Văn Học & Nghệ Thuật
Một người Ôsin làm thơ
Người đàn bà trong bài viết này là một bất ngờ đối với tôi trong những ngày tôi dự Liên hoan thơ Đài Bắc. Chuyến đi của tôi được Hội đồng Anh ở Hà Nội tài trợ. Ngay buổi chiều vừa đặt chân đến Đài Bắc,
( nhân Ngày thơ Việt Nam )
Chị Phạm Thị Tường đọc thơ ở Đài Bắc |
Người đàn bà trong bài viết này là một bất ngờ đối với tôi trong những
ngày tôi dự Liên hoan thơ Đài Bắc. Chuyến đi của tôi được Hội đồng Anh ở
Hà Nội tài trợ. Ngay buổi chiều vừa đặt chân đến Đài Bắc, Ban tổ chức
đã đưa cho tôi tập tuyển thơ của các tác giả tham dự Liên hoan thơ in
bằng hai thứ tiếng : Anh và Hoa. Trong đó có một số bài thơ của các tác
giả mà tuyển tập ghi rõ : Thơ của các tác giả là người lao động nước
ngoài. Tôi đọc thấy một cái tên : Pham Thi Tuong. Tôi biết đó là tên của
một người Việt Nam. Nhưng tôi chẳng có thêm thông tin gì về con người
có cái tên này.
Và cho đến ngày cuối cùng của Liên hoan Thơ thì tôi gặp người có cái tên
ấy. Đó là một người đàn bà Việt Nam đang giúp việc cho một gia đình ở
Đài Bắc. Chị tên là Phạm Thị Tường. Khi người đề dẫn chương trình buổi
đọc thơ bế mạc Liên hoan Thơ giới thiệu chị lên đọc thơ thì tôi mới biết
chị có ở đó. Một người phụ nữ trạc ngoài 40 tuổi vẻ thùy mị, mỉm cười
và bước lên sân khấu. Chị giới thiệu về bản thân mình bằng tiếng Hoa.
Rồi chị ngâm bài thơ do chị sáng tác. Đây là cách ngâm thơ truyền thống
của Việt Nam. Bài thơ nói về hai người mẹ : một người mẹ Việt và một
người mẹ Đài Loan mà trong thơ chị dùng chữ mẹ Đài.
Đây là một trong những lần nghe đọc thơ để lại trong tôi một ấn tượng lạ
lùng. Thơ của một người giúp việc cho một gia đình Đài Bắc. Những người
như thế chúng ta vẫn thường gọi bằng danh từ : Ôsin. Chúng ta đã nghe
quá nhiều chuyện về số phận của những người phụ nữ Việt Nam làm Ôsin cho
các gia đình ở Đài Loan. Có người bị đánh đập. Có người bị xỉ nhục. Có
người bị lừa gạt. Và hình như, chúng ta chưa bao giờ nghe nói một câu
chuyện có hậu về những người phụ nữ Việt nam đi làm thuê này. Bởi thế
khi một người làm thuê bước lên một sân khấu của một trung tâm văn hóa
lớn với những những chùm đèn rực rỡ làm tôi choáng váng. Chuyện như thế
này đã từng xẩy ra ở đâu chưa ?. Tôi chưa bao giờ nghe nói. Nếu tôi làm
trong Ban tổ chức của một đêm thơ hay một ngày thơ ở Việt Nam, tôi có
dám trân trọng in thơ của một người giúp việc trong tuyển tập và mời họ
lên đọc thơ cùng với những nhà thơ danh tiếng không ? Tôi phải thú thực
thừa nhận rằng : tôi sẽ không làm được thế. Một điều mà chúng ta phải
thừa nhận rằng : chúng ta vẫn coi thơ ca là một là đặc khu và một đặc
quyền của những người có tên gọi nhà thơ. Vì cái gọi là đặc khu và đặc
quyền này mà sinh ra sự tranh giành hơn thiệt. Có lẽ đó cũng là một lý
do làm cho thơ ca của chúng ta vẫn chưa thực sự trở thành thiêng liêng
như chúng ta vẫn rao giảng. Bởi thơ ca phải được lan toả trong mọi nơi
của đời sống con người kể cả những nơi tăm tối và hèn kém nhất.
Tôi đã đến chào chị khi chị ngâm xong bài thơ. Sau buổi đọc thơ bế mạc,
những bạn bè Đài Loan rủ tôi đi uống cà phê và ăn tối. Tôi mời chị cùng
đi để có thời gian nói chuyện với chị. Nhưng chị xin lỗi và từ chối. Chị
phải trở về nhà chủ trước bảy giờ tối. Đấy là quy định của gia chủ.
Chúng tôi chỉ có dăm phút hỏi thăm về nhau.
Phạm Thị Tường quê ở Hà Tĩnh. Nhà chị ở nông trường Thanh Hà. Chị đã
đăng ký sang Đài Loan giúp việc cho một gia đình ở Đài Bắc. Mươi năm trở
lại đây, Đài Loan có nhu cầu thuê người giúp việc từ Việt Nam sang. Vì
giá trả cho người giúp việc Việt Nam lúc nào cũng rẻ hơn rất nhiều so
với trả cho một người Đài Loan. Chị nói với tôi chị là một người may mắn
vì giúp việc cho một gia đình tử tế. Bà mẹ của gia đình Đài Loan này
cho đến giờ yêu quí chị như con gái của mình. Chị đã làm việc với một
tinh thần và một ý thức cao nhất và đã tranh thủ các buổi tối để học
tiếng Hoa. Chính vì vốn tiếng Hoa mà chị đã chiếm được cảm tình của gia
chủ.
Trước khi đến Đài Bắc làm Ôsin, Tường là công nhân Nông trường Thạch
Ngọc , Thạch Hà, Hà Tĩnh. Rồi chị về nghỉ chế độ. Trong khi đó, chồng
chị ốm yếu và các con còn nhỏ. Chị quyết định ra đi. Bây giờ, cứ ba
tháng gia đình Đãi Bắc trả lương chị một lần. Chị lại ra ngân hàng gửi
vào tài khoản của chị. Số tiền lương chị cũng phải chi khoảng 50% cho
những nơi môi giới. Nhưng chị thấy hạnh phúc. Vì ở Việt Nam chị không
bao giờ kiếm được một việc làm với số lương như vậy. Và vui hơn nữa, chị
tìm thấy niềm tin và tình người trong gia đình Đài Bắc ấy. Phạm Thị
Tường hạnh phúc nói rằng chị là một người may mắn. Chị giúp việc cho một
một gia đình trí thức Đài Bắc. Khó khăn nhất của chị là ngôn ngữ. Nhưng
bây giờ chị nói tiếng Hoa khá thành thạo. Chị là người giỏi nội trợ và
sống tình cảm. Chính thế mà chị đã chiếm được cảm tình của gia đình Đài
Bắc kia. Chị thường xuyên nấu những món ăn Việt Nam cho họ. Chị nấu cả
món giả cầy nữa. Đến bây giờ, các thành viên trong gia đình Đài Bắc khó
có thể bỏ được những món ăm Việt Nam chị nấu. Chị đã tìm được niềm vui ở
một chốn xa lạ.
Trong những lúc rảnh rỗi, Phạm Thị Tường lại làm thơ để bớt nối nhớ
chồng, nhớ con. Chị đã gửi thơ đến Liên hoan Thơ Đài Bắc và thơ chị được
Ban tổ chức chọn dịch sang tiếng Hoa và xuất bản trong tuyển tập. Tôi
thực sự ngạc nhiên về điều này nhưng cũng hiểu vì sao người ta làm như
vậy. Người ta đã in thơ của một người giúp việc mà ở Việt Nam chúng ta
gọi là Osin trong tuyển tập thơ cùng với những nhà thơ tên tuổi của Đài
Loan và quốc tế. Còn với Phạm Thị Tường, chị nói với tôi rằng mặc cảm
của một người giúp việc đã vơi đi rất nhiều trong chị khi thơ chị được
in trong tuyển tập và chị được mời đến đọc thơ trong một buổi đọc thơ
trang trọng như thế. Chị nói với tôi khi đến Đài Loan thì chị phát hiện
ra chị có những khả năng mà khi ở nhà chị không bao giờ nghĩ chị có thể
làm được những điều ấy.
Chị nói với tôi còn vài tuần nữa là chị hết hợp đồng. Nhưng gia đình ở
Đài Bắc mong muốn chị quay trở lại với họ. Chị đã quyết định ký tiếp hợp
đồng ba năm nữa. Chị sẽ về Việt Nam thăm gia đình chừng một tháng và
sau đó quay trở lại Đài Bắc. Chị cần có một thu nhập tốt và hơn nữa,
tình cảm chị đã có nhiều sâu nặng với gia đình Đài Bắc mà chị giúp việc.
Đối với chị bây giờ có một thứ mà chị không thể nào bỏ được đó là làm
thơ. Đối với đời sống cơm áo gạo tiền thì thơ ca hoàn toàn vô dụng.
Nhưng khi một con người hoang mang không biết họ là ai nữa và không biết
phải làm gì thì thơ ca chân chính bước đến và đưa cho họ một chiếc chìa
khóa.
Nguyễn Quang Thiều
(FB Nguyễn Quang Thiều)
Bàn ra tán vào (0)
Một người Ôsin làm thơ
Người đàn bà trong bài viết này là một bất ngờ đối với tôi trong những ngày tôi dự Liên hoan thơ Đài Bắc. Chuyến đi của tôi được Hội đồng Anh ở Hà Nội tài trợ. Ngay buổi chiều vừa đặt chân đến Đài Bắc,
( nhân Ngày thơ Việt Nam )
Chị Phạm Thị Tường đọc thơ ở Đài Bắc |
Người đàn bà trong bài viết này là một bất ngờ đối với tôi trong những
ngày tôi dự Liên hoan thơ Đài Bắc. Chuyến đi của tôi được Hội đồng Anh ở
Hà Nội tài trợ. Ngay buổi chiều vừa đặt chân đến Đài Bắc, Ban tổ chức
đã đưa cho tôi tập tuyển thơ của các tác giả tham dự Liên hoan thơ in
bằng hai thứ tiếng : Anh và Hoa. Trong đó có một số bài thơ của các tác
giả mà tuyển tập ghi rõ : Thơ của các tác giả là người lao động nước
ngoài. Tôi đọc thấy một cái tên : Pham Thi Tuong. Tôi biết đó là tên của
một người Việt Nam. Nhưng tôi chẳng có thêm thông tin gì về con người
có cái tên này.
Và cho đến ngày cuối cùng của Liên hoan Thơ thì tôi gặp người có cái tên
ấy. Đó là một người đàn bà Việt Nam đang giúp việc cho một gia đình ở
Đài Bắc. Chị tên là Phạm Thị Tường. Khi người đề dẫn chương trình buổi
đọc thơ bế mạc Liên hoan Thơ giới thiệu chị lên đọc thơ thì tôi mới biết
chị có ở đó. Một người phụ nữ trạc ngoài 40 tuổi vẻ thùy mị, mỉm cười
và bước lên sân khấu. Chị giới thiệu về bản thân mình bằng tiếng Hoa.
Rồi chị ngâm bài thơ do chị sáng tác. Đây là cách ngâm thơ truyền thống
của Việt Nam. Bài thơ nói về hai người mẹ : một người mẹ Việt và một
người mẹ Đài Loan mà trong thơ chị dùng chữ mẹ Đài.
Đây là một trong những lần nghe đọc thơ để lại trong tôi một ấn tượng lạ
lùng. Thơ của một người giúp việc cho một gia đình Đài Bắc. Những người
như thế chúng ta vẫn thường gọi bằng danh từ : Ôsin. Chúng ta đã nghe
quá nhiều chuyện về số phận của những người phụ nữ Việt Nam làm Ôsin cho
các gia đình ở Đài Loan. Có người bị đánh đập. Có người bị xỉ nhục. Có
người bị lừa gạt. Và hình như, chúng ta chưa bao giờ nghe nói một câu
chuyện có hậu về những người phụ nữ Việt nam đi làm thuê này. Bởi thế
khi một người làm thuê bước lên một sân khấu của một trung tâm văn hóa
lớn với những những chùm đèn rực rỡ làm tôi choáng váng. Chuyện như thế
này đã từng xẩy ra ở đâu chưa ?. Tôi chưa bao giờ nghe nói. Nếu tôi làm
trong Ban tổ chức của một đêm thơ hay một ngày thơ ở Việt Nam, tôi có
dám trân trọng in thơ của một người giúp việc trong tuyển tập và mời họ
lên đọc thơ cùng với những nhà thơ danh tiếng không ? Tôi phải thú thực
thừa nhận rằng : tôi sẽ không làm được thế. Một điều mà chúng ta phải
thừa nhận rằng : chúng ta vẫn coi thơ ca là một là đặc khu và một đặc
quyền của những người có tên gọi nhà thơ. Vì cái gọi là đặc khu và đặc
quyền này mà sinh ra sự tranh giành hơn thiệt. Có lẽ đó cũng là một lý
do làm cho thơ ca của chúng ta vẫn chưa thực sự trở thành thiêng liêng
như chúng ta vẫn rao giảng. Bởi thơ ca phải được lan toả trong mọi nơi
của đời sống con người kể cả những nơi tăm tối và hèn kém nhất.
Tôi đã đến chào chị khi chị ngâm xong bài thơ. Sau buổi đọc thơ bế mạc,
những bạn bè Đài Loan rủ tôi đi uống cà phê và ăn tối. Tôi mời chị cùng
đi để có thời gian nói chuyện với chị. Nhưng chị xin lỗi và từ chối. Chị
phải trở về nhà chủ trước bảy giờ tối. Đấy là quy định của gia chủ.
Chúng tôi chỉ có dăm phút hỏi thăm về nhau.
Phạm Thị Tường quê ở Hà Tĩnh. Nhà chị ở nông trường Thanh Hà. Chị đã
đăng ký sang Đài Loan giúp việc cho một gia đình ở Đài Bắc. Mươi năm trở
lại đây, Đài Loan có nhu cầu thuê người giúp việc từ Việt Nam sang. Vì
giá trả cho người giúp việc Việt Nam lúc nào cũng rẻ hơn rất nhiều so
với trả cho một người Đài Loan. Chị nói với tôi chị là một người may mắn
vì giúp việc cho một gia đình tử tế. Bà mẹ của gia đình Đài Loan này
cho đến giờ yêu quí chị như con gái của mình. Chị đã làm việc với một
tinh thần và một ý thức cao nhất và đã tranh thủ các buổi tối để học
tiếng Hoa. Chính vì vốn tiếng Hoa mà chị đã chiếm được cảm tình của gia
chủ.
Trước khi đến Đài Bắc làm Ôsin, Tường là công nhân Nông trường Thạch
Ngọc , Thạch Hà, Hà Tĩnh. Rồi chị về nghỉ chế độ. Trong khi đó, chồng
chị ốm yếu và các con còn nhỏ. Chị quyết định ra đi. Bây giờ, cứ ba
tháng gia đình Đãi Bắc trả lương chị một lần. Chị lại ra ngân hàng gửi
vào tài khoản của chị. Số tiền lương chị cũng phải chi khoảng 50% cho
những nơi môi giới. Nhưng chị thấy hạnh phúc. Vì ở Việt Nam chị không
bao giờ kiếm được một việc làm với số lương như vậy. Và vui hơn nữa, chị
tìm thấy niềm tin và tình người trong gia đình Đài Bắc ấy. Phạm Thị
Tường hạnh phúc nói rằng chị là một người may mắn. Chị giúp việc cho một
một gia đình trí thức Đài Bắc. Khó khăn nhất của chị là ngôn ngữ. Nhưng
bây giờ chị nói tiếng Hoa khá thành thạo. Chị là người giỏi nội trợ và
sống tình cảm. Chính thế mà chị đã chiếm được cảm tình của gia đình Đài
Bắc kia. Chị thường xuyên nấu những món ăn Việt Nam cho họ. Chị nấu cả
món giả cầy nữa. Đến bây giờ, các thành viên trong gia đình Đài Bắc khó
có thể bỏ được những món ăm Việt Nam chị nấu. Chị đã tìm được niềm vui ở
một chốn xa lạ.
Trong những lúc rảnh rỗi, Phạm Thị Tường lại làm thơ để bớt nối nhớ
chồng, nhớ con. Chị đã gửi thơ đến Liên hoan Thơ Đài Bắc và thơ chị được
Ban tổ chức chọn dịch sang tiếng Hoa và xuất bản trong tuyển tập. Tôi
thực sự ngạc nhiên về điều này nhưng cũng hiểu vì sao người ta làm như
vậy. Người ta đã in thơ của một người giúp việc mà ở Việt Nam chúng ta
gọi là Osin trong tuyển tập thơ cùng với những nhà thơ tên tuổi của Đài
Loan và quốc tế. Còn với Phạm Thị Tường, chị nói với tôi rằng mặc cảm
của một người giúp việc đã vơi đi rất nhiều trong chị khi thơ chị được
in trong tuyển tập và chị được mời đến đọc thơ trong một buổi đọc thơ
trang trọng như thế. Chị nói với tôi khi đến Đài Loan thì chị phát hiện
ra chị có những khả năng mà khi ở nhà chị không bao giờ nghĩ chị có thể
làm được những điều ấy.
Chị nói với tôi còn vài tuần nữa là chị hết hợp đồng. Nhưng gia đình ở
Đài Bắc mong muốn chị quay trở lại với họ. Chị đã quyết định ký tiếp hợp
đồng ba năm nữa. Chị sẽ về Việt Nam thăm gia đình chừng một tháng và
sau đó quay trở lại Đài Bắc. Chị cần có một thu nhập tốt và hơn nữa,
tình cảm chị đã có nhiều sâu nặng với gia đình Đài Bắc mà chị giúp việc.
Đối với chị bây giờ có một thứ mà chị không thể nào bỏ được đó là làm
thơ. Đối với đời sống cơm áo gạo tiền thì thơ ca hoàn toàn vô dụng.
Nhưng khi một con người hoang mang không biết họ là ai nữa và không biết
phải làm gì thì thơ ca chân chính bước đến và đưa cho họ một chiếc chìa
khóa.
Nguyễn Quang Thiều
(FB Nguyễn Quang Thiều)