Đoạn Đường Chiến Binh
NHỚ CHIẾN TRƯỜNG XƯA: CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM NHỮNG CON SỐ BIẾT NÓI - Trần Văn Ngà
NHỚ
CHIẾN TRƯỜNG XƯA
CHIẾN
TRƯỜNG VIỆT NAM
NHỮNG
CON SỐ BIẾT NÓI
Thời
oanh liệt, nay còn đâu?! Sau hơn nửa thế kỷ, bây giờ đã qua tuổi 82, kỷ niệm
chiến trường xưa lại dồn dập quay về trong ký ức.
Những
biến cố về quân sự, những trận chiến ác
liệt khác khắp các Vùng
Chiến Thuật cũng trở lại trong tâm thức,
những con số tử vong giữa ta và địch (VC), đồng minh. Những con số biết nói về
những năm tháng nghiệt ngã trong các trại tù khổ sai "cải tạo" của
cộng sản VN đối với những người ngã ngựa, chỉ vì tội yêu nước, yêu dân chủ tự
do mà phải trả một cái giá quá đắt cho một kiếp người bị thua cuộc.
Tôi
miên man suy tư, nhớ nhiều, vội ghi lại để chúng ta những chiến sĩ già về tuổi
tác mà sự nhận xét và suy nghĩ vẫn còn tinh
anh và trung thực, ôn cố tri tân.
Trong
loạt bài này, tôi viết trước về các Chiến Trường đẫm máu mà quân đội Đồng Minh
- Mỹ trách nhiệm tại các vùng chiến thuật, chiến lược- địa đầu giới tuyến hay nơi
đèo heo hút gió biên giới Việt Miên Lào...
Một
điều dễ hiểu, các cây bút Việt Nam thường chăm chú các trận đánh lớn của
QLVNCH, tôi muốn bổ túc cho thêm phong phú về các chiến trường xưa,các trận đánh
lớn nhớ đời của cuộc chiến tranh Việt Nam từ sau Hiệp Định Genève 20.7.1954 đến
ngàỷ0.4.1975.
KÝ SỰ - Trần Văn Ngà
*****
Trước
khi viết lại những chiến trường xưa do Quân Đội Mỹ trách nhiệm, tôi viết tổng lược
những sự kiện lịch sử qua những con số biết nói.
Tôi
còn nhớ một câu nói của một nhà văn Pháp: Tout
passe, tout casse, tout lasse, le souvenir seul est vivace (Mọi sự đều qua đi,
đều gãy đổ, đều mệt chán, chỉ có kỷ niệm là sống mãi). Người chiến sĩ thứ thiệt
lại còn chịu chơi, trong mọi hoàn cảnh “hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly” nên
thường nhớ thời quá khứ xa xưa.
Dấu
ấn thời gian một thuở tung hoành, nay tuổi già xế bóng, ngoảnh mặt lại, chỉ còn
trông thấy một màu xanh xanh đang nhô lên, ló dạng ở chân trờì hay ống khói cao
ngất vẫy gọi...
Nhân ngày Cựu Chiến Binh (Veterans Day
2014) 11 – 11 vừa qua, Mitch Stacy viết một bài, trong mục Remembering WW II veterans, hảng thông tấn Associated
Press phổ biến, với tựa đề: U.S. is losing its WWII heroes và với phụ
đề bên dưới: Nearly 1,000 vets die each day nationwide; within 15 years the
“greatest generation” may be nearly gone. Những chiến sĩ tham dự Đại Chiến
Thế Giới II, những năm 40 “thế hệ vĩ đại nhất” của Hoa Kỳ (và nhiều nước khác) đang lụi tàn và sẽ
mất hút trong vòng 10 năm nữa.
Hiện nay, mỗi ngày có khoảng 1,000 ngườì
cựu chiến binh thời Đệ Nhị Thế Chiến (39 – 45), chỉ riêng ở Hoa Kỳ, đã ra đi.
Hoa Kỳ đã tham chiến ở hải ngoại gọi là
Foreign Wars, rất nhiều lần, từ đệ nhất, đệ nhị thế chiến, chiến tranh Hàn Quốc,
Việt Nam và gần đây chiến tranh vùng Vịnh, Kuwait, Afghanistan, Iraq... chỉ có
cuộc chiến tranh VN có thể nói theo cách nói của các nhà ngoại giao Mỹ “không
thắng không thua”. Nhưng, chúng ta biết, Mỹ chỉ có ôm đầu máu “bỏ của chạy lấy
người” và nướng miền Nam Việt Nam vào lò thiêu của tập đoàn CS quốc tế. Còn những
cuộc tham chiến khác, Hoa Kỳ đều chiến thắng và vẻ vang nhất là trận chiến thế
giới lần thứ hai nên người Mỹ gọi thế hệ tham chiến này là Greatest Generation.
Những chiến binh đệ nhất thế chiến (1914
– 1918), nay nếu còn sống cũng trên trăm tuổi, chẳng còn mấy người. Những chiến
binh thời đệ nhị thế chiến, trẻ nhất,18 tuổi vào năm 1945, đến năm 2014, gần
trọn 70 năm sau, đến nay cũng đã ngoài 88 tuổi. Chiến tranh Hàn Quốc (50 – 53)
và cuộc chiến Việt Nam mà Mỹ trực tiếp tham chiến (65 – 73 ), nói đúng hơn, HK đã
bắt đầu tham chiến ở Việt Nam từ năm 1955, nay các cựu chiến binh Mỹ cũng già
nua, tàn tạ, xếp hàng chờ lệnh "lên đường" sang qua biên giới khác.
Các thế hệ chiến binh trong các cuộc chiến
gần đây, chừng một hai thập niên nữa cũng đến thời điểm giã từ vũ khí, về với cát
bụi.
Nghĩ cho cùng, kẻ chiến thắng, người thua
cuộc, trước sau gì cũng đến ngày đi về “Cõi Vô Cùng” (tên một cuốn truyện của nhà
văn nữ, đang ở Houston - Texas, Nguyên Nhung).
Nhiều vì sao đã lần lượt rơi rụng dần của
2 miền Nam Bắc VN, những vị tướng trẻ nhất
trong QLVNCH còn sống khỏe hiện nay, cũng đã qua tuổi 80 như Chuẩn Tướng
Mạch Văn Trưởng (cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh - đang sinh sống tại Houston -
Texas), Thiếu Tướng Lê Minh Đảo (cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh - định cư ở
Connecticut), cuộc đời của 2 Tướng quân này cũng đang lụi tàn dần theo năm tháng.
Thế hệ thanh niên trong cuộc chiến ý thức
hệ quốc cộng - hay còn gọi là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn đẫm máu nhất
trong lịch sử Việt Nam rồi cũng tan biến vào cõi hư vô và lúc ấy chế độ cộng sản
vào cõi hư không, đất nước Việt Nam sẽ hồi sanh, an bình ấm no thạnh phúc, không
còn hận thù và chắc chắn dân giàu nước mạnh, người viết cầu mong như thế!.
QUÂN SỐ
QLVNCH & TÙ CẢI TẠO
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975 , tất cả quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa
đều trở thành đối tượng của “chế độ tù lao động cải tạo”, một
chính sách do cộng sản Việt Nam du nhập từ Trung cộng và được tôi luyện
từ miền Tây Bá Lợi Á của "thiên đường" Nga sô viết.
Tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận
số lượng tù cải tạo như sau:
* - Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm
1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là
hạ sỹ quan và binh sĩ.
Thời
cao điểm nhứt, quân số Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lên trên 1 triệu 100 ngàn
chiến sĩ, được xếp hạng tư (quân số cộng sản Bắc Việt cũng được xếp hạng như
vậy) trên thế giới, chỉ đứng sau Trung Cộng, Liên Xô và Hoa Kỳ.
Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa, gồm có chủ lực quân và địa phương quân & nghĩa quân,
với: 11 Sư đoàn Bộ Binh (SĐ: 1 - 2 - 3 - 5 - 7 - 9 - 18 - 21 - 22 - 23 - 25), và
đơn vị tổng trừ bị cấp trung ương và cấp Quân Khu hay còn gọi Vùng chiến thuật:
1 Sư đoàn Dù - 1 Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, nhiều Liên đoàn Biệt Động Quân
(quân số trên 2 Sư Đoàn và những tháng cuối cùng trước ngày chính thể VNCH sụp đổ
30.4.75, Biệt Động Quân đã thành lập xong 2 Sư Đoàn đặt thuộc dụng Biệt Khu Thủ
Đô). Một Sư đoàn Bộ Binh (BB) hay lực lượng tổng trừ bị, ước tính có quân số
khả dụng trên 10 ngàn chiến binh) - Quân chủng Không Quân và Hải Quân cũng lập
thành sư đoàn: 6 Sư Đoàn Không Quân và Hải Quân cũng có 5 Vùng Duyên Hải và 2
Vùng Sông Ngòi (Vùng III và Vùng IV Sông Ngòi) cũng kể tương đương như Sư đoàn
Lục Quân, nhưng quân số ít hơn nhiều so với Sư đoàn BB - Dù - TQLC hay BĐQ...
Còn
các binh chủng có quân số cũng khá nhiều như Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Quân
Y, Quân Cảnh, Truyền Tin, Nữ Quân Nhân và các binh chủng, binh sở, chuyên
môn...Tính chung chủ lực quân, cộng lại cũng sẽ đạt được con số 1/3 hay cao hơn
1 chút của 1 triệu 100 ngàn quân - từ 300 đến 400 ngàn chiến sĩ. Tất cả số quân
còn lại là Địa Phương Quân và Nghĩa Quân - những chiến sĩ diện địa - chiếm gần
2/3 quân số của toàn thể QLVNCH, một lực lương hứng chịu nhiều thiếu thốn,
gian khổ, trực tiếp đối đầu thường trực với cán binh VC ở điạ phương.
- Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112, bị tù
cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di tản và còn vài vị tướng không
bị bắt giam trong các đợt đi tù cải tạo tập thể.
- Ðại tá có 600, bị tù 366.
- Trung tá có 2.500, bị tù 1.700.
- Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500.
- Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000.
Trong số tù "cải tạo" này chưa kể đến các thành
viên đảng phái và các cấp chính quyền, cảnh sát, cán bộ...
Ðây là con số ghi nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa,
không có tài liệu của các trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và không
có con số chính xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm, một con số
khá lớn.
Ghi chú: Tất cả danh từ “học
tập cải tạo” thực sự đều là tù của người thua cuộc, tù chính trị bị khổ
sai, không có bản án.
NHỮNG NGƯỜI TÙ KHÔNG ÁN
Không kể thành phần bị bắt trước 1975, nhưng không được trao
trả tù binh sau 1973, khi có Hiệp
Định Paris, thời gian tù “cải tạo” kéo dài từ 1 năm đến 17
năm. Từ 1975 đến 1992. Năm 1988 gần như là năm cuối cùng, hầu hết tù
được trả tự do. Suốt 4 năm tiếp theo - đến năm 1992 - chỉ còn
lại 120 tù bị giam tại Z30D gọi là Trại Thủ Ðức (Rừng Lá) Hàm Tân. Trong
số này có 9 vị tướng lãnh. Ðại tá Phạm Duy Khang khóa 6 Võ bị, làm
thư ký Trại còn nhớ tên từng người. 4 Thiếu tướng: Lê Minh Ðảo,
Ðỗ kế Giai, Trần Bá Di, Hoàng Lạc, và 5 Chuẩn Tướng: Lê Văn Thân, Nguyễn
Ngọc Sang, Mạch Văn Trường, Trần Quang Khôi, Phạm Duy Tất.
Cấp Ðại tá có 22 người, 20 thiếu tá và các thành viên cảnh sát, đảng phái...
(H:
Cảnh 1 trại tù cải tạo ở miền Nam hay miền Trung, miền Bắc, cũng đều rập khuôn
như trong hình).
Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai (vừa mới mất tại Dallas, tháng 3.2016)
tả lại quang cảnh khi tất cả mọi người được thả hết chỉ còn mấy
ông Tướng. Trại Hàm Tân hoàn toàn vắng lặng. Cộng sản cho xe chở 5 ông
tướng về chuyến cuối cùng. Vì đường đi thuận tiện, xe về Saigon,
chạy đến nhà các vị Tướng, hết 1 vòng, Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai là
người về sau cùng. Ông bước xuống xe, tâm trạng thực băn khoăn khó tả, tù
vừa tròn 17 năm. Những ông tướng khác về trước ông chừng nửa giờ nên Tướng
Giai là người sau cùng, theo ý nghĩa tiêu biểu của lịch sử.
Hỏi chuyện ngục tù, ông Giai nhắc lại câu danh ngôn của người xưa: “Bại binh
chi tướng, bất khả ngôn dũng“ (Tướng quân thua trận, không thể nói
mạnh).
Lại hỏi rằng, suốt thời kỳ 17 năm có thấy các nhà báo cộng sản hay
thế giới tự do vào quay phim hay chụp hình để bây
giờ có thể đi tìm dấu tích của những năm dài “cải tạo”; vị Chỉ Huy
Trưởng binh chủng Biệt Động Quân cho biết, dường như chẳng thấy gì.
NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG QUÊN:
1975 : Hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị cộng
sản tập trung “cải tạo” (bị bắt bỏ tù).
1980 : Sau 5 năm tranh đấu, dư luận Mỹ và thế giới áp lực Hà Nội phải
thả tù .
1982 : Tại Pháp, Phạm văn Ðồng, Thủ tướng Hà Nội thách thức
sẽ trả tự do nếu Mỹ nhận hết tù cải tạo.
1982 : Ngoại trưởng Mỹ điều trần tại Quốc Hội cho biết sẽ nhận 10.000
tù chính trị Việt Nam (tù cải tạo) và gia đình.
1985 : Lần đầu tiên , cơ quan IRCC,Inc. tại San Jose (của cựu Đại Tá Vũ Văn Lộc)
nhận được 1 video tape do phóng viên tự do Hoa Kỳ quay tại
Việt Nam. Trong đó có ba đoạn hết sức đặc biệt:
1) Phi công Việt Nam Cộng Hòa, vừa được tự do
2) Vợ con tù thăm nuôi tại Hàm Tân;
3) Ban văn nghệ của Trại Hàm Tân;
4) Phỏng vấn 1 người tù cụt chân cấp Thiếu tá.
1985 : Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau tại New York bàn về việc
thả tù cải tạo.
1987 : Lần đầu tiên nhà báo Thụy Ðiển được vào làm phóng sự tại Trại Nam
Hà, tiếp theo Hà Nội bắt đầu chuyển thêm tù cải tạo vào Nam và
trả tự do từng đợt .
Tháng 7 năm 1988 : Phái đoàn Hoa Kỳ Funseth đi Hà nội họp về việc
nhận tù cải tạo.
Tháng 8 năm 1988 : Hà Nội đơn phương loan báo (làm eo, đưa thêm yêu sách) đình
chỉ việc thảo luận.
Tháng 1 năm 1989 : Lần đầu tiên Hồng Thập Tự Hoa Kỳ được phép
gửi quà cho tù “cải tạo”.
Một chiến dịch gửi quà rầm rộ được phát động tại hải ngoại .
Tháng 4 năm 1989 : Phái đoàn Quốc hội Cali về Việt Nam thảo luận
về đề tài xã hội và tù “cải tạo”. Có các thành phần tỵ nạn Việt Nam
cùng đi. Ðại diện IRCC trách nhiệm tiểu ban tù chính trị. Phái đoàn yêu cầu trả
tự do cho ông Võ Ðại Tôn. Phỏng vấn thu thanh nhà văn Quân Đội Phan Nhật
Nam vừa được tự do tại Saigon.
Tháng 6 tháng 1989 : Thượng viện Mỹ tuyên bố yêu cầu Hà Nội
trả tự do cho tù “cải tạo” và Hoa Kỳ sẽ đón nhận .
Tháng 7 năm 1989 : Phái đoàn Hoa kỳ về Việt Nam ký thỏa ước nhận định
cư tù “cải tạo” (với nhiều điều kiện, giới hạn...)
Tháng 8 tháng 1989 : Báo San Jose Mercury News gửi phóng viên về Saigon làm một
loạt bài phỏng vấn “tù cải tạo” sắp ra đi có gia đình chờ đợi tại San
Jose.
Tháng 1 tháng 1990 : 15 gia đình H.01 đi chuyến đầu tiên đến phi trường
San Francisco, có 4 gia đình về Bắc Cali. 11 gia đình chuyển tiếp đến các
tiểu bang khác và Quận Cam.
Tháng 8 năm1992 : Ðại tá Phạm Duy Khang, sau 17 năm tù đã
trở về đợt sau cùng với 120 người. Ông đến San Jose và
dự lễ thượng kỳ ngày 8/8/1993 .
Sau đó các đợt HO bổ túc và chương trình đoàn tụ gia đình HO lần lượt
tiếp diễn suốt 15 năm từ 1994 đến 2009. Cho đến tháng 4 năm 2009
vẫn còn gia đình thuộc diện “tù cải tạo” đến Hoa Kỳ. ( Bài vìết này, tôi sưu
tầm của IRCC - cựu Đại Tá
Vũ Văn Lộc và tôi bổ túc thêm).
Trần
Văn Ngà (HNPD)
(Email: tranvannga35@gmail.com - Tel: 916.519.8961)
Bàn ra tán vào (2)
----------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------
NHỚ CHIẾN TRƯỜNG XƯA: CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM NHỮNG CON SỐ BIẾT NÓI - Trần Văn Ngà
NHỚ
CHIẾN TRƯỜNG XƯA
CHIẾN
TRƯỜNG VIỆT NAM
NHỮNG
CON SỐ BIẾT NÓI
Thời
oanh liệt, nay còn đâu?! Sau hơn nửa thế kỷ, bây giờ đã qua tuổi 82, kỷ niệm
chiến trường xưa lại dồn dập quay về trong ký ức.
Những
biến cố về quân sự, những trận chiến ác
liệt khác khắp các Vùng
Chiến Thuật cũng trở lại trong tâm thức,
những con số tử vong giữa ta và địch (VC), đồng minh. Những con số biết nói về
những năm tháng nghiệt ngã trong các trại tù khổ sai "cải tạo" của
cộng sản VN đối với những người ngã ngựa, chỉ vì tội yêu nước, yêu dân chủ tự
do mà phải trả một cái giá quá đắt cho một kiếp người bị thua cuộc.
Tôi
miên man suy tư, nhớ nhiều, vội ghi lại để chúng ta những chiến sĩ già về tuổi
tác mà sự nhận xét và suy nghĩ vẫn còn tinh
anh và trung thực, ôn cố tri tân.
Trong
loạt bài này, tôi viết trước về các Chiến Trường đẫm máu mà quân đội Đồng Minh
- Mỹ trách nhiệm tại các vùng chiến thuật, chiến lược- địa đầu giới tuyến hay nơi
đèo heo hút gió biên giới Việt Miên Lào...
Một
điều dễ hiểu, các cây bút Việt Nam thường chăm chú các trận đánh lớn của
QLVNCH, tôi muốn bổ túc cho thêm phong phú về các chiến trường xưa,các trận đánh
lớn nhớ đời của cuộc chiến tranh Việt Nam từ sau Hiệp Định Genève 20.7.1954 đến
ngàỷ0.4.1975.
KÝ SỰ - Trần Văn Ngà
*****
Trước
khi viết lại những chiến trường xưa do Quân Đội Mỹ trách nhiệm, tôi viết tổng lược
những sự kiện lịch sử qua những con số biết nói.
Tôi
còn nhớ một câu nói của một nhà văn Pháp: Tout
passe, tout casse, tout lasse, le souvenir seul est vivace (Mọi sự đều qua đi,
đều gãy đổ, đều mệt chán, chỉ có kỷ niệm là sống mãi). Người chiến sĩ thứ thiệt
lại còn chịu chơi, trong mọi hoàn cảnh “hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly” nên
thường nhớ thời quá khứ xa xưa.
Dấu
ấn thời gian một thuở tung hoành, nay tuổi già xế bóng, ngoảnh mặt lại, chỉ còn
trông thấy một màu xanh xanh đang nhô lên, ló dạng ở chân trờì hay ống khói cao
ngất vẫy gọi...
Nhân ngày Cựu Chiến Binh (Veterans Day
2014) 11 – 11 vừa qua, Mitch Stacy viết một bài, trong mục Remembering WW II veterans, hảng thông tấn Associated
Press phổ biến, với tựa đề: U.S. is losing its WWII heroes và với phụ
đề bên dưới: Nearly 1,000 vets die each day nationwide; within 15 years the
“greatest generation” may be nearly gone. Những chiến sĩ tham dự Đại Chiến
Thế Giới II, những năm 40 “thế hệ vĩ đại nhất” của Hoa Kỳ (và nhiều nước khác) đang lụi tàn và sẽ
mất hút trong vòng 10 năm nữa.
Hiện nay, mỗi ngày có khoảng 1,000 ngườì
cựu chiến binh thời Đệ Nhị Thế Chiến (39 – 45), chỉ riêng ở Hoa Kỳ, đã ra đi.
Hoa Kỳ đã tham chiến ở hải ngoại gọi là
Foreign Wars, rất nhiều lần, từ đệ nhất, đệ nhị thế chiến, chiến tranh Hàn Quốc,
Việt Nam và gần đây chiến tranh vùng Vịnh, Kuwait, Afghanistan, Iraq... chỉ có
cuộc chiến tranh VN có thể nói theo cách nói của các nhà ngoại giao Mỹ “không
thắng không thua”. Nhưng, chúng ta biết, Mỹ chỉ có ôm đầu máu “bỏ của chạy lấy
người” và nướng miền Nam Việt Nam vào lò thiêu của tập đoàn CS quốc tế. Còn những
cuộc tham chiến khác, Hoa Kỳ đều chiến thắng và vẻ vang nhất là trận chiến thế
giới lần thứ hai nên người Mỹ gọi thế hệ tham chiến này là Greatest Generation.
Những chiến binh đệ nhất thế chiến (1914
– 1918), nay nếu còn sống cũng trên trăm tuổi, chẳng còn mấy người. Những chiến
binh thời đệ nhị thế chiến, trẻ nhất,18 tuổi vào năm 1945, đến năm 2014, gần
trọn 70 năm sau, đến nay cũng đã ngoài 88 tuổi. Chiến tranh Hàn Quốc (50 – 53)
và cuộc chiến Việt Nam mà Mỹ trực tiếp tham chiến (65 – 73 ), nói đúng hơn, HK đã
bắt đầu tham chiến ở Việt Nam từ năm 1955, nay các cựu chiến binh Mỹ cũng già
nua, tàn tạ, xếp hàng chờ lệnh "lên đường" sang qua biên giới khác.
Các thế hệ chiến binh trong các cuộc chiến
gần đây, chừng một hai thập niên nữa cũng đến thời điểm giã từ vũ khí, về với cát
bụi.
Nghĩ cho cùng, kẻ chiến thắng, người thua
cuộc, trước sau gì cũng đến ngày đi về “Cõi Vô Cùng” (tên một cuốn truyện của nhà
văn nữ, đang ở Houston - Texas, Nguyên Nhung).
Nhiều vì sao đã lần lượt rơi rụng dần của
2 miền Nam Bắc VN, những vị tướng trẻ nhất
trong QLVNCH còn sống khỏe hiện nay, cũng đã qua tuổi 80 như Chuẩn Tướng
Mạch Văn Trưởng (cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh - đang sinh sống tại Houston -
Texas), Thiếu Tướng Lê Minh Đảo (cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh - định cư ở
Connecticut), cuộc đời của 2 Tướng quân này cũng đang lụi tàn dần theo năm tháng.
Thế hệ thanh niên trong cuộc chiến ý thức
hệ quốc cộng - hay còn gọi là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn đẫm máu nhất
trong lịch sử Việt Nam rồi cũng tan biến vào cõi hư vô và lúc ấy chế độ cộng sản
vào cõi hư không, đất nước Việt Nam sẽ hồi sanh, an bình ấm no thạnh phúc, không
còn hận thù và chắc chắn dân giàu nước mạnh, người viết cầu mong như thế!.
QUÂN SỐ
QLVNCH & TÙ CẢI TẠO
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975 , tất cả quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa
đều trở thành đối tượng của “chế độ tù lao động cải tạo”, một
chính sách do cộng sản Việt Nam du nhập từ Trung cộng và được tôi luyện
từ miền Tây Bá Lợi Á của "thiên đường" Nga sô viết.
Tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận
số lượng tù cải tạo như sau:
* - Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm
1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là
hạ sỹ quan và binh sĩ.
Thời
cao điểm nhứt, quân số Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lên trên 1 triệu 100 ngàn
chiến sĩ, được xếp hạng tư (quân số cộng sản Bắc Việt cũng được xếp hạng như
vậy) trên thế giới, chỉ đứng sau Trung Cộng, Liên Xô và Hoa Kỳ.
Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa, gồm có chủ lực quân và địa phương quân & nghĩa quân,
với: 11 Sư đoàn Bộ Binh (SĐ: 1 - 2 - 3 - 5 - 7 - 9 - 18 - 21 - 22 - 23 - 25), và
đơn vị tổng trừ bị cấp trung ương và cấp Quân Khu hay còn gọi Vùng chiến thuật:
1 Sư đoàn Dù - 1 Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, nhiều Liên đoàn Biệt Động Quân
(quân số trên 2 Sư Đoàn và những tháng cuối cùng trước ngày chính thể VNCH sụp đổ
30.4.75, Biệt Động Quân đã thành lập xong 2 Sư Đoàn đặt thuộc dụng Biệt Khu Thủ
Đô). Một Sư đoàn Bộ Binh (BB) hay lực lượng tổng trừ bị, ước tính có quân số
khả dụng trên 10 ngàn chiến binh) - Quân chủng Không Quân và Hải Quân cũng lập
thành sư đoàn: 6 Sư Đoàn Không Quân và Hải Quân cũng có 5 Vùng Duyên Hải và 2
Vùng Sông Ngòi (Vùng III và Vùng IV Sông Ngòi) cũng kể tương đương như Sư đoàn
Lục Quân, nhưng quân số ít hơn nhiều so với Sư đoàn BB - Dù - TQLC hay BĐQ...
Còn
các binh chủng có quân số cũng khá nhiều như Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Quân
Y, Quân Cảnh, Truyền Tin, Nữ Quân Nhân và các binh chủng, binh sở, chuyên
môn...Tính chung chủ lực quân, cộng lại cũng sẽ đạt được con số 1/3 hay cao hơn
1 chút của 1 triệu 100 ngàn quân - từ 300 đến 400 ngàn chiến sĩ. Tất cả số quân
còn lại là Địa Phương Quân và Nghĩa Quân - những chiến sĩ diện địa - chiếm gần
2/3 quân số của toàn thể QLVNCH, một lực lương hứng chịu nhiều thiếu thốn,
gian khổ, trực tiếp đối đầu thường trực với cán binh VC ở điạ phương.
- Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112, bị tù
cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di tản và còn vài vị tướng không
bị bắt giam trong các đợt đi tù cải tạo tập thể.
- Ðại tá có 600, bị tù 366.
- Trung tá có 2.500, bị tù 1.700.
- Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500.
- Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000.
Trong số tù "cải tạo" này chưa kể đến các thành
viên đảng phái và các cấp chính quyền, cảnh sát, cán bộ...
Ðây là con số ghi nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa,
không có tài liệu của các trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và không
có con số chính xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm, một con số
khá lớn.
Ghi chú: Tất cả danh từ “học
tập cải tạo” thực sự đều là tù của người thua cuộc, tù chính trị bị khổ
sai, không có bản án.
NHỮNG NGƯỜI TÙ KHÔNG ÁN
Không kể thành phần bị bắt trước 1975, nhưng không được trao
trả tù binh sau 1973, khi có Hiệp
Định Paris, thời gian tù “cải tạo” kéo dài từ 1 năm đến 17
năm. Từ 1975 đến 1992. Năm 1988 gần như là năm cuối cùng, hầu hết tù
được trả tự do. Suốt 4 năm tiếp theo - đến năm 1992 - chỉ còn
lại 120 tù bị giam tại Z30D gọi là Trại Thủ Ðức (Rừng Lá) Hàm Tân. Trong
số này có 9 vị tướng lãnh. Ðại tá Phạm Duy Khang khóa 6 Võ bị, làm
thư ký Trại còn nhớ tên từng người. 4 Thiếu tướng: Lê Minh Ðảo,
Ðỗ kế Giai, Trần Bá Di, Hoàng Lạc, và 5 Chuẩn Tướng: Lê Văn Thân, Nguyễn
Ngọc Sang, Mạch Văn Trường, Trần Quang Khôi, Phạm Duy Tất.
Cấp Ðại tá có 22 người, 20 thiếu tá và các thành viên cảnh sát, đảng phái...
(H:
Cảnh 1 trại tù cải tạo ở miền Nam hay miền Trung, miền Bắc, cũng đều rập khuôn
như trong hình).
Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai (vừa mới mất tại Dallas, tháng 3.2016)
tả lại quang cảnh khi tất cả mọi người được thả hết chỉ còn mấy
ông Tướng. Trại Hàm Tân hoàn toàn vắng lặng. Cộng sản cho xe chở 5 ông
tướng về chuyến cuối cùng. Vì đường đi thuận tiện, xe về Saigon,
chạy đến nhà các vị Tướng, hết 1 vòng, Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai là
người về sau cùng. Ông bước xuống xe, tâm trạng thực băn khoăn khó tả, tù
vừa tròn 17 năm. Những ông tướng khác về trước ông chừng nửa giờ nên Tướng
Giai là người sau cùng, theo ý nghĩa tiêu biểu của lịch sử.
Hỏi chuyện ngục tù, ông Giai nhắc lại câu danh ngôn của người xưa: “Bại binh
chi tướng, bất khả ngôn dũng“ (Tướng quân thua trận, không thể nói
mạnh).
Lại hỏi rằng, suốt thời kỳ 17 năm có thấy các nhà báo cộng sản hay
thế giới tự do vào quay phim hay chụp hình để bây
giờ có thể đi tìm dấu tích của những năm dài “cải tạo”; vị Chỉ Huy
Trưởng binh chủng Biệt Động Quân cho biết, dường như chẳng thấy gì.
NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG QUÊN:
1975 : Hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị cộng
sản tập trung “cải tạo” (bị bắt bỏ tù).
1980 : Sau 5 năm tranh đấu, dư luận Mỹ và thế giới áp lực Hà Nội phải
thả tù .
1982 : Tại Pháp, Phạm văn Ðồng, Thủ tướng Hà Nội thách thức
sẽ trả tự do nếu Mỹ nhận hết tù cải tạo.
1982 : Ngoại trưởng Mỹ điều trần tại Quốc Hội cho biết sẽ nhận 10.000
tù chính trị Việt Nam (tù cải tạo) và gia đình.
1985 : Lần đầu tiên , cơ quan IRCC,Inc. tại San Jose (của cựu Đại Tá Vũ Văn Lộc)
nhận được 1 video tape do phóng viên tự do Hoa Kỳ quay tại
Việt Nam. Trong đó có ba đoạn hết sức đặc biệt:
1) Phi công Việt Nam Cộng Hòa, vừa được tự do
2) Vợ con tù thăm nuôi tại Hàm Tân;
3) Ban văn nghệ của Trại Hàm Tân;
4) Phỏng vấn 1 người tù cụt chân cấp Thiếu tá.
1985 : Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau tại New York bàn về việc
thả tù cải tạo.
1987 : Lần đầu tiên nhà báo Thụy Ðiển được vào làm phóng sự tại Trại Nam
Hà, tiếp theo Hà Nội bắt đầu chuyển thêm tù cải tạo vào Nam và
trả tự do từng đợt .
Tháng 7 năm 1988 : Phái đoàn Hoa Kỳ Funseth đi Hà nội họp về việc
nhận tù cải tạo.
Tháng 8 năm 1988 : Hà Nội đơn phương loan báo (làm eo, đưa thêm yêu sách) đình
chỉ việc thảo luận.
Tháng 1 năm 1989 : Lần đầu tiên Hồng Thập Tự Hoa Kỳ được phép
gửi quà cho tù “cải tạo”.
Một chiến dịch gửi quà rầm rộ được phát động tại hải ngoại .
Tháng 4 năm 1989 : Phái đoàn Quốc hội Cali về Việt Nam thảo luận
về đề tài xã hội và tù “cải tạo”. Có các thành phần tỵ nạn Việt Nam
cùng đi. Ðại diện IRCC trách nhiệm tiểu ban tù chính trị. Phái đoàn yêu cầu trả
tự do cho ông Võ Ðại Tôn. Phỏng vấn thu thanh nhà văn Quân Đội Phan Nhật
Nam vừa được tự do tại Saigon.
Tháng 6 tháng 1989 : Thượng viện Mỹ tuyên bố yêu cầu Hà Nội
trả tự do cho tù “cải tạo” và Hoa Kỳ sẽ đón nhận .
Tháng 7 năm 1989 : Phái đoàn Hoa kỳ về Việt Nam ký thỏa ước nhận định
cư tù “cải tạo” (với nhiều điều kiện, giới hạn...)
Tháng 8 tháng 1989 : Báo San Jose Mercury News gửi phóng viên về Saigon làm một
loạt bài phỏng vấn “tù cải tạo” sắp ra đi có gia đình chờ đợi tại San
Jose.
Tháng 1 tháng 1990 : 15 gia đình H.01 đi chuyến đầu tiên đến phi trường
San Francisco, có 4 gia đình về Bắc Cali. 11 gia đình chuyển tiếp đến các
tiểu bang khác và Quận Cam.
Tháng 8 năm1992 : Ðại tá Phạm Duy Khang, sau 17 năm tù đã
trở về đợt sau cùng với 120 người. Ông đến San Jose và
dự lễ thượng kỳ ngày 8/8/1993 .
Sau đó các đợt HO bổ túc và chương trình đoàn tụ gia đình HO lần lượt
tiếp diễn suốt 15 năm từ 1994 đến 2009. Cho đến tháng 4 năm 2009
vẫn còn gia đình thuộc diện “tù cải tạo” đến Hoa Kỳ. ( Bài vìết này, tôi sưu
tầm của IRCC - cựu Đại Tá
Vũ Văn Lộc và tôi bổ túc thêm).
Trần
Văn Ngà (HNPD)
(Email: tranvannga35@gmail.com - Tel: 916.519.8961)