Tham Khảo
Liệu một cơ hội để mang lại hòa bình cho Việt Nam đã bị bỏ lỡ vào năm 1963?
Câu chuyện xuay quanh câu hỏi "liệu ông Nhu có liên lạc với miền Bắc không?" điều mà thông tin nhiều nhất mà chúng ta có được mấy chục năm qua là tin đồn "ông Nhu đi gặp ông Phạm Hùng ở Tánh Linh"
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Ảnh: Associated Press
Câu chuyện xuay quanh câu hỏi "liệu ông Nhu có liên lạc với miền Bắc
không?" điều mà thông tin nhiều nhất mà chúng ta có được mấy chục năm
qua là tin đồn "ông Nhu đi gặp ông Phạm Hùng ở Tánh Linh" đâu đó trong
năm 1963. Cuốn sách "Poland and Vietnam, 1963:New Evidence on Secret
Communist Diplomacy and the "Maneli Affair"" được Gs Sử học Margaret K.
Gnoinska viết dựa trên các tài liệu giải mật của Ba Lan. Thấy hay, tôi
mày mò phỏng dịch lại ra tiếng Việt để bà con ta đọc cho biết một phần
nào về sự thực này .
Liệu một cơ hội để mang lại hòa bình cho Việt Nam đã bị bỏ lỡ vào năm 1963?
Đó là một câu hỏi “bâng khuâng” mà Gs Sử học Margaret K. Gnoinska tự hỏi
trong cuốn sách của bà có tên là Ba Lan và Việt Nam, 1963: Chứng Cớ Mới
về Ngoại Giao Bí Mật Cộng Sản và “Vụ Maneli” (Poland and Vietnam, 1963:
New Evidence on Secret Communist Diplomacy and the "Maneli Affair") dựa
trên các tài liệu giải mật của Ba Lan thời đó.
Cuốn sách xuay quanh:
1) đề xuất “Trung lập hóa Việt Nam” và
2) vấn đề liệu ông Nhu có hay không có liên lạc với miền Bắc về đề xuất
này thông qua trung gian của ông Mieczysław Maneli, Trưởng đại diện của
Ba Lan trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến (ICC) vào thời gian trước đảo
chánh 1.11.1963.
Với người Việt miền Nam chúng ta hồi ấy và cho đến nay thường chỉ nghe
đến tin đồn là ông Nhu có đi Tánh Linh thuộc tỉnh Phước Tuy giả đi săn
để gặp ai đó đại diện của miền Bắc Cộng sản. Sau này được vài nhân vật
kề cạnh hai ông Diệm Nhu chứng thực rằng ông Nhu có đi Tánh Linh nhưng
không biết gặp ai ở đó trong khi tin xầm xì rằng đó là ông Phạm Hùng (Ủy
viên Bộ Chính Trị Trưởng ban Thống nhất Trung ương Đảng từ năm 1958 đến
1966)
Trước khi đi vào bàn luận hai vấn đề: Trung lập hóa Việt Nam (cả hai
miền) và vấn đề ông Nhu liên lạc với miền Bắc, thiết nghĩ chúng ta nên
dạo sơ qua về bối cảnh chính trị, quân sự trong thời gia đó (từ Tuyên
Cáo Caravelle ngày 26-4-1960 đến 1.11.1963 ngày Đệ nhất Cộng Hòa bị khai
tử với cái chết đau thương của hai anh em Diệm Nhu)
Bối cảnh Thế giới:
- Sự thành hình hai khối Cộng Sản và Tự Do sau Thế Chiến II một bên là Liên Sô đứng đầu, một bên là Hòa Kỳ làm thủ lãnh
- Chiến Tranh Lạnh đã thành hình và đang tiếp diễn
- Xung đột ý thức hệ Sô-Trung, Liên Sô đứng đầu là Khrushchev chủ trương
hòa hoãn sống chung hòa bình, Trung Cộng đứng đầu là Mao Trạch Đông xem
lý thuyết nòng cốt của chủ nghĩa Marx-Lênin về xung đột vũ trang không
tránh khỏi giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là chủ đạo.
- Mỹ đã vào miền Nam thế chỗ cho Pháp từ sau 1954, đến tháng 12/1961 đã
có 3200 và đến cuối 1962 lên đến con số 12000 cố vấn Mỹ ở miền Nam để
đào tạo, trang bị xây dựng quân đội và hoàn thiện chính phủ Ngô Đình
Diệm nhằm ngăn chận Cộng sản bành trướng.
Bối cảnh miền Bắc: Phe chủ chiến trỗi dậy
- Sau 1954, điều khoản Tổng tuyển cử năm 1956 tới hạn nhưng không được thi hành vì phía VNCH không đồng ý.
- Chịu ảnh hưởng bởi sự xung đột ý thức hệ Trung-Sô, hai khuynh hướng
chính trị nỗi lên: một phe chủ hòa tạm chấp nhận hai miền chia cắt (sống
chung hòa bình theo hướng Liên Sô) và một phe chủ chiến theo đường lối
Trung Cộng do Tổng Bí Thư Lê Duẫn đứng đầu dứt khoát tiến hành vũ trang
nỗi dậy chiếm lấy miền Nam. Sau vụ Xét Lại Chống Đảng (1965), phe Lê
Duẩn ngã hẳn vào vòng tay của Mao Trạch Đông (1966)
- Tháng 9 năm 1963, Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, đăng một
bài báo trên Báo Nhân Dân nói rằng một số đảng viên bị ảnh hưởng của
"chủ nghĩa xét lại" vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của
đảng.
- Tại Hội nghị Trung ương lần thứ IX (tháng 12/1963), Lê Duẩn, Lê Đức
Thọ và Phạm Hùng đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị
kết thúc với nghị quyết xác định lập trường đứng về phía Trung Quốc lên
án "chủ nghĩa xét lại Khrushchyov", đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ
lực ở miền Nam.
Bối cảnh ở Mỹ: Mỹ xem Việt Nam là gánh nặng
- Suốt thời gian làm Tổng Thống Mỹ, TT Eisenhower luôn tích cực hổ trợ
cho chính phủ Diệm, tích cực ngăn Cộng sản và là cha đẻ của thuyết
Domino
- John F. Kennedy lên thay TT Eisenhower mãn nhiệm kỳ ngày 20-01-1961.
Kennedy chủ trương lập lại hòa bình, dứt khoát không đưa quân chiến đấu
vào miền Nam ngoại trừ các cố vấn mà con số không quá 16000 [1]
- Năm 1963, chính phủ Kennedy phải giải quyết nhiều cuộc khủng hoảng
quan trọng là Phong trào Dân Quyên lãnh đạo bởi TS Martin Luther King,
vụ Vịnh Con Heo Cuba, vụ Tên lửa của Liên Sô đóng ở Cuba, vụ Bức tường
Bá Linh được Đông Đức xây lên (sau khi khối CS không buộc được Mỹ và phe
Tự Do rút đi) và tiếp tục đối phó với Chiến Tranh Lạnh.
- Các chính phủ Mỹ đều cố tránh sự can thiệp trực tiếp của Trung Cộng.
Bối cảnh ở miền Nam Việt Nam: tình hình bất ổn
- Tình hình chính trị bắt đầu tệ với Tuyên Cáo Caravelle ngày 26-4-1960
đòi TT Ngô Đình Diệm phải thực thi dân chủ, chấm dứt gia đình trị và
những đề nghị cải cách tương đối khiêm tốn.
- Ngày 1/11/1960, nhóm Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Nguyễn Chánh
Thi, Hoàng Cơ Thụy và Phan Quang Đán đảo chính nhưng thất bại.
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời ngày 20 tháng 12 năm 1960
- Ngày 27.2.1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom Dinh Độc lập
- Khủng hoảng Phật Giáo bắt đầu ngày 8/5/1963 và trở nên đáng kể trong tháng 7 tháng 8
- Tương quan lực lượng giữa quân đội VNCH và quân Giải Phóng là “cân
bằng lực lượng. Họ thừa nhận bị đánh bại, nhưng họ vẫn cho rằng họ kiểm
soát 75 phần trăm của các lãnh thổ và 50 phần trăm dân số [Tài liệu số
16: Công điện giải mật]”
- Đầu tháng 6/1963, TT Kennedy đột ngột triệu hồi Đại sứ Mỹ Fredrik
Nolting, người đã có cảm tình với chế độ Sài Gòn, và thay thế ông là Đại
sứ Henry Cabot Lodge là người mà nhiều tài liệu cho thấy rất kình chống
với Diệm (và Nhu)
- Ngày 11/06/1963 Thượng Tọa Thích Quãng Đức tự thiêu
- Tại Mỹ một số đại diện dân cử lên tiếng kêu gọi Mỹ rút lui.
- Chính quyền Mỹ đòi hỏi ông Diệm phải thay đổi và loại bỏ Nhu. Diệm từ chối.
- Chính quyền Mỹ thay vì rút lui dần đã tìm cách thay thế chính phủ Diệm
bằng một chính quyền phục tùng Mỹ nhiều hơn [2] dẫn đến cái chết của
hai anh em Diệm Nhu
- Ngày 11/11/1963, nhóm Tướng lãnh đứng đầu là Dương Văn Minh đảo chánh
thành công, hai anh em Diệm Nhu bị giết, nền Đệ Nhất Cộng Hòa cáo chung.
Chuyện thứ nhất: Ý tưởng trung lập hóa Việt Nam
Ý tưởng trung lập hóa Việt Nam đã được đề cập bởi Ba Lan vào đầu năm
1963 khi Ngoại trưởng Ba Lan Adam Rapacki gặp nhà lãnh đạo Ấn Độ
Jawaharlal Nehru trong chuyến thăm Ấn Độ từ 20 đến 22 tháng Giêng
Sau đó ý tưởng này cũng đã được chia sẽ với Đại Sứ Mỹ tại Ấn Độ là John
Kenneth Galbraith. Phản ứng của Galbraith là tích cưc. Ông báo cáo về Bộ
Ngoại Giao nhưng bị bỏ qua. TT Kennedy kịp thời thấy báo cáo kêu ông
tiếp tục thăm dò nhưng Rapacki đã rời Ấn Độ nên không gì xảy ra tiếp
theo đó.
Ý tưởng Trung lập hóa Việt Nam sau đó được bàn bạc giữa Ba Lan với lãnh đạo Liên Sô và họ cũng đồng ý.
Mieczysław Maneli Trưởng đoàn Đại diện của Ba Lan trong Ủy Ban Kiểm Soát
Đình Chiến là người mang nhiều thông tin về việc giải pháp Trung lập
hóa Việt Nam. Trong những tháng của đầu năm 1963, Maneli trong một số
công điện mật đã “mô tả các cuộc thảo luận chung về kế hoạch cho tương
lai của Bắc Việt, thường nhấn mạnh mong muốn của Hà Nội là thống nhất
đất nước và loại bỏ quân đội Hoa Kỳ, cũng như một số cuộc thảo luận mơ
hồ về trung lập hóa miền Nam Việt Nam theo kiểu Lào” trong nhiều lần gặp
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, Bộ Trưởng Ngoại Giao Xuân Thủy và Hà Văn Lâu
Trưởng Ban Thống Nhất của Đảng. Ông Xuân Thủy cũng muốn bắt đầu bằng
trao đổi văn hóa và kinh tế (đổi than lấy gạo) trước khi có một giải
pháp chính trị.
Các điều trên cho thấy cho đến lúc này ý tưởng trung lập hóa miền Nam là chưa đến tai ông Nhu.
Sự kiện ông Hồ Chí Minh từ Hà Nội gửi cành đào cho ông Diệm vào dịp Tết
là có thật (có lẽ Maneli mang dùm vào) tuy nhiên có kèm theo đề nghị
giao thương không thì không tài liệu nào khẳng định. Nhưng đề nghị giao
thương văn hóa và kinh tế như Maneli kể trên đây cho thấy các lãnh đạo
miền Bắc cũng rất quan tâm đến việc “trung lập hóa” miền Nam.
Tuy nhiên, lãnh đạo miền Bắc muốn “trung lập hóa” miền Nam phải nằm
trong lợi ích của họ, nghĩa là quân đội nước ngoài phải được rút hết,
miền Nam không được gia nhập bất cứ liên minh quân sự - hai điều mà nếu
“trung lập hóa” cả miền Bắc thì miền Bắc không có gì phải lo. Việc
“trung lập hóa” như họ muốn hóa ra cuối cùng là “chính phủ này sẽ biến
thành một nước xã hội chủ nghĩa bằng con đường hòa bình, và chứ không
bằng phương tiện quân sự.”
Trung lập hóa miền Nam như thế sẽ khó được lãnh đạo VNCH chấp nhận.
Vì sao Mỹ không thấy giải pháp “trung lập hóa” miền Nam này là thuận lợi
cho họ để rút đi từ 1963 hay sau đó khoảng một năm, tránh cho dân tộc
chúng ta phải chịu đau thương mất mát thêm 12 năm bom đạn và họ phải mất
hơn năm mươi ngàn sinh mạng và hàng trăm tỷ đô la chưa kể hàng trăm tỷ
khác để lo cho các vấn đề của cựu chiến binh. Có gì khác về kết quả cho
người Mỹ với giải pháp “Trung lập hóa” (giả hiệu) năm 1963 với cách
(Việt Nam hóa chiến tranh) mà đã bỏ rơi VNCH năm 1973).
Làm sao trung lập khi phe chủ chiến miền Bắc quyết tâm dùng vũ lực, “đã
lên kế hoạch tổ chức một đội quân 500 ngàn người ở miền Nam năm 1965.
Các chi phí bảo dưỡng được trả bởi người Trung Quốc, và phần còn lại đến
từ các nguồn trong nước” [Tài liệu số 16: Công điện giải mật]. Làm sao
trung lập khi Trung cộng chỉ muốn hai miền Việt Nam đánh nhau, hoặc nữa
hòa bình nữa chiến tranh để thành phên dậu an toàn cho họ yên tâm mà
phát triển đất nước của họ. Liệu lãnh đạo chủ chiến miền Bắc có nhìn
thấy gì còn cao hơn lý tưởng chủ nghĩa xã hội của họ?
Trung lập theo kiểu Lào ký kết trong Hiệp Định Geneva năm 1962, quân Bắc
Việt chẳng những không rút đi còn tăng cường thêm – suy ra vấn đề cực
kỳ phức tạp chứ không đơn giản là rút quân, bắt tay hát bài ca chiến
thắng. Ngay Hiệp Định Geneva năm 1954, bao nhiêu các bộ Việt Minh ở lại
miền Nam trong đó có ông Lê Duẫn. Hiệp định là một đàng, ý đồ là một
nẽo.
Theo tôi, nếu có xảy ra một hội nghị Geneva hay ở đâu đó để Trung lập
hóa miền Nam thì hội nghị đó sẽ kéo dài rất lâu, vừa đánh vừa đàm, Mỹ
muốn rút thì giá nào cũng rút miễn là “rút lui trong danh dự” mà họ cũng
chả cần danh dự được hiểu theo cách nào. Hội nghị cũng sẽ bị bàn tay
lông lá của các nước “anh em” không theo ý chúng là không xong. Ngày nay
bàn tay chúng không thấy lông lá vì chúng đeo găng tay bằng nhung.
Tóm lại, “Trung lập hóa miền Nam hay cả Việt Nam hay cả Đông Dương” chỉ
là chuyện trong mơ. Khi nào mình mạnh cả về quân sự lẫn kinh tế và thiên
thời địa lợi như Thụy Sĩ thì sự “trung lập” là Trung lập kiểu Thụy Sĩ
thì lúc ấy là điều vạn phúc cho Dân Tộc
Nếu “Trung Lập” kiểu Lào chỉ là thứ đầu hàng để Mỹ rút quân, để hòa bình
lập lại trong một nước xã hội chủ nghĩa không còn tiếng súng nhưng bất
kể hậu quả thế nào thì đúng là một cơ hội hòa bình đã bị bỏ lỡ. Nước
Việt Nam lúc ấy sẽ theo khuôn mẫu của Tầu, của Triều Tiên và sẽ ra sao?
Lào và Campuchea sẽ thành nước gì?
Chuyện thứ hai: liệu ông Nhu có liên lạc với miền Bắc không?
Theo tài liệu được giải mã, Maneli thừa nhận đã gặp Nhu hai lần, một lần
công khai vào ngày 25 tháng Tám và một lần bí mật vào ngày 02 tháng
Chín năm 1963
Tuy nhiên, trong cuốn sách có đoạn "Vào mùa xuân năm 1963, tôi đã bí mật được Tổng thống Ngô
Đình Diệm và em trai của ông là Ngô Đình Nhu, thông qua Roger Lalouette,
Đại sứ Pháp ở Sài Gòn, tiếp cận với Chính phủ Hà Nội để tìm hiểu khả
năng cho một giải pháp hòa bình của cuộc chiến", có nghĩa là Diệm và Nhu
cũng đã muốn tìm giải pháp Hòa Bình thông qua Đại sứ Pháp, có thể Nhu
chỉ nhờ ông này và ông này nhờ lại Maneli. Cái logic cho thấy nếu nhờ
được Maneli thì việc gì phải nhờ qua Đại Sứ Pháp.
Lần thứ nhất ngày 25 tháng Tám, Bộ Ngoại Giao VNCH có một buổi tiếp tân
công khai trong đó “Đại Sứ Ý Orlandi và đại diện Vatican, Đức ông
Salvatore d'Astata, sắp xếp cuộc họp [cho Nhu gặp Maneli]”
Ngày 29 tháng 8 năm 1963 De Gaulle kêu gọi công khai cho giải pháp Trung
lập hóa cả hai miền Việt Nam (đương nhiên là có chuyện rút quân đội
nước ngoài ra khỏi Việt Nam). Ở đây người ta tự hỏi sao có chuyện De
Gaulle tuyên bố giải pháp Trung lập bốn ngày sau khi Maneli gặp Nhu ở
buổi tiếp tân?
Lần gặp thứ hai của Maneli với Nhu là ngày 2 tháng 9, 1963 mà thư mời
đến tay Maneli vào lúc 2 giờ sáng ? sao gấp gáp vậy. Nhưng nội dung lại
không có gì quan trọng. Phải chăng “đấy là một nỗ lực của Nhu để thấu
cáy Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ ngày càng bực tức với sự bất lực hoặc sự không sẵn
sàng của chế độ Diệm nhằm chống lại phe đối lập cộng sản trong nước.”
Dầu về mặt công khai, Maneli chỉ gặp Nhu hai lần nhưng Maneli đã “gặp
Đại sứ Pháp Lalouette nhiều lần hơn so với bất kỳ Đại sứ phương Tây nào
khác ở Sài Gòn” và Nhu lại nói chuyện [nhiều lần?] với Lalouette – có
thể Maneli cũng đã nhiều lần khác đã nói chuyện với Nhu qua trung gian
của Lalouette. Bằng cớ là tuyên bố của Degaulle xảy ra chỉ 4 ngày sau
cuộc gặp Maneli-Nhu lần thứ nhất, một tuyên bố chính trị không thể khơi
khơi ngẫu hứng mà phải qua nhiều dò ý, tham khảo, tính toán.
Theo tôi việc ông Nhu tìm cách “nói chuyện” với bên kia là có thật và có
tính toán. Tôi cũng tin rằng hai ông Diệm Nhu và ít ra một vài lãnh đạo
phía Bắc thuộc phe “sống chung hòa bình” cũng muốn tìm một giải pháp
chính trị cho Việt Nam, hoặc Trung lập hoặc tiến hành Tổng tuyển cử theo
Hiệp Định Geneva để chấm dứt chiến tranh.
Tôi nghiêng về vế thứ hai là Tổng tuyển cử vì có lẽ ông Nhu tin rằng
VNCH nay đã đủ mạnh để buộc có một Tổng tuyển cử tự do và có giám sát
quốc tế, điều mà VNDCCH đã từ chối áp dụng và do đó tạo một trong các cớ
chính đáng để miền Nam không thi hành Hiệp định Geneva. Thực chất, nếu
Tổng tuyển Cử xảy ra vào năm 1956 thì 80% dân sẽ bầu cho ông Hồ Chí Minh
(“And US President Dwight Eisenhower admits, “I have never talked or
corresponded with a person knowledgeable in Indochinese affairs who did
not agree that had elections been held as of the time of the fighting, a
possible 80 per cent of the population would have voted for the
communist Ho Chi Minh as their leader.” [3]).
Tôi tin rằng vào khoảng từ đầu năm 1963 khi ý tưởng “trung lập hóa”
thành hình và suốt mấy tháng sau đó, đặc biệt là vào tháng 9/1963, đã
được trao đổi hay được truyến dẫn giữa Ba Lan, Liên Sô, Pháp, VNDCCH và
VNCH, và cả Mỹ ở các mức dộ khác nhau. Tháng 9/1963 Lê Đức Thọ có bài
viết báo trên Báo Nhân Dân nói rằng một số đảng viên bị ảnh hưởng của
"chủ nghĩa xét lại" vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của
đảng. Lúc này cuộc tranh chấp giữa hai phe chủ hòa (theo Liên Sô) và phe
chủ chiến (theo Trung Cộng) bắt đầu lộ diện rõ ràng hơn . Điều đó cũng
có thể giải thích vì sao sau đề nghị giao thương Nam Bắc của TT Phạm Văn
Đồng (có thể sau lưng là ông Hồ Chí Minh) không thành hình . Cũng có
thể vì Diệm Nhu bị đảo chánh và bị giết, điều mà sau này nhiều thông tin
cho thấy đó là việc làm của Mỹ với cáo buộc là Diệm Nhu âm mưu bán đứng
miền Nam (đó cũng là lý lẽ mà nhóm tướng lãnh đảo chánh đưa ra để biện
minh và chạy tội).
Theo ý kiến chủ quan của tôi, bất cứ nhà lãnh đạo chính trị nào vì quyền
lợi của Dân Tộc đều tìm cách liên lạc và “nói chuyện” với đối phương
trên cơ sở ít nhất là hai bên cùng có lợi . Chiến tranh là giải pháp
cuối cùng cực chẳng đã mới làm . Ý đồ và thủ đoạn của mỗi bên là chuyện
thứ hai kế tiếp sau khi hai bên chịu ngồi chung đàm phán với nhau. Trách
ông Nhu liên lạc với miền Bắc không chứng minh được gì. Hội đàm Paris
là ai chủ động liên lạc và khởi xướng: Mỹ và Bắc Việt . Cuối cùng Mỹ đã
tháo chạy trong “danh dự” bỏ mặc cho miền Nam . Vì sao lại trách ông
Nhu? Nếu như thời thế thuận lợi, một giải pháp chính trị nào đó đã thành
hình: Việt Nam trung lập, Việt Nam một nước hai chế độ hay hình thái
nào đó tránh được cho Đất Nước hơn chục năm nội chiến với giá trả đầy
xương máu và tàn phá mất mát, vô ích hoàn toàn vô ích.
Đọc xong cuốn sách, tôi cũng “bâng khuâng” như tác giả. Nếu ngày ấy phe
chủ hòa lãnh đạo miền Bắc có lẽ Đất Nước ta đã có một cơ hội, miền Bắc
thoát Trung miền Nam thoát Mỹ lợi dụng mâu thuẩn của hai khối Cộng Sản –
Tự Do để xây dựng Đất Nước tránh cảnh tương tàn gần hai mươi năm. Ít ra
tôi cũng có một giấc mơ như thế.Theo ý kiến chủ quan của tôi, bất cứ
nhà lãnh đạo chính trị nào vì quyền lợi của Dân Tộc đều tìm cách liên
lạc và “nói chuyện” với đối phương trên cơ sở ít nhất là hai bên cùng có
lợi. Chiến tranh là giải pháp cuối cùng cực chẳng đã mới làm. Ý đồ và
thủ đoạn của mỗi bên là chuyện thứ hai kế tiếp sau khi hai bên chịu ngồi
chung đàm phán với nhau. Trách ông Nhu liên lạc với miền Bắc không
chứng minh được gì. Hội đàm Paris: ai chủ động liên lạc và khởi xướng:
Mỹ và Bắc Việt. Cuối cùng Mỹ đã tháo chạy trong “danh dự” bỏ mặc cho
miền Nam. Vì sao lại trách ông Nhu? Nếu như thời thế thuận lợi, một giải
pháp chính trị nào đó đã thành hình: Việt Nam trung lập, Việt Nam một
nước hai chế độ hay hình thái nào đó tránh được cho Đất Nước hơn chục
năm nội chiến với giá trả đầy xương máu và tàn phá mất mát, vô ích hoàn
toàn vô ích.
Đọc xong cuốn sách, tôi cũng “bâng khuâng” như tác giả. Nếu ngày ấy phe
chủ hòa lãnh đạo miền Bắc có lẽ Đất Nước ta đã có một cơ hội, miền Bắc
thoát Trung miền Nam thoát Mỹ lợi dụng mâu thuẫn của hai khối Cộng Sản –
Tự Do để xây dựng Đất Nước tránh cảnh tương tàn gần hai mươi năm.
Ít ra tôi cũng có một giấc mơ như thế.
Tạ Vân Anh
phế binh VNCH đang ở Mỹ, đã về hưu, rãnh rỗi đọc sách để hiểu chuyện
đời. Thấy cuốn sách có nhiều thông tin về vụ ông Nhu đi gặp ông Phạm
Hùng nên dịch để ai quan tâm đọc để biết và suy tư với vận mệnh của Dân
tộc
PS: Ai muốn có bản dịch cuốn sách, vui lòng email cho ThangMo247@gmail.com
[1] https://en.wikipedia.org/wiki/John_F._Kennedy
[2] The Vietnam war, A Concise International History bởi Mark Atwood Laurence
[3] http://www.historycommons.org/context.jsp?item=vietnam_637
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Liệu một cơ hội để mang lại hòa bình cho Việt Nam đã bị bỏ lỡ vào năm 1963?
Câu chuyện xuay quanh câu hỏi "liệu ông Nhu có liên lạc với miền Bắc không?" điều mà thông tin nhiều nhất mà chúng ta có được mấy chục năm qua là tin đồn "ông Nhu đi gặp ông Phạm Hùng ở Tánh Linh"
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Ảnh: Associated Press
Câu chuyện xuay quanh câu hỏi "liệu ông Nhu có liên lạc với miền Bắc
không?" điều mà thông tin nhiều nhất mà chúng ta có được mấy chục năm
qua là tin đồn "ông Nhu đi gặp ông Phạm Hùng ở Tánh Linh" đâu đó trong
năm 1963. Cuốn sách "Poland and Vietnam, 1963:New Evidence on Secret
Communist Diplomacy and the "Maneli Affair"" được Gs Sử học Margaret K.
Gnoinska viết dựa trên các tài liệu giải mật của Ba Lan. Thấy hay, tôi
mày mò phỏng dịch lại ra tiếng Việt để bà con ta đọc cho biết một phần
nào về sự thực này .
Liệu một cơ hội để mang lại hòa bình cho Việt Nam đã bị bỏ lỡ vào năm 1963?
Đó là một câu hỏi “bâng khuâng” mà Gs Sử học Margaret K. Gnoinska tự hỏi
trong cuốn sách của bà có tên là Ba Lan và Việt Nam, 1963: Chứng Cớ Mới
về Ngoại Giao Bí Mật Cộng Sản và “Vụ Maneli” (Poland and Vietnam, 1963:
New Evidence on Secret Communist Diplomacy and the "Maneli Affair") dựa
trên các tài liệu giải mật của Ba Lan thời đó.
Cuốn sách xuay quanh:
1) đề xuất “Trung lập hóa Việt Nam” và
2) vấn đề liệu ông Nhu có hay không có liên lạc với miền Bắc về đề xuất
này thông qua trung gian của ông Mieczysław Maneli, Trưởng đại diện của
Ba Lan trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến (ICC) vào thời gian trước đảo
chánh 1.11.1963.
Với người Việt miền Nam chúng ta hồi ấy và cho đến nay thường chỉ nghe
đến tin đồn là ông Nhu có đi Tánh Linh thuộc tỉnh Phước Tuy giả đi săn
để gặp ai đó đại diện của miền Bắc Cộng sản. Sau này được vài nhân vật
kề cạnh hai ông Diệm Nhu chứng thực rằng ông Nhu có đi Tánh Linh nhưng
không biết gặp ai ở đó trong khi tin xầm xì rằng đó là ông Phạm Hùng (Ủy
viên Bộ Chính Trị Trưởng ban Thống nhất Trung ương Đảng từ năm 1958 đến
1966)
Trước khi đi vào bàn luận hai vấn đề: Trung lập hóa Việt Nam (cả hai
miền) và vấn đề ông Nhu liên lạc với miền Bắc, thiết nghĩ chúng ta nên
dạo sơ qua về bối cảnh chính trị, quân sự trong thời gia đó (từ Tuyên
Cáo Caravelle ngày 26-4-1960 đến 1.11.1963 ngày Đệ nhất Cộng Hòa bị khai
tử với cái chết đau thương của hai anh em Diệm Nhu)
Bối cảnh Thế giới:
- Sự thành hình hai khối Cộng Sản và Tự Do sau Thế Chiến II một bên là Liên Sô đứng đầu, một bên là Hòa Kỳ làm thủ lãnh
- Chiến Tranh Lạnh đã thành hình và đang tiếp diễn
- Xung đột ý thức hệ Sô-Trung, Liên Sô đứng đầu là Khrushchev chủ trương
hòa hoãn sống chung hòa bình, Trung Cộng đứng đầu là Mao Trạch Đông xem
lý thuyết nòng cốt của chủ nghĩa Marx-Lênin về xung đột vũ trang không
tránh khỏi giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là chủ đạo.
- Mỹ đã vào miền Nam thế chỗ cho Pháp từ sau 1954, đến tháng 12/1961 đã
có 3200 và đến cuối 1962 lên đến con số 12000 cố vấn Mỹ ở miền Nam để
đào tạo, trang bị xây dựng quân đội và hoàn thiện chính phủ Ngô Đình
Diệm nhằm ngăn chận Cộng sản bành trướng.
Bối cảnh miền Bắc: Phe chủ chiến trỗi dậy
- Sau 1954, điều khoản Tổng tuyển cử năm 1956 tới hạn nhưng không được thi hành vì phía VNCH không đồng ý.
- Chịu ảnh hưởng bởi sự xung đột ý thức hệ Trung-Sô, hai khuynh hướng
chính trị nỗi lên: một phe chủ hòa tạm chấp nhận hai miền chia cắt (sống
chung hòa bình theo hướng Liên Sô) và một phe chủ chiến theo đường lối
Trung Cộng do Tổng Bí Thư Lê Duẫn đứng đầu dứt khoát tiến hành vũ trang
nỗi dậy chiếm lấy miền Nam. Sau vụ Xét Lại Chống Đảng (1965), phe Lê
Duẩn ngã hẳn vào vòng tay của Mao Trạch Đông (1966)
- Tháng 9 năm 1963, Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, đăng một
bài báo trên Báo Nhân Dân nói rằng một số đảng viên bị ảnh hưởng của
"chủ nghĩa xét lại" vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của
đảng.
- Tại Hội nghị Trung ương lần thứ IX (tháng 12/1963), Lê Duẩn, Lê Đức
Thọ và Phạm Hùng đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị
kết thúc với nghị quyết xác định lập trường đứng về phía Trung Quốc lên
án "chủ nghĩa xét lại Khrushchyov", đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ
lực ở miền Nam.
Bối cảnh ở Mỹ: Mỹ xem Việt Nam là gánh nặng
- Suốt thời gian làm Tổng Thống Mỹ, TT Eisenhower luôn tích cực hổ trợ
cho chính phủ Diệm, tích cực ngăn Cộng sản và là cha đẻ của thuyết
Domino
- John F. Kennedy lên thay TT Eisenhower mãn nhiệm kỳ ngày 20-01-1961.
Kennedy chủ trương lập lại hòa bình, dứt khoát không đưa quân chiến đấu
vào miền Nam ngoại trừ các cố vấn mà con số không quá 16000 [1]
- Năm 1963, chính phủ Kennedy phải giải quyết nhiều cuộc khủng hoảng
quan trọng là Phong trào Dân Quyên lãnh đạo bởi TS Martin Luther King,
vụ Vịnh Con Heo Cuba, vụ Tên lửa của Liên Sô đóng ở Cuba, vụ Bức tường
Bá Linh được Đông Đức xây lên (sau khi khối CS không buộc được Mỹ và phe
Tự Do rút đi) và tiếp tục đối phó với Chiến Tranh Lạnh.
- Các chính phủ Mỹ đều cố tránh sự can thiệp trực tiếp của Trung Cộng.
Bối cảnh ở miền Nam Việt Nam: tình hình bất ổn
- Tình hình chính trị bắt đầu tệ với Tuyên Cáo Caravelle ngày 26-4-1960
đòi TT Ngô Đình Diệm phải thực thi dân chủ, chấm dứt gia đình trị và
những đề nghị cải cách tương đối khiêm tốn.
- Ngày 1/11/1960, nhóm Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Nguyễn Chánh
Thi, Hoàng Cơ Thụy và Phan Quang Đán đảo chính nhưng thất bại.
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời ngày 20 tháng 12 năm 1960
- Ngày 27.2.1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom Dinh Độc lập
- Khủng hoảng Phật Giáo bắt đầu ngày 8/5/1963 và trở nên đáng kể trong tháng 7 tháng 8
- Tương quan lực lượng giữa quân đội VNCH và quân Giải Phóng là “cân
bằng lực lượng. Họ thừa nhận bị đánh bại, nhưng họ vẫn cho rằng họ kiểm
soát 75 phần trăm của các lãnh thổ và 50 phần trăm dân số [Tài liệu số
16: Công điện giải mật]”
- Đầu tháng 6/1963, TT Kennedy đột ngột triệu hồi Đại sứ Mỹ Fredrik
Nolting, người đã có cảm tình với chế độ Sài Gòn, và thay thế ông là Đại
sứ Henry Cabot Lodge là người mà nhiều tài liệu cho thấy rất kình chống
với Diệm (và Nhu)
- Ngày 11/06/1963 Thượng Tọa Thích Quãng Đức tự thiêu
- Tại Mỹ một số đại diện dân cử lên tiếng kêu gọi Mỹ rút lui.
- Chính quyền Mỹ đòi hỏi ông Diệm phải thay đổi và loại bỏ Nhu. Diệm từ chối.
- Chính quyền Mỹ thay vì rút lui dần đã tìm cách thay thế chính phủ Diệm
bằng một chính quyền phục tùng Mỹ nhiều hơn [2] dẫn đến cái chết của
hai anh em Diệm Nhu
- Ngày 11/11/1963, nhóm Tướng lãnh đứng đầu là Dương Văn Minh đảo chánh
thành công, hai anh em Diệm Nhu bị giết, nền Đệ Nhất Cộng Hòa cáo chung.
Chuyện thứ nhất: Ý tưởng trung lập hóa Việt Nam
Ý tưởng trung lập hóa Việt Nam đã được đề cập bởi Ba Lan vào đầu năm
1963 khi Ngoại trưởng Ba Lan Adam Rapacki gặp nhà lãnh đạo Ấn Độ
Jawaharlal Nehru trong chuyến thăm Ấn Độ từ 20 đến 22 tháng Giêng
Sau đó ý tưởng này cũng đã được chia sẽ với Đại Sứ Mỹ tại Ấn Độ là John
Kenneth Galbraith. Phản ứng của Galbraith là tích cưc. Ông báo cáo về Bộ
Ngoại Giao nhưng bị bỏ qua. TT Kennedy kịp thời thấy báo cáo kêu ông
tiếp tục thăm dò nhưng Rapacki đã rời Ấn Độ nên không gì xảy ra tiếp
theo đó.
Ý tưởng Trung lập hóa Việt Nam sau đó được bàn bạc giữa Ba Lan với lãnh đạo Liên Sô và họ cũng đồng ý.
Mieczysław Maneli Trưởng đoàn Đại diện của Ba Lan trong Ủy Ban Kiểm Soát
Đình Chiến là người mang nhiều thông tin về việc giải pháp Trung lập
hóa Việt Nam. Trong những tháng của đầu năm 1963, Maneli trong một số
công điện mật đã “mô tả các cuộc thảo luận chung về kế hoạch cho tương
lai của Bắc Việt, thường nhấn mạnh mong muốn của Hà Nội là thống nhất
đất nước và loại bỏ quân đội Hoa Kỳ, cũng như một số cuộc thảo luận mơ
hồ về trung lập hóa miền Nam Việt Nam theo kiểu Lào” trong nhiều lần gặp
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, Bộ Trưởng Ngoại Giao Xuân Thủy và Hà Văn Lâu
Trưởng Ban Thống Nhất của Đảng. Ông Xuân Thủy cũng muốn bắt đầu bằng
trao đổi văn hóa và kinh tế (đổi than lấy gạo) trước khi có một giải
pháp chính trị.
Các điều trên cho thấy cho đến lúc này ý tưởng trung lập hóa miền Nam là chưa đến tai ông Nhu.
Sự kiện ông Hồ Chí Minh từ Hà Nội gửi cành đào cho ông Diệm vào dịp Tết
là có thật (có lẽ Maneli mang dùm vào) tuy nhiên có kèm theo đề nghị
giao thương không thì không tài liệu nào khẳng định. Nhưng đề nghị giao
thương văn hóa và kinh tế như Maneli kể trên đây cho thấy các lãnh đạo
miền Bắc cũng rất quan tâm đến việc “trung lập hóa” miền Nam.
Tuy nhiên, lãnh đạo miền Bắc muốn “trung lập hóa” miền Nam phải nằm
trong lợi ích của họ, nghĩa là quân đội nước ngoài phải được rút hết,
miền Nam không được gia nhập bất cứ liên minh quân sự - hai điều mà nếu
“trung lập hóa” cả miền Bắc thì miền Bắc không có gì phải lo. Việc
“trung lập hóa” như họ muốn hóa ra cuối cùng là “chính phủ này sẽ biến
thành một nước xã hội chủ nghĩa bằng con đường hòa bình, và chứ không
bằng phương tiện quân sự.”
Trung lập hóa miền Nam như thế sẽ khó được lãnh đạo VNCH chấp nhận.
Vì sao Mỹ không thấy giải pháp “trung lập hóa” miền Nam này là thuận lợi
cho họ để rút đi từ 1963 hay sau đó khoảng một năm, tránh cho dân tộc
chúng ta phải chịu đau thương mất mát thêm 12 năm bom đạn và họ phải mất
hơn năm mươi ngàn sinh mạng và hàng trăm tỷ đô la chưa kể hàng trăm tỷ
khác để lo cho các vấn đề của cựu chiến binh. Có gì khác về kết quả cho
người Mỹ với giải pháp “Trung lập hóa” (giả hiệu) năm 1963 với cách
(Việt Nam hóa chiến tranh) mà đã bỏ rơi VNCH năm 1973).
Làm sao trung lập khi phe chủ chiến miền Bắc quyết tâm dùng vũ lực, “đã
lên kế hoạch tổ chức một đội quân 500 ngàn người ở miền Nam năm 1965.
Các chi phí bảo dưỡng được trả bởi người Trung Quốc, và phần còn lại đến
từ các nguồn trong nước” [Tài liệu số 16: Công điện giải mật]. Làm sao
trung lập khi Trung cộng chỉ muốn hai miền Việt Nam đánh nhau, hoặc nữa
hòa bình nữa chiến tranh để thành phên dậu an toàn cho họ yên tâm mà
phát triển đất nước của họ. Liệu lãnh đạo chủ chiến miền Bắc có nhìn
thấy gì còn cao hơn lý tưởng chủ nghĩa xã hội của họ?
Trung lập theo kiểu Lào ký kết trong Hiệp Định Geneva năm 1962, quân Bắc
Việt chẳng những không rút đi còn tăng cường thêm – suy ra vấn đề cực
kỳ phức tạp chứ không đơn giản là rút quân, bắt tay hát bài ca chiến
thắng. Ngay Hiệp Định Geneva năm 1954, bao nhiêu các bộ Việt Minh ở lại
miền Nam trong đó có ông Lê Duẫn. Hiệp định là một đàng, ý đồ là một
nẽo.
Theo tôi, nếu có xảy ra một hội nghị Geneva hay ở đâu đó để Trung lập
hóa miền Nam thì hội nghị đó sẽ kéo dài rất lâu, vừa đánh vừa đàm, Mỹ
muốn rút thì giá nào cũng rút miễn là “rút lui trong danh dự” mà họ cũng
chả cần danh dự được hiểu theo cách nào. Hội nghị cũng sẽ bị bàn tay
lông lá của các nước “anh em” không theo ý chúng là không xong. Ngày nay
bàn tay chúng không thấy lông lá vì chúng đeo găng tay bằng nhung.
Tóm lại, “Trung lập hóa miền Nam hay cả Việt Nam hay cả Đông Dương” chỉ
là chuyện trong mơ. Khi nào mình mạnh cả về quân sự lẫn kinh tế và thiên
thời địa lợi như Thụy Sĩ thì sự “trung lập” là Trung lập kiểu Thụy Sĩ
thì lúc ấy là điều vạn phúc cho Dân Tộc
Nếu “Trung Lập” kiểu Lào chỉ là thứ đầu hàng để Mỹ rút quân, để hòa bình
lập lại trong một nước xã hội chủ nghĩa không còn tiếng súng nhưng bất
kể hậu quả thế nào thì đúng là một cơ hội hòa bình đã bị bỏ lỡ. Nước
Việt Nam lúc ấy sẽ theo khuôn mẫu của Tầu, của Triều Tiên và sẽ ra sao?
Lào và Campuchea sẽ thành nước gì?
Chuyện thứ hai: liệu ông Nhu có liên lạc với miền Bắc không?
Theo tài liệu được giải mã, Maneli thừa nhận đã gặp Nhu hai lần, một lần
công khai vào ngày 25 tháng Tám và một lần bí mật vào ngày 02 tháng
Chín năm 1963
Tuy nhiên, trong cuốn sách có đoạn "Vào mùa xuân năm 1963, tôi đã bí mật được Tổng thống Ngô
Đình Diệm và em trai của ông là Ngô Đình Nhu, thông qua Roger Lalouette,
Đại sứ Pháp ở Sài Gòn, tiếp cận với Chính phủ Hà Nội để tìm hiểu khả
năng cho một giải pháp hòa bình của cuộc chiến", có nghĩa là Diệm và Nhu
cũng đã muốn tìm giải pháp Hòa Bình thông qua Đại sứ Pháp, có thể Nhu
chỉ nhờ ông này và ông này nhờ lại Maneli. Cái logic cho thấy nếu nhờ
được Maneli thì việc gì phải nhờ qua Đại Sứ Pháp.
Lần thứ nhất ngày 25 tháng Tám, Bộ Ngoại Giao VNCH có một buổi tiếp tân
công khai trong đó “Đại Sứ Ý Orlandi và đại diện Vatican, Đức ông
Salvatore d'Astata, sắp xếp cuộc họp [cho Nhu gặp Maneli]”
Ngày 29 tháng 8 năm 1963 De Gaulle kêu gọi công khai cho giải pháp Trung
lập hóa cả hai miền Việt Nam (đương nhiên là có chuyện rút quân đội
nước ngoài ra khỏi Việt Nam). Ở đây người ta tự hỏi sao có chuyện De
Gaulle tuyên bố giải pháp Trung lập bốn ngày sau khi Maneli gặp Nhu ở
buổi tiếp tân?
Lần gặp thứ hai của Maneli với Nhu là ngày 2 tháng 9, 1963 mà thư mời
đến tay Maneli vào lúc 2 giờ sáng ? sao gấp gáp vậy. Nhưng nội dung lại
không có gì quan trọng. Phải chăng “đấy là một nỗ lực của Nhu để thấu
cáy Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ ngày càng bực tức với sự bất lực hoặc sự không sẵn
sàng của chế độ Diệm nhằm chống lại phe đối lập cộng sản trong nước.”
Dầu về mặt công khai, Maneli chỉ gặp Nhu hai lần nhưng Maneli đã “gặp
Đại sứ Pháp Lalouette nhiều lần hơn so với bất kỳ Đại sứ phương Tây nào
khác ở Sài Gòn” và Nhu lại nói chuyện [nhiều lần?] với Lalouette – có
thể Maneli cũng đã nhiều lần khác đã nói chuyện với Nhu qua trung gian
của Lalouette. Bằng cớ là tuyên bố của Degaulle xảy ra chỉ 4 ngày sau
cuộc gặp Maneli-Nhu lần thứ nhất, một tuyên bố chính trị không thể khơi
khơi ngẫu hứng mà phải qua nhiều dò ý, tham khảo, tính toán.
Theo tôi việc ông Nhu tìm cách “nói chuyện” với bên kia là có thật và có
tính toán. Tôi cũng tin rằng hai ông Diệm Nhu và ít ra một vài lãnh đạo
phía Bắc thuộc phe “sống chung hòa bình” cũng muốn tìm một giải pháp
chính trị cho Việt Nam, hoặc Trung lập hoặc tiến hành Tổng tuyển cử theo
Hiệp Định Geneva để chấm dứt chiến tranh.
Tôi nghiêng về vế thứ hai là Tổng tuyển cử vì có lẽ ông Nhu tin rằng
VNCH nay đã đủ mạnh để buộc có một Tổng tuyển cử tự do và có giám sát
quốc tế, điều mà VNDCCH đã từ chối áp dụng và do đó tạo một trong các cớ
chính đáng để miền Nam không thi hành Hiệp định Geneva. Thực chất, nếu
Tổng tuyển Cử xảy ra vào năm 1956 thì 80% dân sẽ bầu cho ông Hồ Chí Minh
(“And US President Dwight Eisenhower admits, “I have never talked or
corresponded with a person knowledgeable in Indochinese affairs who did
not agree that had elections been held as of the time of the fighting, a
possible 80 per cent of the population would have voted for the
communist Ho Chi Minh as their leader.” [3]).
Tôi tin rằng vào khoảng từ đầu năm 1963 khi ý tưởng “trung lập hóa”
thành hình và suốt mấy tháng sau đó, đặc biệt là vào tháng 9/1963, đã
được trao đổi hay được truyến dẫn giữa Ba Lan, Liên Sô, Pháp, VNDCCH và
VNCH, và cả Mỹ ở các mức dộ khác nhau. Tháng 9/1963 Lê Đức Thọ có bài
viết báo trên Báo Nhân Dân nói rằng một số đảng viên bị ảnh hưởng của
"chủ nghĩa xét lại" vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của
đảng. Lúc này cuộc tranh chấp giữa hai phe chủ hòa (theo Liên Sô) và phe
chủ chiến (theo Trung Cộng) bắt đầu lộ diện rõ ràng hơn . Điều đó cũng
có thể giải thích vì sao sau đề nghị giao thương Nam Bắc của TT Phạm Văn
Đồng (có thể sau lưng là ông Hồ Chí Minh) không thành hình . Cũng có
thể vì Diệm Nhu bị đảo chánh và bị giết, điều mà sau này nhiều thông tin
cho thấy đó là việc làm của Mỹ với cáo buộc là Diệm Nhu âm mưu bán đứng
miền Nam (đó cũng là lý lẽ mà nhóm tướng lãnh đảo chánh đưa ra để biện
minh và chạy tội).
Theo ý kiến chủ quan của tôi, bất cứ nhà lãnh đạo chính trị nào vì quyền
lợi của Dân Tộc đều tìm cách liên lạc và “nói chuyện” với đối phương
trên cơ sở ít nhất là hai bên cùng có lợi . Chiến tranh là giải pháp
cuối cùng cực chẳng đã mới làm . Ý đồ và thủ đoạn của mỗi bên là chuyện
thứ hai kế tiếp sau khi hai bên chịu ngồi chung đàm phán với nhau. Trách
ông Nhu liên lạc với miền Bắc không chứng minh được gì. Hội đàm Paris
là ai chủ động liên lạc và khởi xướng: Mỹ và Bắc Việt . Cuối cùng Mỹ đã
tháo chạy trong “danh dự” bỏ mặc cho miền Nam . Vì sao lại trách ông
Nhu? Nếu như thời thế thuận lợi, một giải pháp chính trị nào đó đã thành
hình: Việt Nam trung lập, Việt Nam một nước hai chế độ hay hình thái
nào đó tránh được cho Đất Nước hơn chục năm nội chiến với giá trả đầy
xương máu và tàn phá mất mát, vô ích hoàn toàn vô ích.
Đọc xong cuốn sách, tôi cũng “bâng khuâng” như tác giả. Nếu ngày ấy phe
chủ hòa lãnh đạo miền Bắc có lẽ Đất Nước ta đã có một cơ hội, miền Bắc
thoát Trung miền Nam thoát Mỹ lợi dụng mâu thuẩn của hai khối Cộng Sản –
Tự Do để xây dựng Đất Nước tránh cảnh tương tàn gần hai mươi năm. Ít ra
tôi cũng có một giấc mơ như thế.Theo ý kiến chủ quan của tôi, bất cứ
nhà lãnh đạo chính trị nào vì quyền lợi của Dân Tộc đều tìm cách liên
lạc và “nói chuyện” với đối phương trên cơ sở ít nhất là hai bên cùng có
lợi. Chiến tranh là giải pháp cuối cùng cực chẳng đã mới làm. Ý đồ và
thủ đoạn của mỗi bên là chuyện thứ hai kế tiếp sau khi hai bên chịu ngồi
chung đàm phán với nhau. Trách ông Nhu liên lạc với miền Bắc không
chứng minh được gì. Hội đàm Paris: ai chủ động liên lạc và khởi xướng:
Mỹ và Bắc Việt. Cuối cùng Mỹ đã tháo chạy trong “danh dự” bỏ mặc cho
miền Nam. Vì sao lại trách ông Nhu? Nếu như thời thế thuận lợi, một giải
pháp chính trị nào đó đã thành hình: Việt Nam trung lập, Việt Nam một
nước hai chế độ hay hình thái nào đó tránh được cho Đất Nước hơn chục
năm nội chiến với giá trả đầy xương máu và tàn phá mất mát, vô ích hoàn
toàn vô ích.
Đọc xong cuốn sách, tôi cũng “bâng khuâng” như tác giả. Nếu ngày ấy phe
chủ hòa lãnh đạo miền Bắc có lẽ Đất Nước ta đã có một cơ hội, miền Bắc
thoát Trung miền Nam thoát Mỹ lợi dụng mâu thuẫn của hai khối Cộng Sản –
Tự Do để xây dựng Đất Nước tránh cảnh tương tàn gần hai mươi năm.
Ít ra tôi cũng có một giấc mơ như thế.
Tạ Vân Anh
phế binh VNCH đang ở Mỹ, đã về hưu, rãnh rỗi đọc sách để hiểu chuyện
đời. Thấy cuốn sách có nhiều thông tin về vụ ông Nhu đi gặp ông Phạm
Hùng nên dịch để ai quan tâm đọc để biết và suy tư với vận mệnh của Dân
tộc
PS: Ai muốn có bản dịch cuốn sách, vui lòng email cho ThangMo247@gmail.com
[1] https://en.wikipedia.org/wiki/John_F._Kennedy
[2] The Vietnam war, A Concise International History bởi Mark Atwood Laurence
[3] http://www.historycommons.org/context.jsp?item=vietnam_637