Đoạn Đường Chiến Binh
MŨ ĐỎ, MŨ ĐEN - Đoàn Phương Hải, TĐ11ND
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn
Đức Dũng, và những anh hùng Mũ đỏ, Mũ đen đã vị quốc vong thân tại
Damber.
Gửi N/T Bùi văn Lộc - Lê Văn Mễ, Phạm Đức Hùng, Phan Cảnh Cho, và
những chiến hữu Mũ đỏ, Mũ đen, Công binh... đã tham chiến tại Damber
để nhớ những ngày ngút ngàn máu lửa.
Với sự yểm trợ, tiếp tay không giới hạn của khối Cộng sản Nga-Tầu,
Cộng sản Việt Nam xua hàng chục Sư đoàn bộ binh cùng hàng ngàn xe
tăng đại pháo quyết tâm xâm chiếm nhuộm đỏ miền Nam.
Hàng chục ngàn dân lành vô tội đã chết tức tưởi, oan khiên trong dịp
Tết Mậu Thân, trên “Đại lộ kinh hoàng”, trên phố trên nhà, trên
ruộng trên nương vì bom đạn. Quê hương dân tộc quặn mình trong bão
lửa chiến tranh.
Để ngăn cản giặc thù, Quân lực miền Nam đã anh dũng chống trả giặc
thù trên khắp 4 vùng chiến thuật. Không một địa danh nào có bóng
cộng quân mà không có gót giầy của người lính miền Nam tìm tới truy
lùng tiêu diệt.
Nhằm phá vỡ hậu cần, an toàn khu của địch trên lãnh thổ Kampuchia.
Giữa năm 1970 quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã liên tiếp truy kích,
tiêu diệt địch trên lãnh thổ của xứ Chùa Tháp. Đầu năm 1971 các lưc
lượng thiện chiến đã vượt biên đánh sang Hạ Lào, phá vỡ, tiêu diệt
toàn bộ kho tiếp liệu, hậu cần, đại bản doanh, an toàn khu của Cộng
sản Việt Nam.
Sau hơn 2 tháng hành quân, vừa từ Hạ Lào trở về, Trung tá Nguyễn
Đình Bảo K14 Võ Bị, mang theo hơn chục năm kinh nghiệm chiến trường
từ Lữ đoàn I Nhảy Dù được lệnh về chỉ huy Tiểu đoàn 11 Nhảy dù.
Sau thời gian ngắn chỉnh trang đơn vị, để ra mắt khai quân, 11 Dù đã
[được] trực thăng vận tiêu diệt gọn 2 Tiểu đoàn cộng quân bao vây
căn cứ Hưng Đạo trên quốc lộ 22 chạy dài từ tỉnh lỵ Tây Ninh đến
biên giới Việt-Miên.
“Song kiếm trấn ải” 11 Dù [TĐ11ND] tiến quân vào căn cứ trong tiếng
reo hò, mừng tủi của anh em binh sĩ và gia đình sau hơn 2 tháng bị
cộng quân tấn công, bao vây và pháo kích đêm ngày.
Chiến thắng ngoạn mục đầu tay của quan Năm Nguyễn Đình Bảo làm nức
lòng binh sĩ, mang khí thế mới về cho đơn vị. Thừa thắng xông lên 2
Tiểu đoàn 11 và 5 Dù tiếp tục hành quân tiêu diệt địch quanh trại
Lực Lương Đặc Biệt Thiện Ngôn, Lò Gò, Xóm Dứa, Xa Cát và Xa Cam.
Cuối tháng 10/1971, đang hành quân quanh căn cứ hỏa lực Pace ngay
sát biên giới Việt-Miên thì 11 Dù được lệnh tùng thiết với Thiết
đoàn 18 Kỵ binh vượt biên tiến chiếm mật khu Damber trên đất
Kampuchia.
Dưới ánh nắng như thiêu như đốt, đất bụi đỏ ngầu, thì trên pháo tháp
chiến xa, bên dàn máy truyền tin tua tủa “ăng ten” ngắn, dài, một
người lính tầm thước với khẩu Colt 9 vắt ngang chiếc áo thung xám
ngay trước ngực, đang sang sảng ra lệnh, chỉ huy. Đột nhiên ông giơ
tay chào rồi nhảy xuống xe khi thấy Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu
đoàn Trưởng TĐ11ND đứng dưới gốc cây đang giơ cao tấm bản đồ. Hai
người lính phong trần siết chặt tay, nhìn nhau rồi cùng phá ra cười.
- Niên trưởng “Đại Lộc”, lâu lắm anh em mình mới làm ăn chung, kỳ
này vào Damber, chắc gay lắm phải không?
- Damber thì lúc nào chả gay, khúc xương khó nuốt, an toàn khu, bản
doanh đầu não của Công trường 7 và 9 địch quân. Năm ngoái Thiết đoàn
tôi và Mũ nâu Biệt Động [Quân] quần thảo suốt mấy ngày đêm với Trung
đoàn cộng quân tại “Miếu ông Sành”. Kỳ này mình phải nghiền nát
Damber ra mới được!
Quan Năm mũ đỏ vung tay tự tin, rồi quay sang giới thiệu Thiết Đoàn
Trưởng Thiết Đoàn 18 Kỵ binh, Thiếu tá Bùi Văn Lộc Khóa 13 Võ Bị với
Mễ, tôi, các Đại đội trưởng và ông Lang Tây Tô Phạm Liệu.
Xếp Mũ đen với biệt danh “Tầy Quầy”, lừng danh trận mạc trong binh
chủng, người đẫy đà, da đen sạm vì phong trần, sương gió, cất tiếng
cười sang sảng, quay sang bắt tay chúng tôi. Tình tự Võ Bị từ ngày
nhập trường ăn cơm lính, cho nên dù xếp Mũ đỏ, khóa 14, lon tuy cao
hơn, nhưng vẫn một điều “Niên trưởng, hai điều Niên trưởng” xưng hô
với xếp Mũ đen.
Đang đấu hót tưng bừng thì ông đàn anh Khóa 6 Võ Bị, Đại tá Trần
Quang Khôi, Chỉ huy trưởng Thiết giáp vùng III chiến thuật đáp trực
thăng xuống ngay trận địa. Trải rộng tấm bản đồ hành quân với chi
chít tình hình, trục tiến quân xanh đỏ của ta và địch, Đại tá Khôi
bàn luận kế hoạch hành quân, vạch rõ mục tiêu là phá hủy hậu cần,
tìm và tiêu diệt cho được Bộ Chỉ Huy Công trường 7 cộng quân đang có
mặt tại Damber.
Thung lũng Damber dài gần hai chục cây số bên liên tỉnh lộ 75 và
quốc lộ 7 trên đất Miên, nằm lọt trong những cánh rừng trùng điệp
cây cao rậm rạp bao quanh. Tuy nhiên địa thế Damber lại tương đối
trống với rất nhiều gò mối, cây cối lúp súp, phủ đầy cây leo rậm rạp
nhưng không cao quá đầu người. Băng ngang thung lũng là một con suối
khá lớn, mùa này nước đã cạn nhưng đất rất dễ bị lún, gây khó khăn
cho chiến xa di chuyển.
Trên quốc lộ 7, nhiều toán công binh chiến đấu, xe ủi đất của ông
đàn anh Lâm Hồng Sơn mới gặp khi đi họp hành quân, đang vất vả phá
hủy mìn bẫy, sửa chữa cây cầu chiến lược trên trục tiến quân.
Đoàn cua sắt trải rộng đội hình ào ào băng ngang những cánh đồng cỏ
non. Làng mạc thôn xóm thanh bình, hiền hòa sau lũy tre, bên những
hàng thốt nốt hoa trắng như hoa cau, cao thẳng, ngả nghiêng theo gió
nổi bật trên nền trời.
Lính Dù không phải lội bộ nên thích thú cười đùa trên chiến xa, đang
tiến quân như chẻ tre, càn quét qua các mục tiêu. Sau khi lục soát
quanh căn cứ hỏa lực Hồng Hà ngay ngã ba liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ
7, thì lực lượng xung kích Dù và Thiết kỵ chia làm 2 cánh.
“Mê Linh” Lê văn Mễ, Thiếu tá Tiểu đoàn phó TĐ11ND và Đại Đội 114
của Trung úy Phan Cảnh Cho, phối hợp với Thiết vận xa M113 giải tỏa,
thanh toán áp lực địch đang ngày đêm pháo kích, bao vây tấn công căn
cứ hỏa lực Hồng Hà. Sẵn sàng tiếp ứng cho mũi xung kích của Trung tá
Bảo và Thiếu tá Lộc đánh thẳng vào mật khu Damber.
Xếp Mũ đen có vẻ thắc mắc, ngạc nhiên khi thấy chúng tôi lúc nào
cũng “Anh Năm, Anh Năm” xưng hô với xếp Mũ đỏ, mà không gọi bằng cấp
bậc.
- Mấy chú em trong đơn vị ít khi kêu tôi là Trung tá, lúc nào cũng
xưng hô là Anh Năm, Anh Năm! Nghe mãi thành quen, thân mật, gần gũi
như anh em trong nhà.
Nguyễn Đức Dũng, Hoàng Ngọc Hùng, Phạm Đức Hùng, ba Đại úy Đại Đội
Trưởng lừng danh Mũ đỏ, dầy dạn chiến trường, cùng xuất thân Khóa 22
Võ Bị, đang phối hợp với 2 Chi Đoàn Trưởng Mũ đen lừng danh trận mạc
là “Bắc Đẩu” và “Phi Điểu” ào ào tiến quân trực chỉ Damber.
Địa thế vùng hành quân bắt đầu thay đổi khi một số chiến xa M41 băng
qua cây cầu lớn trên liên tỉnh lộ 75 vừa được Công binh sửa chữa.
Ngay dưới cầu là một con suối khô, chạy từ Đông sang Tây ngang qua
thung lũng Damber. Địa thế trở ngại cho chiến xa khi phải băng qua
khu vực thấp và lún dưới lòng suối cạn, nhưng với thiết vận xa M113
thì không có gì trở ngại.
Với cái nhìn sắc bén, tinh nhậy của nhiều năm xông pha trận mạc, đàn
anh mũ đỏ, mũ đen nhận ra ngay đây là tử điểm quyết định chiến
trường, nên quyết định lựa một Trung đội Nhảy dù gồm toàn những tay
súng gan dạ, kinh nghiệm cùng mình, và Sĩ quan liên lạc pháo binh
nằm lại để nghe ngóng tin tức địch quân.
- Địch sẽ phục kích tại đây khi Chiến đoàn kéo quân trở ra! Mình sẽ
dùng không quân, trận địa pháo và hỏa lực hùng hậu của Thiết giáp
nghiền nát chúng tại đây!
Anh Năm gật gù cười, khoái trá nói với chúng tôi, giống như khi anh
nheo mắt mó trúng con nhất vạn, ngửa bài ù toàn hàng trong canh mạt
chược trên đồi Mũ đỏ, hay những lần đóng quân trong vườn Tao đàn đầy
cây cao bóng mát, nườm nượp “khách giang hồ” lui tới ghé thăm.
Sau cả ngày tiến quân, tiêu diệt vài toán trinh sát nhỏ của địch.
Chiến đoàn đóng quân quanh ngôi chùa cổ.
“Tubip” Liệu, anh Năm và tôi, ngồi trên M113, nhìn nắng chiều trải
những giải mây ngũ sắc giăng ngang lũy tre, vắt ngang mái chùa cong,
nhuộm hồng khu nhà sàn trong xóm. Xa xa, trên bờ đê, lũ trẻ mục đồng
vắt vẻo trên lưng trâu bên mấy nhà sư áo vàng nổi bật trên cánh đồng
nhuộm ánh tà dương đang lững thững về làng, trông thật thanh bình,
êm ả. Nếu không có chiến xa gầm thét, không có xích sắt quần nát
ruộng nương, không có vỏ đạn đồng rải sáng bờ đê, xác người cong
queo trên ruộng vườn kinh lạch, thì những người dân quê hiền lành
kia nào ai biết đến chiến tranh!
Qua khỏi Miếu Ông Sành (T/Tá Phan Văn Sành K17 Đà Lạt, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 30 BĐQ tử thương khi đụng địch gần ngay miếu. Anh
em Mũ nâu tiếc thương đặt tên Anh cho ngôi miếu cổ) là hàng chục xác
chiến xa cháy đen nằm rải rác trên cánh đồng. Mũ sắt, giầy trận, nón
cối, dép râu vương vãi trên chiến địa. Thiếu tá Lộc cho biết hồi đầu
năm, hai Trung đoàn chủ lực của địch đã phục kích chiến xa và lực
lượng hành quân ngay tại đây, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên.
Lại thêm một ngày bình yên trôi qua, tình hình yên tĩnh một cách
đáng ngại. Chưa có chỉ dấu nào là 2 Trung đoàn của Công trường 7 có
mặt trong vùng hành quân, theo như không ảnh và tin tức tình báo cấp
cao của Quân đoàn ghi nhận.
- Anh Năm, địch cố tình tránh né không muốn đụng?
- Thì chúng cố tình dụ mình vào thật sâu rồi mới dốc toàn bộ lực
lượng phục kích khi mình kéo quân ra. Hình như địch đã biết trước kế
hoạch hành quân. Liên lạc toán trinh sát coi có nghe ngóng động tĩnh
gì không? Nhớ ghi kỹ tọa độ, sẵn sàng pháo binh yểm trợ cho tụi nhỏ.
Đêm ngột ngạt yên tĩnh trong tiếng kinh, tiếng mõ văng vẳng từ ngôi
chùa gần khu đóng quân.
- “Khều”! Năm ngoái, Tiểu đoàn 7 Nhảy dù đụng ở khu nào vậy?
- TĐ7ND cùng Thiết đoàn 5 của Trung tá Thoàn là mũi xung kích cho
Chiến đoàn 333 đánh qua Soài Riêng, vào Damber đụng lớn ngay trong
khu này và thắng một trận lớn ở Phum Longieng. Có đêm mới 2, 3 giờ
sáng, Đại tướng Đỗ Cao Trí đã đáp trực thăng ngay trận địa, bất ngờ
ra lệnh cho Dù và Thiết kỵ ào ào đánh vào Damber tạo nhiều chiến
thắng lớn.
Sau khi góp ý, bàn thảo thêm kinh nghiệm, mọi người im lặng tìm giấc
ngủ với những suy nghĩ vẩn vơ.
Tiếng gầm thét của chiến xa, phá tan buổi sáng mờ sương khi ánh
dương chưa lên khỏi hàng cây thốt nốt bên lũy tre làng. Tới gần trưa
thì lực lượng hành quân đã càn quét hết các mục tiêu chỉ định tại
Damber mà không gặp sức kháng cự nào đáng kể của địch!
Dù và Thiết kỵ dừng quân quanh ngôi chùa cổ. Vừa bước chân vào sân
chùa thì đã thấy sư cụ chủ trì cùng đám dân quê cả trăm người gồm
ông già bà cả, đàn bà con nít khóc như ri, đang run rẩy sợ sệt qùy
lạy như tế sao. Chúng tôi ngỡ ngàng vội đỡ tay hòa thượng đứng lên
và chắp tay xá lại. Trên khuôn mặt gầy gò, đen sạm già nua, đôi mắt
sâu ẩn dưới cặp chân mày bạc trắng nhuốm lên nét chịu đựng đau buồn.
Mặc dù mấy anh lính Miên trong đơn vị đã giải thích cho nhà sư và
dân chúng biết mục tiêu của cuộc hành quân là tìm diệt Việt cộng
nhưng họ vẫn vừa lạy vừa khóc!
Hình ảnh ngôi đình, đứa bé đội chiếc mũ nồi đen, nắm chặt tay mẹ bên
đám dân làng run rẩy, sợ sệt quỳ lạy đám lính Tây Lê dương ở nhà quê
miền Bắc mấy chục năm trước hồi tôi còn bé chợt thoáng hiện về!
Lịch sử đang vô tình tái diễn. Ngày xưa tôi là một đứa bé ngơ ngác
run rẩy, vái lạy đám lính Lê dưong. Ngày nay tôi đang là một người
lính Nhảy dù đứng nhìn bày trẻ đói gầy, đen đúa xá lạy chúng tôi
trên một quê hương xa lạ!
Tuổi thơ Việt Nam trong thời loạn lạc, sợ xe tăng thiết giáp, vết
giầy đinh trên bờ đê, khóc thất thanh khi thấy lửa cuồng bạo đốt
cháy xóm làng. Ngày nay, những đứa bé, những người dân Miên khổ nạn
kia cũng đang run sợ khi bom đạn hừng hực đốt cháy quê hương!
Thấy dân làng và bày trẻ nhỏ run sợ, thiếu đói, nghèo nàn bên dăm ba
củ khoai, một ít cơm độn bắp với những vết thương máu mủ tanh hôi
đang làm độc trên thân thể. Anh Năm, “Đại Lộc”, ra lệnh cho tiền
trạm xin trực thăng chở gạo sấy, đồ hộp, thuốc men vào vùng hành
quân. Xế trưa hôm đó những người lính mũ đỏ, mũ đen, gom dân lại để
cấp phát lương thực. Băng bó, chữa trị những vết thương mưng mủ đang
làm độc trên mình những người dân khốn khó và những đứa bé đen đúa
gầy gò, khổ nạn của chiến tranh.
Nhìn những đôi mắt ngây thơ trẻ dại, rạng rỡ hân hoan nhai kẹo cao
su, thè lưỡi liếm môi cho hết chút đường cát trắng, chậm chậm cắn
miếng thịt heo. Mắt long lanh, đứng ngẩn người để cảm thấy vị ngọt,
mùi thơm đang từ từ tan tận kẽ răng, ngấm sâu vào từng thớ thịt với
những nụ cười hồn nhiên ánh mắt vui sướng, trông mới xót xa tội
nghiệp làm sao!
Chắc đã lâu lắm chúng mới có một ngày no đủ. Vài đứa bạo dạn lại gần
chiến xa, sờ sờ mó mó, khiến tôi nhớ lại hình ảnh tuổi thơ với chiếc
quần đùi nâu đứng bên đường số 6, nghếch mũi ngửi cái mùi ngái ngái
thơm thơm của dầu xăng khi lại gần chiếc xe nhà binh.
Đêm im vắng, trời trong cao, lóng lánh muôn ngàn tinh tú. Văng vẳng
tiếng tụng kinh ê a hòa với tiếng mõ khoan thai đều đều của sư cụ và
mấy chú tiểu trên chùa.
Gối đầu lên ba lô, ngả lưng trên nền gạch dưới mái hiên chùa, chúng
tôi kể cho nhau nghe những ngày Tây về làng, theo bố, mẹ chạy loạn,
tản cư, từ Cống thần, Chợ đại về tới Phủ Lý, Hà Nam. Quê hương tôi
sao quá đọa đày! Ngàn năm đô hộ chống Tầu, trăm năm Trịnh-Nguyễn
phân tranh, rồi chống đánh Nhật, chống Tây. Năm 1954, đất nước chia
đôi, yên ổn vài năm rồi lâm cảnh nồi da sáo thịt, huynh-đệ tương tàn
vì chủ nghĩa Cộng sản, vì mộng nhuộm đỏ giang san của người anh em
miền Bắc!
Nghe tiếng đạn bom từ thuở lọt lòng, tham dự chiến tranh cầm súng
bóp cò khi tuổi đời vừa đủ lớn đủ khôn! Nếu vương quốc Cao Miên
không cho phép cộng quân lập an toàn khu trên lãnh thổ để tiến đánh
miền Nam, thì chắc chắn xe tăng, đại pháo và những người lính miền
Nam sẽ không có mặt trên xứ sở xa lạ nghèo nàn này!
Nhấm nháp ly cà phê nóng đầu ngày, khi những vệt nắng ban mai nhảy
múa lung linh trên pông-sô [poncho], bên tiếng hót trong cao của bày
chim chích chòe trên mái tam quan. Lòng thanh thản vì vừa qua một
đêm yên tĩnh, không có tiếng súng, tiếng bom. Tôi lẩm nhẩm cầu xin
may mắn cho đơn vị khi bước vào chùa giã biệt vị sư già.
Chiến xa lăn xích hướng về lại căn cứ hỏa lực Hồng Hà để trở về quê
mẹ. Hình ảnh dân làng và bày trẻ đang giơ tay vẫy thấp thoáng bên
lũy tre. Nắng đã lên quá đỉnh đầu, không khí oi bức ngột ngạt khó
chịu. Sau mấy tiếng đồng hồ quần nát vùng hành quân, chiến đoàn phân
tán quân quanh bìa rừng để chờ tiếp tế lương thực, đạn dược và xăng
nhớt. Trực thăng võ trang bay lượn bao vùng cho mấy chiếc Chinnok
đáp xuống tiếp tế. Hai ba chuyến thả hàng xong xuôi, chuyến cuối
cùng đang là là trên mặt đất thì đột nhiên phòng không, cối 82 và
hỏa tiễn của địch từ nhiều hướng khác nhau nhả đạn như mưa. Một
Chinook trúng đạn sau đuôi, bốc cháy như một cây đuốc khổng lồ.
Trực thăng võ trang bao vùng nhào lên nhào xuống bắn phá vị trí pháo
của địch. May là rớt gần mặt đất nên phi hành đoàn Mỹ từ trong trực
thăng chạy kịp ra khỏi thân tầu, trước khi trực thăng phát nổ. Lính
mũ đen ào tới xịt bình chữa lửa lên mình mấy anh phi công Hoa Kỳ rồi
kéo họ nhào xuống hệ thống phòng thủ. Vì địa thế bằng phẳng toàn bụi
rậm và rừng cây thấp nên phi cơ quan sát nhận ra vị trí súng của
địch, chỉ điểm cho khu trục tới tấp nhào [xuống] xạ kích, đánh bom
trong màn lưới phòng không địch từ nhiều vị trí.
Mấy thiết xa M48 chất đầy xăng nhớt mới tiếp tế may mắn không bị
cháy, đang chạy ngang chạy dọc bơm xăng, bơm dầu cho chiến xa. Phi
hành đoàn chiếc Chinook trúng đạn đang liên lạc qua hệ thống Mỹ để
chờ trực thăng bốc ra. Trời đã về chiều, đoàn quân di chuyển qua vị
trí khác tìm địa thế đóng quân đêm.
“Tubip” Liệu đang chữa trị cho mấy quân nhân bị thương nhỏ to với
ông bạn Bác sĩ quân y bên Thiết giáp.
- Bắt đầu vất vả rồi đó, đi chung với mấy ông mệt bỏ mẹ, lúc nào
cũng ầm ĩ đầy mùi xăng nhớt, phun khói đầy trời, nằm phơi bụng, phơi
lưng lên cho chúng pháo. Chỉ được cái khỏe là đỡ phải lội bộ, hỏa
lực ăn trùm thiên hạ và nhất là đầy đủ mấy ông Bud, ông 33 (bia
Budweiser và bia 33)!
- Nhưng cũng dễ thành than lắm ông ơi! Mới chưa đầy một năm về đơn
vị mà thiết đoàn đã đụng lớn cả chục lần, “rang muối” gần chục xe
rồi đấy ông ơi!
Ngoài tuyến phòng thủ lính tráng đang đào hầm hố, dựng lưới chống
B40 ngay trước đầu xe. Quá nửa đêm khi mọi người đang say ngủ thì
bỗng choàng mình tỉnh dậy, lăn xuống hố vì những tiếng nổ kinh hoàng
cày tung đất đá ngay sát bên tai. Tiếng nổ của hỏa tiễn, của cối 82
nghe ngắn, tê lạnh, buốt sắt đến hãi hùng. Cái âm thanh quen thuộc
giống như tiếng mở nút chai nghe rõ mồn một từ góc rừng, kèm theo là
những tiếng rít, tiếng hú rợn người của hỏa tiễn 122 đang quơ lưỡi
hái tử thần xé gió bay đến vị trí đóng quân. Mặc dầu đã quá quen
thuộc với những cơn mưa pháo khủng khiếp ở Hạ Lào, ở vùng hỏa tuyến.
Thế nhưng cái giây phút cực kỳ ngắn ngủi, căng thẳng thần kinh trong
lúc đạn đang bay tới mục tiêu vẫn làm cho thần kinh căng thẳng, tức
ngực và khó thở! Vừa nghe đạn nổ đằng trước, đằng sau, bên trái, bên
phải, thì lại hồi hộp, miệng đắng lưỡi khô khi nghe tiếng rít của
đợt pháo tiếp theo. Cứ như thế mà chờ mà đợi, phó thác cho số mệnh!
Đột nhiên một tiếng nổ chát chúa kinh hoàng làm rung chuyển cả xe.
Tai tôi ù đi, tối tăm mặt mày khi toàn thân văng lên đập vào thành
xe. May là có thói quen khi nghe tiếng pháo là chụp chiếc mũ sắt lên
đầu, nên không hề hấn gì cả. Ngay bên cạnh, Trung tá Bảo cũng đang
ôm ngực chống tay dựa vào thành xe. Lệnh lạc, báo cáo vang lên trong
máy, “Bảo Ngọc” chụp ống liên hợp liên lạc với “Đại Lộc” và các đại
đội ngoài phòng tuyến. Bỗng có tiếng báo cáo của toán tiền đồn cho
biết là Việt cộng tập trung rất đông, đang dàn quân, đào hầm hố, bố
trí theo bờ suối, sát đường. Vì sợ bị lộ vị trí nên toán tiền đồn
sau khi đã quan sát, theo dõi và cho tọa độ vị trí địch, xin rút ra
điểm hẹn trước khi trời sáng.
Mặc cho pháo vẫn tiếp tục rơi, thân thể còn đang ê ẩm. Anh Năm và
tôi như vừa được uống một liều thuốc hồi sinh, quên cả đau, dán mắt
vào vị trí địch quân trên bản đồ để phác họa trận địa pháo trút lên
đầu địch.
- Đúng ngay chóc là thế nào chúng cũng phục kích mình tại đây. Tao
sẽ dùng chiêu “Gậy ông đập lưng ông, tiền pháo hậu xung” mà địch vẫn
thường dùng, để mưa pháo và bom lên đầu chúng. Hỏa lực sẽ thiêu đốt
sạn đạo Damber. Công trường 7 cộng quân sẽ tan nát, thảm bại trong
trận thư hùng quyết tử này!
Anh Năm vừa nói, vừa khoanh tròn, di tới di lui cây viết chì mỡ trên
tấm bản đồ, ngay vị trí địch một cách đầy tin tưởng.
Có tiếng C47 Hỏa long vào vùng thả hỏa châu, đại liên 6 nòng như bò
rống xả đạn vào vị trí địch, nhờ thế mà pháo địch im tiếng. Vừa chui
ra khỏi xe tôi đã điếng hồn vì trái hỏa tiễn 122 ly nổ ngay cạnh đào
một hố sâu bên thành xe. Mảnh pháo chém đứt xích thiết xa, cây đại
liên 50 trúng mảnh cong vòng văng xuống đất.
- Anh Năm, mình hên thật, chút xíu nữa là đi đứt. Kỳ này hành quân
về Anh phải cúng heo và rời cột cờ đi chỗ khác!
- Mấy thằng tụi mày sao lúc nào cũng lèm bèm, tối ngày tìm đọc ba
cái trò bói toán, tử vi, luận bàn cứ như thánh sống làm tao điên cái
đầu!
Tubip Liệu mới từ xe bên cạnh chui ra phán thêm một câu.
- Đệ nhất phong thủy miền Nam, “Diễn tiên sinh”, khi được xếp lớn
đón lên coi doanh trại đã lắc đầu nói là bộ chỉ huy nằm trên thế đất
sát chủ. Đã thế sân cờ lại còn đối diện với Nghĩa trang quân đội.
Nếu không dời ngay xuống phía Nam trông ra bờ sông thì lành ít dữ
nhiều, chắc anh còn nhớ chứ anh Năm!
- Nghe nói Phủ đầu rồng, Dinh Thừa tướng, Bộ Tổng tham mưu, một số
đại quan văn võ trong triều muốn thăng quan tiến chức, hưởng đủ bổng
lộc trời ban, đều phải năm lần bảy lượt xin yết kiến “Diễn tiên
sinh”, đó anh Năm!
- Ông Cần, Ông Tĩnh lựa Bộ chỉ huy và sân cờ, tao mới về có lựa chọn
gì đâu! Nhưng chẳng biết đó là điềm vui hay điềm buồn, điềm lành hay
điềm xấu cho quốc gia, mà Phủ đầu rồng, dinh Thừa tướng lại tin vào
bói toán tử vi. Nay con rùa đặt chỗ này, mốt hồ nước, giả sơn đặt
chỗ kia. Mình là dân quanh năm đánh đấm, trước khi xuất quân lại tin
phong thủy, gieo cầu, cúng bái cầu xin thì còn đánh đấm giặc giã gì
nữa!
Tôi ngước lên cao, trời trong ngập ánh trăng, cần ăng ten, đại bác,
bóng người quanh pháo tháp lung linh di chuyển ngã dài theo ánh hỏa
châu. Đại liên 6 nòng từ máy bay vẫn như bò rống vạch ngang vạch dọc
từng giây đạn lửa đỏ rực trong đêm, xen kẽ với tiếng phòng không từ
nhiều vị trí địch khác nhau bắn lên máy bay, đạn lửa đuổi nhau giữa
bầu trời đầy sao vẽ thành bức họa chiến tranh lạ mắt.
Để chắc ăn cho cuộc tấn công vào sáng ngày mai, chúng tôi xin mấy
“thảm” B52, nhưng Bộ chỉ huy cho biết là không có, và sẽ dành ưu
tiên pháo binh, không quân cho trận địa.
- Sáng rồi, mình “thượng đài” nhập trận đi anh Năm!
- Báo cho Mê Linh đón tụi nhỏ tiền đồn và sẵn sàng trong đánh ra,
ngoài đánh vào, kẹp địch ngay chính giữa.
- Tụi nhỏ đã gặp phe ta rồi, hôm qua Mê linh làm ăn lớn, tiêu diệt
nguyên một đại đội đặc công đánh vào căn cứ, tịch thu nhiều vũ khí
và tài liệu của địch.
Trời sáng dần, ngồi trên pháo tháp chiến xa tôi nhấc ống nhòm nhìn
về khoảng rừng trước mặt. Dọc theo tỉnh lộ, khu rừng lau đầy hoa
trắng ngả nghiêng uốn mình theo gió, cảnh vật im vắng trong làn
sương mỏng ban mai.
Sau những gò mối, lùm cây, bên bờ suối, giờ này chắc địch quân đang
ẩn mình dưới giao thông hào. Chắc chúng cũng đang hướng ống nhòm,
căn góc độ, dựng biểu xích, mở khóa an toàn của đủ loại vũ khí chờ
Thiết giáp và Nhảy Dù tiến vào mục tiêu. Tôi chợt nghĩ đến gia đình,
một thoáng Sài Gòn, mái ấm gia đình mờ mịt cuối chân mây.
Sau khi đã bàn thảo với “Đại Lôc” xếp Mũ đen, lệnh lạc rõ ràng cho
các cánh quân. Trung tá Bảo vỗ mạnh vai tôi, xiết chặt hai tay vào
nhau, ý như bóp nát địch quân. Ngay lúc đó là hàng ngàn tiếng rít xé
gió của 3 pháo đội pháo binh Nhảy Dù của ông “Lước Hốc Môn” từ nhiều
vị trí khác nhau “T.O.T” chụp đạn xuống mục tiêu. Rừng cây đất đá,
bụi lửa tung lên cao khi đạn pháo xoáy vào lòng đất. Lẫn trong tiếng
nổ hẳn có những đôi mắt trợn trừng lẫn với tiếng gào thét đớn đau.
Máu thịt, cốt xương sẽ tan từng mảnh tung lên cao, vướng trên cành
cây ngọn cỏ, hay vùi sâu trong lòng đất.
Hàng ngàn đạn pháo, hết đợt này đến khác vẫn đang xé gió cày tung vị
trí Bắc quân. Pháo vừa ngưng thì phi cơ quan sát L19 từ trên cao
nhào xuống mục tiêu hướng dẫn khu trục oanh kích trận địa. Từng đoàn
khu trục, âm thanh rít bên tai, lao từ trên cao thả hằng chuỗi bom
chụp trên trận địa rồi kéo cánh lên cao, trông rõ bộ đồ bay màu cam
và chiếc nón bay của các phi công bạn. Rừng cây bùng lên trong biển
lửa khi bom “Napalm” chạm mặt đất hừng hực thiêu đốt cây rừng. Phòng
không địch bắn lên phi cơ, vẽ những bông hoa khói, xám đen, nổ như
pháo bông dầy đặc quanh thân tầu. Đúng là địa ngục rực lửa, lửa từ
lưng trời rót xuống, lửa từ mặt đất bốc lên, lửa vàng chói hừng hực,
cuồng bạo đốt cháy cỏ cây, thiêu hủy thân xác con người. Tất cả chỗ
nào cũng chỉ nghe tiếng đạn tiếng bom, chỗ nào cũng chỉ toàn lửa và
lửa.
Phi cơ lắc cánh chào quân bạn bay khỏi vùng. Chiến trường còn đang
bốc khói là Thiết giáp và Nhảy Dù xả đủ loại hỏa lực ào ào xung
phong vào trận địa. Mặc dù bị nhồi giập vì pháo binh, bị đốt ngập
trong biển lửa, nhưng đủ loại hỏa lực đại liên, B40, B41, đại bác
không giật của địch vẫn nhả đạn như mưa vào đoàn cua sắt đang ào ạt
tấn công. Bị dồn vào tử lộ không lối thoát thân nên địch liều chết
tử chiến tới cùng. Xạ thủ phòng không bị xích chân vào đại liên 37ly
nhả đạn như mưa chống trả. Phối hợp nhịp nhàng nhị thức Bộ binh,
Thiết giáp, kể cả chiếc xe ủi đất lớn của công binh cũng đang giơ
nghiêng lưỡi cày bằng sắt dầy ngăn đạn cho lính Dù nhào lên thanh
toán mục tiêu. Đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu trận chiến lính
Dù mới thấy cảnh lạ lùng khi anh tài xế can đảm, gan dạ, say khói
súng cùng mũ đen, mũ đỏ lái xe ủi đất xông trận.
Ác chiến kéo dài từ sáng tới chiều. Mùi thuốc súng, mùi da thịt khét
lẹt từ hàng trăm xác địch cháy đen. Xương thịt máu me nhầy nhụa đỏ
lòm trong mắt xích chiến xa văng lên pháo tháp làm tôi muốn ói trước
cảnh tượng khủng khiếp và ghê rợn.
“Tubib” Liệu và toán y tá quần áo đầy máu sau mấy gò mối lớn đang
cấp cứu cho các thương binh. Khi những tia nắng chiều vàng đỏ cuối
ngày, lướt thướt kéo ngang rừng cây, nhuốm đỏ thành cầu, thì trận
chiến cũng vừa tàn. Bùn lầy, cỏ tranh, khu rừng hoa lau trắng đỏ
ngầu màu máu, xác địch ngổn ngang, co quắp cháy đen. Dăm ba chiếc
nón sắt rằn ri móp méo lũng sâu vết đạn nằm bên những chiếc nón cối
ngụy trang đầy lá cây rừng bên bờ lau sậy xào xạc gió chiều.
Trận chiến nào cũng có mất mát thương vong. Đại úy Nguyễn Đức Dũng
Đại Đội Trưởng Đại đội 111/TĐ11ND cùng gần 30 mũ đỏ, mũ đen đã hy
sinh, và khoảng 10 thiết xa bị bắn cháy.
Tựa bên pháo tháp chiến xa nhìn về phía rừng cây, tôi như đang thấy
những cánh rừng thông bạt ngàn xanh ngắt trên Đà lạt. Như thấy Dũng
trong bộ đại lễ trắng đang quỳ xuống, đứng lên trong ngày lễ mãn
khóa trên Vũ đình trường. Xa xa Lâm Viên đỉnh hùng vĩ giữa trời
xanh... Tiếng gió, tiếng kèn, quyện với giọng ngâm buồn u uẩn bên
ngọn lửa thiêng bập bùng trong đêm Truy điệu...
“Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến.
Máu anh hùng nhuộm thắm lá cờ Nam!"
Sau khi tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trở về. Vì nhu cầu
công vụ, nên Dũng đang là một Sĩ quan sáng giá của Tiểu đoàn 5 Nhảy
dù được lệnh thuyên chuyển về làm Đại Đội Trưởng cho TĐ11ND. Cả đơn
vị không ai là không nhớ dáng dấp thư sinh, đẹp trai, hay mắc cỡ,
mặt đỏ bừng như con gái của Dũng. Chính vì hiền lành dễ thương, lúc
nào cũng cười, nên Dũng nổi tiếng đào hoa trong đám bạn bè, và
thường bị các cô trêu chọc.
Đất lạ Damber đã cướp mất người anh hùng tuổi trẻ. Nguyễn Đức Dũng,
khóa 22 Võ Bị. -Người “Thích mặc quân phục từ nhỏ, và đội Nón Đỏ khi
ra trường.” Người sĩ quan Dù can đảm, tháo vát trẻ trung, chưa thỏa
chí tang bồng thì đã bỏ đồng đội bỏ anh em!!!
Ngủ yên đi Dũng! Và nhớ kéo dù theo gió bay về quê cũ Bắc Ninh, nơi
chốn bình yên, nơi dòng sông tuổi nhỏ, phụ lưu sông Đáy, sông Hồng
cuồn cuộn phù sa. Nơi có giọng hò Quan Họ, hội Lim, nơi cất tiếng
khóc chào đời, nơi không binh đao thù hận.
Trên đồi Mũ đỏ Long Bình, dưới giàn hoa dưa tím phất phơ bay trước
căn phòng nhìn xuống ngã ba sông Đồng Nai mênh mông uốn khúc bên
làng Cao Thái đầy cỏ nội hoa rừng, thoảng mùi thơm khuynh diệp sẽ
mãi mãi vắng thiếu bóng anh!
Đêm đó Chiến đoàn dừng quân ngay trên trận địa, người sống và người
chết ngủ vùi cạnh bên nhau. Nằm yên trên võng, tôi lơ đãng nhìn
những ngôi sao đổi ngôi sẹt ngang bầu trời, để nghe hơi thở, khói
súng chiến trường lắng đọng trong tim.
Ngoài kia tiếng rên la đau đớn của thương binh ta và địch, đang gọi
tên người thân, chống chọi từng giây từng phút với tử thần, còn có
tiếng rên la, trăn trối của một sĩ quan thương binh miền Bắc nghe
rất lạ tai!
Chữ nghĩa, ngôn từ đã hoàn toàn đổi thay từ khi chúng tôi xa đất Bắc
di cư vào Nam năm 1954. Đêm nay, người thương binh địch, quê quán Hà
đông, cùng tuổi, cùng quê với tôi. Biết đâu thuở nhỏ lại chẳng biết
nhau bên gốc đa đầu làng, chơi với nhau trước sân đình, bên giếng
nước, khi mới dăm bảy tuổi. Anh thương binh đang thều thào gọi tên
vợ con khi biết mình khó lòng sống sót với viên đạn xuyên ngang lồng
ngực. Tấm hình đen trắng mộc mạc của cô gái quê với hàng chữ thương
yêu gửi tặng chồng khi vượt Trường Sơn. Tấm ảnh vấy máu, đang nằm
trong đôi tay khô héo, khi Tubip Liệu lấy ra từ trong túi đặt lên
tay anh.
Dù mũ đỏ, mũ đen, dù nón cối dép râu, hay Bắc, Trung, Nam, khi nhắm
mắt xuôi tay thì xác thân đều sẽ rã mục hình hài làm xanh tươi cây
lá. Gió núi mưa rừng sẽ gột sạch máu xương. Chim chóc, muông thú sẽ
kéo về. Đời sống sẽ trở lại, thôn ấp xóm nhà, lũy tre, ruộng đồng,
cây trái, sẽ xóa mờ đi vết tích chiến tranh. Tôi nằm đong đưa trên
võng chập chờn nghĩ tới vợ con, để biết mình vừa sống còn qua trận
chiến.
Với mấy trăm xác địch nằm ngổn ngang khắp nơi trên chiến địa. Đại
liên phòng không, cối 82, B40, B41, đại bác không giật và hàng trăm
cây AK sắp đầy như củi trên 4 chiếc M548. Trung đoàn địch trấn giữ
Damber kể như bị xóa tên trên bản đồ trận liệt.
Dưới ánh nắng gay gắt, chói chang hầm hập nung người của xứ chùa
Tháp, mùi hôi của xương thịt người chết mắc kẹt trong xích xe bắt
đầu xông lên khó chịu.
- Hôi quá! Cả ngày ăn ngủ trên xe sao mấy anh chịu nổi!
- Thì cũng quen đi thôi!
Nói xong người lính Mũ đen rít hơi thuốc thơm Quân Tiếp vụ, từ từ
nhả khói giọng nặng chĩu u buồn.
- Chiến tranh mà! Mới đó mà tôi đã qua 8 năm chiến trận. Không biết
còn đánh nhau cho tới bao giờ! “Đi đêm mãi chắc cũng có ngày gặp
ma”!
Tiếng máy truyền tin oang oang chuyển lệnh cho đoàn quân rời vùng,
tiếp tục hành quân giải tỏa liên tỉnh lộ 7. Mấy con quạ đen cất
tiếng kêu quang quác, đang đứng rỉa lông trên nòng cây đại bác cong
queo, cạnh vòng hoa kẽm gai trên mấy chiếc chiến xa cháy đen ngoài
cánh đồng.
Đã hơn hai tháng miệt mài trong lửa đạn. Tôi đang nhớ Sài Gòn, nhớ
vợ con. Nhớ dàn hoa giấy đỏ trước nhà, và những con chim gi, chim
chích chòe mỏ đỏ, cánh đen bay chuyền trong buổi trưa hè. Tự nhiên
tôi thèm tô phở, ly cà phê, hơi thuốc. Nơi cuối trời, bếp lửa gia
đình mờ mịt cuối phưong Nam...
***
Chiến tranh càng ngày càng nghiệt ngã. Quê hương, sông núi quặn chìm
trong bom đạn. Tuổi trẻ miền Nam hết lớp này đến lớp khác gục ngã,
hy sinh trên núi trên rừng, trên ruộng trên nương... lấy xương trắng
máu đào để bảo vệ miền Nam.
Sau chiến thắng Damber, hơn nửa năm sau, một số bạn bè, đệ-huynh
trong trận chiến này đã lần lượt hy sinh trong mùa Hè bão lửa 1972.
Tháng 12/4/1972 Trung tá Nguyễn Đình Bảo vĩnh viễn nằm lại trên đỉnh
Charlie vùng ba biên giới quân khu II, sau một tuần lễ tử chiến đẫm
máu với 2 Trung đoàn 64 và 48 của Sư đoàn 320 cộng quân.
Đại úy Hoàng Ngọc Hùng ĐĐT ĐĐ112/TĐ11ND hy sinh ngay trước sân nhà,
nơi anh cất tiếng khóc chào đời, sống những ngày ấu thơ êm đềm ngoài
Quảng Trị. Trong trận chiến tái chiếm Cổ Thành 6/1972.
Chi đoàn Trưởng Thiết Kỵ “Phi Điểu” hy sinh trong trận ác chiến tại
đồn điền Krek, Kampuchia.
Chi đoàn Trường Chiến xa Bắc Đẩu chiến đấu tới hơi thở cuối cùng tại
Hải Lăng!
Hình ảnh các anh như đang sống lại trong tôi khi cùng nhau xông pha
trận mạc.
Xin thắp nén hương lòng để tưỏng nhớ các Anh.
Trận chiến đã nằm sâu, phai nhạt dần theo tuổi đời, năm tháng, thời
gian từ hơn một phần tư thế kỷ. Nhưng vì “Nhớ bạn bè, nhớ anh em”,
nên người viết cố ghi lại hình ảnh đệ-huynh của một thời chiến
trường xưa cũ. Xin lượng tình tha thứ nếu như có điều gì sơ sót.
Đoàn Phương Hải
TĐ11ND/SĐND QLVNCH
Biên Hùng chuyển
Bàn ra tán vào (0)
MŨ ĐỎ, MŨ ĐEN - Đoàn Phương Hải, TĐ11ND
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn
Đức Dũng, và những anh hùng Mũ đỏ, Mũ đen đã vị quốc vong thân tại
Damber.
Gửi N/T Bùi văn Lộc - Lê Văn Mễ, Phạm Đức Hùng, Phan Cảnh Cho, và
những chiến hữu Mũ đỏ, Mũ đen, Công binh... đã tham chiến tại Damber
để nhớ những ngày ngút ngàn máu lửa.
Với sự yểm trợ, tiếp tay không giới hạn của khối Cộng sản Nga-Tầu,
Cộng sản Việt Nam xua hàng chục Sư đoàn bộ binh cùng hàng ngàn xe
tăng đại pháo quyết tâm xâm chiếm nhuộm đỏ miền Nam.
Hàng chục ngàn dân lành vô tội đã chết tức tưởi, oan khiên trong dịp
Tết Mậu Thân, trên “Đại lộ kinh hoàng”, trên phố trên nhà, trên
ruộng trên nương vì bom đạn. Quê hương dân tộc quặn mình trong bão
lửa chiến tranh.
Để ngăn cản giặc thù, Quân lực miền Nam đã anh dũng chống trả giặc
thù trên khắp 4 vùng chiến thuật. Không một địa danh nào có bóng
cộng quân mà không có gót giầy của người lính miền Nam tìm tới truy
lùng tiêu diệt.
Nhằm phá vỡ hậu cần, an toàn khu của địch trên lãnh thổ Kampuchia.
Giữa năm 1970 quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã liên tiếp truy kích,
tiêu diệt địch trên lãnh thổ của xứ Chùa Tháp. Đầu năm 1971 các lưc
lượng thiện chiến đã vượt biên đánh sang Hạ Lào, phá vỡ, tiêu diệt
toàn bộ kho tiếp liệu, hậu cần, đại bản doanh, an toàn khu của Cộng
sản Việt Nam.
Sau hơn 2 tháng hành quân, vừa từ Hạ Lào trở về, Trung tá Nguyễn
Đình Bảo K14 Võ Bị, mang theo hơn chục năm kinh nghiệm chiến trường
từ Lữ đoàn I Nhảy Dù được lệnh về chỉ huy Tiểu đoàn 11 Nhảy dù.
Sau thời gian ngắn chỉnh trang đơn vị, để ra mắt khai quân, 11 Dù đã
[được] trực thăng vận tiêu diệt gọn 2 Tiểu đoàn cộng quân bao vây
căn cứ Hưng Đạo trên quốc lộ 22 chạy dài từ tỉnh lỵ Tây Ninh đến
biên giới Việt-Miên.
“Song kiếm trấn ải” 11 Dù [TĐ11ND] tiến quân vào căn cứ trong tiếng
reo hò, mừng tủi của anh em binh sĩ và gia đình sau hơn 2 tháng bị
cộng quân tấn công, bao vây và pháo kích đêm ngày.
Chiến thắng ngoạn mục đầu tay của quan Năm Nguyễn Đình Bảo làm nức
lòng binh sĩ, mang khí thế mới về cho đơn vị. Thừa thắng xông lên 2
Tiểu đoàn 11 và 5 Dù tiếp tục hành quân tiêu diệt địch quanh trại
Lực Lương Đặc Biệt Thiện Ngôn, Lò Gò, Xóm Dứa, Xa Cát và Xa Cam.
Cuối tháng 10/1971, đang hành quân quanh căn cứ hỏa lực Pace ngay
sát biên giới Việt-Miên thì 11 Dù được lệnh tùng thiết với Thiết
đoàn 18 Kỵ binh vượt biên tiến chiếm mật khu Damber trên đất
Kampuchia.
Dưới ánh nắng như thiêu như đốt, đất bụi đỏ ngầu, thì trên pháo tháp
chiến xa, bên dàn máy truyền tin tua tủa “ăng ten” ngắn, dài, một
người lính tầm thước với khẩu Colt 9 vắt ngang chiếc áo thung xám
ngay trước ngực, đang sang sảng ra lệnh, chỉ huy. Đột nhiên ông giơ
tay chào rồi nhảy xuống xe khi thấy Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu
đoàn Trưởng TĐ11ND đứng dưới gốc cây đang giơ cao tấm bản đồ. Hai
người lính phong trần siết chặt tay, nhìn nhau rồi cùng phá ra cười.
- Niên trưởng “Đại Lộc”, lâu lắm anh em mình mới làm ăn chung, kỳ
này vào Damber, chắc gay lắm phải không?
- Damber thì lúc nào chả gay, khúc xương khó nuốt, an toàn khu, bản
doanh đầu não của Công trường 7 và 9 địch quân. Năm ngoái Thiết đoàn
tôi và Mũ nâu Biệt Động [Quân] quần thảo suốt mấy ngày đêm với Trung
đoàn cộng quân tại “Miếu ông Sành”. Kỳ này mình phải nghiền nát
Damber ra mới được!
Quan Năm mũ đỏ vung tay tự tin, rồi quay sang giới thiệu Thiết Đoàn
Trưởng Thiết Đoàn 18 Kỵ binh, Thiếu tá Bùi Văn Lộc Khóa 13 Võ Bị với
Mễ, tôi, các Đại đội trưởng và ông Lang Tây Tô Phạm Liệu.
Xếp Mũ đen với biệt danh “Tầy Quầy”, lừng danh trận mạc trong binh
chủng, người đẫy đà, da đen sạm vì phong trần, sương gió, cất tiếng
cười sang sảng, quay sang bắt tay chúng tôi. Tình tự Võ Bị từ ngày
nhập trường ăn cơm lính, cho nên dù xếp Mũ đỏ, khóa 14, lon tuy cao
hơn, nhưng vẫn một điều “Niên trưởng, hai điều Niên trưởng” xưng hô
với xếp Mũ đen.
Đang đấu hót tưng bừng thì ông đàn anh Khóa 6 Võ Bị, Đại tá Trần
Quang Khôi, Chỉ huy trưởng Thiết giáp vùng III chiến thuật đáp trực
thăng xuống ngay trận địa. Trải rộng tấm bản đồ hành quân với chi
chít tình hình, trục tiến quân xanh đỏ của ta và địch, Đại tá Khôi
bàn luận kế hoạch hành quân, vạch rõ mục tiêu là phá hủy hậu cần,
tìm và tiêu diệt cho được Bộ Chỉ Huy Công trường 7 cộng quân đang có
mặt tại Damber.
Thung lũng Damber dài gần hai chục cây số bên liên tỉnh lộ 75 và
quốc lộ 7 trên đất Miên, nằm lọt trong những cánh rừng trùng điệp
cây cao rậm rạp bao quanh. Tuy nhiên địa thế Damber lại tương đối
trống với rất nhiều gò mối, cây cối lúp súp, phủ đầy cây leo rậm rạp
nhưng không cao quá đầu người. Băng ngang thung lũng là một con suối
khá lớn, mùa này nước đã cạn nhưng đất rất dễ bị lún, gây khó khăn
cho chiến xa di chuyển.
Trên quốc lộ 7, nhiều toán công binh chiến đấu, xe ủi đất của ông
đàn anh Lâm Hồng Sơn mới gặp khi đi họp hành quân, đang vất vả phá
hủy mìn bẫy, sửa chữa cây cầu chiến lược trên trục tiến quân.
Đoàn cua sắt trải rộng đội hình ào ào băng ngang những cánh đồng cỏ
non. Làng mạc thôn xóm thanh bình, hiền hòa sau lũy tre, bên những
hàng thốt nốt hoa trắng như hoa cau, cao thẳng, ngả nghiêng theo gió
nổi bật trên nền trời.
Lính Dù không phải lội bộ nên thích thú cười đùa trên chiến xa, đang
tiến quân như chẻ tre, càn quét qua các mục tiêu. Sau khi lục soát
quanh căn cứ hỏa lực Hồng Hà ngay ngã ba liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ
7, thì lực lượng xung kích Dù và Thiết kỵ chia làm 2 cánh.
“Mê Linh” Lê văn Mễ, Thiếu tá Tiểu đoàn phó TĐ11ND và Đại Đội 114
của Trung úy Phan Cảnh Cho, phối hợp với Thiết vận xa M113 giải tỏa,
thanh toán áp lực địch đang ngày đêm pháo kích, bao vây tấn công căn
cứ hỏa lực Hồng Hà. Sẵn sàng tiếp ứng cho mũi xung kích của Trung tá
Bảo và Thiếu tá Lộc đánh thẳng vào mật khu Damber.
Xếp Mũ đen có vẻ thắc mắc, ngạc nhiên khi thấy chúng tôi lúc nào
cũng “Anh Năm, Anh Năm” xưng hô với xếp Mũ đỏ, mà không gọi bằng cấp
bậc.
- Mấy chú em trong đơn vị ít khi kêu tôi là Trung tá, lúc nào cũng
xưng hô là Anh Năm, Anh Năm! Nghe mãi thành quen, thân mật, gần gũi
như anh em trong nhà.
Nguyễn Đức Dũng, Hoàng Ngọc Hùng, Phạm Đức Hùng, ba Đại úy Đại Đội
Trưởng lừng danh Mũ đỏ, dầy dạn chiến trường, cùng xuất thân Khóa 22
Võ Bị, đang phối hợp với 2 Chi Đoàn Trưởng Mũ đen lừng danh trận mạc
là “Bắc Đẩu” và “Phi Điểu” ào ào tiến quân trực chỉ Damber.
Địa thế vùng hành quân bắt đầu thay đổi khi một số chiến xa M41 băng
qua cây cầu lớn trên liên tỉnh lộ 75 vừa được Công binh sửa chữa.
Ngay dưới cầu là một con suối khô, chạy từ Đông sang Tây ngang qua
thung lũng Damber. Địa thế trở ngại cho chiến xa khi phải băng qua
khu vực thấp và lún dưới lòng suối cạn, nhưng với thiết vận xa M113
thì không có gì trở ngại.
Với cái nhìn sắc bén, tinh nhậy của nhiều năm xông pha trận mạc, đàn
anh mũ đỏ, mũ đen nhận ra ngay đây là tử điểm quyết định chiến
trường, nên quyết định lựa một Trung đội Nhảy dù gồm toàn những tay
súng gan dạ, kinh nghiệm cùng mình, và Sĩ quan liên lạc pháo binh
nằm lại để nghe ngóng tin tức địch quân.
- Địch sẽ phục kích tại đây khi Chiến đoàn kéo quân trở ra! Mình sẽ
dùng không quân, trận địa pháo và hỏa lực hùng hậu của Thiết giáp
nghiền nát chúng tại đây!
Anh Năm gật gù cười, khoái trá nói với chúng tôi, giống như khi anh
nheo mắt mó trúng con nhất vạn, ngửa bài ù toàn hàng trong canh mạt
chược trên đồi Mũ đỏ, hay những lần đóng quân trong vườn Tao đàn đầy
cây cao bóng mát, nườm nượp “khách giang hồ” lui tới ghé thăm.
Sau cả ngày tiến quân, tiêu diệt vài toán trinh sát nhỏ của địch.
Chiến đoàn đóng quân quanh ngôi chùa cổ.
“Tubip” Liệu, anh Năm và tôi, ngồi trên M113, nhìn nắng chiều trải
những giải mây ngũ sắc giăng ngang lũy tre, vắt ngang mái chùa cong,
nhuộm hồng khu nhà sàn trong xóm. Xa xa, trên bờ đê, lũ trẻ mục đồng
vắt vẻo trên lưng trâu bên mấy nhà sư áo vàng nổi bật trên cánh đồng
nhuộm ánh tà dương đang lững thững về làng, trông thật thanh bình,
êm ả. Nếu không có chiến xa gầm thét, không có xích sắt quần nát
ruộng nương, không có vỏ đạn đồng rải sáng bờ đê, xác người cong
queo trên ruộng vườn kinh lạch, thì những người dân quê hiền lành
kia nào ai biết đến chiến tranh!
Qua khỏi Miếu Ông Sành (T/Tá Phan Văn Sành K17 Đà Lạt, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 30 BĐQ tử thương khi đụng địch gần ngay miếu. Anh
em Mũ nâu tiếc thương đặt tên Anh cho ngôi miếu cổ) là hàng chục xác
chiến xa cháy đen nằm rải rác trên cánh đồng. Mũ sắt, giầy trận, nón
cối, dép râu vương vãi trên chiến địa. Thiếu tá Lộc cho biết hồi đầu
năm, hai Trung đoàn chủ lực của địch đã phục kích chiến xa và lực
lượng hành quân ngay tại đây, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên.
Lại thêm một ngày bình yên trôi qua, tình hình yên tĩnh một cách
đáng ngại. Chưa có chỉ dấu nào là 2 Trung đoàn của Công trường 7 có
mặt trong vùng hành quân, theo như không ảnh và tin tức tình báo cấp
cao của Quân đoàn ghi nhận.
- Anh Năm, địch cố tình tránh né không muốn đụng?
- Thì chúng cố tình dụ mình vào thật sâu rồi mới dốc toàn bộ lực
lượng phục kích khi mình kéo quân ra. Hình như địch đã biết trước kế
hoạch hành quân. Liên lạc toán trinh sát coi có nghe ngóng động tĩnh
gì không? Nhớ ghi kỹ tọa độ, sẵn sàng pháo binh yểm trợ cho tụi nhỏ.
Đêm ngột ngạt yên tĩnh trong tiếng kinh, tiếng mõ văng vẳng từ ngôi
chùa gần khu đóng quân.
- “Khều”! Năm ngoái, Tiểu đoàn 7 Nhảy dù đụng ở khu nào vậy?
- TĐ7ND cùng Thiết đoàn 5 của Trung tá Thoàn là mũi xung kích cho
Chiến đoàn 333 đánh qua Soài Riêng, vào Damber đụng lớn ngay trong
khu này và thắng một trận lớn ở Phum Longieng. Có đêm mới 2, 3 giờ
sáng, Đại tướng Đỗ Cao Trí đã đáp trực thăng ngay trận địa, bất ngờ
ra lệnh cho Dù và Thiết kỵ ào ào đánh vào Damber tạo nhiều chiến
thắng lớn.
Sau khi góp ý, bàn thảo thêm kinh nghiệm, mọi người im lặng tìm giấc
ngủ với những suy nghĩ vẩn vơ.
Tiếng gầm thét của chiến xa, phá tan buổi sáng mờ sương khi ánh
dương chưa lên khỏi hàng cây thốt nốt bên lũy tre làng. Tới gần trưa
thì lực lượng hành quân đã càn quét hết các mục tiêu chỉ định tại
Damber mà không gặp sức kháng cự nào đáng kể của địch!
Dù và Thiết kỵ dừng quân quanh ngôi chùa cổ. Vừa bước chân vào sân
chùa thì đã thấy sư cụ chủ trì cùng đám dân quê cả trăm người gồm
ông già bà cả, đàn bà con nít khóc như ri, đang run rẩy sợ sệt qùy
lạy như tế sao. Chúng tôi ngỡ ngàng vội đỡ tay hòa thượng đứng lên
và chắp tay xá lại. Trên khuôn mặt gầy gò, đen sạm già nua, đôi mắt
sâu ẩn dưới cặp chân mày bạc trắng nhuốm lên nét chịu đựng đau buồn.
Mặc dù mấy anh lính Miên trong đơn vị đã giải thích cho nhà sư và
dân chúng biết mục tiêu của cuộc hành quân là tìm diệt Việt cộng
nhưng họ vẫn vừa lạy vừa khóc!
Hình ảnh ngôi đình, đứa bé đội chiếc mũ nồi đen, nắm chặt tay mẹ bên
đám dân làng run rẩy, sợ sệt quỳ lạy đám lính Tây Lê dương ở nhà quê
miền Bắc mấy chục năm trước hồi tôi còn bé chợt thoáng hiện về!
Lịch sử đang vô tình tái diễn. Ngày xưa tôi là một đứa bé ngơ ngác
run rẩy, vái lạy đám lính Lê dưong. Ngày nay tôi đang là một người
lính Nhảy dù đứng nhìn bày trẻ đói gầy, đen đúa xá lạy chúng tôi
trên một quê hương xa lạ!
Tuổi thơ Việt Nam trong thời loạn lạc, sợ xe tăng thiết giáp, vết
giầy đinh trên bờ đê, khóc thất thanh khi thấy lửa cuồng bạo đốt
cháy xóm làng. Ngày nay, những đứa bé, những người dân Miên khổ nạn
kia cũng đang run sợ khi bom đạn hừng hực đốt cháy quê hương!
Thấy dân làng và bày trẻ nhỏ run sợ, thiếu đói, nghèo nàn bên dăm ba
củ khoai, một ít cơm độn bắp với những vết thương máu mủ tanh hôi
đang làm độc trên thân thể. Anh Năm, “Đại Lộc”, ra lệnh cho tiền
trạm xin trực thăng chở gạo sấy, đồ hộp, thuốc men vào vùng hành
quân. Xế trưa hôm đó những người lính mũ đỏ, mũ đen, gom dân lại để
cấp phát lương thực. Băng bó, chữa trị những vết thương mưng mủ đang
làm độc trên mình những người dân khốn khó và những đứa bé đen đúa
gầy gò, khổ nạn của chiến tranh.
Nhìn những đôi mắt ngây thơ trẻ dại, rạng rỡ hân hoan nhai kẹo cao
su, thè lưỡi liếm môi cho hết chút đường cát trắng, chậm chậm cắn
miếng thịt heo. Mắt long lanh, đứng ngẩn người để cảm thấy vị ngọt,
mùi thơm đang từ từ tan tận kẽ răng, ngấm sâu vào từng thớ thịt với
những nụ cười hồn nhiên ánh mắt vui sướng, trông mới xót xa tội
nghiệp làm sao!
Chắc đã lâu lắm chúng mới có một ngày no đủ. Vài đứa bạo dạn lại gần
chiến xa, sờ sờ mó mó, khiến tôi nhớ lại hình ảnh tuổi thơ với chiếc
quần đùi nâu đứng bên đường số 6, nghếch mũi ngửi cái mùi ngái ngái
thơm thơm của dầu xăng khi lại gần chiếc xe nhà binh.
Đêm im vắng, trời trong cao, lóng lánh muôn ngàn tinh tú. Văng vẳng
tiếng tụng kinh ê a hòa với tiếng mõ khoan thai đều đều của sư cụ và
mấy chú tiểu trên chùa.
Gối đầu lên ba lô, ngả lưng trên nền gạch dưới mái hiên chùa, chúng
tôi kể cho nhau nghe những ngày Tây về làng, theo bố, mẹ chạy loạn,
tản cư, từ Cống thần, Chợ đại về tới Phủ Lý, Hà Nam. Quê hương tôi
sao quá đọa đày! Ngàn năm đô hộ chống Tầu, trăm năm Trịnh-Nguyễn
phân tranh, rồi chống đánh Nhật, chống Tây. Năm 1954, đất nước chia
đôi, yên ổn vài năm rồi lâm cảnh nồi da sáo thịt, huynh-đệ tương tàn
vì chủ nghĩa Cộng sản, vì mộng nhuộm đỏ giang san của người anh em
miền Bắc!
Nghe tiếng đạn bom từ thuở lọt lòng, tham dự chiến tranh cầm súng
bóp cò khi tuổi đời vừa đủ lớn đủ khôn! Nếu vương quốc Cao Miên
không cho phép cộng quân lập an toàn khu trên lãnh thổ để tiến đánh
miền Nam, thì chắc chắn xe tăng, đại pháo và những người lính miền
Nam sẽ không có mặt trên xứ sở xa lạ nghèo nàn này!
Nhấm nháp ly cà phê nóng đầu ngày, khi những vệt nắng ban mai nhảy
múa lung linh trên pông-sô [poncho], bên tiếng hót trong cao của bày
chim chích chòe trên mái tam quan. Lòng thanh thản vì vừa qua một
đêm yên tĩnh, không có tiếng súng, tiếng bom. Tôi lẩm nhẩm cầu xin
may mắn cho đơn vị khi bước vào chùa giã biệt vị sư già.
Chiến xa lăn xích hướng về lại căn cứ hỏa lực Hồng Hà để trở về quê
mẹ. Hình ảnh dân làng và bày trẻ đang giơ tay vẫy thấp thoáng bên
lũy tre. Nắng đã lên quá đỉnh đầu, không khí oi bức ngột ngạt khó
chịu. Sau mấy tiếng đồng hồ quần nát vùng hành quân, chiến đoàn phân
tán quân quanh bìa rừng để chờ tiếp tế lương thực, đạn dược và xăng
nhớt. Trực thăng võ trang bay lượn bao vùng cho mấy chiếc Chinnok
đáp xuống tiếp tế. Hai ba chuyến thả hàng xong xuôi, chuyến cuối
cùng đang là là trên mặt đất thì đột nhiên phòng không, cối 82 và
hỏa tiễn của địch từ nhiều hướng khác nhau nhả đạn như mưa. Một
Chinook trúng đạn sau đuôi, bốc cháy như một cây đuốc khổng lồ.
Trực thăng võ trang bao vùng nhào lên nhào xuống bắn phá vị trí pháo
của địch. May là rớt gần mặt đất nên phi hành đoàn Mỹ từ trong trực
thăng chạy kịp ra khỏi thân tầu, trước khi trực thăng phát nổ. Lính
mũ đen ào tới xịt bình chữa lửa lên mình mấy anh phi công Hoa Kỳ rồi
kéo họ nhào xuống hệ thống phòng thủ. Vì địa thế bằng phẳng toàn bụi
rậm và rừng cây thấp nên phi cơ quan sát nhận ra vị trí súng của
địch, chỉ điểm cho khu trục tới tấp nhào [xuống] xạ kích, đánh bom
trong màn lưới phòng không địch từ nhiều vị trí.
Mấy thiết xa M48 chất đầy xăng nhớt mới tiếp tế may mắn không bị
cháy, đang chạy ngang chạy dọc bơm xăng, bơm dầu cho chiến xa. Phi
hành đoàn chiếc Chinook trúng đạn đang liên lạc qua hệ thống Mỹ để
chờ trực thăng bốc ra. Trời đã về chiều, đoàn quân di chuyển qua vị
trí khác tìm địa thế đóng quân đêm.
“Tubip” Liệu đang chữa trị cho mấy quân nhân bị thương nhỏ to với
ông bạn Bác sĩ quân y bên Thiết giáp.
- Bắt đầu vất vả rồi đó, đi chung với mấy ông mệt bỏ mẹ, lúc nào
cũng ầm ĩ đầy mùi xăng nhớt, phun khói đầy trời, nằm phơi bụng, phơi
lưng lên cho chúng pháo. Chỉ được cái khỏe là đỡ phải lội bộ, hỏa
lực ăn trùm thiên hạ và nhất là đầy đủ mấy ông Bud, ông 33 (bia
Budweiser và bia 33)!
- Nhưng cũng dễ thành than lắm ông ơi! Mới chưa đầy một năm về đơn
vị mà thiết đoàn đã đụng lớn cả chục lần, “rang muối” gần chục xe
rồi đấy ông ơi!
Ngoài tuyến phòng thủ lính tráng đang đào hầm hố, dựng lưới chống
B40 ngay trước đầu xe. Quá nửa đêm khi mọi người đang say ngủ thì
bỗng choàng mình tỉnh dậy, lăn xuống hố vì những tiếng nổ kinh hoàng
cày tung đất đá ngay sát bên tai. Tiếng nổ của hỏa tiễn, của cối 82
nghe ngắn, tê lạnh, buốt sắt đến hãi hùng. Cái âm thanh quen thuộc
giống như tiếng mở nút chai nghe rõ mồn một từ góc rừng, kèm theo là
những tiếng rít, tiếng hú rợn người của hỏa tiễn 122 đang quơ lưỡi
hái tử thần xé gió bay đến vị trí đóng quân. Mặc dầu đã quá quen
thuộc với những cơn mưa pháo khủng khiếp ở Hạ Lào, ở vùng hỏa tuyến.
Thế nhưng cái giây phút cực kỳ ngắn ngủi, căng thẳng thần kinh trong
lúc đạn đang bay tới mục tiêu vẫn làm cho thần kinh căng thẳng, tức
ngực và khó thở! Vừa nghe đạn nổ đằng trước, đằng sau, bên trái, bên
phải, thì lại hồi hộp, miệng đắng lưỡi khô khi nghe tiếng rít của
đợt pháo tiếp theo. Cứ như thế mà chờ mà đợi, phó thác cho số mệnh!
Đột nhiên một tiếng nổ chát chúa kinh hoàng làm rung chuyển cả xe.
Tai tôi ù đi, tối tăm mặt mày khi toàn thân văng lên đập vào thành
xe. May là có thói quen khi nghe tiếng pháo là chụp chiếc mũ sắt lên
đầu, nên không hề hấn gì cả. Ngay bên cạnh, Trung tá Bảo cũng đang
ôm ngực chống tay dựa vào thành xe. Lệnh lạc, báo cáo vang lên trong
máy, “Bảo Ngọc” chụp ống liên hợp liên lạc với “Đại Lộc” và các đại
đội ngoài phòng tuyến. Bỗng có tiếng báo cáo của toán tiền đồn cho
biết là Việt cộng tập trung rất đông, đang dàn quân, đào hầm hố, bố
trí theo bờ suối, sát đường. Vì sợ bị lộ vị trí nên toán tiền đồn
sau khi đã quan sát, theo dõi và cho tọa độ vị trí địch, xin rút ra
điểm hẹn trước khi trời sáng.
Mặc cho pháo vẫn tiếp tục rơi, thân thể còn đang ê ẩm. Anh Năm và
tôi như vừa được uống một liều thuốc hồi sinh, quên cả đau, dán mắt
vào vị trí địch quân trên bản đồ để phác họa trận địa pháo trút lên
đầu địch.
- Đúng ngay chóc là thế nào chúng cũng phục kích mình tại đây. Tao
sẽ dùng chiêu “Gậy ông đập lưng ông, tiền pháo hậu xung” mà địch vẫn
thường dùng, để mưa pháo và bom lên đầu chúng. Hỏa lực sẽ thiêu đốt
sạn đạo Damber. Công trường 7 cộng quân sẽ tan nát, thảm bại trong
trận thư hùng quyết tử này!
Anh Năm vừa nói, vừa khoanh tròn, di tới di lui cây viết chì mỡ trên
tấm bản đồ, ngay vị trí địch một cách đầy tin tưởng.
Có tiếng C47 Hỏa long vào vùng thả hỏa châu, đại liên 6 nòng như bò
rống xả đạn vào vị trí địch, nhờ thế mà pháo địch im tiếng. Vừa chui
ra khỏi xe tôi đã điếng hồn vì trái hỏa tiễn 122 ly nổ ngay cạnh đào
một hố sâu bên thành xe. Mảnh pháo chém đứt xích thiết xa, cây đại
liên 50 trúng mảnh cong vòng văng xuống đất.
- Anh Năm, mình hên thật, chút xíu nữa là đi đứt. Kỳ này hành quân
về Anh phải cúng heo và rời cột cờ đi chỗ khác!
- Mấy thằng tụi mày sao lúc nào cũng lèm bèm, tối ngày tìm đọc ba
cái trò bói toán, tử vi, luận bàn cứ như thánh sống làm tao điên cái
đầu!
Tubip Liệu mới từ xe bên cạnh chui ra phán thêm một câu.
- Đệ nhất phong thủy miền Nam, “Diễn tiên sinh”, khi được xếp lớn
đón lên coi doanh trại đã lắc đầu nói là bộ chỉ huy nằm trên thế đất
sát chủ. Đã thế sân cờ lại còn đối diện với Nghĩa trang quân đội.
Nếu không dời ngay xuống phía Nam trông ra bờ sông thì lành ít dữ
nhiều, chắc anh còn nhớ chứ anh Năm!
- Nghe nói Phủ đầu rồng, Dinh Thừa tướng, Bộ Tổng tham mưu, một số
đại quan văn võ trong triều muốn thăng quan tiến chức, hưởng đủ bổng
lộc trời ban, đều phải năm lần bảy lượt xin yết kiến “Diễn tiên
sinh”, đó anh Năm!
- Ông Cần, Ông Tĩnh lựa Bộ chỉ huy và sân cờ, tao mới về có lựa chọn
gì đâu! Nhưng chẳng biết đó là điềm vui hay điềm buồn, điềm lành hay
điềm xấu cho quốc gia, mà Phủ đầu rồng, dinh Thừa tướng lại tin vào
bói toán tử vi. Nay con rùa đặt chỗ này, mốt hồ nước, giả sơn đặt
chỗ kia. Mình là dân quanh năm đánh đấm, trước khi xuất quân lại tin
phong thủy, gieo cầu, cúng bái cầu xin thì còn đánh đấm giặc giã gì
nữa!
Tôi ngước lên cao, trời trong ngập ánh trăng, cần ăng ten, đại bác,
bóng người quanh pháo tháp lung linh di chuyển ngã dài theo ánh hỏa
châu. Đại liên 6 nòng từ máy bay vẫn như bò rống vạch ngang vạch dọc
từng giây đạn lửa đỏ rực trong đêm, xen kẽ với tiếng phòng không từ
nhiều vị trí địch khác nhau bắn lên máy bay, đạn lửa đuổi nhau giữa
bầu trời đầy sao vẽ thành bức họa chiến tranh lạ mắt.
Để chắc ăn cho cuộc tấn công vào sáng ngày mai, chúng tôi xin mấy
“thảm” B52, nhưng Bộ chỉ huy cho biết là không có, và sẽ dành ưu
tiên pháo binh, không quân cho trận địa.
- Sáng rồi, mình “thượng đài” nhập trận đi anh Năm!
- Báo cho Mê Linh đón tụi nhỏ tiền đồn và sẵn sàng trong đánh ra,
ngoài đánh vào, kẹp địch ngay chính giữa.
- Tụi nhỏ đã gặp phe ta rồi, hôm qua Mê linh làm ăn lớn, tiêu diệt
nguyên một đại đội đặc công đánh vào căn cứ, tịch thu nhiều vũ khí
và tài liệu của địch.
Trời sáng dần, ngồi trên pháo tháp chiến xa tôi nhấc ống nhòm nhìn
về khoảng rừng trước mặt. Dọc theo tỉnh lộ, khu rừng lau đầy hoa
trắng ngả nghiêng uốn mình theo gió, cảnh vật im vắng trong làn
sương mỏng ban mai.
Sau những gò mối, lùm cây, bên bờ suối, giờ này chắc địch quân đang
ẩn mình dưới giao thông hào. Chắc chúng cũng đang hướng ống nhòm,
căn góc độ, dựng biểu xích, mở khóa an toàn của đủ loại vũ khí chờ
Thiết giáp và Nhảy Dù tiến vào mục tiêu. Tôi chợt nghĩ đến gia đình,
một thoáng Sài Gòn, mái ấm gia đình mờ mịt cuối chân mây.
Sau khi đã bàn thảo với “Đại Lôc” xếp Mũ đen, lệnh lạc rõ ràng cho
các cánh quân. Trung tá Bảo vỗ mạnh vai tôi, xiết chặt hai tay vào
nhau, ý như bóp nát địch quân. Ngay lúc đó là hàng ngàn tiếng rít xé
gió của 3 pháo đội pháo binh Nhảy Dù của ông “Lước Hốc Môn” từ nhiều
vị trí khác nhau “T.O.T” chụp đạn xuống mục tiêu. Rừng cây đất đá,
bụi lửa tung lên cao khi đạn pháo xoáy vào lòng đất. Lẫn trong tiếng
nổ hẳn có những đôi mắt trợn trừng lẫn với tiếng gào thét đớn đau.
Máu thịt, cốt xương sẽ tan từng mảnh tung lên cao, vướng trên cành
cây ngọn cỏ, hay vùi sâu trong lòng đất.
Hàng ngàn đạn pháo, hết đợt này đến khác vẫn đang xé gió cày tung vị
trí Bắc quân. Pháo vừa ngưng thì phi cơ quan sát L19 từ trên cao
nhào xuống mục tiêu hướng dẫn khu trục oanh kích trận địa. Từng đoàn
khu trục, âm thanh rít bên tai, lao từ trên cao thả hằng chuỗi bom
chụp trên trận địa rồi kéo cánh lên cao, trông rõ bộ đồ bay màu cam
và chiếc nón bay của các phi công bạn. Rừng cây bùng lên trong biển
lửa khi bom “Napalm” chạm mặt đất hừng hực thiêu đốt cây rừng. Phòng
không địch bắn lên phi cơ, vẽ những bông hoa khói, xám đen, nổ như
pháo bông dầy đặc quanh thân tầu. Đúng là địa ngục rực lửa, lửa từ
lưng trời rót xuống, lửa từ mặt đất bốc lên, lửa vàng chói hừng hực,
cuồng bạo đốt cháy cỏ cây, thiêu hủy thân xác con người. Tất cả chỗ
nào cũng chỉ nghe tiếng đạn tiếng bom, chỗ nào cũng chỉ toàn lửa và
lửa.
Phi cơ lắc cánh chào quân bạn bay khỏi vùng. Chiến trường còn đang
bốc khói là Thiết giáp và Nhảy Dù xả đủ loại hỏa lực ào ào xung
phong vào trận địa. Mặc dù bị nhồi giập vì pháo binh, bị đốt ngập
trong biển lửa, nhưng đủ loại hỏa lực đại liên, B40, B41, đại bác
không giật của địch vẫn nhả đạn như mưa vào đoàn cua sắt đang ào ạt
tấn công. Bị dồn vào tử lộ không lối thoát thân nên địch liều chết
tử chiến tới cùng. Xạ thủ phòng không bị xích chân vào đại liên 37ly
nhả đạn như mưa chống trả. Phối hợp nhịp nhàng nhị thức Bộ binh,
Thiết giáp, kể cả chiếc xe ủi đất lớn của công binh cũng đang giơ
nghiêng lưỡi cày bằng sắt dầy ngăn đạn cho lính Dù nhào lên thanh
toán mục tiêu. Đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu trận chiến lính
Dù mới thấy cảnh lạ lùng khi anh tài xế can đảm, gan dạ, say khói
súng cùng mũ đen, mũ đỏ lái xe ủi đất xông trận.
Ác chiến kéo dài từ sáng tới chiều. Mùi thuốc súng, mùi da thịt khét
lẹt từ hàng trăm xác địch cháy đen. Xương thịt máu me nhầy nhụa đỏ
lòm trong mắt xích chiến xa văng lên pháo tháp làm tôi muốn ói trước
cảnh tượng khủng khiếp và ghê rợn.
“Tubib” Liệu và toán y tá quần áo đầy máu sau mấy gò mối lớn đang
cấp cứu cho các thương binh. Khi những tia nắng chiều vàng đỏ cuối
ngày, lướt thướt kéo ngang rừng cây, nhuốm đỏ thành cầu, thì trận
chiến cũng vừa tàn. Bùn lầy, cỏ tranh, khu rừng hoa lau trắng đỏ
ngầu màu máu, xác địch ngổn ngang, co quắp cháy đen. Dăm ba chiếc
nón sắt rằn ri móp méo lũng sâu vết đạn nằm bên những chiếc nón cối
ngụy trang đầy lá cây rừng bên bờ lau sậy xào xạc gió chiều.
Trận chiến nào cũng có mất mát thương vong. Đại úy Nguyễn Đức Dũng
Đại Đội Trưởng Đại đội 111/TĐ11ND cùng gần 30 mũ đỏ, mũ đen đã hy
sinh, và khoảng 10 thiết xa bị bắn cháy.
Tựa bên pháo tháp chiến xa nhìn về phía rừng cây, tôi như đang thấy
những cánh rừng thông bạt ngàn xanh ngắt trên Đà lạt. Như thấy Dũng
trong bộ đại lễ trắng đang quỳ xuống, đứng lên trong ngày lễ mãn
khóa trên Vũ đình trường. Xa xa Lâm Viên đỉnh hùng vĩ giữa trời
xanh... Tiếng gió, tiếng kèn, quyện với giọng ngâm buồn u uẩn bên
ngọn lửa thiêng bập bùng trong đêm Truy điệu...
“Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến.
Máu anh hùng nhuộm thắm lá cờ Nam!"
Sau khi tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trở về. Vì nhu cầu
công vụ, nên Dũng đang là một Sĩ quan sáng giá của Tiểu đoàn 5 Nhảy
dù được lệnh thuyên chuyển về làm Đại Đội Trưởng cho TĐ11ND. Cả đơn
vị không ai là không nhớ dáng dấp thư sinh, đẹp trai, hay mắc cỡ,
mặt đỏ bừng như con gái của Dũng. Chính vì hiền lành dễ thương, lúc
nào cũng cười, nên Dũng nổi tiếng đào hoa trong đám bạn bè, và
thường bị các cô trêu chọc.
Đất lạ Damber đã cướp mất người anh hùng tuổi trẻ. Nguyễn Đức Dũng,
khóa 22 Võ Bị. -Người “Thích mặc quân phục từ nhỏ, và đội Nón Đỏ khi
ra trường.” Người sĩ quan Dù can đảm, tháo vát trẻ trung, chưa thỏa
chí tang bồng thì đã bỏ đồng đội bỏ anh em!!!
Ngủ yên đi Dũng! Và nhớ kéo dù theo gió bay về quê cũ Bắc Ninh, nơi
chốn bình yên, nơi dòng sông tuổi nhỏ, phụ lưu sông Đáy, sông Hồng
cuồn cuộn phù sa. Nơi có giọng hò Quan Họ, hội Lim, nơi cất tiếng
khóc chào đời, nơi không binh đao thù hận.
Trên đồi Mũ đỏ Long Bình, dưới giàn hoa dưa tím phất phơ bay trước
căn phòng nhìn xuống ngã ba sông Đồng Nai mênh mông uốn khúc bên
làng Cao Thái đầy cỏ nội hoa rừng, thoảng mùi thơm khuynh diệp sẽ
mãi mãi vắng thiếu bóng anh!
Đêm đó Chiến đoàn dừng quân ngay trên trận địa, người sống và người
chết ngủ vùi cạnh bên nhau. Nằm yên trên võng, tôi lơ đãng nhìn
những ngôi sao đổi ngôi sẹt ngang bầu trời, để nghe hơi thở, khói
súng chiến trường lắng đọng trong tim.
Ngoài kia tiếng rên la đau đớn của thương binh ta và địch, đang gọi
tên người thân, chống chọi từng giây từng phút với tử thần, còn có
tiếng rên la, trăn trối của một sĩ quan thương binh miền Bắc nghe
rất lạ tai!
Chữ nghĩa, ngôn từ đã hoàn toàn đổi thay từ khi chúng tôi xa đất Bắc
di cư vào Nam năm 1954. Đêm nay, người thương binh địch, quê quán Hà
đông, cùng tuổi, cùng quê với tôi. Biết đâu thuở nhỏ lại chẳng biết
nhau bên gốc đa đầu làng, chơi với nhau trước sân đình, bên giếng
nước, khi mới dăm bảy tuổi. Anh thương binh đang thều thào gọi tên
vợ con khi biết mình khó lòng sống sót với viên đạn xuyên ngang lồng
ngực. Tấm hình đen trắng mộc mạc của cô gái quê với hàng chữ thương
yêu gửi tặng chồng khi vượt Trường Sơn. Tấm ảnh vấy máu, đang nằm
trong đôi tay khô héo, khi Tubip Liệu lấy ra từ trong túi đặt lên
tay anh.
Dù mũ đỏ, mũ đen, dù nón cối dép râu, hay Bắc, Trung, Nam, khi nhắm
mắt xuôi tay thì xác thân đều sẽ rã mục hình hài làm xanh tươi cây
lá. Gió núi mưa rừng sẽ gột sạch máu xương. Chim chóc, muông thú sẽ
kéo về. Đời sống sẽ trở lại, thôn ấp xóm nhà, lũy tre, ruộng đồng,
cây trái, sẽ xóa mờ đi vết tích chiến tranh. Tôi nằm đong đưa trên
võng chập chờn nghĩ tới vợ con, để biết mình vừa sống còn qua trận
chiến.
Với mấy trăm xác địch nằm ngổn ngang khắp nơi trên chiến địa. Đại
liên phòng không, cối 82, B40, B41, đại bác không giật và hàng trăm
cây AK sắp đầy như củi trên 4 chiếc M548. Trung đoàn địch trấn giữ
Damber kể như bị xóa tên trên bản đồ trận liệt.
Dưới ánh nắng gay gắt, chói chang hầm hập nung người của xứ chùa
Tháp, mùi hôi của xương thịt người chết mắc kẹt trong xích xe bắt
đầu xông lên khó chịu.
- Hôi quá! Cả ngày ăn ngủ trên xe sao mấy anh chịu nổi!
- Thì cũng quen đi thôi!
Nói xong người lính Mũ đen rít hơi thuốc thơm Quân Tiếp vụ, từ từ
nhả khói giọng nặng chĩu u buồn.
- Chiến tranh mà! Mới đó mà tôi đã qua 8 năm chiến trận. Không biết
còn đánh nhau cho tới bao giờ! “Đi đêm mãi chắc cũng có ngày gặp
ma”!
Tiếng máy truyền tin oang oang chuyển lệnh cho đoàn quân rời vùng,
tiếp tục hành quân giải tỏa liên tỉnh lộ 7. Mấy con quạ đen cất
tiếng kêu quang quác, đang đứng rỉa lông trên nòng cây đại bác cong
queo, cạnh vòng hoa kẽm gai trên mấy chiếc chiến xa cháy đen ngoài
cánh đồng.
Đã hơn hai tháng miệt mài trong lửa đạn. Tôi đang nhớ Sài Gòn, nhớ
vợ con. Nhớ dàn hoa giấy đỏ trước nhà, và những con chim gi, chim
chích chòe mỏ đỏ, cánh đen bay chuyền trong buổi trưa hè. Tự nhiên
tôi thèm tô phở, ly cà phê, hơi thuốc. Nơi cuối trời, bếp lửa gia
đình mờ mịt cuối phưong Nam...
***
Chiến tranh càng ngày càng nghiệt ngã. Quê hương, sông núi quặn chìm
trong bom đạn. Tuổi trẻ miền Nam hết lớp này đến lớp khác gục ngã,
hy sinh trên núi trên rừng, trên ruộng trên nương... lấy xương trắng
máu đào để bảo vệ miền Nam.
Sau chiến thắng Damber, hơn nửa năm sau, một số bạn bè, đệ-huynh
trong trận chiến này đã lần lượt hy sinh trong mùa Hè bão lửa 1972.
Tháng 12/4/1972 Trung tá Nguyễn Đình Bảo vĩnh viễn nằm lại trên đỉnh
Charlie vùng ba biên giới quân khu II, sau một tuần lễ tử chiến đẫm
máu với 2 Trung đoàn 64 và 48 của Sư đoàn 320 cộng quân.
Đại úy Hoàng Ngọc Hùng ĐĐT ĐĐ112/TĐ11ND hy sinh ngay trước sân nhà,
nơi anh cất tiếng khóc chào đời, sống những ngày ấu thơ êm đềm ngoài
Quảng Trị. Trong trận chiến tái chiếm Cổ Thành 6/1972.
Chi đoàn Trưởng Thiết Kỵ “Phi Điểu” hy sinh trong trận ác chiến tại
đồn điền Krek, Kampuchia.
Chi đoàn Trường Chiến xa Bắc Đẩu chiến đấu tới hơi thở cuối cùng tại
Hải Lăng!
Hình ảnh các anh như đang sống lại trong tôi khi cùng nhau xông pha
trận mạc.
Xin thắp nén hương lòng để tưỏng nhớ các Anh.
Trận chiến đã nằm sâu, phai nhạt dần theo tuổi đời, năm tháng, thời
gian từ hơn một phần tư thế kỷ. Nhưng vì “Nhớ bạn bè, nhớ anh em”,
nên người viết cố ghi lại hình ảnh đệ-huynh của một thời chiến
trường xưa cũ. Xin lượng tình tha thứ nếu như có điều gì sơ sót.
Đoàn Phương Hải
TĐ11ND/SĐND QLVNCH
Biên Hùng chuyển