Đoạn Đường Chiến Binh
NHỚ CHIẾN TRƯỜNG XƯA - BÀI 5 - KÝ SỰ - Trần Văn Ngà
CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM:
1966: TRẠI LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT A SHAU BỊ CỘNG QUÂN TRÀN NGẬP
NHẬN ĐỊNH CHUNG CỦA QUÂN ĐỘI MỸ
Chiến trường Việt Nam đã thật sự leo thang từ tháng 11 năm 1965 ở Vùng II Chiến Thuật qua trận Ia Drang. Trại Lực Lượng Đặc Biệt A Shau thuộc Vùng I Chiến Thuật bị quân chính quy CSBV tràn ngập, thất thủ tháng 3 năm 1966. Năm 1968, đại quân CSBV bao vây Khe Sanh và người ta - các nhà báo quốc tế ví cuộc bao vây này của CSBV như là cuộc bao vây quân viễn chinh Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ - Miền Bắc VN, năm 1954 của Việt Minh, đi đến kết thúc chiến tranh Đông Dương qua Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954. Cả 2 bên Mỹ và CSBV đều có quyết tâm trong cuộc đọ sức đẩm máu trận Khe Sanh lịch sử để gây tiếng vang trên chính trường thế giới và cũng có thể chấm dứt sớm chiến tranh như trận Điện Biên Phủ năm 1954?. Mỹ sử dụng tối đa hỏa lực phi pháo cùng nguyên Sư Đòan 1 Không Kỵ hiện đại nhất của quân Mỹ lúc bấy giờ, với 20 ngàn quân cùng với trên 500 chiếc trực thăng cơ hữu. Cộng quân sử dụng tại chiến trường này bằng luân xa chiến, ít nhứt 3 sư đoàn chính quy từ Bắc xâm nhập (Tôi sẽ có 1 bài viết khác, dựa vào Vietnam Magazine số October 2015, với cái tít: A Valley A Shau soaked in RAIN & BLOOD của phóng viên chiến trường Mike D. Shepherd).
Đối với Quân Đội Mỹ, chiến trường Việt Nam là một chiến trường biến hóa vô lường mà Quân đội Mỹ - một Quân Đội nhà giàu, "lính cậu" lại tự kiêu chủ quan khinh địch nên khi mới đặt chân đến chiến trường Việt Nam lạ lẫm, bất ngờ thành đội quân, thường bị động trên chiến trường. Từ trận đánh lớn đầu tiên ở Cao nguyên trong 5 ngày, từ 14 đến 18 tháng 11 năm 1965 - trận Ia Drang, với tổn thật khá cao 234 chiến sĩ Mỹ tử trận, 245 bị thương, 4 mất tích. Quân chính quy CSBV, theo công bố của Mỹ có trên 1 ngàn cộng quân chết...Về trực thăng có 4 chiếc bị bắn hạ, 55 chiếc khác bị bắn hư hại, dù quân Mỹ đã sử dụng 740 phi vụ tác chiến yễm trợ cùng với 96 phi vụ B52, lần đầu tiên trên chiến trường mới Việt Nam, trải thảm bom xuống rặng núi Chu Pong và xung quanh căn cứ hỏa lực X Ray và Albany. Với tổn thất này được quân chính quy CSBV chào đón quân Mỹ bằng 1 trận đia chiến khốc liệt mà Mỹ không ngờ tới. Tại chính quốc Mỹ, cho đây là một tổn thất đầu tiên quá nặng ngoài sự tưởng tượng của nhiều người, đã gây xôn xao dư luận ở khắp nước Mỹ. Vì họ tin rằng với các phương tiện chiến tranh tối tân nhứt của thế giới thời bây giờ với một quân đội khổng lồ về mọi mặt khi đến chiến trường Việt Nam sẽ thu gặt chiến thắng như thọt tay lấy đồ trong túi vậy. Lúc bấy giờ, một số chính trị gia hay các nhà hoạch định chính sách Mỹ cứ tưởng quân đội Mỹ với sự tối ưu mọi phương tiện chiến tranh và "tiền rừng bạc biển"của 1 đại siêu cường quốc, đứng đầu thế giới, khi đưa đại quân tới chiến trường mà đối phương lại nghèo khổ, thiếu thốn đủ mọi thứ, dân chúng miền Bắc VN lầm than khốn khó. Nhứt là phương tiện chiến tranh, máy bay, tàu chiến...CSBV không có nhiều ở Miền Bắc và không có xuất hiện ở chiến trường Miền Nam, Quân đội Mỹ sẽ đè bẹp, tha hồ tiêu diệt dễ dàng từ 1 đến 2 năm hay 3 năm là cùng.
Chiến tranh Việt Nam, kéo dài đến năm 1968, sau 3 năm trực tiếp chiến đấu, quân Mỹ đã ngốn ngân sách quốc phòng hàng bao nhiêu tỷ và có hàng ngàn lính Mỹ tử trận mà cuộc chiến tranh VN chưa biết bao giờ kết thúc. Phong trào phản chiến Mỹ đã nhen nhúm từ sau sự chiến bại đẫm máu của quân Mỹ tháng 11 năm 1965 tại Ia Drang, nay đã dần dần lớn lên. Sau cuộc Tổng Tấn Công và Nổi dậy của CSBV Tết Mậu Thân - năm 1968, phong trào phản chiến đã trổi dậy mãnh liệt trên khắp nước Mỹ, đặc biệt là tại các trường đại học danh tiếng của Mỹ với bao nhiêu cuộc xuống đường rầm rộ thường xuyên chống Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Và các cuộc chống đối, phản chiến này lây lan sang các nước phương tây và thế giới. Trước đây, chiến trường VN chỉ có ở rừng núi, địa thế hiểm trở hay các làng mạc xa xôi, tiền đồn heo hút. Đến năm 1968, CSBV đưa chiến trường vào thành phố, thị xã, tỉnh lỵ ngay cả Thủ đô Sàigòn của VNCH, Tòa Đại Sứ Mỹ , thành phố cổ Huế và hàng chục tỉnh lỵ, thị xã... Khắp 4 vùng chiến thuật đều đồng loạt bị tấn công, dù sau đó CSBV bị quân Việt Mỹ và đồng minh đánh trả mãnh liệt gây tổn thất vô cùng lớn lao cho quân CSBV và VC. Hầu hết các cơ sở nằm vùng của CS ở Miền Nam đều bị lộ diện, phải rút chạy vào bưng biền.. Sự kiện này, CSBV dù thua đậm về phương diện quân sự với tổn thất khắp các mặt trận rất nặng nề. Nhưng, CSBV đã giáng một đòn chính trị chí tử vào chính thể VNCH và Chính phủ Mỹ, CSBV đã thu gặt chiến thắng vẻ vang về mặt tuyên truyền, ngoại giao, chính trị trên các diễn đàn quồc tế và quan trọng nhứt là tại chính quốc Hoa Kỳ. Sự kiện này đã thúc đẩy mạnh mẽ, đưa phong trào phản chiến Mỹ lên cao tột đỉnh , có cơ hội kích động lòng dân Mỹ chống lại chiến tranh ở VN bằng mọi giá. Cuộc chiến VN đã thật sự sa lầy, Mỹ bị ràng buộc quyền lợi với 2 siêu cường cộng sản Tàu và Liên Sô nên Mỹ bị cột tay, không thể tốc chiến tốc thắng CSBV mà người dân Mỹ phải hy sinh xương máu càng ngày càng lên cao và tổn phí ngân sách quốc phòng càng ngày càng chồng chất nhiều, bất tận...
Cái gì đến tất phải đến, Hoa Kỳ đi đêm với Trung cộng để chấm dứt chiến tranh VN càng sớm càng tốt và Hoa Kỳ đưa được tù binh trở về cố quốc. Cuộc chiến VN kết thúc bi thảm cho Miền Nam VN - chính thể VNCH bị sụp đổ toàn diện từ ngày 30.4.1975. CSBV cũng như Mỹ đều chiến thắng trên phương diện nào đó như họ mong muốn, tự thỏa mãn.
TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ NĂM 1966
Sau 6 tháng (từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1965), quân Mỹ ồ ạt tự do đổ quân lên bãi biển Đà Nẵng chuẩn bị cho cuộc chiến mới tại VN, cũng là thời gian quân CSBV điều nghiên kỹ tại các chiến trường. Nhìn chung, trận địa nào mà cộng quân thiếu chuẩn bị địa hình, quân số ít chúng luôn lẩn trốn, tránh né đụng độ (áp dụng chiến thuật du kích chiến). Cộng quân phải có số quân áp đảo, đông nhiều hơn đối phương ít nhứt gấp 3 lên đến gấp 5 gấp 10. Một điều dễ hiểu, lúc bấy giờ, di chuyển quân, CS thường dùng phương cách "bôn tập" đi thật nhanh hoặc chạy bộ (sức người có hạn) luồn lách trong rừng núi, địa hình hiểm trở, ngụy trang che giấu khi di chuyển để kịp tiếp viện hay đến vị trí chọn lựa được chuẩn bị trước để mai phục...Cộng quân vừa tiến hành chiến thuật du kích chiến vừa là vận động chiến bằng sức người, chưa đủ sức trực diện chiến đấu với quân đồng minh, vì quân Mỹ giàu về hỏa lực phi pháo yễm trợ, di chuyển quân cực nhanh bằng trực thăng hay máy bay vận tải... đến trận địa.
Cái yếu điểm nhứt của Quân Đội Mỹ hay nói chung là người dân Mỹ là sợ chết vì là con nhà giàu, công tử, dù có hỏa lực mạnh, di chuyển nhanh gấp nhiều lần so với đối phương khi phải ra trận đánh đấm. Vì sự quý trọng sinh mạng cho nên bất cứ cuộc hành quân nào của quân Mỹ cũng đều lệ thuộc vào phi pháo mở đầu cuộc chiến, dọn đường cho bộ chiến tấn chiếm mục tiêu như là báo trước cho cộng quân biết sẽ có cuộc hành quân đổ xuống khu vực đó, đánh mất yếu tố bất ngờ, bí mật. Suốt gần 6 tháng đầu tiên từ tháng 4.65, đại quân Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng, các đơn vị được phân bổ đi các chiến trường vùng Cao Nguyên hay Vùng I Chiến Thuật, kể cả Vùng III Chiến Thuật, luôn có những cuộc hành quân lùng và diệt địch của tất cả đơn vị Mỹ khi đã đến VN mà vẫn không chạm địch mạnh. Lúc bấy giờ, quân CS còn ít, yếu thế, các đơn vị lớn chủ lực chính quy, chưa di chuyển nhiều từ Bắc vượt theo đường mòn Hồ Chí Minh và khu phi quân sự vào Nam. Khi các đại đơn vị chủ lực chính quy, thiện chiến của CSBV đã hiện diện đông đảo tại Vùng I và Vùng II Chiến Thuật, CSBV mới dám thử lửa với quân Mỹ. Đây là trận địa chiến có mục tiêu hiện rõ trên bản đồ. Còn trước đó, đối với các đơn vị nhỏ hay địa phương, cộng quân luôn di chuyển, phân tán mỏng, khi ẩn khi hiện. Trên phóng đồ hành quân chỉ ghi dấu là khu rừng núi, đồng ruộng hay làng mạc mà cộng quân đang đóng quân (ẩn trú) chiều hôm trước cộng quân tập trung xuất hiện đông đảo được tình báo khẩn báo về cơ quan chỉ huy và nơi đây đã hoạch định ngay cuộc hành quân cho sáng hôm sau, cũng trải qua hơn 10 tiếng đồng hồ. Cộng quân có thể di chuyển ngay ban đêm, cách địa điểm cũ 5, 10 cây số hay xa hơn nữa né tránh hay bố trí trận địa mới để "dụ địch" vào trận địa mà cộng quân bày binh bố trận sẵn có thể thắng hoặc "địch" không tới, cộng quân cũng bảo toàn lực lượng chờ cơ hội thuận tiện khác...
Ngày nay, dưới con mắt của những người từng trải chiến đấu, có tầm nhìn chiến thuật, chiến lược, những thức giả am hiểu tình thế, sở trường sở đoản của quân Mỹ, CSBV và VNCH trong cuộc chiến ý thức hệ quốc cộng 30 năm ở VN. Nếu chỉ để QLVNCH đối chọi với đạo quân đông đảo của CSBV, Mỹ và quân đồng minh khác đứng ngoài vòng chiến, chỉ yễm trợ tối đa phương tìện chiến tranh: súng tốt, đạn nhiều, phi pháo dồi dào, đời sống gia đình người lính được bảo đảm, CSBV không tài nào mà chiếm được Miền Nam VN. Ai cũng biết, quân CSBV nghèo khổ rớt mồng tơi và thiếu thốn dù được Tàu cộng và Liên Sô hà hơi tiếp sức, chỉ có giúp nhiều phương tiện chiến tranh. Trong khi đó, QLVNCH trang bị đầy đủ và được trui rèn huấn luyện tốt như một quân đội chính quy hiện đại với đầy đủ cơ giới, máy bay, tàu chiến các loại, pháo binh, súng đạn được tiếp tế nhanh chóng dồi dào.... Ai cũng thấy, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, sau năm 1956, Cố vấn Mỹ chỉ có 800 người mà QLVNCH luôn làm chủ chiến trường, chiến thắng và chiến thắng liên tục dù quy mô chưa lớn như sau này. Hơn nữa, QLVNCH đã chận đứng được nguồn tiếp vận về người và vũ khí từ miền Bắc tuồn vào chiến trường Miền Nam. Với Quốc Sách Ấp Chiến Lược đã vô hiệu hóa sự xâm nhập của cán bộ CS vào sống lẫn lộn với dân chúng, chặn được nguồn tiếp tế quan trọng này của CS. Đến cuối năm 1964, Cố Vấn Mỹ tăng lên 23 ngàn người, chiến tranh chưa leo thang cao. Từ năm 1965 đến năm 1967, ngoài Cố Vấn Mỹ ở các đơn vị từ cấp Tiểu đoàn trở lên và nhiều đại đơn vị Mỹ đến VN, tính chung lên 485 ngàn người. Đến năm 1968, con số này vượt trên 550 ngàn quân Mỹ, nếu tính cả các đơn vị đồng minh khác, quân "ngoại nhập" - không phải QLVNCH lên gần 600 ngàn người. Chưa kể, sau vụ CSBV mở chiến dịch với cái gọi là tổng công kích tổng nổi dậy Tết Mâu Thân - 1968, Chính Phủ VNCH có lệnh tổng động viên, đưa quân số QLVNCH lên trên 1 triệu 100 ngàn quân nhằm đối phó với sự gia tăng khủng khiếp quân số chính quy của CSBV tràn ngập các chiến trường Miền Nam VN.
Tháng 11 năm 1965, trận chiến Ia Drang ở Vùng II Chiến Thuật đã đi vào quân sử Mỹ với một sự thảm bại của 1 tiều đoàn bộ binh, có 400 quân tham chiến mà vừa chết và bị thương suýt soát 300 người, dù sau đó quân Mỹ vẫn chiến thắng. Kế tiếp năm 1966, trận chiến khốc liệt khác là Trận đánh Thung lũng A Shau mà quân chính quy CSBV đã tràn ngập chiếm được căn cứ. Trại Lực Lượng Đặc Biệt A Shau với 2 đại đội dân sự chiến đấu, trên 400 quân, đa số là người Nùng, 17 chiến sĩ Mũ Xanh Mỹ cùng trên 10 thông dịch viên...
Chiến trường VN thật sự sôi động khi 2 quân đội chính quy Mỹ và CSBV đổ quân ồ ạt vào chiến trường VN với các loại vũ khí hiện tại tối tân của Mỹ và cuả khối CS quốc Tế Nga Tàu. Trong khi đó, QLVNCH vẫn còn sử dụng những loại vũ khí "tàn dư" của thời Đệ Nhị Thế Chiến (1939 - 1945) và Chiến tranh Cao Ly (1950 - 1953), mãi cho đến trận chiến Tết Mậu Thân - 1968, chính phủ Mỹ mới viện trợ súng mới M16, thay thế súng Garant M1, Carbine M1 lỗi thời, Đại liên 30 được thay thế đại liên 50...Trực thăng "gìa khú đế" ì ạch nặng nề H21 gây tai nạn thường xuyên được thay thế HU1, kể cả chiến đấu cơ cánh quạt chậm chạp cũng được tăng cường thêm chiến đấu cơ phản lực F5, tàu chiến cũng vậy, toàn là loại tàu "second hand". Mỹ viện trợ những vũ khí, phương tiện chiến tranh loại cũ mèm, phế thải được tân trang đôi chút. Nếu chính sách viện trợ của Mỹ thật lòng giúp QLVNCH làm nổ lực chính để chiến đấu chống CSBV như cung cấp các phương tiện, vũ khí tối tân như các đơn vị Mỹ thì chắc chắn không có ngày Quốc Hận 30.4.1975 nhục nhã và đau buồn. (Đề tài này còn tiếp thêm 1 bài nữa).
Việt Nam Cộng Hòa ơi!
Trời đã sanh ra VNCH, sanh lầm thế kỷ, cầm tinh một ngôi sao xấu!!!.(còn tiếp 1 bài)
Trần Văn Ngà (Khóa 13 Thủ Đức - Email: tiengvangusa@yahoo.com & Tel: 916.519.8961)
Bàn ra tán vào (0)
NHỚ CHIẾN TRƯỜNG XƯA - BÀI 5 - KÝ SỰ - Trần Văn Ngà
CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM:
1966: TRẠI LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT A SHAU BỊ CỘNG QUÂN TRÀN NGẬP
NHẬN ĐỊNH CHUNG CỦA QUÂN ĐỘI MỸ
Chiến trường Việt Nam đã thật sự leo thang từ tháng 11 năm 1965 ở Vùng II Chiến Thuật qua trận Ia Drang. Trại Lực Lượng Đặc Biệt A Shau thuộc Vùng I Chiến Thuật bị quân chính quy CSBV tràn ngập, thất thủ tháng 3 năm 1966. Năm 1968, đại quân CSBV bao vây Khe Sanh và người ta - các nhà báo quốc tế ví cuộc bao vây này của CSBV như là cuộc bao vây quân viễn chinh Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ - Miền Bắc VN, năm 1954 của Việt Minh, đi đến kết thúc chiến tranh Đông Dương qua Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954. Cả 2 bên Mỹ và CSBV đều có quyết tâm trong cuộc đọ sức đẩm máu trận Khe Sanh lịch sử để gây tiếng vang trên chính trường thế giới và cũng có thể chấm dứt sớm chiến tranh như trận Điện Biên Phủ năm 1954?. Mỹ sử dụng tối đa hỏa lực phi pháo cùng nguyên Sư Đòan 1 Không Kỵ hiện đại nhất của quân Mỹ lúc bấy giờ, với 20 ngàn quân cùng với trên 500 chiếc trực thăng cơ hữu. Cộng quân sử dụng tại chiến trường này bằng luân xa chiến, ít nhứt 3 sư đoàn chính quy từ Bắc xâm nhập (Tôi sẽ có 1 bài viết khác, dựa vào Vietnam Magazine số October 2015, với cái tít: A Valley A Shau soaked in RAIN & BLOOD của phóng viên chiến trường Mike D. Shepherd).
Đối với Quân Đội Mỹ, chiến trường Việt Nam là một chiến trường biến hóa vô lường mà Quân đội Mỹ - một Quân Đội nhà giàu, "lính cậu" lại tự kiêu chủ quan khinh địch nên khi mới đặt chân đến chiến trường Việt Nam lạ lẫm, bất ngờ thành đội quân, thường bị động trên chiến trường. Từ trận đánh lớn đầu tiên ở Cao nguyên trong 5 ngày, từ 14 đến 18 tháng 11 năm 1965 - trận Ia Drang, với tổn thật khá cao 234 chiến sĩ Mỹ tử trận, 245 bị thương, 4 mất tích. Quân chính quy CSBV, theo công bố của Mỹ có trên 1 ngàn cộng quân chết...Về trực thăng có 4 chiếc bị bắn hạ, 55 chiếc khác bị bắn hư hại, dù quân Mỹ đã sử dụng 740 phi vụ tác chiến yễm trợ cùng với 96 phi vụ B52, lần đầu tiên trên chiến trường mới Việt Nam, trải thảm bom xuống rặng núi Chu Pong và xung quanh căn cứ hỏa lực X Ray và Albany. Với tổn thất này được quân chính quy CSBV chào đón quân Mỹ bằng 1 trận đia chiến khốc liệt mà Mỹ không ngờ tới. Tại chính quốc Mỹ, cho đây là một tổn thất đầu tiên quá nặng ngoài sự tưởng tượng của nhiều người, đã gây xôn xao dư luận ở khắp nước Mỹ. Vì họ tin rằng với các phương tiện chiến tranh tối tân nhứt của thế giới thời bây giờ với một quân đội khổng lồ về mọi mặt khi đến chiến trường Việt Nam sẽ thu gặt chiến thắng như thọt tay lấy đồ trong túi vậy. Lúc bấy giờ, một số chính trị gia hay các nhà hoạch định chính sách Mỹ cứ tưởng quân đội Mỹ với sự tối ưu mọi phương tiện chiến tranh và "tiền rừng bạc biển"của 1 đại siêu cường quốc, đứng đầu thế giới, khi đưa đại quân tới chiến trường mà đối phương lại nghèo khổ, thiếu thốn đủ mọi thứ, dân chúng miền Bắc VN lầm than khốn khó. Nhứt là phương tiện chiến tranh, máy bay, tàu chiến...CSBV không có nhiều ở Miền Bắc và không có xuất hiện ở chiến trường Miền Nam, Quân đội Mỹ sẽ đè bẹp, tha hồ tiêu diệt dễ dàng từ 1 đến 2 năm hay 3 năm là cùng.
Chiến tranh Việt Nam, kéo dài đến năm 1968, sau 3 năm trực tiếp chiến đấu, quân Mỹ đã ngốn ngân sách quốc phòng hàng bao nhiêu tỷ và có hàng ngàn lính Mỹ tử trận mà cuộc chiến tranh VN chưa biết bao giờ kết thúc. Phong trào phản chiến Mỹ đã nhen nhúm từ sau sự chiến bại đẫm máu của quân Mỹ tháng 11 năm 1965 tại Ia Drang, nay đã dần dần lớn lên. Sau cuộc Tổng Tấn Công và Nổi dậy của CSBV Tết Mậu Thân - năm 1968, phong trào phản chiến đã trổi dậy mãnh liệt trên khắp nước Mỹ, đặc biệt là tại các trường đại học danh tiếng của Mỹ với bao nhiêu cuộc xuống đường rầm rộ thường xuyên chống Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Và các cuộc chống đối, phản chiến này lây lan sang các nước phương tây và thế giới. Trước đây, chiến trường VN chỉ có ở rừng núi, địa thế hiểm trở hay các làng mạc xa xôi, tiền đồn heo hút. Đến năm 1968, CSBV đưa chiến trường vào thành phố, thị xã, tỉnh lỵ ngay cả Thủ đô Sàigòn của VNCH, Tòa Đại Sứ Mỹ , thành phố cổ Huế và hàng chục tỉnh lỵ, thị xã... Khắp 4 vùng chiến thuật đều đồng loạt bị tấn công, dù sau đó CSBV bị quân Việt Mỹ và đồng minh đánh trả mãnh liệt gây tổn thất vô cùng lớn lao cho quân CSBV và VC. Hầu hết các cơ sở nằm vùng của CS ở Miền Nam đều bị lộ diện, phải rút chạy vào bưng biền.. Sự kiện này, CSBV dù thua đậm về phương diện quân sự với tổn thất khắp các mặt trận rất nặng nề. Nhưng, CSBV đã giáng một đòn chính trị chí tử vào chính thể VNCH và Chính phủ Mỹ, CSBV đã thu gặt chiến thắng vẻ vang về mặt tuyên truyền, ngoại giao, chính trị trên các diễn đàn quồc tế và quan trọng nhứt là tại chính quốc Hoa Kỳ. Sự kiện này đã thúc đẩy mạnh mẽ, đưa phong trào phản chiến Mỹ lên cao tột đỉnh , có cơ hội kích động lòng dân Mỹ chống lại chiến tranh ở VN bằng mọi giá. Cuộc chiến VN đã thật sự sa lầy, Mỹ bị ràng buộc quyền lợi với 2 siêu cường cộng sản Tàu và Liên Sô nên Mỹ bị cột tay, không thể tốc chiến tốc thắng CSBV mà người dân Mỹ phải hy sinh xương máu càng ngày càng lên cao và tổn phí ngân sách quốc phòng càng ngày càng chồng chất nhiều, bất tận...
Cái gì đến tất phải đến, Hoa Kỳ đi đêm với Trung cộng để chấm dứt chiến tranh VN càng sớm càng tốt và Hoa Kỳ đưa được tù binh trở về cố quốc. Cuộc chiến VN kết thúc bi thảm cho Miền Nam VN - chính thể VNCH bị sụp đổ toàn diện từ ngày 30.4.1975. CSBV cũng như Mỹ đều chiến thắng trên phương diện nào đó như họ mong muốn, tự thỏa mãn.
TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ NĂM 1966
Sau 6 tháng (từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1965), quân Mỹ ồ ạt tự do đổ quân lên bãi biển Đà Nẵng chuẩn bị cho cuộc chiến mới tại VN, cũng là thời gian quân CSBV điều nghiên kỹ tại các chiến trường. Nhìn chung, trận địa nào mà cộng quân thiếu chuẩn bị địa hình, quân số ít chúng luôn lẩn trốn, tránh né đụng độ (áp dụng chiến thuật du kích chiến). Cộng quân phải có số quân áp đảo, đông nhiều hơn đối phương ít nhứt gấp 3 lên đến gấp 5 gấp 10. Một điều dễ hiểu, lúc bấy giờ, di chuyển quân, CS thường dùng phương cách "bôn tập" đi thật nhanh hoặc chạy bộ (sức người có hạn) luồn lách trong rừng núi, địa hình hiểm trở, ngụy trang che giấu khi di chuyển để kịp tiếp viện hay đến vị trí chọn lựa được chuẩn bị trước để mai phục...Cộng quân vừa tiến hành chiến thuật du kích chiến vừa là vận động chiến bằng sức người, chưa đủ sức trực diện chiến đấu với quân đồng minh, vì quân Mỹ giàu về hỏa lực phi pháo yễm trợ, di chuyển quân cực nhanh bằng trực thăng hay máy bay vận tải... đến trận địa.
Cái yếu điểm nhứt của Quân Đội Mỹ hay nói chung là người dân Mỹ là sợ chết vì là con nhà giàu, công tử, dù có hỏa lực mạnh, di chuyển nhanh gấp nhiều lần so với đối phương khi phải ra trận đánh đấm. Vì sự quý trọng sinh mạng cho nên bất cứ cuộc hành quân nào của quân Mỹ cũng đều lệ thuộc vào phi pháo mở đầu cuộc chiến, dọn đường cho bộ chiến tấn chiếm mục tiêu như là báo trước cho cộng quân biết sẽ có cuộc hành quân đổ xuống khu vực đó, đánh mất yếu tố bất ngờ, bí mật. Suốt gần 6 tháng đầu tiên từ tháng 4.65, đại quân Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng, các đơn vị được phân bổ đi các chiến trường vùng Cao Nguyên hay Vùng I Chiến Thuật, kể cả Vùng III Chiến Thuật, luôn có những cuộc hành quân lùng và diệt địch của tất cả đơn vị Mỹ khi đã đến VN mà vẫn không chạm địch mạnh. Lúc bấy giờ, quân CS còn ít, yếu thế, các đơn vị lớn chủ lực chính quy, chưa di chuyển nhiều từ Bắc vượt theo đường mòn Hồ Chí Minh và khu phi quân sự vào Nam. Khi các đại đơn vị chủ lực chính quy, thiện chiến của CSBV đã hiện diện đông đảo tại Vùng I và Vùng II Chiến Thuật, CSBV mới dám thử lửa với quân Mỹ. Đây là trận địa chiến có mục tiêu hiện rõ trên bản đồ. Còn trước đó, đối với các đơn vị nhỏ hay địa phương, cộng quân luôn di chuyển, phân tán mỏng, khi ẩn khi hiện. Trên phóng đồ hành quân chỉ ghi dấu là khu rừng núi, đồng ruộng hay làng mạc mà cộng quân đang đóng quân (ẩn trú) chiều hôm trước cộng quân tập trung xuất hiện đông đảo được tình báo khẩn báo về cơ quan chỉ huy và nơi đây đã hoạch định ngay cuộc hành quân cho sáng hôm sau, cũng trải qua hơn 10 tiếng đồng hồ. Cộng quân có thể di chuyển ngay ban đêm, cách địa điểm cũ 5, 10 cây số hay xa hơn nữa né tránh hay bố trí trận địa mới để "dụ địch" vào trận địa mà cộng quân bày binh bố trận sẵn có thể thắng hoặc "địch" không tới, cộng quân cũng bảo toàn lực lượng chờ cơ hội thuận tiện khác...
Ngày nay, dưới con mắt của những người từng trải chiến đấu, có tầm nhìn chiến thuật, chiến lược, những thức giả am hiểu tình thế, sở trường sở đoản của quân Mỹ, CSBV và VNCH trong cuộc chiến ý thức hệ quốc cộng 30 năm ở VN. Nếu chỉ để QLVNCH đối chọi với đạo quân đông đảo của CSBV, Mỹ và quân đồng minh khác đứng ngoài vòng chiến, chỉ yễm trợ tối đa phương tìện chiến tranh: súng tốt, đạn nhiều, phi pháo dồi dào, đời sống gia đình người lính được bảo đảm, CSBV không tài nào mà chiếm được Miền Nam VN. Ai cũng biết, quân CSBV nghèo khổ rớt mồng tơi và thiếu thốn dù được Tàu cộng và Liên Sô hà hơi tiếp sức, chỉ có giúp nhiều phương tiện chiến tranh. Trong khi đó, QLVNCH trang bị đầy đủ và được trui rèn huấn luyện tốt như một quân đội chính quy hiện đại với đầy đủ cơ giới, máy bay, tàu chiến các loại, pháo binh, súng đạn được tiếp tế nhanh chóng dồi dào.... Ai cũng thấy, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, sau năm 1956, Cố vấn Mỹ chỉ có 800 người mà QLVNCH luôn làm chủ chiến trường, chiến thắng và chiến thắng liên tục dù quy mô chưa lớn như sau này. Hơn nữa, QLVNCH đã chận đứng được nguồn tiếp vận về người và vũ khí từ miền Bắc tuồn vào chiến trường Miền Nam. Với Quốc Sách Ấp Chiến Lược đã vô hiệu hóa sự xâm nhập của cán bộ CS vào sống lẫn lộn với dân chúng, chặn được nguồn tiếp tế quan trọng này của CS. Đến cuối năm 1964, Cố Vấn Mỹ tăng lên 23 ngàn người, chiến tranh chưa leo thang cao. Từ năm 1965 đến năm 1967, ngoài Cố Vấn Mỹ ở các đơn vị từ cấp Tiểu đoàn trở lên và nhiều đại đơn vị Mỹ đến VN, tính chung lên 485 ngàn người. Đến năm 1968, con số này vượt trên 550 ngàn quân Mỹ, nếu tính cả các đơn vị đồng minh khác, quân "ngoại nhập" - không phải QLVNCH lên gần 600 ngàn người. Chưa kể, sau vụ CSBV mở chiến dịch với cái gọi là tổng công kích tổng nổi dậy Tết Mâu Thân - 1968, Chính Phủ VNCH có lệnh tổng động viên, đưa quân số QLVNCH lên trên 1 triệu 100 ngàn quân nhằm đối phó với sự gia tăng khủng khiếp quân số chính quy của CSBV tràn ngập các chiến trường Miền Nam VN.
Tháng 11 năm 1965, trận chiến Ia Drang ở Vùng II Chiến Thuật đã đi vào quân sử Mỹ với một sự thảm bại của 1 tiều đoàn bộ binh, có 400 quân tham chiến mà vừa chết và bị thương suýt soát 300 người, dù sau đó quân Mỹ vẫn chiến thắng. Kế tiếp năm 1966, trận chiến khốc liệt khác là Trận đánh Thung lũng A Shau mà quân chính quy CSBV đã tràn ngập chiếm được căn cứ. Trại Lực Lượng Đặc Biệt A Shau với 2 đại đội dân sự chiến đấu, trên 400 quân, đa số là người Nùng, 17 chiến sĩ Mũ Xanh Mỹ cùng trên 10 thông dịch viên...
Chiến trường VN thật sự sôi động khi 2 quân đội chính quy Mỹ và CSBV đổ quân ồ ạt vào chiến trường VN với các loại vũ khí hiện tại tối tân của Mỹ và cuả khối CS quốc Tế Nga Tàu. Trong khi đó, QLVNCH vẫn còn sử dụng những loại vũ khí "tàn dư" của thời Đệ Nhị Thế Chiến (1939 - 1945) và Chiến tranh Cao Ly (1950 - 1953), mãi cho đến trận chiến Tết Mậu Thân - 1968, chính phủ Mỹ mới viện trợ súng mới M16, thay thế súng Garant M1, Carbine M1 lỗi thời, Đại liên 30 được thay thế đại liên 50...Trực thăng "gìa khú đế" ì ạch nặng nề H21 gây tai nạn thường xuyên được thay thế HU1, kể cả chiến đấu cơ cánh quạt chậm chạp cũng được tăng cường thêm chiến đấu cơ phản lực F5, tàu chiến cũng vậy, toàn là loại tàu "second hand". Mỹ viện trợ những vũ khí, phương tiện chiến tranh loại cũ mèm, phế thải được tân trang đôi chút. Nếu chính sách viện trợ của Mỹ thật lòng giúp QLVNCH làm nổ lực chính để chiến đấu chống CSBV như cung cấp các phương tiện, vũ khí tối tân như các đơn vị Mỹ thì chắc chắn không có ngày Quốc Hận 30.4.1975 nhục nhã và đau buồn. (Đề tài này còn tiếp thêm 1 bài nữa).
Việt Nam Cộng Hòa ơi!
Trời đã sanh ra VNCH, sanh lầm thế kỷ, cầm tinh một ngôi sao xấu!!!.(còn tiếp 1 bài)
Trần Văn Ngà (Khóa 13 Thủ Đức - Email: tiengvangusa@yahoo.com & Tel: 916.519.8961)