Đoạn Đường Chiến Binh
Lính - Nguyễn Gia Thiễu
Trên những con đường lớn nhỏ, đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến, tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác, vân vân
Kính gửi tặng anh Ple...
Tôi sống tạm bợ nơi Sài Gòn xa hoa, nhộn nhịp, và lắm xô bồ trong tháng 4 năm 1975, với ngàn lo âu, run sợ hãi hùng đầy cay đắng, băn khoăn lo lắng trăm mối tơ vò. Tin dữ loan ra thì có, tin lành về lại không. Nhìn xuống lòng Đại lộ Trần Hưng Đạo 2, tôi càng run rẩy nghĩ rằng :
- Trận chiến nầy, hẳn là sẽ đến hồi quyết liệt, để giành thắng. Nay mai sẽ có giao tranh trên cùng khắp các nẽo đường. Chạy đi đâu cho thoát ra khỏi ngỏ sâu hun hút, đầy đạn bom đây ! Hở Trời !? Tôi vô cùng hối hận, khi đưa gia đình về Đô thành. Chạy đi đâu, cũng không thể thoát khỏi nanh vuốt chiến tranh bạo tàn. Thì thà rằng cứ ở lại Đà Lạt, có lẽ gia đình tôi không đến nỗi nào khổ sở đến thế !
Trên những con đường lớn nhỏ, đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến, tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác, vân vân… chồng chất đủ mọi thứ lỉnh kỉnh lên xe. Họ ùn ùn hối hả đi đi, về về ! Đi đâu ?! Về đâu ?!
Hầu hết các doanh trại ven đô, các công sở ty mỏ, và thường dân lo đào hầm hố cá nhân Những đại công sở và cao ốc, cũng như ngoài những Đại lộ, gần Trung tâm Sài Gòn đều ráo riết chuẩn bị.
Khổng Tử đã nói : “Kẻ sĩ lo trước cái lo của thiên hạ. Vui sau cái vui của thiên hạ”. Cũng như Cổ nhân đã nói : "Nhất nhất túc, thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu, thị bách niên thân" Nghĩa là : Lỡ bước một phen, nghìn đời ân hận, quay đầu nhìn lại, chín suối ngậm ngùi. Quả thực như thế. Những người lính làm viên gạch lót đường cho danh vọng, tham tàn, bạo lực, thù hận, oằn vai nặng gánh, lưng gồng mối thù phân chia hai miền Nam - Bắc.
Có ba Lữ đoàn Dù. Thủy Quân Lục Chiến. Ba Liên đoàn Biệt Động Quân đóng tại Hóc Môn. Gò Vấp. Bình Chánh. Nhà Bè. Tân Sơn Nhất, chia nhau ra trấn giữ. Quân đội đã đặt những ụ súng cối, súng máy, do các Chiến hữu Sư-đoàn 5 - 18 - 22 - 25, chu tất việc bảo vệ an toàn lãnh thổ Việt Nam, Thủ-đô, và lương dân vô tội.
Trên không-phận của Thủ-Đô Sài Gòn, Đại-Úy Trần Văn Phúc, người Phi-tuần trưởng, của Phi-tuần Khu-trục Phi-Long 51, đã kể lại cùng thân nhân rằng :
- Theo sự hiểu biết của tôi : Ngay sau khi phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích, tôi được chỉ định đi bay. Vì thiếu "wingman", nên Th/tá Trương Phùng tình nguyện cùng tôi, đi bay trong mưa pháo. Bình điện phi cơ của Th/tá Phùng bị hư, và đạn pháo kích rơi gần đó, không quá 100 thước (bãi đậu A 37). Nên sau khi quay máy xong, tôi quyết định cất cánh một mình, lúc 4 giờ 25 phút sáng tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Khi lên tới Phú Lâm, tôi được PHĐ AC 119 - Tinh Long 06, hướng dẫn oanh kích, mục tiêu là 2 dàn pháo 122 ly, cách đài Radar Phú Lâm khoảng 500 mét, về hướng Tây. Sau khi thả trái bom thứ 2 xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến :
- Phi Long 51, anh cứ trút hết bom đạn xuống mục tiêu. Và mời anh ghé nhà tôi, nhậu tối nay nhe.
Mặc dù tôi đã biết người ra lịnh cho tôi là ai, nhưng tôi vẫn hỏi lại :
- Giới chức vừa ra lịnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
- Tôi Thần Phong 01. Thiếu Tướng Kỳ đây !
Vừa bay lượn, quan sát mục tiêu, tôi vừa trả lời :
- Thưa Cụ Phó, tôi bay lên đây một mình, với 10 trái bom 250 (250 cân Anh). Theo tôi, nên chờ, khi nào thấy rõ mục tiêu, hãy thả bom. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa. Với kinh nghiệm của tôi, xin ông an tâm !
Khoảng 15 hay 20 phút sau, có lẽ bọn chúng (Việt Cộng) nghĩ chúng tôi hết bom, nên bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn rõ nhiều dàn pháo, mỗi dàn 4 khẩu 122 ly, liên tục phóng lên. Nhờ vậy, rất dễ dàng cho chúng tôi thanh toán những mục tiêu nầy. Lúc bấy giờ Th/Tá Phùng đã bay đến nơi, mặc dù Vô tuyến của anh bị hư (Không nói được), nhưng Th/Tá Phùng vẫn cất cánh bay lên, và cùng với tôi sát cánh chiến đấu bên nhau. (Vì vô tuyến của anh Phùng bị trục trặc, nên chúng tôi không thể liên lạc với nhau).
Dập tắt các dàn pháo ở Phú Lâm xong, chúng tôi đã trở về, để bảo vệ phi trường TSN, và Thủ Đô Sài Gòn lúc 5 giờ 30 phút. Sau đó, chúng tôi cùng với PHĐ AC 119 K - Tinh Long 07, do Tr/úy Trang Văn Thành (Có biệt danh là Thành Cambốt), anh là Trưởng phi cơ, của chiếc Tinh Long 07. Do chiếc Tinh Long 06 bị trúng đạn SA7. Nên anh Thành lên thay thế chiếc Tinh Long 06. Chúng tôi cùng nhau bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn.
Theo sự hướng dẫn của Tinh Long 07, (Nghi ngờ 1 toán nhỏ đặc công VC gần vòng đai TSN), anh Phùng thả 2 trái bom còn lại. Kế đó, Vô tuyến tốt, nên chúng tôi liên lạc với nhau chút đỉnh.
Trước khi tôi đáp xuống phi trường TSN, trong vô tuyến tôi được biết có 1 phi tuần A1 của PĐ 514, đang trên đường tới TSN. Tình hình bấy giờ rất yên ổn, nên tôi quyết định đáp xuống TSN, lúc 6 giờ 50. Riêng Th/Tá Phùng chưa chịu đáp xuống. Vì thế không may anh bị bắn rơi. (Sau khi chiếc Tinh Long 07 trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA 7 không lâu). Tôi nhìn thấy rõ ràng chiếc Tinh Long 07 bị bắn rơi, ở phía Tây Bắc phi trường TSN, cái đuôi bên phải gãy ra, một vật màu đen rớt xuống, cánh bay phải gãy lìa. Phi cơ phát hỏa, quay tròn như bông vụ, rồi cắm xuống đất. Vật rơi xuống màu đen là Th/sĩ Chín, tự Chín Dơi rớt xuống đất, anh bị gãy chân, (Anh ta được đưa vào Bịnh viện băng bó).
Sau đó, không thấy anh Phùng về đáp, trong lòng tôi nghĩ :
- “Do anh ấy thấy chiếc Tinh Long bị bắn, nên có lẽ anh Phùng đi Cần Thơ chăng ?”
Đến trưa, khi xuống Cần Thơ, tôi tìm anh, nhưng không thấy anh Phùng đâu. Chiều tối ngày 30/4/75 khi tôi ở Utapao - Thái Lan, tình cờ tôi nghe một anh làm ở đài Kiểm-soát Không-lưu cho biết :
- Sau khi chiếc Tinh Long bị rớt, anh ta thấy có một chiếc Khu trục bị bắn rớt. Nhưng tôi không thấy dù bung ra.
Bằng trực giác, tôi nghi ngờ anh Phùng lâm nạn ở vùng Hóc Môn hay Bà Hom. Dù có nhiều nguồn tin khác nhau : khi thì có giả thiết anh Phùng lâm nạn ở Bình Điền. Khi Phú Lâm. Khi Kinh Sáng...
Sau 21 giờ, - ngày 29-4-1975 - Thiết quân luật bắt đầu 100%. Màn đêm đã sớm về, đến khi khuya lắc khuya lơ, chúng tôi vẫn đứng thấp thỏm, thập thò từ trong cửa sổ phòng ngủ. Hotel tắt hết đèn đóm, tôi nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo, thì thấy lố nhố hàng hàng lớp lớp lính tráng : Thủy-quân Lục-chiến. Nhảy Dù. Biệt Động Quân. Bộ-binh, vân vân...
Họ chia ra từng tốp mười tốp bảy, nhiều vô số, nằm gối đầu trên vĩa hè, tay gát lên trán tư lự. Có người đứng hoặc ngồi bên đường. Dù ở trên vỉa hè, Quân nhân đều có trật tự, nhịp nhàng, kỷ cương. Họ chia nhau ra canh giữ Quê hương trong giờ phút khốn cùng. Những đóm lửa nhỏ loé lên trên bờ môi khô lập loè. Những đôi mắt dường như đọng ngấn lệ bi ai. Dù gần hay xa xôi muôn trùng sóng vỗ, thời khắc quý giá nầy, vẫn mãi hoài ghi nhớ, chiếm ngữ trong hồn tôi giông bão.
Họ đang đăm chiêu suy tư, bơ phờ, hốc hác, mặc áo giáp, đội mũ sắt, có người hất ngược mũ ra sau gáy, sợi quai mũ cứa vào cục yết hầu oan gia nhô cao, cay đắng chạy lên chạy xuống cuống cổ. Có người đội mũ sụp che xuống gần tới mí mắt. Có người đội mũ lệch qua một bên. Họ mang giày đinh lấm lem bụi đỏ, lưng đèo ba lô nặng trĩu đường hành quân, râu ria lởm chởm, tóc tai không mấy chỉnh tề. Những bàn tay anh tài vẫn đưa lên ngang tầm mắt, nghiêm nghị đứng thẳng, ngực ưỡn ra oai vệ chào Thượng cấp.
Một thời gắn bó keo sơn. Nay người lính đem xương máu ra chiến trường đã là, đang là những viên gạch lót đường, dài dài... từ vĩ tuyến 17, nơi con sông Bến Hải có cầu Hiền Lương phân giới.
Họ quyết ở lại dựng nước và giữ nước. Mặc dù biết mình vô tình làm ván bài mưu lược Chính trị, họ vẫn cố duy trì sự tồn-hưng cho chế độ trong thời chiến tranh. Giống như Mã Viện xưa đã nói : "Làm trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, mới đáng quý. Chớ chết trong tay lũ trẻ nâng đỡ. Nào có hay gì !"
Phân chia là thế ! Nhưng lòng yêu nước thiết tha và hoài bão mong tự do an bình, ấm no cho toàn dân, thì quan và lính đều giống nhau. Hôm nay có trải qua chung cuộc ngậm ngùi trong cơn xoáy đục ngầu, tưởng cũng nên chia phần đều nhau. Là vậy.
Tôi âm thầm quan sát “Những tình thương và sự hy sinh cao cả bên lề cuộc sống” : Cứ một giờ, tốp lính nầy đến gác, là tốp kia lầm lũi ra đi. Súng dài gác lên, mũi súng chụm vào nhau chỉa lên trời, báng súng dựng dưới mặt đường nhựa. Họ nói rất khẽ với nhau, hay họ chỉ lặng lẽ ra hiệu lệnh. Họ là những Quân nhân anh dũng quyết chiến đấu, hy sinh đến giờ phút cuối cùng. Súng đeo vai nòng chĩa xuống đất, họ lặng lẽ và tuyệt đối vâng lời Thượng cấp.
Họ từ từ rút lui có quy củ trật tự, tôn nghiêm trong hàng Quân ngũ. Họ nhìn nhau nhếch miệng cười, qua cái bắt tay vừa đủ chặt, âm thầm nói lên niềm đắng cay, trào dâng trên sóng mắt tiếc thương, quặn đau trong lòng, sự hy sinh vô vụ lợi, không điều kiện.
Ngày đêm kề cận sự chết, chiến tranh tàn khốc xảy ra trên từng đoạn đường giao tranh, trên những bước ngắn bước dài, bước thấp bước cao. Lòng lính càng quặn từng cơn đau buốt, khi họ đi kè kè hai bên lề đường, để hộ tống từng đoàn dân di tản, tất tả chạy dọc theo ven những Quốc lộ. Cuộc chiến tranh bêu riếu nầy, đã hạ bức màn đen trong chung cuộc đầy bi kịch rồi chăng ?
Họ hoàn toàn tin tưởng vào cấp lãnh đạo tối cao Việt Nam, và các cấp Chỉ huy dấn thân, từ các nơi còn trụ lại, rải rác…có thể là :
- Vùng I : Quảng Nam. Quảng Trị. Thừa Thiên.
- Vùng II : Dakto. Kontum. Pleiku. Đà Lạt. Khánh Dương.
- Vùng III : Bình Long. An Lộc. Long Khánh.
- Vùng IV : Nhất là hy vọng từ Long An về Miền Tây, vẫn còn…
"Quốc hữu phân tắc thực" (Nước còn người giỏi, thì nước mới vững chắc)
Dù Quân đội từ các Binh chủng ở lại rải rác nơi nầy, có anh dũng oanh liệt chiến đấu tại các chiến trường, hay tại các địa phương, Tỉnh, Thành, nào.
Nhưng nếu không còn “Thủ lĩnh”, cấp lãnh đạo, không có những vị Chỉ huy. E thua chắc !
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê !
Nguyễn Gia Thiễu
hoiquanphidung.com
Biên Hùng chuyển
Kính gửi tặng anh Ple...
Tôi sống tạm bợ nơi Sài Gòn xa hoa, nhộn nhịp, và lắm xô bồ trong tháng 4 năm 1975, với ngàn lo âu, run sợ hãi hùng đầy cay đắng, băn khoăn lo lắng trăm mối tơ vò. Tin dữ loan ra thì có, tin lành về lại không. Nhìn xuống lòng Đại lộ Trần Hưng Đạo 2, tôi càng run rẩy nghĩ rằng :
- Trận chiến nầy, hẳn là sẽ đến hồi quyết liệt, để giành thắng. Nay mai sẽ có giao tranh trên cùng khắp các nẽo đường. Chạy đi đâu cho thoát ra khỏi ngỏ sâu hun hút, đầy đạn bom đây ! Hở Trời !? Tôi vô cùng hối hận, khi đưa gia đình về Đô thành. Chạy đi đâu, cũng không thể thoát khỏi nanh vuốt chiến tranh bạo tàn. Thì thà rằng cứ ở lại Đà Lạt, có lẽ gia đình tôi không đến nỗi nào khổ sở đến thế !
Trên những con đường lớn nhỏ, đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến, tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác, vân vân… chồng chất đủ mọi thứ lỉnh kỉnh lên xe. Họ ùn ùn hối hả đi đi, về về ! Đi đâu ?! Về đâu ?!
Hầu hết các doanh trại ven đô, các công sở ty mỏ, và thường dân lo đào hầm hố cá nhân Những đại công sở và cao ốc, cũng như ngoài những Đại lộ, gần Trung tâm Sài Gòn đều ráo riết chuẩn bị.
Khổng Tử đã nói : “Kẻ sĩ lo trước cái lo của thiên hạ. Vui sau cái vui của thiên hạ”. Cũng như Cổ nhân đã nói : "Nhất nhất túc, thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu, thị bách niên thân" Nghĩa là : Lỡ bước một phen, nghìn đời ân hận, quay đầu nhìn lại, chín suối ngậm ngùi. Quả thực như thế. Những người lính làm viên gạch lót đường cho danh vọng, tham tàn, bạo lực, thù hận, oằn vai nặng gánh, lưng gồng mối thù phân chia hai miền Nam - Bắc.
Có ba Lữ đoàn Dù. Thủy Quân Lục Chiến. Ba Liên đoàn Biệt Động Quân đóng tại Hóc Môn. Gò Vấp. Bình Chánh. Nhà Bè. Tân Sơn Nhất, chia nhau ra trấn giữ. Quân đội đã đặt những ụ súng cối, súng máy, do các Chiến hữu Sư-đoàn 5 - 18 - 22 - 25, chu tất việc bảo vệ an toàn lãnh thổ Việt Nam, Thủ-đô, và lương dân vô tội.
Trên không-phận của Thủ-Đô Sài Gòn, Đại-Úy Trần Văn Phúc, người Phi-tuần trưởng, của Phi-tuần Khu-trục Phi-Long 51, đã kể lại cùng thân nhân rằng :
- Theo sự hiểu biết của tôi : Ngay sau khi phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích, tôi được chỉ định đi bay. Vì thiếu "wingman", nên Th/tá Trương Phùng tình nguyện cùng tôi, đi bay trong mưa pháo. Bình điện phi cơ của Th/tá Phùng bị hư, và đạn pháo kích rơi gần đó, không quá 100 thước (bãi đậu A 37). Nên sau khi quay máy xong, tôi quyết định cất cánh một mình, lúc 4 giờ 25 phút sáng tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Khi lên tới Phú Lâm, tôi được PHĐ AC 119 - Tinh Long 06, hướng dẫn oanh kích, mục tiêu là 2 dàn pháo 122 ly, cách đài Radar Phú Lâm khoảng 500 mét, về hướng Tây. Sau khi thả trái bom thứ 2 xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến :
- Phi Long 51, anh cứ trút hết bom đạn xuống mục tiêu. Và mời anh ghé nhà tôi, nhậu tối nay nhe.
Mặc dù tôi đã biết người ra lịnh cho tôi là ai, nhưng tôi vẫn hỏi lại :
- Giới chức vừa ra lịnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
- Tôi Thần Phong 01. Thiếu Tướng Kỳ đây !
Vừa bay lượn, quan sát mục tiêu, tôi vừa trả lời :
- Thưa Cụ Phó, tôi bay lên đây một mình, với 10 trái bom 250 (250 cân Anh). Theo tôi, nên chờ, khi nào thấy rõ mục tiêu, hãy thả bom. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa. Với kinh nghiệm của tôi, xin ông an tâm !
Khoảng 15 hay 20 phút sau, có lẽ bọn chúng (Việt Cộng) nghĩ chúng tôi hết bom, nên bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn rõ nhiều dàn pháo, mỗi dàn 4 khẩu 122 ly, liên tục phóng lên. Nhờ vậy, rất dễ dàng cho chúng tôi thanh toán những mục tiêu nầy. Lúc bấy giờ Th/Tá Phùng đã bay đến nơi, mặc dù Vô tuyến của anh bị hư (Không nói được), nhưng Th/Tá Phùng vẫn cất cánh bay lên, và cùng với tôi sát cánh chiến đấu bên nhau. (Vì vô tuyến của anh Phùng bị trục trặc, nên chúng tôi không thể liên lạc với nhau).
Dập tắt các dàn pháo ở Phú Lâm xong, chúng tôi đã trở về, để bảo vệ phi trường TSN, và Thủ Đô Sài Gòn lúc 5 giờ 30 phút. Sau đó, chúng tôi cùng với PHĐ AC 119 K - Tinh Long 07, do Tr/úy Trang Văn Thành (Có biệt danh là Thành Cambốt), anh là Trưởng phi cơ, của chiếc Tinh Long 07. Do chiếc Tinh Long 06 bị trúng đạn SA7. Nên anh Thành lên thay thế chiếc Tinh Long 06. Chúng tôi cùng nhau bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn.
Theo sự hướng dẫn của Tinh Long 07, (Nghi ngờ 1 toán nhỏ đặc công VC gần vòng đai TSN), anh Phùng thả 2 trái bom còn lại. Kế đó, Vô tuyến tốt, nên chúng tôi liên lạc với nhau chút đỉnh.
Trước khi tôi đáp xuống phi trường TSN, trong vô tuyến tôi được biết có 1 phi tuần A1 của PĐ 514, đang trên đường tới TSN. Tình hình bấy giờ rất yên ổn, nên tôi quyết định đáp xuống TSN, lúc 6 giờ 50. Riêng Th/Tá Phùng chưa chịu đáp xuống. Vì thế không may anh bị bắn rơi. (Sau khi chiếc Tinh Long 07 trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA 7 không lâu). Tôi nhìn thấy rõ ràng chiếc Tinh Long 07 bị bắn rơi, ở phía Tây Bắc phi trường TSN, cái đuôi bên phải gãy ra, một vật màu đen rớt xuống, cánh bay phải gãy lìa. Phi cơ phát hỏa, quay tròn như bông vụ, rồi cắm xuống đất. Vật rơi xuống màu đen là Th/sĩ Chín, tự Chín Dơi rớt xuống đất, anh bị gãy chân, (Anh ta được đưa vào Bịnh viện băng bó).
Sau đó, không thấy anh Phùng về đáp, trong lòng tôi nghĩ :
- “Do anh ấy thấy chiếc Tinh Long bị bắn, nên có lẽ anh Phùng đi Cần Thơ chăng ?”
Đến trưa, khi xuống Cần Thơ, tôi tìm anh, nhưng không thấy anh Phùng đâu. Chiều tối ngày 30/4/75 khi tôi ở Utapao - Thái Lan, tình cờ tôi nghe một anh làm ở đài Kiểm-soát Không-lưu cho biết :
- Sau khi chiếc Tinh Long bị rớt, anh ta thấy có một chiếc Khu trục bị bắn rớt. Nhưng tôi không thấy dù bung ra.
Bằng trực giác, tôi nghi ngờ anh Phùng lâm nạn ở vùng Hóc Môn hay Bà Hom. Dù có nhiều nguồn tin khác nhau : khi thì có giả thiết anh Phùng lâm nạn ở Bình Điền. Khi Phú Lâm. Khi Kinh Sáng...
Sau 21 giờ, - ngày 29-4-1975 - Thiết quân luật bắt đầu 100%. Màn đêm đã sớm về, đến khi khuya lắc khuya lơ, chúng tôi vẫn đứng thấp thỏm, thập thò từ trong cửa sổ phòng ngủ. Hotel tắt hết đèn đóm, tôi nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo, thì thấy lố nhố hàng hàng lớp lớp lính tráng : Thủy-quân Lục-chiến. Nhảy Dù. Biệt Động Quân. Bộ-binh, vân vân...
Họ chia ra từng tốp mười tốp bảy, nhiều vô số, nằm gối đầu trên vĩa hè, tay gát lên trán tư lự. Có người đứng hoặc ngồi bên đường. Dù ở trên vỉa hè, Quân nhân đều có trật tự, nhịp nhàng, kỷ cương. Họ chia nhau ra canh giữ Quê hương trong giờ phút khốn cùng. Những đóm lửa nhỏ loé lên trên bờ môi khô lập loè. Những đôi mắt dường như đọng ngấn lệ bi ai. Dù gần hay xa xôi muôn trùng sóng vỗ, thời khắc quý giá nầy, vẫn mãi hoài ghi nhớ, chiếm ngữ trong hồn tôi giông bão.
Họ đang đăm chiêu suy tư, bơ phờ, hốc hác, mặc áo giáp, đội mũ sắt, có người hất ngược mũ ra sau gáy, sợi quai mũ cứa vào cục yết hầu oan gia nhô cao, cay đắng chạy lên chạy xuống cuống cổ. Có người đội mũ sụp che xuống gần tới mí mắt. Có người đội mũ lệch qua một bên. Họ mang giày đinh lấm lem bụi đỏ, lưng đèo ba lô nặng trĩu đường hành quân, râu ria lởm chởm, tóc tai không mấy chỉnh tề. Những bàn tay anh tài vẫn đưa lên ngang tầm mắt, nghiêm nghị đứng thẳng, ngực ưỡn ra oai vệ chào Thượng cấp.
Một thời gắn bó keo sơn. Nay người lính đem xương máu ra chiến trường đã là, đang là những viên gạch lót đường, dài dài... từ vĩ tuyến 17, nơi con sông Bến Hải có cầu Hiền Lương phân giới.
Họ quyết ở lại dựng nước và giữ nước. Mặc dù biết mình vô tình làm ván bài mưu lược Chính trị, họ vẫn cố duy trì sự tồn-hưng cho chế độ trong thời chiến tranh. Giống như Mã Viện xưa đã nói : "Làm trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, mới đáng quý. Chớ chết trong tay lũ trẻ nâng đỡ. Nào có hay gì !"
Phân chia là thế ! Nhưng lòng yêu nước thiết tha và hoài bão mong tự do an bình, ấm no cho toàn dân, thì quan và lính đều giống nhau. Hôm nay có trải qua chung cuộc ngậm ngùi trong cơn xoáy đục ngầu, tưởng cũng nên chia phần đều nhau. Là vậy.
Tôi âm thầm quan sát “Những tình thương và sự hy sinh cao cả bên lề cuộc sống” : Cứ một giờ, tốp lính nầy đến gác, là tốp kia lầm lũi ra đi. Súng dài gác lên, mũi súng chụm vào nhau chỉa lên trời, báng súng dựng dưới mặt đường nhựa. Họ nói rất khẽ với nhau, hay họ chỉ lặng lẽ ra hiệu lệnh. Họ là những Quân nhân anh dũng quyết chiến đấu, hy sinh đến giờ phút cuối cùng. Súng đeo vai nòng chĩa xuống đất, họ lặng lẽ và tuyệt đối vâng lời Thượng cấp.
Họ từ từ rút lui có quy củ trật tự, tôn nghiêm trong hàng Quân ngũ. Họ nhìn nhau nhếch miệng cười, qua cái bắt tay vừa đủ chặt, âm thầm nói lên niềm đắng cay, trào dâng trên sóng mắt tiếc thương, quặn đau trong lòng, sự hy sinh vô vụ lợi, không điều kiện.
Ngày đêm kề cận sự chết, chiến tranh tàn khốc xảy ra trên từng đoạn đường giao tranh, trên những bước ngắn bước dài, bước thấp bước cao. Lòng lính càng quặn từng cơn đau buốt, khi họ đi kè kè hai bên lề đường, để hộ tống từng đoàn dân di tản, tất tả chạy dọc theo ven những Quốc lộ. Cuộc chiến tranh bêu riếu nầy, đã hạ bức màn đen trong chung cuộc đầy bi kịch rồi chăng ?
Họ hoàn toàn tin tưởng vào cấp lãnh đạo tối cao Việt Nam, và các cấp Chỉ huy dấn thân, từ các nơi còn trụ lại, rải rác…có thể là :
- Vùng I : Quảng Nam. Quảng Trị. Thừa Thiên.
- Vùng II : Dakto. Kontum. Pleiku. Đà Lạt. Khánh Dương.
- Vùng III : Bình Long. An Lộc. Long Khánh.
- Vùng IV : Nhất là hy vọng từ Long An về Miền Tây, vẫn còn…
"Quốc hữu phân tắc thực" (Nước còn người giỏi, thì nước mới vững chắc)
Dù Quân đội từ các Binh chủng ở lại rải rác nơi nầy, có anh dũng oanh liệt chiến đấu tại các chiến trường, hay tại các địa phương, Tỉnh, Thành, nào.
Nhưng nếu không còn “Thủ lĩnh”, cấp lãnh đạo, không có những vị Chỉ huy. E thua chắc !
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê !
Nguyễn Gia Thiễu
hoiquanphidung.com
Biên Hùng chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Lính - Nguyễn Gia Thiễu
Trên những con đường lớn nhỏ, đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến, tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác, vân vân
Kính gửi tặng anh Ple...
Tôi sống tạm bợ nơi Sài Gòn xa hoa, nhộn nhịp, và lắm xô bồ trong tháng 4 năm 1975, với ngàn lo âu, run sợ hãi hùng đầy cay đắng, băn khoăn lo lắng trăm mối tơ vò. Tin dữ loan ra thì có, tin lành về lại không. Nhìn xuống lòng Đại lộ Trần Hưng Đạo 2, tôi càng run rẩy nghĩ rằng :
- Trận chiến nầy, hẳn là sẽ đến hồi quyết liệt, để giành thắng. Nay mai sẽ có giao tranh trên cùng khắp các nẽo đường. Chạy đi đâu cho thoát ra khỏi ngỏ sâu hun hút, đầy đạn bom đây ! Hở Trời !? Tôi vô cùng hối hận, khi đưa gia đình về Đô thành. Chạy đi đâu, cũng không thể thoát khỏi nanh vuốt chiến tranh bạo tàn. Thì thà rằng cứ ở lại Đà Lạt, có lẽ gia đình tôi không đến nỗi nào khổ sở đến thế !
Trên những con đường lớn nhỏ, đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến, tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác, vân vân… chồng chất đủ mọi thứ lỉnh kỉnh lên xe. Họ ùn ùn hối hả đi đi, về về ! Đi đâu ?! Về đâu ?!
Hầu hết các doanh trại ven đô, các công sở ty mỏ, và thường dân lo đào hầm hố cá nhân Những đại công sở và cao ốc, cũng như ngoài những Đại lộ, gần Trung tâm Sài Gòn đều ráo riết chuẩn bị.
Khổng Tử đã nói : “Kẻ sĩ lo trước cái lo của thiên hạ. Vui sau cái vui của thiên hạ”. Cũng như Cổ nhân đã nói : "Nhất nhất túc, thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu, thị bách niên thân" Nghĩa là : Lỡ bước một phen, nghìn đời ân hận, quay đầu nhìn lại, chín suối ngậm ngùi. Quả thực như thế. Những người lính làm viên gạch lót đường cho danh vọng, tham tàn, bạo lực, thù hận, oằn vai nặng gánh, lưng gồng mối thù phân chia hai miền Nam - Bắc.
Có ba Lữ đoàn Dù. Thủy Quân Lục Chiến. Ba Liên đoàn Biệt Động Quân đóng tại Hóc Môn. Gò Vấp. Bình Chánh. Nhà Bè. Tân Sơn Nhất, chia nhau ra trấn giữ. Quân đội đã đặt những ụ súng cối, súng máy, do các Chiến hữu Sư-đoàn 5 - 18 - 22 - 25, chu tất việc bảo vệ an toàn lãnh thổ Việt Nam, Thủ-đô, và lương dân vô tội.
Trên không-phận của Thủ-Đô Sài Gòn, Đại-Úy Trần Văn Phúc, người Phi-tuần trưởng, của Phi-tuần Khu-trục Phi-Long 51, đã kể lại cùng thân nhân rằng :
- Theo sự hiểu biết của tôi : Ngay sau khi phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích, tôi được chỉ định đi bay. Vì thiếu "wingman", nên Th/tá Trương Phùng tình nguyện cùng tôi, đi bay trong mưa pháo. Bình điện phi cơ của Th/tá Phùng bị hư, và đạn pháo kích rơi gần đó, không quá 100 thước (bãi đậu A 37). Nên sau khi quay máy xong, tôi quyết định cất cánh một mình, lúc 4 giờ 25 phút sáng tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Khi lên tới Phú Lâm, tôi được PHĐ AC 119 - Tinh Long 06, hướng dẫn oanh kích, mục tiêu là 2 dàn pháo 122 ly, cách đài Radar Phú Lâm khoảng 500 mét, về hướng Tây. Sau khi thả trái bom thứ 2 xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến :
- Phi Long 51, anh cứ trút hết bom đạn xuống mục tiêu. Và mời anh ghé nhà tôi, nhậu tối nay nhe.
Mặc dù tôi đã biết người ra lịnh cho tôi là ai, nhưng tôi vẫn hỏi lại :
- Giới chức vừa ra lịnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
- Tôi Thần Phong 01. Thiếu Tướng Kỳ đây !
Vừa bay lượn, quan sát mục tiêu, tôi vừa trả lời :
- Thưa Cụ Phó, tôi bay lên đây một mình, với 10 trái bom 250 (250 cân Anh). Theo tôi, nên chờ, khi nào thấy rõ mục tiêu, hãy thả bom. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa. Với kinh nghiệm của tôi, xin ông an tâm !
Khoảng 15 hay 20 phút sau, có lẽ bọn chúng (Việt Cộng) nghĩ chúng tôi hết bom, nên bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn rõ nhiều dàn pháo, mỗi dàn 4 khẩu 122 ly, liên tục phóng lên. Nhờ vậy, rất dễ dàng cho chúng tôi thanh toán những mục tiêu nầy. Lúc bấy giờ Th/Tá Phùng đã bay đến nơi, mặc dù Vô tuyến của anh bị hư (Không nói được), nhưng Th/Tá Phùng vẫn cất cánh bay lên, và cùng với tôi sát cánh chiến đấu bên nhau. (Vì vô tuyến của anh Phùng bị trục trặc, nên chúng tôi không thể liên lạc với nhau).
Dập tắt các dàn pháo ở Phú Lâm xong, chúng tôi đã trở về, để bảo vệ phi trường TSN, và Thủ Đô Sài Gòn lúc 5 giờ 30 phút. Sau đó, chúng tôi cùng với PHĐ AC 119 K - Tinh Long 07, do Tr/úy Trang Văn Thành (Có biệt danh là Thành Cambốt), anh là Trưởng phi cơ, của chiếc Tinh Long 07. Do chiếc Tinh Long 06 bị trúng đạn SA7. Nên anh Thành lên thay thế chiếc Tinh Long 06. Chúng tôi cùng nhau bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn.
Theo sự hướng dẫn của Tinh Long 07, (Nghi ngờ 1 toán nhỏ đặc công VC gần vòng đai TSN), anh Phùng thả 2 trái bom còn lại. Kế đó, Vô tuyến tốt, nên chúng tôi liên lạc với nhau chút đỉnh.
Trước khi tôi đáp xuống phi trường TSN, trong vô tuyến tôi được biết có 1 phi tuần A1 của PĐ 514, đang trên đường tới TSN. Tình hình bấy giờ rất yên ổn, nên tôi quyết định đáp xuống TSN, lúc 6 giờ 50. Riêng Th/Tá Phùng chưa chịu đáp xuống. Vì thế không may anh bị bắn rơi. (Sau khi chiếc Tinh Long 07 trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA 7 không lâu). Tôi nhìn thấy rõ ràng chiếc Tinh Long 07 bị bắn rơi, ở phía Tây Bắc phi trường TSN, cái đuôi bên phải gãy ra, một vật màu đen rớt xuống, cánh bay phải gãy lìa. Phi cơ phát hỏa, quay tròn như bông vụ, rồi cắm xuống đất. Vật rơi xuống màu đen là Th/sĩ Chín, tự Chín Dơi rớt xuống đất, anh bị gãy chân, (Anh ta được đưa vào Bịnh viện băng bó).
Sau đó, không thấy anh Phùng về đáp, trong lòng tôi nghĩ :
- “Do anh ấy thấy chiếc Tinh Long bị bắn, nên có lẽ anh Phùng đi Cần Thơ chăng ?”
Đến trưa, khi xuống Cần Thơ, tôi tìm anh, nhưng không thấy anh Phùng đâu. Chiều tối ngày 30/4/75 khi tôi ở Utapao - Thái Lan, tình cờ tôi nghe một anh làm ở đài Kiểm-soát Không-lưu cho biết :
- Sau khi chiếc Tinh Long bị rớt, anh ta thấy có một chiếc Khu trục bị bắn rớt. Nhưng tôi không thấy dù bung ra.
Bằng trực giác, tôi nghi ngờ anh Phùng lâm nạn ở vùng Hóc Môn hay Bà Hom. Dù có nhiều nguồn tin khác nhau : khi thì có giả thiết anh Phùng lâm nạn ở Bình Điền. Khi Phú Lâm. Khi Kinh Sáng...
Sau 21 giờ, - ngày 29-4-1975 - Thiết quân luật bắt đầu 100%. Màn đêm đã sớm về, đến khi khuya lắc khuya lơ, chúng tôi vẫn đứng thấp thỏm, thập thò từ trong cửa sổ phòng ngủ. Hotel tắt hết đèn đóm, tôi nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo, thì thấy lố nhố hàng hàng lớp lớp lính tráng : Thủy-quân Lục-chiến. Nhảy Dù. Biệt Động Quân. Bộ-binh, vân vân...
Họ chia ra từng tốp mười tốp bảy, nhiều vô số, nằm gối đầu trên vĩa hè, tay gát lên trán tư lự. Có người đứng hoặc ngồi bên đường. Dù ở trên vỉa hè, Quân nhân đều có trật tự, nhịp nhàng, kỷ cương. Họ chia nhau ra canh giữ Quê hương trong giờ phút khốn cùng. Những đóm lửa nhỏ loé lên trên bờ môi khô lập loè. Những đôi mắt dường như đọng ngấn lệ bi ai. Dù gần hay xa xôi muôn trùng sóng vỗ, thời khắc quý giá nầy, vẫn mãi hoài ghi nhớ, chiếm ngữ trong hồn tôi giông bão.
Họ đang đăm chiêu suy tư, bơ phờ, hốc hác, mặc áo giáp, đội mũ sắt, có người hất ngược mũ ra sau gáy, sợi quai mũ cứa vào cục yết hầu oan gia nhô cao, cay đắng chạy lên chạy xuống cuống cổ. Có người đội mũ sụp che xuống gần tới mí mắt. Có người đội mũ lệch qua một bên. Họ mang giày đinh lấm lem bụi đỏ, lưng đèo ba lô nặng trĩu đường hành quân, râu ria lởm chởm, tóc tai không mấy chỉnh tề. Những bàn tay anh tài vẫn đưa lên ngang tầm mắt, nghiêm nghị đứng thẳng, ngực ưỡn ra oai vệ chào Thượng cấp.
Một thời gắn bó keo sơn. Nay người lính đem xương máu ra chiến trường đã là, đang là những viên gạch lót đường, dài dài... từ vĩ tuyến 17, nơi con sông Bến Hải có cầu Hiền Lương phân giới.
Họ quyết ở lại dựng nước và giữ nước. Mặc dù biết mình vô tình làm ván bài mưu lược Chính trị, họ vẫn cố duy trì sự tồn-hưng cho chế độ trong thời chiến tranh. Giống như Mã Viện xưa đã nói : "Làm trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, mới đáng quý. Chớ chết trong tay lũ trẻ nâng đỡ. Nào có hay gì !"
Phân chia là thế ! Nhưng lòng yêu nước thiết tha và hoài bão mong tự do an bình, ấm no cho toàn dân, thì quan và lính đều giống nhau. Hôm nay có trải qua chung cuộc ngậm ngùi trong cơn xoáy đục ngầu, tưởng cũng nên chia phần đều nhau. Là vậy.
Tôi âm thầm quan sát “Những tình thương và sự hy sinh cao cả bên lề cuộc sống” : Cứ một giờ, tốp lính nầy đến gác, là tốp kia lầm lũi ra đi. Súng dài gác lên, mũi súng chụm vào nhau chỉa lên trời, báng súng dựng dưới mặt đường nhựa. Họ nói rất khẽ với nhau, hay họ chỉ lặng lẽ ra hiệu lệnh. Họ là những Quân nhân anh dũng quyết chiến đấu, hy sinh đến giờ phút cuối cùng. Súng đeo vai nòng chĩa xuống đất, họ lặng lẽ và tuyệt đối vâng lời Thượng cấp.
Họ từ từ rút lui có quy củ trật tự, tôn nghiêm trong hàng Quân ngũ. Họ nhìn nhau nhếch miệng cười, qua cái bắt tay vừa đủ chặt, âm thầm nói lên niềm đắng cay, trào dâng trên sóng mắt tiếc thương, quặn đau trong lòng, sự hy sinh vô vụ lợi, không điều kiện.
Ngày đêm kề cận sự chết, chiến tranh tàn khốc xảy ra trên từng đoạn đường giao tranh, trên những bước ngắn bước dài, bước thấp bước cao. Lòng lính càng quặn từng cơn đau buốt, khi họ đi kè kè hai bên lề đường, để hộ tống từng đoàn dân di tản, tất tả chạy dọc theo ven những Quốc lộ. Cuộc chiến tranh bêu riếu nầy, đã hạ bức màn đen trong chung cuộc đầy bi kịch rồi chăng ?
Họ hoàn toàn tin tưởng vào cấp lãnh đạo tối cao Việt Nam, và các cấp Chỉ huy dấn thân, từ các nơi còn trụ lại, rải rác…có thể là :
- Vùng I : Quảng Nam. Quảng Trị. Thừa Thiên.
- Vùng II : Dakto. Kontum. Pleiku. Đà Lạt. Khánh Dương.
- Vùng III : Bình Long. An Lộc. Long Khánh.
- Vùng IV : Nhất là hy vọng từ Long An về Miền Tây, vẫn còn…
"Quốc hữu phân tắc thực" (Nước còn người giỏi, thì nước mới vững chắc)
Dù Quân đội từ các Binh chủng ở lại rải rác nơi nầy, có anh dũng oanh liệt chiến đấu tại các chiến trường, hay tại các địa phương, Tỉnh, Thành, nào.
Nhưng nếu không còn “Thủ lĩnh”, cấp lãnh đạo, không có những vị Chỉ huy. E thua chắc !
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê !
Nguyễn Gia Thiễu
hoiquanphidung.com
Biên Hùng chuyển