám sát, khủng bố khiến miền Nam không còn cuộc sống trong
hòa bình. Nói láo và nói láo để tạo chính nghĩa khiến mọi người nhầm
tưởng kẻ đi xâm lược có chính nghĩa, còn nạn nhân những người miền Nam
trong cuộc chiến tự vệ trở thành kẻ hiếu chiến dưới cái nhìn của quốc tế
và nhiều người trên thế giới đã ngây ngô tin như vậy!
Hai là mục đích, nhiệm vụ, đối tượng cách mạng miền Nam giữ gìn hòa
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước.
Nhân dân miền nam bị Đế quốc Mỹ áp bức, bóc lột nên phải đứng lên đập
tan chế độ độc tài phát xít Mỹ -Diệm. Sự thật hoàn toàn ngược lại như
vậy như một chân lý hiển nhiên qua hình ành cộng sản đến đâu người dân
miền Nam bỏ chạy đền đó.
Ba là chế độ Ngô Đình Diệm ra sức phá hoại tổng tuyển cử, nhân dân sẽ
đứng lên đập tan âm mưu Mỹ-Diệm. Tự do, dân chủ là yêu cầu bức thiết bảo
đảm tài sản, tính mạng nhân dân. Thật ra chế độ miền Nam đâu có ký vào
Hiệp Định Geneva mà bảo họ phải thi hành. Và nhân dân miền Nam qua cuộc
tấn công Tết Mậu Thân, cũng như mùa Hè Đỏ lửa 1972 của phe miền Bắc,
Việt cộng đi đến đâu đều gieo chết chóc kinh hoàng.
Bốn là hình thức đấu tranh, khả năng phát triển cách mạng, đấu tranh hòa
bình có khả năng đánh lùi những bạo lực Mỹ-Diệm, đẩy mạnh cách mạng
bằng đường lối hòa bình phù hợp với nguyện vọng của nhân dân thế giới
“lấy nhân nghĩa thắng cường bạo”. Thực tế, cộng sản mới là những kẻ dùng
bạo lực để khủng bố hòng nhuộm đỏ miền Nam, thực thi đường lối của Cộng
sản Quốc tế.
Năm là bài học lịch sử, những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam:
Nay ta mới thành công giải phóng dân tộc được một nửa nước, nhiệm vụ
cách mạng phải hoàn thành trong cả nước. Đảng ta là đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Ở nông thôn nhiệm vụ chiến lược của ta
là đoàn kết trung, bần cố nông liên hiệp với phú nông, đánh đổ địa chủ
phong kiến, xây dựng một nước VN hòa bình thống nhất. Đúng là xây dựng
một đất nước thống nhất bằng bạo lực nên hà tất không thể có hòa bình. Ở
nông thôn, khi hòa bình lập lại, họ bị cán bộ cộng sản lợi dụng chức
quyền chiếm đoạt đất đai. Nông dân trở thành dân oan dưới chế độ cộng
sản! Đối với công nhân mãi mãi dưới sự cai trị của những người cộng sản
sẽ không bao giờ có được Công Đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi cho công
nhân.
Thực tế đã diễn ra như TT Ngô Đình Diệm đã từng tuyên bố trong diễn văn buổi khánh thành đập Đồng Cam - Tuy Hòa 17-9-1955:
“Nếu bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và
sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ
phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô
tổ quốc, vô tôn giáo."
Cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai 1960-1975
Cuộc chiến 1946-1954 được gọi là cuộc chiến Đông dương lần thứ nhất và giai đoạn 1960-1975 là Cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai.
Những đoàn quân miền Bắc tiến vào xâm lược miền Nam từ năm 1959, sau khi
Lê Duẩn làm quyền bí thư thay thế Trường Chinh được hai năm và ngày
20-12-1960 Mặt trận Giải phóng Miền Nam được thành lập tại xã Tân Lập
Tây Ninh, một công cụ của Hà Nội. Cuộc chiến vẫn chưa qui mô vì thế
chiến lược toàn cầu lúc bấy giờ, đó là Nga chủ trương hòa hoãn với Mỹ,
nên Lê Duẩn chỉ tổ chức khủng bố, ám sát các viên chức địa phương khắp
miền Nam để tạo sự hoang mang, sợ hãi trong dân chúng.
Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân.
Lê Duẩn là người chỉ đạo chiến dịch này, nhằm đánh thẳng vào các trung
tâm đông đúc dân cư của miền Nam, gồm 6 thành phố lớn, 44 thị xã, hàng
trăm quận lỵ. Duẩn là người chủ trương đánh lớn để tạo khúc quanh cuộc
chiến. Nhất là Hà Nội nghĩ rằng, nhân dân miền Nam sẽ vùng lên ủng hộ
cộng sản, nhưng Việt cộng đến đâu người dân bỏ chạy đến đó.
Con số thật buồn cho mẫu số chung là người Việt, Lê Duẩn huy động khoảng
100 tiểu đoàn, tổng cộng 84,000 người, bị tan rã gần hết, có tới 70% bị
tử thương, 11% bị bắt làm tù binh, các cơ sở nằm vùng bại lộ, bị tiêu
diệt. VNCH có 4,950 người tử trận, 926 người bị mất tích, 15,097 người
bị thương. Phía Đồng minh có 4,120 người tử trận, 19, 265 bị thương, 600
người mất tích.
Miền Nam bị thiệt hại nặng về kinh tế toàn quốc có trên 60,000 căn nhà
bị hủy, 13 xưởng kỹ nghệ đổ nát vì bom đạn, 20 hãng xưởng khác bị hư
hại, thiệt hại lên tới 25 triệu Mỹ kim. Nạn nhân chiến tranh lên gần
700,000 người.
Cuộc Tổng cộng kích cho thấy chính sách thí quân dã man và tính đa sát
điên cuồng của Lê Duẩn: nhiều chục vạn thanh niên bị đẩy vào tử địa, phố
xá bị đốt phá, hàng vạn người dân vô tội bị tàn sát để thỏa mãn tham
vọng tột cùng của kẻ độc tài xuất thân có truyền thống cha làm nghề đóng
hòm.
Hoang tưởng kỳ quái của Lê Duẫn: đánh vỗ mặt.
Cuộc Tổng tấn công 1972, miền Nam VN thường gọi là trận Mùa hè đỏ lửa,
phía CS gọi là “Chiến dịch xuân hè 1972”, kéo dài từ 30-3-1972 tới
31-1-1973, mặt trận diễn ra ở Trị- Thiên, Bắc Tây nguyên, miền Đông Nam
bộ và Nam bộ. Chỉ huy chiến dịch gồm Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Văn
Tiến Dũng.
Đây là trận Tổng tấn công lớn và đại qui mô gấp bội lần cuộc tổng công
kích Mậu Thân, lần này Duẩn đổi sang chiến tranh qui ước với hơn chục sư
đoàn có sự yểm trợ của xe tăng, đại bác. Xử dụng những đại đơn vị chính
qui do Lê Duẩn chủ trương và:“Để giành thắng lợi, Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam đã huy động rất nhiều tân binh cho trận quyết chiến này.
Rất đông những người lính lên đường mùa hè 1972 ấy là những thanh niên
từ 30 trường đại học – cao đẳng của Hà Nội: gần 10.000 bộ đội gồm sinh
viên và cả giảng viên trẻ. Hiện nay ở Nghĩa trang Trường Sơn, ở Thành cổ
Quảng Trị có rất nhiều bia mộ của những người lính Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam ghi năm sinh là 1953 hay 1954.”
Hậu quả từ quyết định này việc tập trung nhiều lực lượng xung quanh mục
tiêu trước khi tấn công đã bị hỏa lực khủng khiếp của Hạm đội 7 nả pháo,
khiến VC đưa lưng hứng trọn trước khi nổ súng. Ngoài ra, hàng trăm ngàn
cán binh CS đã làm mồi cho B-52, pháo binh, không quân VNCH, quả là
trận đánh thí quân qui mô lớn, sai lầm và đầy tội ác của Lê Duẩn.
Trận chiến 1975
Hiệp định Paris ký ngày 27-1-1973, Hà Nội vi phạm hiệp định sau ngày
ngưng bắn, VNCH chống lại. Tháng 2-1973 đã có 175 xe vận tải, 223 xe
tăng BV vào Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh, BV gia tăng xâm nhập.
Trong khi đó Viện trợ quân sự của khối CS cho BV không thay đổi. Giai
đoạn 1969-72 Tổng số 684,666 tấn vũ khí, giai đoạn 1973-75 649,246 tấn
coi như tương đương.
Nga khuyến khích gây hấn, chiến tranh qua chuyến đi của Tổng tham mưu
trưởng Nga Viktor Kulikov đến Hà Nội vào tháng 12/1974 và sau đó đã tăng
viện trợ quân sự gấp 4 lần. Lê Duẩn lên tinh thần và ra lệnh khi quân
Bắc Việt tràn vào Sài Gòn, nay vẫn còn ghi lại tính vô nhân đạo, bất
nhân của Lê Duẩn đối với phe miền Nam: “Không được, phải đánh chết những
con chó, kể cả khi nó đã rơi xuống nước. Tất cả bọn Mỹ, dù là cán bộ
ngoại giao hay Lầu Năm Góc đều là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Vì thế,
phải chiến đấu quét sạch chúng đi, không để một tên xâm lược nào trên
mảnh đất chúng ta”.
Thời hậu chiến
Sau khi chiếm miền Nam bức màn bí mật đầy gian dối của cộng sản giống
như chiếc hộp đen nay được mở bung ra, người miền Nam tuyệt vọng liều
chết vượt biển tìm tự do trong khi người miền Bắc thất vọng, miền Nam
quá sung túc văn minh so với cảnh cơ hàn của miền Bắc. Họ đã thấy nó
hoàn toàn ngược lại với sự tuyên truyền láo của cộng sản trước đây.
Mười năm đầu từ chiến tranh sang hòa bình dưới sự lãnh đạo một cai thầu
chiến tranh, chuyên nghề đánh phá của Lê Duẩn, người dân sống trong cơ
hàn, một nước nông nghiệp nhưng dân không có gạo để ăn, phải ăn bo bo,
Việt Nam trong khoảng thời gian này được xếp trong số 10 nước nghèo đói
nhất thế giới.
Đỗ Mười, Phó thủ tướng Trưởng ban Cải tạo công thương nghiệp theo chỉ
đạo của Lê Duẩn tiến hành đánh tư sản tại miền Nam VN đã gây ra thảm
cảnh màn trời chiếu đất cho không biêu nhiêu người, kiểm kê các nhà tư
sản rồi lấy nhà đuổi đi kinh tế mới, hàng chục ngàn cơ sở thương mại bị
đóng cửa trong ngày đầu xuất quân.
Chiến dịch thất nhân tâm này khiến nhiều người phải tự tử hoặc đi vượt
biên, một cuộc ăn cướp vĩ đại trắng trợn, trấn lột tài sản các thương
gia để bỏ túi chia chác nhau, lấy nhà cửa phân phối cho các đảng viên từ
ngoài Bắc vào. Ước lượng có hai triệu người đi vượt biên, mấy trăm
nghìn người thiệt mạng ngoài biển khơi.
Thật sự là những vụ khủng bố, cướp cạn sau khi hòa bình.
Nguyên tắc hàng đầu của các chiến dịch này là bí mật, bất ngờ. Những ông
chủ, bà chủ chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ
công tác đặc biệt bất ngờ có mặt, đọc quyết định "kê biên tài sản" của
họ. Những cửa hàng, nhà cửa bị tịch thu trở thành tài sản công và thường
sẽ thành một cửa hàng quốc doanh hoặc thậm chí nhà ở cho cán bộ. Tài
sản bị niêm phong xong, mọi người trong gia đình đó phải chuẩn bị nhận
quyết định đi "xây dựng vùng kinh tế mới".
Đỗ Mười múa tay, múa chân có sự phụ họa của Võ Văn Kiệt, cùng hô hào thực hiện rất quyết liệt theo lệnh của Lê Duẩn.
Chiêu bài đu dây Cộng Sản Hà Nội
Quan hệ Việt-Trung-Sô
Năm 1975 Lê Duẩn thăm Bắc Kinh, Trung Quốc muốn Duẩn chống Nga nhưng ông
ta vẫn theo chính sách đu dây. Bắc Kinh cho là VN vô ơn phản bội. Duẩn
ngày càng thân Nga khiến Băc Kinh lo ngại CSVN mạnh ở Đông Dương. Ngày
1-11-1977 Nhân Dân nhật báo của Bắc Kinh coi Mỹ là bạn coi Nga là thù.
Ngày 30-7-1977 Bắc Kinh tuyên bố ủng hộ Miên chống VN và sau đó cắt hết
viện trợ cho CSBV.
Ngày 3-11-1978 Hà Nội ký hiệp ước hữu nghị với Nga (Việt – Sô) trong đó
có cả phòng thủ chung. Nga tăng viện trợ kinh tế cho Hà Nội từ 450 triệu
USD năm 1975 lên 1,1 tỷ năm 1979, viện trợ quân sự tăng mạnh khi có
chiến tranh Việt-Miên từ 125 triệu năm 1977 lên 600 triệu năm 1978, 900
triệu năm 1979. Ngày nay người ta vẫn chưa tìm thây có công trình nhân
văn nào có giá trị để khai hóa văn minh cho người Việt, sự viện trợ
người Nga không ngoài số vũ khí đủ loại để đánh nhau, người Việt giết
người Việt.
Cuộc chiến Việt –Miên
Từ tháng 4 -1975 một toán Khmer đỏ đột kích Phú Quốc 6 ngày, sau đó hành
quyết hơn 500 người dân Việt tại đảo Thổ Chu. CSVN phản công tái chiếm,
quan hệ Việt –Hoa xấu đi, Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Miên.
Tháng 9-1977 quân chính qui Khmer đỏ gồm 4 sư đoàn chiếm nhiều địa điểm
tại các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành Tây Ninh đốt gần 500 căn
nhà, giết gần 800 người.
Năm 1977, Lê Duẩn sang Trung Quốc hội đàm với Hoa Quốc Phong để tìm một
giải pháp cho Campuchia nhưng thất bại và ra về trong sự tẻ nhạt..
Ngày 31-12-1977, sáu sư đoàn CSVN đánh sâu vào đất Miên, năm ngày sau
rút về. Sau đó Pol Pốt liên tục cho tấn công vào VN, tháng 4-1978 hơn
3,000 người dân VN bị giết tại Ba Chúc.
Tổng cọng từ 1975-1978 Khmer đỏ tấn công biên giới và giết hại khoảng 30,000 người VN.
Ngày 13-12-1978 Pol Pot huy động 19 sư đoàn, một sư đoàn Khmer đỏ chỉ có
4,000 người, tấn công xâm lược và tàn sát thường dân, CSVN chận đứng
bước tiến của địch, khoảng 38,000 quân Khmer đỏ bị giết, gần 6,000 tên
bị bắt.
Từ đầu tới cuối tháng 12 -1978 Việt Nam huy động tổng cộng 18 sư đoàn
với xe tăng, pháo bính, không quân yểm trợ tiến vào đất Chùa tháp. Ngày
7-1-1979 quân Khmer đỏ tan rã, chính phủ Pol Pot rút khỏi Nam Vang. Cuối
tháng 3-1979 CSVN chiếm được hết những tỉnh thành quan trọng của
Campuchia và tiến sát biên giới Thái Lan.
CSVN chiếm đóng xứ Chùa Tháp 10 năm cho tới cuối năm 1989 mới hoàn toàn
rút khỏi Campuchia. Phía CSVN cho biết họ thiệt hại 55,300 người tử
thương, phía Khmer đỏ khoảng 100,000 người bị giết.
Chiến tranh Việt-Trung
Đây chỉ là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt, bắt đầu ngày 17-2-1979
và kết thúc ngày 16-3-1979 Trung Cộng rút sau khi đã chiếm Lạng Sơn, Lào
cai, Cao Bằng, song mục đích bắt VN rút khỏi Campuchia không thành.
Tưởng cũng nên nhắc lại, ngày 3-11-1978 CSVN ký Hiệp ước hữu nghị
Việt-Sô trong đó có cả phòng thủ chung. Nhưng quả là đau lòng cho các
hiệp ước ký kết với cộng sản, khi Trung Quốc đánh Việt Nam, Liên Xô
không đưa quân sang cứu giúp. Ngoài Phi đoàn vận tải của Nga chở Quân
đoàn 2 CSVN từ Campuchia về Lạng Sơn.
Mục đích của cuộc chiến theo Thượng tướng không quân (Bắc Kinh) Lưu Á
Châu nói Đặng Tiểu Bình gây chiến để xác nhận quyền lực tuyệt đối của
ông ta trong đảng, sau đó trả thù cho Mỹ đã tháo chạy nhục nhã tháng
4-1975 cần rửa hận để được Mỹ viện trợ ồ ạt. Nhờ cuộc chiến này Mỹ đã
viện trợ cho Tầu về kinh tế, khoa học, quân sự, tiền vốn…
Nguyên văn
“Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một lượng lớn
thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp
tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí
có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ
cuộc chiến tranh này”
Trung Cộng cho biết CSVN tử thương 50,000 người và họ có 20,000 người
thiệt mạng. Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước
lượng tổng cộng thương vong của quân Trung Quốc là 62,500 người.
Cả hai phía đều nói chiến thắng nhưng cuộc chiến gây thiệt hại trầm
trọng cho kinh tế Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam
Đường bị hủy diệt hoàn toàn: 320 xã, 735 trường học, 428 bệnh viện, bệnh
xá, 41 nông trường, 38 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80,000 héc
ta hoa màu bị tàn phá, 400,000 gia súc bị giết và bị cướp.. Khoảng một
nửa trong số 3.5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản. Sau cuộc chiến CSVN
nhường cho tầu chiến Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh để đổi lấy viện trợ
tái thiết. Cuộc chiến ngắn này khiến Bắc Kinh tốn kém khoảng 1,3 tỷ USD
ảnh hưởng tới quá trình cải tổ kinh tế.
Kết luận
Trong suốt thời gian dài từ 1954 đến 1964, Trung Cộng là nguồn cung cấp
duy nhất cho CS Bắc Việt, không chỉ từ chén cơm manh áo mà cả lý luận tư
tưởng, từ vật chất đến tinh thần của đảng CSVN lệ thuộc sâu xa vào đảng
CSTQ. Khắp miền Bắc, từ công sở đến gia đình, hình ảnh của Mao được đặt
trên mức linh thiêng.
Dó đó CSVN đã thi hành một cách nghiêm chỉnh hầu hết các mệnh lệnh đầy
tai họa từ Mao và các chính sách phi nhân đã dẫn đến cái chết oan uổng
của nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam vô tội qua các chiến dịch Cải
Cách Ruộng Đất, hàng triệu người bỏ mình trong cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn để người Việt giết người Việt. Đã có lúc Mao sai Đặng Tiểu
Bình, lúc đó là Tổng Bí Thư đảng CSTQ, bí mật thăm Hà Nội và hứa viện
trợ một tỉ yuan nếu Hà Nội chịu trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc và
tiến hành chiến tranh. Đến tháng Ba 1968, tổng số quân Trung Cộng có mặt
tại miền Bắc là 320 ngàn quân với tất cả phương tiện yểm trợ và trang
bị vũ khí đầy đủ. Tất cả đều là Mao từ sách vở đến đường lối và đã từng
áp dụng tại Trung Quốc.
Từ Mao đến Mao, phản bội Mao rồi trở về với Mao, chứng tỏ đường lối
thiếu uyển chuyển, luôn cực đoan thái quá của Lê Duẩn, cũng như sự kiêu
ngạo của kẻ ít học, xuất thân thường thuộc thành phần ở đợ như Võ Văn
Kiệt, đã đưa đất nước từ thảm hại này đến đau thương khác. Nhất là sự
thất bại trong công cuộc kiến thiết đất nước thời hòa bình, lòng có đầy
miệng mới nói ra, khi ông phát biểu “cứ in tiền, chúng ta xã hội chủ
nghĩa, không sợ lạm phát”, đủ hiểu ông thừa kế đầy đủ cái tố chất di
truyền của nghề đóng hòm đối với một nền kinh tế. Nó đã làm tiêu tan uy
tín, sự nghiệp của ông tới mức khi ông chết phần lớn người dân VN, cũng
như những người trong đảng của ông, đều cảm thấy thở phào nhẹ nhõm.
Nguyễn Quang
(Việt Báo)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Lê Duẩn: Kẻ tội đồ và tai ương của người Việt
Lê Duẩn là người khao khát quyền lực tuyệt đối như Stalin, Mao Trạch Đông và ông ta cô lập Hồ, Giáp để thiết lập một bộ máy chính trị trung thành.
Lê Duẩn là người khao khát quyền lực tuyệt đối như Stalin, Mao Trạch Đông
và ông ta cô lập Hồ, Giáp để thiết lập một bộ máy chính trị trung thành.
Lê Đức Thọ cánh tay mặt của Duẩn. Từ Mao đến Mao, phản bội Mao rồi trở về với Mao, chứng tỏ đường lối
thiếu uyển chuyển, luôn cực đoan thái quá của Lê Duẩn, cũng như sự kiêu
ngạo của kẻ ít học, xuất thân thường thuộc thành phần lớp dưới, đã đưa đất nước từ thảm hại này đến đau thương khác.
Các phe đảng cộng sản đang giết nhau, người Việt giết người Việt, nay
ghi lại về con người khởi đầu cho sự dã man, gây nên không biết bao đau
thương đối với người Việt có tên Lê Duẩn, Lê Văn Nhuận hay anh Ba.
Đảng Cộng sản gồm đầy những chuyện bí mật nhưng thật ra chẳng có gì là
không bị vén màn lên, vì toàn những chuyện mờ ám, xấu xa, tội lỗi nên
luôn ém nhẹm, rồi gán cho cái tên bí mật để mang tính chất oai hùng, bí
hiểm của những sứ mệnh bất khả thi mà chỉ có những người cộng sản mới
làm được. Nó trở thành huyền thoại ảo!
Anh hùng “lê văn tám”, “nguyễn văn bé”…. Hồ Chí Minh vì nước non nên
“hãy còn độc thân”, Lê Duẩn bao giờ cũng lo hoạt động cách mạng nên
“chưa có vợ”. Tất cả đều không có thật!
Các Ủy viên Trung ương đảng, Bộ chính trị, ai cũng lấy vợ hai, vợ ba,
dựa vào quyền lực để ép duyên, hoặc dùng thủ đoạn để lấy các thiếu nữ cỡ
tuổi con mình, như Lê Đức Thọ, Võ Quang Anh (Tham mưu trưởng Khu 9),
Trần Văn Trà, Hà Huy Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Hoan,...
Từ gia đình đã là những cái nôi đầy mâu thuẫn, tương tranh, đánh ghen và
giết nhau, cho nên đến xã hội khi con người khởi đầu làm sao thì thường
kết thúc cũng vậy!
Nét đặc thù của nó, từ khi đảng cộng sản ra đời tại Việt Nam đến nay,
Huế, Sài Gòn, Hà Nội luôn bị yếu tố Bắc Kỳ thống trị, thời thượng nhất
với lối nói chặn họng “chỉ có Bắc Hà mới có lý luận”. Nó mới xứng đáng
đóng vai trò lãnh đạo cả ba miền Nam Trung Bắc. Một lối nói càng bừa từ
túi tham không đáy, gây chia rẽ dân tộc.
Bài học lịch sử chỉ có người trong cuộc mới biết cái bí ẩn của Nam Kỳ
Khởi Nghĩa (22/11/1940), không phải bỗng nhiên nhóm Trung ương đảng lẫn
trốn ở Hóc Môn, Bà Điểm bị Pháp bắt trọn ổ. Đó chính là miền Bắc "chỉ
điểm cho Pháp", vì muốn dẹp cái Trung ương đảng miền Nam để đem ra Bắc
Kỳ cho người Bắc lãnh đạo.
Họ mượn tay người Pháp để diệt Nam Kỳ. Chính vì lẽ đó, Phan Đăng Lưu bị
bắt, bị đưa ra tòa kêu án tử hình và Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt trước,
cũng bị hành quyết chung (28/8/1941) với Nguyễn Văn Cừ (Tổng bí thư năm
1938), Võ Văn Tần (người Đức Hòa, Tân An, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ), Hà Huy
Tập (Ủy viên Trung ương đảng). Tất cả đều phải chết vì yếu tố Nam Kỳ.
Đầu não Cộng sản dĩ nhiên luôn nằm tại Bắc Kỳ, các đảng viên Bắc và
Trung Kỳ chia nhau nắm giữ các chức vụ then chốt trong kháng chiến cũng
như sau khi hòa bình. Đó là chủ trương thầm kín của họ Hồ.
Ngay khi chiếm miền Nam, cộng sản phân loại để cai trị, chỉ có loại A
được nắm các cơ quan đầu não, chức vụ chính, tất nhiên gốc Bắc, còn các
chức vụ phó giao cho loại B, thành phần trong Nam tập kết ra Bắc trở về,
và loại C là thứ yếu thuộc thành phần miền Nam nằm vùng.
Sau khi Nhật đầu hàng, ở Nam Kỳ, các phần tử trí thức Nam Bộ như Trần
Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Huỳnh Văn
Tiểng, Ngô Tấn Nhơn, Phạm Ngọc Thạch,... được dịp lên ngôi thao túng
miền Nam. Họ lập ra Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, muốn tách ra
khỏi sự khống chế của nhóm đảng viên Trung và Bắc Kỳ để thành lập một
quốc gia CS Nam Kỳ. Không ngờ HCM biết thâm ý này nên sai Cao Hồng Lĩnh
(tham gia Cách Mạng Thanh Niên Hội từ năm 1926), Hoàng Quốc Việt vào Nam
bắt cóc Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai đem về giam lỏng ở Hà Nội.
Sự kiện trên khiến chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ khi Nguyễn Phú Trọng
đang tìm mọi cách tiêu trừ quyền lực của nhóm miền Nam. Chỉ khác lần này
có yếu tố Hoa Nam ở phe miền Bắc, sự thâu tóm quyền lực không còn trở
về tay người Việt, dù là Bắc Kỳ, nhưng để “trở về” trong vai trò “làm
lẻ”, một chư hầu của Trung Quốc. Mao Trạch Đông luôn xem Việt Nam như
một quận, một tỉnh lẻ ở phía Nam. Giao Chỉ Mất nước!
Lê Duẩn và Mao tính khí thay đổi giống nhau, chỉ có tham vọng của kẻ thủ
ác không thay đổi. Với Mao khi chủ trương hòa bình, lúc cổ vũ nhiệt
liệt chiến tranh trong quan điểm đối với Việt Nam, thâm tâm luôn muốn
chia cắt nước Việt thành hai ba phần thuộc Nam, Trung, Bắc để cho dân
tộc này yếu đi. Còn Lê Duẩn cũng thay đổi không chừng, nào chạy sang Tàu
xin đưa quân sang, có lúc hơn ba trăm ngàn quân Tàu trong cuộc chiến
Việt Nam, lúc chạy sang Nga và chửi bành trướng Bắc Kinh thậm tệ.
Giống nhau cùng không có cái tâm đến cái hình nhi hạ, Duẩn và Mao để lại
gồm một bầy đàn thê tử, lúc mất đi người ta ước tính Lê Duẩn có đến ba
chục người con, lúc chịu tang, người vợ trẻ nhất nhỏ hơn ông đến năm
mươi tuổi, một y sĩ trẻ chăm sóc ông và là con của một quan chức dưới
triều của ông, cháu gái dẫn theo đưa bé nhỏ, thay vì gọi ông cố thì gọi
bằng cha Lê Duẩn! Thật bất nhân!
Gia tài của Lê Duẩn để lại là một đám con hoang, cùng những nghĩa trang
dày đặc các bóng ma của người lính trẻ Việt Nam, ngày nay người ta cũng
chưa kiểm tra lại xem thật sự là bao nhiêu, chỉ biết rằng khu trung tâm
Sài Gòn, với những tòa nhà sang trọng nhất, đắc tiền nhất đều có phần
của con cái Lê Duẩn. Và hằng hà sa số thanh niên, thiếu nữ đã chết còn
nằm dọc dài trên Trường Sơn.
Lê Duẩn giữ chức Tổng bí thư lâu nhất hơn 25 năm, từ 1960 đến 1986.
Người có uy quyền cao nhất, trong lịch sử CSVN, chỉ thua Nguyễn Tấn Dũng
về sau về mặt giàu có. Vì mới bắt đầu “kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội” nên của cải chưa tập
trung được nhiều để trở thành tư bản đỏ! Mặc dù số vàng 17 tấn do Ông
Thiệu để lại và các chiến dịch đánh tư sản cũng như tịch thu tài sản của
đồng bào miền Nam hàng chục tấn vàng khác, thế rồi không biết chảy về
đâu?
Ông là người đã vạch ra chiến lược cách mạng với cuốn “Đề cương cách
mạng miền Nam”, chủ trương xử dụng quân sự để chiếm miền Nam, khởi động
cuộc chiến người Việt giết người Việt, đưa đất nước vào thảm cảnh hoang
tàn, núi sông xương máu.
Người ta có ghi lại lời phát biểu của ông về chiến tranh Việt Nam “Ta
đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc...” Và suốt cuộc đời Lê
Duẩn mang nét đặc thù, đó là khủng bố dân tộc dưới chiêu bài yêu nước
để buộc dân chúng đánh thuê cho ngoại bang, theo tiết lộ của CS Hà Nội
với AFP ngày 4-4-1995, thì số lượng thường dân chết trong chiến tranh
lên đến 4 triệu người, chia đều cho hai miền Bắc Việt Nam và Nam Việt
Nam, nghĩa là mỗi miền hai triệu người. Những câu văn viết lên thì đơn
giản nhưng đau thương mất mát thì không ngôn từ nào tả hết được!
Lê Duẩn sinh ngày 7-4-1907 tại Quảng Trị trong một gia đình nông dân,
cha làm nghề thợ mộc, chủ yếu là đóng hòm, mất ngày 10-7-1986. Trình độ
học vấn tiểu học. Có tài liệu viết ông học được đến lớp 6, nghĩa là cho
nâng lên được cấp 2 của bậc trung học. Có câu chuyện liên quan đến Trần
Đức Thảo về sau, lúc ông làm Bí thư, đã mời triết gia vào để nghe ông
đọc một bài tham luận, theo người thư ký của Lê Duẩn kể lại ông đã chuẩn
bị rất kỹ, chỉ có một mình ông thuyết trình thao thao bất tuyệt và Trần
Đức Thảo là khách mời duy nhất để thẩm định. Chẳng may khi nghe xong vị
triết gia này cho ý kiến “Tôi không hiểu ông muốn nói cái gì cả”. Lê
Duẩn trố mắt, thất vọng nhưng chỉ nói “Có lẽ tôi nói tiếng Quảng Trị khó
nghe”, rồi bỏ sang phòng khác. Trần Đức Thảo lẳng lặng ra về và triết
gia phải đi nông trường chăn bò từ đó!
Năm 1926, Lê Duẩn làm nhân viên sở hỏa xa, bẻ ghi đường rầy xe lửa Đà
Nẵng, người đứng phất cờ mỗi khi tàu ra vào ga. Năm 1930 ông gia nhập
đảng CS Đông Dương, ông ra vào khám nhiều lần và tiến thân nhanh vì được
xem là thành phần cố nông, ít học, trung kiên của đảng.
Năm 1954 ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo, tới 1957 Lê Duẩn
được Hồ Chí Minh gọi ra Hà Nội gấp để giữ chức quyền Tổng bí thư đảng
thay thế Trường Chinh bị ép từ chức vì Cải cách ruộng đất. Tháng 9-1960
tại Đại hội toàn quốc lần thứ III, ông được bầu vào BCHTƯ và Bộ chính
trị, giữ chức Bí thư thứ nhất. Từ 1960 theo một số nhận định HCM sức
khỏe yếu, Lê Duẩn trở thành người có quyền hành cao nhất.
Duẩn là người khao khát quyền lực tuyệt đối như Stalin, Mao Trạch Đông
và ông ta cô lập Hồ, Giáp để thiết lập một bộ máy chính trị trung thành.
Lê Đức Thọ cánh tay mặt của Duẩn. Những hàng tướng như Lê Đức Anh, lúc
vào chào Lê Duẩn khi ra về thường giữ lễ theo cách đi xà lui, còn Đỗ
Mười, một “Thưa anh Ba”, hai “Dạ anh Ba”.
Mãi sau nhiều thập niên, khi Thọ Duẩn không còn, tiếng oan khiêng vẫn
còn giữa các đồng chí, người ta được biết đến qua lá thư xin minh oan
của Đại tá Lê Trọng Nghĩa, sinh năm 1922, là một trong ba nhà lãnh đạo
của Việt Minh ở Thủ đô Hà Nội trong những ngày sôi nổi của Cách mạng
tháng Tám. Sau đó ông làm thư ký cho tướng Võ Nguyên Giáp, Chánh Văn
phòng Bộ Quốc phòng, rồi Cục trưởng Cục Quân báo (Cục II) thuộc Bộ Tổng
Tham mưu, rồi cũng là Trưởng Ban Quân báo trong chiến dịch Điện Biên
Phủ. Vào năm 1968 ông lâm đại nạn, bị bắt giam không xét xử, suốt 8 năm
đi lao động cải tạo trong cái gọi là “Vụ án Xét lại – chống đảng, làm
gián điệp cho nước ngoài (Liên Xô)”, một vụ án dựng đứng không hề có
thật của cặp Lê Đức Thọ – Lê Duẩn nhằm hạ bệ tướng Giáp. Và hàng trăm
cán bộ đảng viên như tướng Lê Liêm; tướng Đặng Kim Giang; 2 cha con ông
Vũ Đình Huỳnh – Vũ Thư Hiên; ông Hoàng Minh Chính; ông Nguyễn Minh Cần,
phó chủ tịch Ủy ban hành chính thủ đô; Thượng tá Văn Doãn, Tổng Biên tập
báo Quân Đội Nhân Dân; Đại tá Lê Vinh Quốc….
Các nạn nhân trên đây và gia đình đã gửi hàng trăm, hàng ngàn đơn thư
khiếu nại suốt hơn 60 năm nay nhưng không hề được hồi âm. Họ bị vu cáo
và yêu cầu đảng và nhà nước phải phục hồi danh dự cho họ. Đó là ông
Nguyễn Trung Thành, nguyên Vụ trưởng Vụ Bảo vệ chính trị Trung ương
đảng; ông Lê Hồng Hà, nguyên Chánh văn phòng Bộ Công an; các Đại tướng
Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn… Ở đây nói lên tính chất bất nhân ngay cả
với những người cùng chiến đấu với họ, chỉ vì tranh giành quyền lực tối
thượng.
Từ cuối 1965 đến 1975, khi quyền lực của Lê Duẩn lên đỉnh tối cao, công
cuộc nướng quân “Sinh Bắc tử Nam”, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh
chính quy được đưa từ miền Bắc vào Nam.
Đề cương cách mạng miền Nam
Tài liệu này dài hơn 30 trang, được soạn tháng 8-1956 gồm có 5 phần,
không có gì là sáng tạo, thật sự chỉ là phản biện duy ý chí đối với tình
hình miền Nam, nhằm quyết tâm dùng bạo lực đánh phá và áp đặt chế độ
cộng sản trên toàn lãnh thổ Việt Nam dưới chiêu bài ngụy dân tộc, phản
dân chủ, chống lại tự do.
Một là củng cố miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh cách mạng ở miền Nam, tranh
thủ ủng hộ trên thế giới, đó là ba nhiệm vụ chính của cả nước. Củng cố
miền Bắc qua đấu tố Cải cách ruộng đất, tạo nên sự sợ hãi trong dân
chúng để dễ bề cai trị độc tài; đẩy mạnh cách mạng ở miền Nam với không
biết bao vụ ám sát, khủng bố khiến miền Nam không còn cuộc sống trong
hòa bình. Nói láo và nói láo để tạo chính nghĩa khiến mọi người nhầm
tưởng kẻ đi xâm lược có chính nghĩa, còn nạn nhân những người miền Nam
trong cuộc chiến tự vệ trở thành kẻ hiếu chiến dưới cái nhìn của quốc tế
và nhiều người trên thế giới đã ngây ngô tin như vậy!
Hai là mục đích, nhiệm vụ, đối tượng cách mạng miền Nam giữ gìn hòa
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước.
Nhân dân miền nam bị Đế quốc Mỹ áp bức, bóc lột nên phải đứng lên đập
tan chế độ độc tài phát xít Mỹ -Diệm. Sự thật hoàn toàn ngược lại như
vậy như một chân lý hiển nhiên qua hình ành cộng sản đến đâu người dân
miền Nam bỏ chạy đền đó.
Ba là chế độ Ngô Đình Diệm ra sức phá hoại tổng tuyển cử, nhân dân sẽ
đứng lên đập tan âm mưu Mỹ-Diệm. Tự do, dân chủ là yêu cầu bức thiết bảo
đảm tài sản, tính mạng nhân dân. Thật ra chế độ miền Nam đâu có ký vào
Hiệp Định Geneva mà bảo họ phải thi hành. Và nhân dân miền Nam qua cuộc
tấn công Tết Mậu Thân, cũng như mùa Hè Đỏ lửa 1972 của phe miền Bắc,
Việt cộng đi đến đâu đều gieo chết chóc kinh hoàng.
Bốn là hình thức đấu tranh, khả năng phát triển cách mạng, đấu tranh hòa
bình có khả năng đánh lùi những bạo lực Mỹ-Diệm, đẩy mạnh cách mạng
bằng đường lối hòa bình phù hợp với nguyện vọng của nhân dân thế giới
“lấy nhân nghĩa thắng cường bạo”. Thực tế, cộng sản mới là những kẻ dùng
bạo lực để khủng bố hòng nhuộm đỏ miền Nam, thực thi đường lối của Cộng
sản Quốc tế.
Năm là bài học lịch sử, những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam:
Nay ta mới thành công giải phóng dân tộc được một nửa nước, nhiệm vụ
cách mạng phải hoàn thành trong cả nước. Đảng ta là đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Ở nông thôn nhiệm vụ chiến lược của ta
là đoàn kết trung, bần cố nông liên hiệp với phú nông, đánh đổ địa chủ
phong kiến, xây dựng một nước VN hòa bình thống nhất. Đúng là xây dựng
một đất nước thống nhất bằng bạo lực nên hà tất không thể có hòa bình. Ở
nông thôn, khi hòa bình lập lại, họ bị cán bộ cộng sản lợi dụng chức
quyền chiếm đoạt đất đai. Nông dân trở thành dân oan dưới chế độ cộng
sản! Đối với công nhân mãi mãi dưới sự cai trị của những người cộng sản
sẽ không bao giờ có được Công Đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi cho công
nhân.
Thực tế đã diễn ra như TT Ngô Đình Diệm đã từng tuyên bố trong diễn văn buổi khánh thành đập Đồng Cam - Tuy Hòa 17-9-1955:
“Nếu bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và
sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ
phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô
tổ quốc, vô tôn giáo."
Cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai 1960-1975
Cuộc chiến 1946-1954 được gọi là cuộc chiến Đông dương lần thứ nhất và giai đoạn 1960-1975 là Cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai.
Những đoàn quân miền Bắc tiến vào xâm lược miền Nam từ năm 1959, sau khi
Lê Duẩn làm quyền bí thư thay thế Trường Chinh được hai năm và ngày
20-12-1960 Mặt trận Giải phóng Miền Nam được thành lập tại xã Tân Lập
Tây Ninh, một công cụ của Hà Nội. Cuộc chiến vẫn chưa qui mô vì thế
chiến lược toàn cầu lúc bấy giờ, đó là Nga chủ trương hòa hoãn với Mỹ,
nên Lê Duẩn chỉ tổ chức khủng bố, ám sát các viên chức địa phương khắp
miền Nam để tạo sự hoang mang, sợ hãi trong dân chúng.
Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân.
Lê Duẩn là người chỉ đạo chiến dịch này, nhằm đánh thẳng vào các trung
tâm đông đúc dân cư của miền Nam, gồm 6 thành phố lớn, 44 thị xã, hàng
trăm quận lỵ. Duẩn là người chủ trương đánh lớn để tạo khúc quanh cuộc
chiến. Nhất là Hà Nội nghĩ rằng, nhân dân miền Nam sẽ vùng lên ủng hộ
cộng sản, nhưng Việt cộng đến đâu người dân bỏ chạy đến đó.
Con số thật buồn cho mẫu số chung là người Việt, Lê Duẩn huy động khoảng
100 tiểu đoàn, tổng cộng 84,000 người, bị tan rã gần hết, có tới 70% bị
tử thương, 11% bị bắt làm tù binh, các cơ sở nằm vùng bại lộ, bị tiêu
diệt. VNCH có 4,950 người tử trận, 926 người bị mất tích, 15,097 người
bị thương. Phía Đồng minh có 4,120 người tử trận, 19, 265 bị thương, 600
người mất tích.
Miền Nam bị thiệt hại nặng về kinh tế toàn quốc có trên 60,000 căn nhà
bị hủy, 13 xưởng kỹ nghệ đổ nát vì bom đạn, 20 hãng xưởng khác bị hư
hại, thiệt hại lên tới 25 triệu Mỹ kim. Nạn nhân chiến tranh lên gần
700,000 người.
Cuộc Tổng cộng kích cho thấy chính sách thí quân dã man và tính đa sát
điên cuồng của Lê Duẩn: nhiều chục vạn thanh niên bị đẩy vào tử địa, phố
xá bị đốt phá, hàng vạn người dân vô tội bị tàn sát để thỏa mãn tham
vọng tột cùng của kẻ độc tài xuất thân có truyền thống cha làm nghề đóng
hòm.
Hoang tưởng kỳ quái của Lê Duẫn: đánh vỗ mặt.
Cuộc Tổng tấn công 1972, miền Nam VN thường gọi là trận Mùa hè đỏ lửa,
phía CS gọi là “Chiến dịch xuân hè 1972”, kéo dài từ 30-3-1972 tới
31-1-1973, mặt trận diễn ra ở Trị- Thiên, Bắc Tây nguyên, miền Đông Nam
bộ và Nam bộ. Chỉ huy chiến dịch gồm Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Văn
Tiến Dũng.
Đây là trận Tổng tấn công lớn và đại qui mô gấp bội lần cuộc tổng công
kích Mậu Thân, lần này Duẩn đổi sang chiến tranh qui ước với hơn chục sư
đoàn có sự yểm trợ của xe tăng, đại bác. Xử dụng những đại đơn vị chính
qui do Lê Duẩn chủ trương và:“Để giành thắng lợi, Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam đã huy động rất nhiều tân binh cho trận quyết chiến này.
Rất đông những người lính lên đường mùa hè 1972 ấy là những thanh niên
từ 30 trường đại học – cao đẳng của Hà Nội: gần 10.000 bộ đội gồm sinh
viên và cả giảng viên trẻ. Hiện nay ở Nghĩa trang Trường Sơn, ở Thành cổ
Quảng Trị có rất nhiều bia mộ của những người lính Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam ghi năm sinh là 1953 hay 1954.”
Hậu quả từ quyết định này việc tập trung nhiều lực lượng xung quanh mục
tiêu trước khi tấn công đã bị hỏa lực khủng khiếp của Hạm đội 7 nả pháo,
khiến VC đưa lưng hứng trọn trước khi nổ súng. Ngoài ra, hàng trăm ngàn
cán binh CS đã làm mồi cho B-52, pháo binh, không quân VNCH, quả là
trận đánh thí quân qui mô lớn, sai lầm và đầy tội ác của Lê Duẩn.
Trận chiến 1975
Hiệp định Paris ký ngày 27-1-1973, Hà Nội vi phạm hiệp định sau ngày
ngưng bắn, VNCH chống lại. Tháng 2-1973 đã có 175 xe vận tải, 223 xe
tăng BV vào Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh, BV gia tăng xâm nhập.
Trong khi đó Viện trợ quân sự của khối CS cho BV không thay đổi. Giai
đoạn 1969-72 Tổng số 684,666 tấn vũ khí, giai đoạn 1973-75 649,246 tấn
coi như tương đương.
Nga khuyến khích gây hấn, chiến tranh qua chuyến đi của Tổng tham mưu
trưởng Nga Viktor Kulikov đến Hà Nội vào tháng 12/1974 và sau đó đã tăng
viện trợ quân sự gấp 4 lần. Lê Duẩn lên tinh thần và ra lệnh khi quân
Bắc Việt tràn vào Sài Gòn, nay vẫn còn ghi lại tính vô nhân đạo, bất
nhân của Lê Duẩn đối với phe miền Nam: “Không được, phải đánh chết những
con chó, kể cả khi nó đã rơi xuống nước. Tất cả bọn Mỹ, dù là cán bộ
ngoại giao hay Lầu Năm Góc đều là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Vì thế,
phải chiến đấu quét sạch chúng đi, không để một tên xâm lược nào trên
mảnh đất chúng ta”.
Thời hậu chiến
Sau khi chiếm miền Nam bức màn bí mật đầy gian dối của cộng sản giống
như chiếc hộp đen nay được mở bung ra, người miền Nam tuyệt vọng liều
chết vượt biển tìm tự do trong khi người miền Bắc thất vọng, miền Nam
quá sung túc văn minh so với cảnh cơ hàn của miền Bắc. Họ đã thấy nó
hoàn toàn ngược lại với sự tuyên truyền láo của cộng sản trước đây.
Mười năm đầu từ chiến tranh sang hòa bình dưới sự lãnh đạo một cai thầu
chiến tranh, chuyên nghề đánh phá của Lê Duẩn, người dân sống trong cơ
hàn, một nước nông nghiệp nhưng dân không có gạo để ăn, phải ăn bo bo,
Việt Nam trong khoảng thời gian này được xếp trong số 10 nước nghèo đói
nhất thế giới.
Đỗ Mười, Phó thủ tướng Trưởng ban Cải tạo công thương nghiệp theo chỉ
đạo của Lê Duẩn tiến hành đánh tư sản tại miền Nam VN đã gây ra thảm
cảnh màn trời chiếu đất cho không biêu nhiêu người, kiểm kê các nhà tư
sản rồi lấy nhà đuổi đi kinh tế mới, hàng chục ngàn cơ sở thương mại bị
đóng cửa trong ngày đầu xuất quân.
Chiến dịch thất nhân tâm này khiến nhiều người phải tự tử hoặc đi vượt
biên, một cuộc ăn cướp vĩ đại trắng trợn, trấn lột tài sản các thương
gia để bỏ túi chia chác nhau, lấy nhà cửa phân phối cho các đảng viên từ
ngoài Bắc vào. Ước lượng có hai triệu người đi vượt biên, mấy trăm
nghìn người thiệt mạng ngoài biển khơi.
Thật sự là những vụ khủng bố, cướp cạn sau khi hòa bình.
Nguyên tắc hàng đầu của các chiến dịch này là bí mật, bất ngờ. Những ông
chủ, bà chủ chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ
công tác đặc biệt bất ngờ có mặt, đọc quyết định "kê biên tài sản" của
họ. Những cửa hàng, nhà cửa bị tịch thu trở thành tài sản công và thường
sẽ thành một cửa hàng quốc doanh hoặc thậm chí nhà ở cho cán bộ. Tài
sản bị niêm phong xong, mọi người trong gia đình đó phải chuẩn bị nhận
quyết định đi "xây dựng vùng kinh tế mới".
Đỗ Mười múa tay, múa chân có sự phụ họa của Võ Văn Kiệt, cùng hô hào thực hiện rất quyết liệt theo lệnh của Lê Duẩn.
Chiêu bài đu dây Cộng Sản Hà Nội
Quan hệ Việt-Trung-Sô
Năm 1975 Lê Duẩn thăm Bắc Kinh, Trung Quốc muốn Duẩn chống Nga nhưng ông
ta vẫn theo chính sách đu dây. Bắc Kinh cho là VN vô ơn phản bội. Duẩn
ngày càng thân Nga khiến Băc Kinh lo ngại CSVN mạnh ở Đông Dương. Ngày
1-11-1977 Nhân Dân nhật báo của Bắc Kinh coi Mỹ là bạn coi Nga là thù.
Ngày 30-7-1977 Bắc Kinh tuyên bố ủng hộ Miên chống VN và sau đó cắt hết
viện trợ cho CSBV.
Ngày 3-11-1978 Hà Nội ký hiệp ước hữu nghị với Nga (Việt – Sô) trong đó
có cả phòng thủ chung. Nga tăng viện trợ kinh tế cho Hà Nội từ 450 triệu
USD năm 1975 lên 1,1 tỷ năm 1979, viện trợ quân sự tăng mạnh khi có
chiến tranh Việt-Miên từ 125 triệu năm 1977 lên 600 triệu năm 1978, 900
triệu năm 1979. Ngày nay người ta vẫn chưa tìm thây có công trình nhân
văn nào có giá trị để khai hóa văn minh cho người Việt, sự viện trợ
người Nga không ngoài số vũ khí đủ loại để đánh nhau, người Việt giết
người Việt.
Cuộc chiến Việt –Miên
Từ tháng 4 -1975 một toán Khmer đỏ đột kích Phú Quốc 6 ngày, sau đó hành
quyết hơn 500 người dân Việt tại đảo Thổ Chu. CSVN phản công tái chiếm,
quan hệ Việt –Hoa xấu đi, Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Miên.
Tháng 9-1977 quân chính qui Khmer đỏ gồm 4 sư đoàn chiếm nhiều địa điểm
tại các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành Tây Ninh đốt gần 500 căn
nhà, giết gần 800 người.
Năm 1977, Lê Duẩn sang Trung Quốc hội đàm với Hoa Quốc Phong để tìm một
giải pháp cho Campuchia nhưng thất bại và ra về trong sự tẻ nhạt..
Ngày 31-12-1977, sáu sư đoàn CSVN đánh sâu vào đất Miên, năm ngày sau
rút về. Sau đó Pol Pốt liên tục cho tấn công vào VN, tháng 4-1978 hơn
3,000 người dân VN bị giết tại Ba Chúc.
Tổng cọng từ 1975-1978 Khmer đỏ tấn công biên giới và giết hại khoảng 30,000 người VN.
Ngày 13-12-1978 Pol Pot huy động 19 sư đoàn, một sư đoàn Khmer đỏ chỉ có
4,000 người, tấn công xâm lược và tàn sát thường dân, CSVN chận đứng
bước tiến của địch, khoảng 38,000 quân Khmer đỏ bị giết, gần 6,000 tên
bị bắt.
Từ đầu tới cuối tháng 12 -1978 Việt Nam huy động tổng cộng 18 sư đoàn
với xe tăng, pháo bính, không quân yểm trợ tiến vào đất Chùa tháp. Ngày
7-1-1979 quân Khmer đỏ tan rã, chính phủ Pol Pot rút khỏi Nam Vang. Cuối
tháng 3-1979 CSVN chiếm được hết những tỉnh thành quan trọng của
Campuchia và tiến sát biên giới Thái Lan.
CSVN chiếm đóng xứ Chùa Tháp 10 năm cho tới cuối năm 1989 mới hoàn toàn
rút khỏi Campuchia. Phía CSVN cho biết họ thiệt hại 55,300 người tử
thương, phía Khmer đỏ khoảng 100,000 người bị giết.
Chiến tranh Việt-Trung
Đây chỉ là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt, bắt đầu ngày 17-2-1979
và kết thúc ngày 16-3-1979 Trung Cộng rút sau khi đã chiếm Lạng Sơn, Lào
cai, Cao Bằng, song mục đích bắt VN rút khỏi Campuchia không thành.
Tưởng cũng nên nhắc lại, ngày 3-11-1978 CSVN ký Hiệp ước hữu nghị
Việt-Sô trong đó có cả phòng thủ chung. Nhưng quả là đau lòng cho các
hiệp ước ký kết với cộng sản, khi Trung Quốc đánh Việt Nam, Liên Xô
không đưa quân sang cứu giúp. Ngoài Phi đoàn vận tải của Nga chở Quân
đoàn 2 CSVN từ Campuchia về Lạng Sơn.
Mục đích của cuộc chiến theo Thượng tướng không quân (Bắc Kinh) Lưu Á
Châu nói Đặng Tiểu Bình gây chiến để xác nhận quyền lực tuyệt đối của
ông ta trong đảng, sau đó trả thù cho Mỹ đã tháo chạy nhục nhã tháng
4-1975 cần rửa hận để được Mỹ viện trợ ồ ạt. Nhờ cuộc chiến này Mỹ đã
viện trợ cho Tầu về kinh tế, khoa học, quân sự, tiền vốn…
Nguyên văn
“Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một lượng lớn
thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp
tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí
có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ
cuộc chiến tranh này”
Trung Cộng cho biết CSVN tử thương 50,000 người và họ có 20,000 người
thiệt mạng. Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước
lượng tổng cộng thương vong của quân Trung Quốc là 62,500 người.
Cả hai phía đều nói chiến thắng nhưng cuộc chiến gây thiệt hại trầm
trọng cho kinh tế Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam
Đường bị hủy diệt hoàn toàn: 320 xã, 735 trường học, 428 bệnh viện, bệnh
xá, 41 nông trường, 38 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80,000 héc
ta hoa màu bị tàn phá, 400,000 gia súc bị giết và bị cướp.. Khoảng một
nửa trong số 3.5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản. Sau cuộc chiến CSVN
nhường cho tầu chiến Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh để đổi lấy viện trợ
tái thiết. Cuộc chiến ngắn này khiến Bắc Kinh tốn kém khoảng 1,3 tỷ USD
ảnh hưởng tới quá trình cải tổ kinh tế.
Kết luận
Trong suốt thời gian dài từ 1954 đến 1964, Trung Cộng là nguồn cung cấp
duy nhất cho CS Bắc Việt, không chỉ từ chén cơm manh áo mà cả lý luận tư
tưởng, từ vật chất đến tinh thần của đảng CSVN lệ thuộc sâu xa vào đảng
CSTQ. Khắp miền Bắc, từ công sở đến gia đình, hình ảnh của Mao được đặt
trên mức linh thiêng.
Dó đó CSVN đã thi hành một cách nghiêm chỉnh hầu hết các mệnh lệnh đầy
tai họa từ Mao và các chính sách phi nhân đã dẫn đến cái chết oan uổng
của nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam vô tội qua các chiến dịch Cải
Cách Ruộng Đất, hàng triệu người bỏ mình trong cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn để người Việt giết người Việt. Đã có lúc Mao sai Đặng Tiểu
Bình, lúc đó là Tổng Bí Thư đảng CSTQ, bí mật thăm Hà Nội và hứa viện
trợ một tỉ yuan nếu Hà Nội chịu trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc và
tiến hành chiến tranh. Đến tháng Ba 1968, tổng số quân Trung Cộng có mặt
tại miền Bắc là 320 ngàn quân với tất cả phương tiện yểm trợ và trang
bị vũ khí đầy đủ. Tất cả đều là Mao từ sách vở đến đường lối và đã từng
áp dụng tại Trung Quốc.
Từ Mao đến Mao, phản bội Mao rồi trở về với Mao, chứng tỏ đường lối
thiếu uyển chuyển, luôn cực đoan thái quá của Lê Duẩn, cũng như sự kiêu
ngạo của kẻ ít học, xuất thân thường thuộc thành phần ở đợ như Võ Văn
Kiệt, đã đưa đất nước từ thảm hại này đến đau thương khác. Nhất là sự
thất bại trong công cuộc kiến thiết đất nước thời hòa bình, lòng có đầy
miệng mới nói ra, khi ông phát biểu “cứ in tiền, chúng ta xã hội chủ
nghĩa, không sợ lạm phát”, đủ hiểu ông thừa kế đầy đủ cái tố chất di
truyền của nghề đóng hòm đối với một nền kinh tế. Nó đã làm tiêu tan uy
tín, sự nghiệp của ông tới mức khi ông chết phần lớn người dân VN, cũng
như những người trong đảng của ông, đều cảm thấy thở phào nhẹ nhõm.
Nguyễn Quang
(Việt Báo)