Hôm  nay là một ngày buồn, tôi về thăm lại nơi chốn tôi đã lìa đời hơn tám  năm về trước. Kia rồi, toà nhà cổ kính tường sơn màu vàng, nằm ẩn dưới  những hàng cây cổ thụ, cành lá xum xuê. Một bức rào sắt cao hơn đầu  người vây quanh khu khuôn viên rộng lớn. Phía trước, hai cánh cổng gỗ  nặng nề chỉ đóng lại sau 9 giờ đêm, ban ngày lúc nào cũng mở toang, thấp  thoáng bóng người ra vào vội vã. Cổng được gắn vào hai cái cột hình  vuông, mỗi bên khắc một dấu thập đỏ. Trên cổng là một tấm bảng lớn kẻ  hàng chữ " bệnh viện sản phụ khoa " màu trắng nổi bật trên nền sơn màu  xanh lá cây. Phải, nơi đây là bệnh viện dành cho phụ nữ. Những người đàn  bà mang thai vào đây là để sanh con, hoặc để giết  con. Có những em bé may mắn được ra chào đời, và cũng có những em bé bị  giết ngay khi còn trong bụng mẹ, tôi là một trong những em bé xấu số  đó.
Nơi  đây tám năm về trước, tôi đã bị chết một cách thê thảm. Người ta tàn  nhẫn kéo tôi ra khỏi bụng mẹ, vứt tọt vào trong một cái chậu. Dao kéo  làm da tôi rách một vệt dài, cú ném mạnh làm xương tôi gãy dập, tôi đau  đớn quằn quại vài phút rồi xuôi tay. Có nhiều tiếng nói lao xao:
- Thai nhi coi trộng đến, chắc phải trên một kí.
- Ừ, để trễ quá, lẽ ra phải hoá kiếp cho nó sớm hơn.
- Coi xem trai hay gái?
- Con gái… Ý da! nó chưa chết, xem kìa! tim còn đập…
- Kệ nó mấy bà ơi! đừng nhìn, người nào nhìn sẽ bị nó bắt hồn đó.
- A di đà phật, tụi mình không thù oán, đừng bắt các chị nghe bé?
Nhiều tiếng cười rúc rích, rồi tiếng một người khác gắt khẽ:
- Làm việc đi! trễ rồi... 
Người  ta thản nhiên cười đùa, như đã quá quen với những cảnh này. Nằm trong  cái thau nhôm lạnh giá, tôi còn thoi thóp thêm một lúc nữa rồi mới ngưng  thở, máu trong người tôi chảy ra hết qua cái cuống rốn bị đứt lìa. Tôi  thấy người nhẹ tênh và tôi dập dềnh bay lên, người tôi như mọc cánh, một  đôi cánh trong suốt, dần dần tôi cũng trở nên trong suốt. Khi chết,  người ta trở nên vô hình, nhưng vẫn nhìn thấy cõi hữu hình. Tôi thấy mẹ  tôi nằm trên băng ca đang được người ta đẩy tới phòng hồi sinh, tôi thấy  thân xác tôi nhỏ xíu, tím bầm, nằm trong cái chậu nhầy nhụa máu cùng  với lá nhau, vật thể nối liền giữa tôi và mẹ tôi, vừa được người ta lấy  ra từ cơ thể của bà. Tôi cũng nhìn thấy các cô y  tá đang làm vệ sinh, lau dọn, sửa soạn cho một ca mới, lại một em bé  không may nữa… 
Hàng  ngày có bao nhiêu em bé không may phải lìa đời một cách tức tưởi? những  thân xác bé bỏng đó sẽ bị thiêu hủy cùng với những đống thịt thối rữa  được cắt lìa khỏi những cơ thể bệnh hoạn hay gặp tai nạn: những cánh  tay, cẳng chân, những lá gan bầm tím, những khúc ruột xình thối, những  cái bướu ung thư… Cái đống thịt người đó bốc lên một mùi khăn khẳn, ai  đi ngang cũng phải bịt mũi. Không muốn chứng kiến thêm, tôi buồn rầu bay  đi... 
Thương ơi! những bé thơ chết không một nấm mồ, linh hồn bé sẽ về đâu? 
Không biết đi về đâu,  tôi lang thang chỗ này, chỗ kia. Đôi khi tôi len lỏi, trà trộn vào những  người sống, tôi đứng ngay cạnh họ mà họ không biết, nên vô tình họ đã  để lộ chân tướng. Lại có lần tình cờ nghe được câu chuyện của một nhóm  người đang bàn tán, âm mưu một việc làm phi pháp, tôi biết được những  điều bí mật mà người đời không biết... 
Tôi cũng thích ngao du  đó đây, ngắm nhìn những cảnh đẹp. Có lần bay ngang một bãi biển vắng,  tôi dừng lại để nghe sóng vỗ, và tôi nhìn thấy một cặp tình nhân đang  hôn nhau. Họ còn trẻ lắm, cô gái chỉ chừng mười sáu tuổi, còn chàng trai  chưa tới hai mươi. Tôi đứng ngay sát bên họ, nhưng họ không nhìn thấy  tôi, hai người đang say mê ngắm cảnh hoàng hôn trên biển vắng, mặt trời  từ từ chìm xuống đáy nước, chàng trai thủ thỉ với cô bạn những lời tình  tự âu yếm. Lắng nghe họ nói chuyện, tôi mỉm cười, tình yêu sao mà đẹp  quá, thơ mộng quá. Trời tối hẳn, gió càng lúc càng mạnh, sóng vỗ vào  ghềnh đá nghe ầm ầm, đôi tình nhân đứng lên, nắm tay nhau đi về phía  khách sạn ở gần đó, tôi theo sau họ,  cách một quãng ngắn. Dáng điệu ngây thơ, rụt dè của cô gái khiến tôi  hiểu đây là lần đầu tiên cô dấn thân vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm.  Bây giờ họ đang đứng trước một căn phòng ấm cúng, bên ngoài trăng tỏ,  bên trong có ánh đèn mờ ảo, có nhạc dìu dặt quyến rũ. Cô gái bỗng dừng  chân nơi ngưỡng cửa, ngập ngừng không muốn vào, tôi vội vã chen vào giữa  hai người, ghé sát tai cô, khuyên nhủ:
- Phải đấy, đừng vào, vào đây sau này cô sẽ hối hận đó. Và tôi dục, về đi, về nhà ngay đi! cha mẹ cô đang chờ. 
Nhưng cô ta vẫn đứng im, tôi bèn nói với cả hai:
- Hai người trẻ tuổi  ơi! tình yêu của tuổi học trò chỉ đẹp khi biết giữ cho trong sạch. Nếu  các người chưa sẵn sàng đi đến hôn nhân thì nên dừng lại đi! đừng tiến  xa hơn, đừng dẫm lên những vết chân lầm lỡ của cha mẹ tôi. 
Tiếng nói của tôi tan  vào tiếng gió rì rào, chẳng ai nghe thấy gì hết, tôi cố gắng nói lớn  hơn, nhưng vô ích. Sau nhiều lần cố gắng nhưng không có hiệu quả, tôi  chán nản bỏ đi. Ký ức của tôi quay trở lại thời gian tám, chín năm về  trước, dạo đó cha mẹ tôi đều là những sinh viên rất trẻ, vừa mới đặt  chân vào ngưỡng cửa của trường đại học Y khoa, tương lai đầy hứa hẹn,  nhưng con đường học vấn còn dài. Họ đến từ hai thành phố khác nhau, gặp  nhau nơi sân trường, rồi yêu nhau. Họ yêu nhau ròng rã gần cả năm trời,  tình yêu càng ngày càng khắng khít, thân mật. Một đêm mưa gió, cha tới  thăm mẹ nơi gác trọ, và ở lại không về… 
Tôi vào đời ngay đêm  hôm đó, cả hai người đều không ai ngờ tới. Nằm trong bụng mẹ êm ấm lắm,  tôi thở bằng hơi thở của mẹ, tim tôi đập theo nhịp tim của mẹ, tôi sung  sướng lớn lên trong cái nôi êm ái đó. Tôi yêu mẹ, cảm thấy như có một  sợi dây thiêng liêng vô hình ràng buộc hai mẹ con. Còn trong bụng mẹ, mà  tôi biết hết, những lần cha mẹ tôi tắm biển, tôi như " ngửi " được mùi  nồng mặn của nước biển qua hơi thở của mẹ, tôi nghe thấy tiếng chim hót,  tiếng sóng rạt rào, và cảm nhận được những tia nắng ấm thấm qua làn da  bụng mỏng manh của mẹ. Những lần hai người dạo chơi trên những cánh  đồng, ngắm phong cảnh đẹp, cha âu yếm nói với mẹ:
- Em xem kìa…
Tôi cố tưởng tượng ra  bầu trời cao thăm thẳm, những thung lũng bạt ngàn, những cánh đồng hoa  dại, những con suối, ngọn đồi xinh tươi, từng đàn chim trời… Nhưng không  thể, bởi vì tôi chỉ là một thai nhi, thị giác của tôi chưa phát triển,  nhưng tôi biết thế giới này đẹp lắm, và tôi nôn nao mong đợi cái ngày  được ra chào đời. 
Tôi được ba tháng, mẹ  mới báo tin cho cha, tôi hồi hộp chờ nghe xem ông nói gì, cha tôi không  mừng như tôi tưởng, ông có vẻ lo lắng, hai người tranh luận sôi nổi, rồi  họ cãi nhau, cha nói:
- Anh không muốn có con bây giờ, chưa phải lúc.
Im lặng một hồi, tôi nghe mẹ khóc thút thít, rồi tiếng cha tôi cất lên, thật nhỏ:
- Bao lâu rồi?
- Ba tháng.
- Ba tháng cơ à? sao không cho anh biết sớm hơn?
- Tại em muốn chắc chắn rồi mới báo cho anh. Mới có kết quả thử nghiệm hôm qua.
- Không sao, cũng chưa muộn, còn kịp.
- Kịp làm cái gì cơ? Mẹ hỏi giọng run run.
- Phải hủy nó đi chứ làm gì nữa?
- Phá thai à?
Mẹ kêu lên sợ hãi, tôi cũng đứng tim trong vài giây, cha định giết tôi ư?
- Tàn nhẫn quá! Mẹ nói.
-  Bây giờ nó chưa phải là một đứa bé. Cha nói giọng thản nhiên, như ông  vẫn thản nhiên đo đạc, mổ xẻ những xác chết ngâm formol trong cơ thể học  viện, nó mới chỉ là một bọc nhầy dài chừng 5 phân, nặng 100 gram, to  bằng và trông cũng giống như cái trứng vịt lộn…
- Im đi, thứ người không tim! 
Những ngày sau đó, họ vẫn tiếp tục cãi nhau. Mẹ khóc lóc, còn cha thì hết năn nỉ đến giận dữ, rồi lại thuyết phục:
-  Có con bây giờ, anh hoặc em sẽ phải nghỉ học. Chẳng lẽ bao nhiêu công  khó của chúng ta trước đây để qua kỳ thi tuyển, bây giờ phải đổ sông, đổ  biển hết chỉ vì một đứa bé? Còn nữa, lấy tiền đâu ra để nuôi nó? chúng  ta đều là những sinh viên chưa ra trường, đâu có nghề nghiệp gì trong  tay?
Mẹ cúi đầu thở dài, nét mặt buồn xo, tôi hoảng lên:
- Mẹ! nói gì đi chứ? chẳng lẽ mẹ cũng đồng ý giết con?
- Không! dù thế nào đi  nữa em cũng nhất định sẽ giữ nó. Mẹ chống đỡ một cách yếu ớt, trời sinh  voi, sinh cỏ, có ai chết đói bao giờ? gì chứ việc làm lương thấp, tìm  đâu chẳng có?
- Tùy cô! Cha bắt đầu nổi nóng, nếu cô muốn tự ý quyết định thì cứ việc lo lấy.
Cha giận dữ bỏ đi, mẹ  nhìn theo oán hận, bà khóc cạn cả nước mắt. Những ngày sau đó, mẹ sống  trong lo sợ, phập phồng, đau khổ làm bà mất ăn mất ngủ, ốm nghén làm mẹ  gầy sút đi. Qua ba tháng, tôi lớn nhanh lắm, bụng mẹ bắt đầu đội áo, mẹ  xấu hổ, cố lánh mặt mọi người, tinh thần bà sa sút lắm rồi. Mấy tuần  sau, cha trở lại, hạ một chiêu cuối cùng:
-  Em muốn bỏ tương lai là một bác sĩ giàu sang, danh vọng để đổi lấy địa  vị của một người lao động hạng bét thì tùy em. Nhưng còn danh giá gia  đình nhà em, làm sao cha mẹ em chịu nổi tai tiếng khi có cô con gái  không chồng mà chửa hoang?
- Sao chúng mình không  làm đám cưới? Anh vẫn nói rằng anh yêu em, thề thốt sẽ cưới em làm vợ,  và em đã tin anh… Đứa con này là kết quả tình yêu của chúng mình...
- Không, nó là kết quả  của sự lầm lỡ thì đúng hơn. Chúng ta chưa đủ điều kiện để kết hôn.  Thôi, bỏ đi đừng tiếc, một đứa con thì có khó gì? sau này, khi ra  trường, chúng mình sẽ làm đám cưới, lúc đó em muốn mấy đứa mà chẳng  được?
Mẹ  có vẻ xiêu lòng, bà thôi không chống đối nữa. Thế là số phận của tôi đã  được định đoạt: tôi phải chết! Tôi sắp bị giết, một việc giết người hợp  pháp, không bị pháp luật kết án, nhưng còn lương tâm? Trời ơi! lương  tâm người ta để đâu?
Người ta sửa soạn cho  cái chết của tôi nhanh nhẹn lắm, vì tôi đã được hơn bốn tháng rồi, càng  để lâu, việc giết người sẽ càng khó khăn hơn. Chỉ một tuần sau, nhà  thương đã cho mẹ một cái hẹn… Tôi cố phản kháng bằng những cái đạp thật  mạnh trong bụng mẹ, nhắc nhở cho bà biết rằng tôi đã là một sanh linh,  một con người, và tôi đòi quyền được sống. Nhưng sức tôi yếu lắm, tôi  chỉ là một thai nhi mới hơn bốn tháng, những cái đạp của tôi chỉ làm  bụng mẹ hơi rung nhẹ, nhưng bà cũng cảm thấy. Mẹ thở dài, đưa tay xoa  bụng, bà cúi xuống thì thầm với tôi: 
- Mẹ xin lỗi con, mẹ không còn cách nào khác. Con hãy tha thứ cho mẹ.
- Không! Tôi hét lên, giết người thì không thể tha thứ, con sẽ không tha thứ cho cả cha lẫn mẹ.
Rồi tôi nức nở, và tôi lạy lục, kêu van:
- Con không muốn chết… lạy mẹ, xin đừng giết con!
Nhưng những lời van  xin của tôi đều vô ích, người ta coi danh giá gia đình, địa vị sang giàu  quí hơn mạng người. Mọi công việc đã được xếp đặt, nhà thương là đoạn  đầu đài của tôi. Ngày hẹn, cha trốn biệt, mẹ tự đến nhà thương một mình,  càng tới gần, bà càng đi chậm lại, còn tôi thì không ngừng kêu thét:
- Mẹ, quay lại đi! Đừng vào, van mẹ đừng vào…
Nhưng  bà vẫn chệnh choạng bước tới, qua cái sân rộng là tới căn phòng nạo  thai, căn phòng sát nhân kinh tởm, đoạn đường chỉ một quãng ngắn, nhưng  sao mẹ thở dốc? Sợ hãi hay hối hận làm bà chùn bước? Mẹ lê từng bước một  cách khó nhọc, cứ vài bước, bà lại ngập ngừng, và mỗi lần như vậy tôi  lại hy vọng, để rồi thất vọng và sau cùng là tuyệt vọng khi tôi nhìn  thấy căn phòng màu vàng: mẹ đã đưa tôi tới nơi, tới chỗ tôi sẽ bị giết! 
Bất thình lình, hai  cánh cửa mở toang, bên trong lố nhố những người áo trắng. Hai cô y tá  chạy ra đón, nắm tay dẫn mẹ vào bên trong, bà đi theo họ như một người  máy, mắt bà ráo hoảnh, giọt nước mắt đọng trên đó đã khô tự bao giờ, bà  cúi gằm mặt không nhìn ai cả.  Bác sĩ bảo mẹ nằm lên bàn mổ, trong lúc  ông sửa soạn đeo găng tay, tôi quẫy lên trong bụng mẹ, vừa dẫy dụa vừa  la hét thất thanh:
- Dừng lại! hãy dừng ngay công việc giết người lại! Van các người cho tôi được sống!
Nhưng bác sĩ đã chụp  thuốc mê cho mẹ rồi. Mẹ mê, nhưng tôi vẫn tỉnh, tôi nhìn thấy dao kéo  sáng loáng, và tôi sợ hãi co rúm người lại, thét lên kinh hoàng khi thấy  những dụng cụ đó thò vào… Từ cái sống qua cái chết kinh khủng lắm, đau  đớn lắm, tôi không muốn nhắc đến, nhưng không bao giờ tôi quên được tôi  đã chết như thế nào. 
Trong cõi siêu hình,  tôi nhập bọn với những linh hồn vừa mới lìa đời, hoặc chưa siêu thoát  như tôi, lang thang khắp đó đây. Tôi vào chùa, vào nhà thờ, trường học,  tôi ngồi cạnh mấy đứa học trò, chẳng ai nhìn thấy tôi, tôi vào cả rạp  hát, đi lẫn vào đám đông...
Một  buổi xế chiều, tôi vào chơi nghĩa trang. Con đường đất đỏ ngoằn ngoèo  tung bụi mờ mịt mỗi khi có cơn gió lớn, những đám lá khô đuổi nhau nghe  xào xạc, hai hàng cây dương liễu đứng phơi mình, ủ rũ trong ráng chiều.  Mặt trời đã ngả về tây, ánh nắng nhạt của một ngày sắp tắt chiếu phớt  trên những mồ mả chập chùng, đổ bóng những hàng bia mộ thành những vệt  dài song song trên mặt đất, nghĩa trang về chiều mang một vẻ buồn thê  lương. Tôi nhìn thấy một đám người đứng xúm xít quanh một cái mả vừa mới  đắp, đất vẫn chưa khô, những cây nhang cắm trên mả còn đang tỏa khói.  Thân nhân đang sửa soạn ra về, mắt người nào cũng đỏ hoe và đầu thì chít  khăn tang. A! thì ra đây là một đám ma vừa  mới chôn. Phủ trên nấm mộ, cơ man nào là hoa, nhiều hoa quá, tôi tự hỏi  người này lúc còn sống chắc được nhiều người yêu mến, nên lúc chết được  nhiều vòng hoa tiếc thương? hay chỉ vì gia đình giàu có nên làm đám ma  lớn? làm sao tôi biết? Người nhà có đám tang đã ra tới cổng, còn tôi thì  đi ngược đường với họ, vào sâu bên trong. Lác đác đó đây vài nấm mộ  cũng có hoa tươi, chứng tỏ vừa mới được người nhà thăm viếng. Tôi có thể  phân biệt nấm mộ nào được chăm sóc kỹ lưỡng, nấm mộ nào bỏ hoang, cỏ  dại mọc um tùm… Có những lăng mộ kiến trúc cầu kỳ, trái lại cũng có  những cái đơn giản chỉ là một tấm xi măng hình chữ nhật, một đầu có dựng  cây thánh giá. Tôi thở dài, đơn giản hay cầu kỳ, thì ngưòi nằm  dưới mộ cũng sẽ trở thành cát bụi, chẳng ai còn đó mãi để ngắm mộ của  mình.
Trời đã tối hẳn, màn  đêm đang buông xuống bao phủ cảnh vật, giờ này những người đi thăm mộ đã  ra về hết, nghĩa trang vắng vẻ không một bóng người. Tôi đi len lỏi  giữa những nấm mộ, ngước nhìn lên bầu trời tím đậm, những vì sao lấp  lánh như kim cương, ông trăng mới nhô lên khỏi ngọn cây, mặt trăng xanh  xao toả ánh sáng bàng bạc xuống trần gian. Rồi tôi cúi xuống, nhìn những  xác chết ở sâu dưới đáy mộ. Cái xác mới chôn, da thịt xình thối nhưng  chưa rữa, khăn liệm còn nguyên màu trắng toát. Những xác chết lâu năm  trông đều từa tựa như nhau: cũng bộ xương màu xám, cái đầu lâu với hai  hốc mắt sâu hoắm, hàm răng nhe ra nhăn nhở… tất cả ngập trong một thứ  nước bùn đen, lúc nhúc ròi bọ. Tôi nhìn  thấy một cái xác có chùm tóc dài dính bết thành từng nạm… cơ thể con  người, xương và tóc là những thứ lâu tan rã nhất. Bộ tóc dài chứng tỏ  xác người là một phụ nữ, người này xưa kia lúc còn sống là một mỹ nhân  hay là một cô gái xấu xí? làm sao biết được? Tôi thử tìm xem xác nào là  xác trí thức, xác nào là xác người thất học? không có gì khác biệt cả.  Rồi tôi tìm xem xác nào giàu, xác nào nghèo? cũng chịu, không thể phân  biệt. Khi chết, mọi người đều bình đẳng như nhau, mọi thứ: giàu sang,  phú quí, danh vọng, bạc tiền lúc còn sống, chỉ là phù vân, khi chết  không ai mang theo được gì. Thế mà lúc sống, người ta mưu mô tranh dành,  xâu xé lẫn nhau, thậm chí đôi khi gây ra tội ác cũng chỉ vì những thứ  phù vân đó. 
Như  cha tôi chẳng hạn, ông sẵn sàng đạp đổ mọi chướng ngại vật trên đường  đi, để đạt tới mục tiêu tối thượng của ông là giàu sang, danh vọng. Và  ông đã đạt được, bây giờ ông sống trong phú quí, bạc tiền, nhưng không  thanh thản, vì lòng tham không dừng tại đó, cứ thúc đẩy bắt ông phải  tiến tới mãi. Cả đời vất vả bon chen, tâm trí không lúc nào thảnh thơi  cũng chỉ vì những của phù vân không đáng gì, thật tội nghiệp. Tôi quên  nói, vợ của ông bây giờ không phải là mẹ tôi. Sau biến cố đó, hai người  xa nhau, chỉ ít lâu sau, cha tôi cưới vợ là một cô gái con nhà giàu. Mẹ  tôi hận người yêu bội bạc, bà ốm liệt giường, gần như điên loạn một thời  gian dài. Khi bình phục, bà chẳng còn nhớ  những gì trong quá khứ, cũng tốt thôi, để bà khỏi đau khổ vì dĩ vãng  buồn. Rồi mẹ xuống tóc đi tu, mặc áo nâu xòng, mượn câu kinh, tiếng kệ  tìm sự bình an cho tâm hồn, bà lánh xa cõi tục, quên đi những hệ lụy của  cuộc sống… 
Tôi  thở dài, không muốn nghĩ ngợi thêm nữa. Đêm đã khuya lắm, giun dế, côn  trùng đang cùng nhau trỗi giọng đồng ca. Trên cao trăng sáng vằng vặc,  thoảng trong không gian có mùi hương của hoa nhài, hoa nguyệt quế… một  đêm thật yên tĩnh, thật đẹp, nhưng cũng thật buồn cho những kẻ bơ vơ.  Tôi bay là là trong ánh trăng, ngắm những quả cầu lửa bay lởn vởn trên  những ngôi mộ, đó là những đốm lân tinh bốc lên từ xương người rữa mục,  gặp lạnh thì phát sáng. Người ta gọi đó là ma trơi, không ai dám vào  nghĩa trang lúc ban đêm cả, người ta sợ ma, sợ người chết. Nghĩ cũng lạ,  những người nằm đây, lúc sanh tiền ai cũng có gia đình, có người thân  yêu cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn, cùng ngủ, cùng mưu  sự những việc riêng, thế mà khi chết đi, người nhà lại sợ? thật là khó  hiểu…
Một chiếc lá rơi làm  tôi cắt dòng suy nghĩ, tôi ngẩng lên, bất chợt trông thấy một cô bé tóc  vàng có đôi cánh màu hồng rất đẹp, đang ngồi ca hát trên một nấm mộ, cô  ngồi đây từ lúc nào, tôi không để ý. Cô còn bé lắm, chắc chưa được hai  tuổi đâu, nhưng so với tôi, một thai nhi mới gần năm tháng, thì cô lớn  hơn nhiều. Thấy tôi, cô mỉm cười, vẫy lại gần:
- Lại đây bé ơi! chị tên Emily, còn em tên gì?
- Em không có tên. Tôi nói.
- Tại sao thế? Cô tròn xoe đôi mắt xanh biếc nhìn tôi ngạc nhiên, ai cũng phải có một cái tên để gọi chứ?
- Nhưng em không có. Tôi buồn bã nói, vì em chưa được sanh ra.
Cô bé lúc lắc cái đầu tóc quăn, tỏ vẻ không hiểu, tôi hỏi:
- Chị từ đâu tới đây?
- Chị ở trên trời, hôm nay về thăm gia đình, vì là ngày giỗ của chị, rồi chị ra đây chơi…
- Ngày giỗ là ngày gì hả chị? 
- Là ngày kỷ niệm một người thân đã qua đời. Gia đình tụ họp nhau lại, thắp nhang để tưởng nhớ và cầu nguyện cho người chết.
Thế ư? tôi chết đã tám  năm rồi, mà sao chẳng ai nhớ và cầu nguyện cho tôi? cũng chưa bao giờ  có ai thắp cho tôi một nén nhang, hoặc đốt cho tôi một ngọn nến. Người  ta đã quên chuyện cũ, mà họ coi là một biến cố rất nhỏ. 
Cuộc sống bận rộn,  người ta mải lo cơm áo, mải lo hưởng thụ, có ai dư thì giờ nghĩ đến  những đứa bé vô tội đã chết dưới tay họ khi chưa được ra chào đời? có lẽ  họ cũng chẳng còn nhớ những gì họ đã làm. Thấy tôi đứng ngẩn ngơ, chị  Emily hỏi:
- Bao giờ em mới về trời?
- Em cũng không biết nữa.
Nói xong, tôi từ giã  chị, bay đi. Đã quá nửa khuya, ông trăng biến đâu mất, sương xuống ướt  đẫm cỏ cây, một con chim vạc bay ngang cất tiếng kêu ảo não. Giờ này mọi  người còn đang say giấc điệp, tôi bay lập lờ trong sương đêm, cũng  chẳng biết về đâu. Đêm tàn dần, nơi chân trời phía đông vừa ló lên vài  tia sáng yếu ớt, bầu trời từ từ hừng sáng, một ngày mới lại bắt đầu… 
Những khi buồn, tôi  thường hay đi tìm bạn, bạn bè của tôi đa số là những đứa bé đồng cảnh  ngộ như tôi, chúng tôi họp thành từng đoàn vất vưởng, lang thang, tìm  những nơi có nhang đèn, cúng kiến để hưởng chút hơi ấm. Đêm Giáng sinh,  chúng tôi theo mọi người đi xem lễ. Nhà thờ đông và vui, tôi nhìn thấy  tượng Chúa hài đồng nằm trong máng cỏ, vây quanh là Đức Mẹ đồng trinh và  các Thánh, lại có cả những kẻ chăn cừu… Trên cao, bầu trời đầy sao lấp  lánh, những thiên thần có đôi cánh trắng bay luợn, hát mừng Chúa giáng  sinh ra đời. Trong nhà thờ, cha xứ mặc áo lễ, và ca đoàn nhà thờ đã sẵn  sàng cho thánh lễ nửa đêm, con chiên quì chật kín trên những hàng ghế.  Tiếng thánh ca và tiếng kinh cầu vang lên,  không khí có vẻ thiêng liêng quá, chúng tôi cũng quì xuống cầu nguyện:
- Lạy chúa Jesus là đấng cứu thế, lạy mẹ Maria nhân từ, xin cứu rỗi linh hồn chúng con. Amen!
Tự dưng tôi bỗng thấy  lòng dịu lại, thanh thản lạ thường, tiếng kinh cầu hay phép màu nào đã  làm tan đi băng giá trong tim tôi? cho tôi cảm giác ấm áp như vừa được  an ủi, vỗ về. Tôi ngước nhìn lên, tượng mẹ Maria sáng toả hào quang, tay  Mẹ dang ra như đang ban phước lành cho chúng sinh, một niềm tin bỗng  dâng lên, tôi xúc động, kính cẩn cúi đầu tạ ơn Mẹ.
Sau mùa Giáng sinh,  người ta sửa soạn đón Tết. Đêm nay là đêm cuối năm, đêm xum họp của tất  cả mọi người trong gia đình, nhà nào cũng đèn nến sáng choang, bàn thờ  nghi ngút khói hương. Mọi người tề tựu đông đủ, chờ đón giao thừa, chắc  không ai biết có những linh hồn trẻ thơ vất vưởng, lang thang không biết  về đâu. Rồi tiếng pháo giao thừa nổ vang, đồng loạt với những tiếng  chuông chùa, chuông nhà thờ dồn dập đổ, tiễn năm cũ, đón mừng năm mới,  người ta hân hoan chúc tụng lẫn nhau. Ngày đầu năm, thiên hạ đi nhà thờ,  đi lễ chùa đông nườm nượp, cầu nguyện mọi sự tốt lành cho năm mới. 
Xin mọi người hãy dành  ít phút để cầu nguyện cho chúng tôi, những đứa bé xấu số, khát khao  mong được ra chào đời, nhưng không được toại nguyện nên còn vương vấn  mãi cõi trần. Xin cầu nguyện cho chúng tôi sớm được siêu thoát về cõi  vĩnh hằng, và xin hãy dừng lại việc giết những thai nhi vô tội. Mong lắm  thay!