Sau lễ mãn khóa tốt nghiệp, chúng tôi đi phép, và trình diện BTL/HQ để nhận nhiệm sở. Tôi phải đi người nhái vì đã được nhận bởi đơn vị này trước. Tôi đã phải năn nỉ ỷ ôi để LLNN bỏ tên tôi ra khỏi danh sách tuyển chọn, và để cho tôi được về Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Phải mất hơn một tháng sau thì tôi mới được toại nguyện, và được thuyên chuyển về Sở PVDH. Khi trình diện Sở PVDH, tôi đã mất cơ hội phục vụ trên tầu của Lực Lượng Hải Tuần. Các bạn cùng khóa như quan Bạch Xuân, Dương Xuân Phong, và Vũ Hữu Lý đã may mắn được làm HP/PCF. Riêng tôi và quan Đỗ Thanh Vẽ phải ngồi cạo giấy “chán phèo” nơi văn phòng. Chúng tôi không có được phụ cấp cho những đơn vị tác chiến, và nhất là không được có những “món tiền phụ trội do số dầu thặng dư” trên chiến đỉnh đem ra đầu tư trên những con thuyền đánh cá của ngư dân giầu có hay đầu nậu buôn bán dầu trong vùng.
Sở PVDH được chia ra làm hai lực lượng: Hải Tuần và Biệt Hải. Sau một vài tháng ngồi cạo giấy cho Hải Tuần, Sở PVDH thành lập thêm một toán Biệt Hải, Toán Trâu Nước. Tôi tình nguyện đi ngay vì dân Biệt Hải coi “gồ ghề” lắm. Sau vài tháng huấn luyện, tôi làm trưởng toán Trâu Nước gồm có 14 người kể cả tôi. Ba toán còn lại của Biệt Hải là Cá Mập, Ó Biển, và Rồng Biển. Trưởng toán Cá Mập là một Sĩ quan Lục quân, và trưởng toán của hai toán còn lại là hai Thượng Sĩ HQ đầy kinh nghiệm. Chúng tôi có quyền mặc đồ dân sự lè phè hay rằn ri khi ở bờ không đi công tác, và nhất là có giấy phép đặc biệt được đi cả trong những giờ giới nghiêm. Trong khi thi hành công tác thì chúng tôi đặc biệt chuyên “diện” đồ đen, chân đi đất hay giầy vải hoặc “dép râu”. Tôi vẫn còn đôi dép râu này dù sau hơn ba mươi năm không còn phải đi công tác nữa. Chúng tôi đã được trang bị như một toán VC với cây AK47 làm chuẩn.
Làm trưởng toán Biệt Hải Trâu Nước, khi không có hành quân hay công
tác miền Bắc, chúng tôi thường được giao phó những “công tác” tại các
mật khu Việt Cộng ở miền Nam. Mỗi khi đi công tác như thế, chúng tôi
luôn luôn được trang bị vũ khí của cộng quân như AK47 và mặc quần áo
đen, chân đi dép hay giầy vải. Lần đầu tiên dẫn toán đi công tác tại một
mật khu Cộng Sản trong vùng Năm Căn. Nơi có tiếng là “muỗi kêu mà như
sáo thổi, và đỉa lội lềnh kềnh tựa bánh canh”. Sau khi quan sát địa thế,
chúng tôi chia nhau phục kích ở bờ sông. Trời mờ mờ ánh sao về sáng,
sương xuống ướt đẫm lưng áo, xa xa những con vạc ăn khuya kêu lên một
vài tiếng rời rạc trong màn đêm u tịch.
Khoảng chừng ba bốn giờ sáng, có tiếng mái chèo đưa đẩy, khua nước tuy
nghe thấy khoan thai nhưng rõ mồn một trong đêm thanh vắng, và cũng đủ
để làm cho chúng tôi tỉnh hẳn cơn buồn ngủ. Một chiếc xuồng con chợt
thấy xuất hiện trong giữa đám sương mù, đang dần tiến về phía chúng tôi.
Khi đến gần nơi chúng tôi đang nằm chờ, tôi nhận rõ là bọn chúng gồm có
hai tên, một tên đứng chồm hổm nơi đầu mũi quan sát, và một tên ngồi
phía sau chèo ghe. Nỗi sợ và sự hồi hộp nổi lên trong tôi. Mồ hôi tôi
rịn ra trên trán và nơi lòng bàn tay. Miệng tôi đắng ngắt và cổ tôi khô
ran. Tim tôi đập loạn xạ như muốn nhẩy ra khỏi lồng ngực! Ghe chúng tiến
đến gần, rồi thật gần, và sau cùng tôi cũng đã ra được lệnh khai hoả,
và đồng thời nghiến răng bóp mạnh cò súng. Khói súng khét lẹt làm mắt
tôi cay xè, hay có lẽ sợ nhìn thấy cảnh máu đổ thịt rơi nên tôi đã nhắm
chặt mắt. Tai tôi ù đi vì tiếng súng, tiếng AK nổ nghe lắp bắp như bắp
rang, mắt tôi nhắm tịt chẳng còn biết đâu là đỉnh đầu ruồi hay đâu là lỗ
chiếu môn nữa. Tôi bóp cò súng như điên để trấn an cơn sợ mà chẳng biết
mình nhắm bắn đi đâu! Mãi đến khi người toán viên nằm kế bên tôi vỗ vào
vai tôi và cho biết là chuyện đã xong rồi, tôi mới tỉnh hồn, mở mắt, và
nhổm người lên quan sát.
Cảnh vật trở nên yên lặng lạ thường, khói súng còn quyện vào với màn
sương đêm. Hai tên VC đã biến mất, chiếc ghe còn dập dềnh cách bờ khoảng
vài sải tay. Tôi cho lệnh đàn em lội ra kéo thuyền vào. Trên thuyền chỉ
thấy có một cây AK47 còn lại và một băng đạn còn nguyên, không thấy xác
hai tên Việt Cộng đâu hết cả! Không biết chúng đã bị bắn hạ lọt sông,
hay là chúng đã nhẩy xuống sông trốn mà bơi đi thì chỉ có Trời biết! Đó
là lần đầu tiên tôi đã cầm súng và cố ý giết người, tuy là bắn vào địch
quân nhưng không phải dể dàng như người ta thường nói, dĩ nhiên là những
lần sau thì dễ dàng hơn, và không còn bị mất bình tĩnh như là lần đầu.
Trong một lần công tác tại Năm Căn, tất cả 4 toán Biệt Hãi chúng tôi cùng đi chung, và có cả CHT/BH. Một chiếc ghe có ba tên VC đã lọt vào ổ phục kích của chúng tôi. Thuyền của chúng đi cách bờ khoảng 5 thước. Tôi cầm cây AK47 khua khua trên đầu để làm hiệu cho chúng ngừng lại và xin nhờ chở qua sông. Ghe VC ngừng lại nhưng không ghé vào! CHT ra lệnh khai hoả, và hơn 30 khẩu súng nhắm vào chúng mà nhả đạn thả giàn. Chúng tôi còn thẩy cả MK3 xuống sông để ngừa bọn chúng nhẩy xuống nước hầu mong tìm đường tẩu thoát. Chiếc ghe VC bị lỗ chỗ đầy vết đạn, một khẩu K54 bị bắn bể báng nằm trên ghe, nhưng không thấy xác địch đâu hết, kể cả không một vết máu để lại! Như thế thì quả thật là con người ta đều có số cả, không dễ gì mà bắn cho người ta chết khi chưa chưa tới số chết.
Trong một lần phục kích khác ở vùng sông Ông Đốc, Cà Mâu. Chúng tôi đã ngủ quên mất tiêu cả giờ về vì nằm quá lâu mà không thấy động tịnh gì hết cả! Đến khi trời mờ mờ nhá nhem sáng, thì có một người đàn ông trung niên đến gọi chúng tôi dậy mà hỏi là sao mà giờ này mà còn nằm nơi đây? Giống y như cái cảnh Bố Đường đến đánh thức mình dậy như hồi còn ở trong quân trường vậy. Vì chúng tôi mặc quần áo đen, mang AK47 nên hắn mới lầm tường tụi tôi là đồng đội của hắn nên mới lầm to đến như thế. Sau này nhờ khai thác hắn mà Quân Đoàn IV đã giải cứu được một số anh em QL/VNCH từ một trại tù của VC trong vùng. http://www.denhihocap.com/ds2006/ncknx789.html