Tham Khảo
Ngày 19 tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Bichthuy Ly
16-6-2014
Tôi, chưa một lần được chứng kiến đoàn hùng binh VNCH đi diển binh
trên các đại lộ của Sài Gòn năm xưa, vì lúc đó chưa chào đời. Người
viết chỉ được nghe kể từ ông tôi và cha, ngoài ra người viết còn
dành một số thời giờ riêng tư để tham khảo sử sách trên Internet và
các Clip Video về ngày Quân Lực 19.6 của VNCH. Là một hậu duệ, tôi
cố gắng tìm hiểu các chi tiết về ngày lịch sử nầy. Để nhận ra được
những điển son của nó và so sánh với các chế độ cùng thời quanh khu
vực nói chung.
Đây là một ngày tương đối trọng đại vì nó luôn vương vấn trong tâm
thức của những người đã từng khoát áo chinh y trong cuộc chiến chống
lại quân xâm lược cộng sản Bắc Việt từ năm 1954 đén ngày 30.4.1975.
Ra đến hải ngoại trong 4 thập niên qua, hàng năm ngày nầy đều được
các bậc bác, chú,cha... anh vinh danh trong những nơi có người Việt
tị nạn cộng sản đông đúc sinh sống.
Theo các tài liệu của VNCH ghi nhận; trong thời điểm từ khi đảo
chính nền đệ nhất VNCH 1.11.1963 cho đến 19.6.1965; miền nam VN đã
trải qua nhiều biến động về chính trị. Các cuộc đảo chính, chỉnh
lý... do các tướng lãnh hám danh liên tục thực hiện làm xáo trộn
tình hình an ninh phòng thủ của miền nam, từ đó đã làm kinh tế cũng
bị ảnh hưởng dây chuyền....Đứng trước tình hình quá bất ổn của một
đất nước đang nằm trong sự đe doạ của cộng sản, đất nước đã bước đến
mấp mé bên bờ vực thẳm, chỉ một bước nữa thôi, quân dân Miền Nam rất
có thể sẽ nằm dưới sự thống trị của cộng sản Hà Nội; Không cho phép
những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa khoanh tay đứng nhìn
điều đó xảy ra. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một tập thể duy nhất có
tổ chức chặt chẽ và tinh thần kỷ luật cao, không thể chần chờ trước
cơn quốc biến, nên đã đứng ra nhận chịu trên vai trách nhiệm nặng nề
cứu nguy đất nước và dân tộc, một Hội Đồng Quân Lực đã ra đời để cứu
nguy miền nam lúc bấy giờ và đứng ra giải quyết sự tranh chấp của
khối Phật Giáo Ấn Quang do các sư Thích Tâm Châu, Thích Hộ
Giác,Thích Trí Quang ..cầm đầu đòi giải tán chính phủ Trần Văn
Hương.
Nhưng để tỏ rõ thiện chí và quyết tâm kiến tạo nền dân chủ cho Miền
Nam, ngày 5.5.1965, Hội Ðồng Quân Lực đã quyết định trao quyền lãnh
đạo đất nước lại cho chính phủ dân sự, cụ Phan Khắc Sửu được mời làm
Quốc Trưởng, Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng. Nhưng cũng chỉ hơn
một tháng sau, ngày 11.6.1965, chính phủ dân sự do cụ Phan Khắc Sửu
làm Quốc Trưởng nhận định rằng tình hình đất nước đã đến lúc lâm
nguy nếu người quốc gia không mạnh mẽ hành động và tìm ra một con
đường tức thời nào đó. Một con đường, sau những cân nhắc thận trọng,
chính là sức mạnh của Quân Ðội. Chính phủ Phan Khắc Sửu quyết định
trao trả quyền lãnh đạo đất nước lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 19.6.1965 một Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp
Trung Ương, gồm một số tướng lãnh các cấp, trong một buổi lễ ra mắt
được tổ chức long trọng ở Thủ Ðô Sài Gòn, đã tuyên thệ trung thành
với Tổ Quốc, nhận trách nhiệm lèo lái quốc gia và làm thành phần
tiền phương của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa bảo vệ đất nước.
Quyết Ðịnh:
Ðiều 1. Thành lập một ủy ban lãnh đạo của Quân Lực mệnh danh là Ủy
Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia.
Ðiều 2. Thành phần của Ủy Ban nói trên gồm có : một Chủ Tịch, một
Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng
Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
Ðiều 3. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa điều khiển Quốc Gia.
Ðiều 4. Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:
A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
B. Tổng Thư Ký : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.
C. Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao
Kỳ.
Ðiều 5. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và
các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.
Sài Gòn, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Toàn thể các Tướng Lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
NHỮNG ĐIỂM SON ĐƯỢC GHI NHẬN SAU NGÀY 19.6
Từ đó, ngày 19.6 được đánh dấu như là một cái mốc lịch sử, một
chương mới của cuộc chiến đấu chống khối cộng sản quốc tế của quân
dân Miền Nam, mà Quân Lực Việt Nam Cộng hòa là thành phần gồng gánh
trách nhiệm lãnh đạo đất nước, xây dựng nền độc lập, tự do và dân
chủ, bình định những mầm móng nằm vùng bạo loạn trong khối Phật Giáo
Ấn Quang, ở tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống sự xâm lăng
cuồng sát của đạo quân hiếu chiến cộng sản Bắc Việt. Trung Tướng
Nguyễn Văn Thiệu sau khi đắc cử Tổng Thống đầu tiên của nền Ðệ Nhị
Cộng Hòa trong tháng 11.1967 vẫn tiếp tục cho tổ chức trọng thể lễ
kỷ niệm hàng năm ngày Quân Lực 19.6 với những cuộc diễn binh của tất
cả các đơn vị và quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để
biểu dương sức mạnh và ý chí quật khởi của dân tộc Việt Nam chống
xâm lược cộng sản từ phương Bắc.
1. Một điểm nổi bật nhất mà tôi nhận thấy được từ những người quân
nhân VNCH khi họ đứng ra đãm trách việc lảnh đạo quốc gia, là những
người nắm được quyền lực tột đỉnh trong tầm tay, nhưng nơi họ không
hề phát sinh một chính quyền độc tài quân phiệt. Ngược lại miền nam
được vui hưởng trong một thể chế hoàn toàn dân chủ, tự do đặt trên
nền tảng Pháp trị. Đó là một điểm đáng được ghi nhận nơi QL.VNCH.
Nếu như đó là một quân đội của Thái Lan, Indonesia, Miến Điện, Mã
Lai...thì chắc chắn sẽ không bao giờ được xã hội dân chủ như miền
nam VN lúc bấy giờ.
2. VNCH là một quốc gia tại Đông Nam Á có được bản Hiến Pháp văn
minh tiến bộ, nhân bản và dân chủ nhất trong khu vực. Một bản HP mà
ngày hôm nay các tổ chức đấu tranh dân chủ mới trong và ngoài nước
đang mong đợi và tranh đấu để có, đó là cái mà nước VNCH đã có cách
đây hơn nửa thế kỷ. Xin tham khảo bản HP đó tại link nầy:
http://www.danviet.de/doc/muc10/b3411d.pdf , các bạn có thể tham
khảo bản HP của VNCH năm 1967 và bản HP 2013 của CHXHCNVN để thấy
được sự tiến bộ về tư tưởng của các quân nhân VNCH.
3. Miền nam VN có một chế độ hoàn toàn đa đảng với trên 38 Phong
Trào, Liên Minh, Mặt Trận, Chính đảng... cùng tham gia sinh hoạt với
chính quyền, để cùng chia sẽ trách nhiệm với những người gốc quân
nhân trong QL.VNCH. Tính đến năm 1970 thì chính trường Miền Nam có
chín chính đảng hoạt động chính thức. Đó là:
1.Việt Nam Nhân xã Cách mạng Đảng.
2.Lực lượng Đại Đoàn kết
3.Đại Việt Cách mạng Đảng
4.Việt Nam Quốc Dân Đảng, Xứ Đảng bộ Miền Nam
5.Việt Nam Quốc dân Đảng Thống Nhất
6.Mặt trận Nhân dân Cứu nguy Dân tộc
7.Phong trào Quốc gia Cấp tiến
8.Tập đoàn Cựu Chiến sĩ Hòa Hảo Dân xã
9.Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng.
Và có hơn 88 Tổ chức chính trị, Liên Minh, Phong Trào..luôn cã các
tổ chức thân cộng như: Lực lượng Rồng Vàng của Thượng Toạ Thích Đôn
Hậu ( sau Mậu Thân 1968đã vào bưng theo vc); Mặt trận Nhân Dân cứu
Quốc của Lâm Văn Tết ( sau Mậu Thân cũng theo vc); Phong Trào Tranh
Đấu Bảo Vệ Hoà Bình và Hạnh Phúc của Thượng Toạ Thích Quảng Liên và
Luật Sư Trịnh Đình Thảo; Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của Bác Sĩ Lê
Khắc Quyến. Các hội viên của các tổ chức nầy phần lớn theo vc ra
bưng sau Mậu Thân 1968 ( nguồn- sách Đảng phái chính trị VN, Nguyễn
Khắc Ngữ, tr.96 & 97).
Tất cả cùng sinh hoạt trong không khí Dân Chủ Tự Do của miền nam VN.
Những trò chơi Dân Chủ nầy chỉ có nước VNCH mới dám thực hiện. Còn
nước CHXHCNVN thì không hy vọng, vì các đỉnh cao cho đa đảng là ngòi
nổ hủy diệt chế độ nên tìm mọi cách để khống chế.
4. Về Lập Pháp Có Quốc hội lưỡng viện: Thượng viện có 30-60 nghị sĩ
nhiệm kỳ 6 năm bầu theo liên danh lấy toàn quốc làm đơn vị độc nhất.
Hạ viện có 100 đến 200 dân biểu nhiệm kỳ 4 năm bầu theo cá nhân căn
cứ theo từng tỉnh. Chiếu theo Hiến pháp thì Hạ viện phải có 6 ghế
dành cho người Việt gốc Miên, 6 người Thượng, 2 người Chàm, và 2
người thuộc dân tộc thiểu số miền núi Bắc Việt di cư vào Nam. Khóa
đầu tiên Thượng viện năm 1967-1973 có 6 liên danh; mỗi liên danh là
10 người, tổng cộng là 60 nghị sĩ. Nguyễn Văn Huyền được bầu làm Chủ
tịch Thượng viện.
Khóa đầu tiên Hạ viện năm 1967-1971 có 137 dân biểu; Nguyễn Bá Lương
trúng tuyển làm Chủ tịch Hạ viện. Năm 1971 số dân biểu tăng lên
thành 159; mỗi dân biểu đại diện khoảng 50.000 cử tri.
Trong Quốc hội vào thời điểm năm 1974 thì Thượng viện có 41 nghị sĩ
thân chính phủ, 19 nghị sĩ đối lập; Hạ viện có 84 dân biểu thân
chính phủ, 59 đối lập và 16 độc lập, sinh hoạt chính trị hết sức sôi
nổi trong nghị trường hoà toàn do dân chọn.
5. VNCH được sự đồng tình ủng hộ và đặt liên hệ ngoại giao với trên
87 quốc gia trên thế giới.
HAI VĂN BẢN QUAN TRỌNG CHO VIỆC HÌNH THÀNH NGÀY 19.6:
TUYÊN CÁO CỦA QUỐC TRƯỞNG
CHỦ TỊCH HỘI ÐỒNG QUỐC GIA LẬP PHÁP VÀ
THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA
Sau khi duyệt lại tình trạng ngày càng một khẩn trương của đất nước,
sau khi đã xét lại và xác nhận rằng : những cơ cấu và thể chế Quốc
Gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế, sau khi đã hội ý cùng
toàn thể tướng lãnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tại Phủ Thủ Tướng
ngày 11.6.1965, chúng tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ðồng
Quốc Gia Lập Pháp, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đồng thanh quyết định
long trọng trao trả lại cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm
và quyền hành lãnh đạo quốc gia đã được Hội Ðồng Quân Lực ủy thác
cho chúng tôi chiếu theo Quyết Ðịnh số 8 ngày 5.5.1965, Tuyên Cáo số
7 ngày 5.5.1965, Quyết Ðịnh số 5 ngày 16.2.1965, Quyết Ðịnh số 6
ngày 17.2.1965 và Quyết Ðịnh số 4 ngày 16.2.1965.
Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt giai tầng địa
phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của
Cách Mạng 1.11.1963.
Làm tại Sài Gòn ngày 11.6.1965
Phan Khắc Sửu
Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa
Phan Huy Quát
Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa
Phạm Xuân Chiểu
Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp
Ngày 12.6.1965, trong một buổi họp quy tụ tất cả những tướng lãnh
đang nắm những trọng trách trong Quân Ðội từ cấp Tổng Tham Mưu
Trưởng, Tư Lệnh bốn Vùng Chiến Thuật cho đến các Tư Lệnh Quân Binh
Chủng, Hội Ðồng Quân Lực đã đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm
nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (tương đương Tổng
Thống), Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban
Hành Pháp Trung Ương (tương đương Thủ Tướng), thông qua quyết định
như sau:
QUYẾT ÐỊNH THÀNH LẬP ỦY BAN LÃNH ÐẠO QUỐC GIA
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
- Sau khi nghiên cứu Bản Tuyên Cáo Chung của Quốc Trưởng, Hội Ðồng
Quốc Gia Lập Pháp và Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 11.6.1965 trao
trả trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo Quốc Gia cho Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa.
- Chiếu biên bản Ðại Hội Ðồng các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa ngày 12.6.1965.
Các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tư Lệnh các vùng chiến
thuật và quân binh chủng đã quyết định:
Quyết Ðịnh:
Ðiều 1. Thành lập một ủy ban lãnh đạo của Quân Lực mệnh danh là Ủy
Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia.
Ðiều 2. Thành phần của Ủy Ban nói trên gồm có : một Chủ Tịch, một
Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng
Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
Ðiều 3. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa điều khiển Quốc Gia.
Ðiều 4. Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:
A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
B. Tổng Thư Ký : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.
C. Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao
Kỳ.
Ðiều 5. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và
các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.
Sài Gòn, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Toàn thể các Tướng Lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Là một hậu duệ VNCH, tôi rất kính phục sự hình thành một cơ chế xã
hội Dân Chủ Pháp Trị và Đa Đảng từ trong tinh thần TỔ QUỐC DANH DỰ
và TRÁCH NHIỆM của các tướng lãnh trong QL.VNCH. Dỉ nhiên đây là
nhận định của người trẻ hoàn toàn mang tính khách quan, không phe
phái, vụ lợi ..để làm sai lệch trong vấn về nhận định.
KẾT LUẬN:
Quân đội VNCH tuy bất hạnh trong quá khứ, họ bị bắt buộc buông súng
giữa chừng , khi cuộc cờ còn đang dang dở; nhưng ít ra người trẻ
chúng tôi nhận thấy được họ rất được xứng đáng để vinh danh vì họ
không đi ngược với đà tiến tư tưởng trong các xã hội văn minh khác
cùng thời. Họ đã nỗi bật vì đã xây dựng được một xã hội thật dân chủ
tự do và tiến bộ. Ngày Quân Lực 19.6 với người trẻ chúng tôi là ngày
mà thế giới phải ghi nhận một bước tiến từ một quân lực tuy còn son
trẻ, nhưng thật sự đã trưởng thành từ tư tưởng đến hành động trong
việc xây dựng một quốc gia văn minh nhằm tạo hạnh phúc cho nhân dân
miền nam. Một chế độ mà những dũng tướng luôn sát cánh với đồng bào
và tổ quốc. Họ là những người đã bị tà quyền gọi là ngụy quân nhưng
bản chất họ không ngụy, mà là chân. Tới nay gần 4 thập niến trôi qua
sau cuộc chiến, giờ đây chính phe thắng cuộc buộc phải lật lại suy
tư và những lập luận đã có từ trước. Họ đã chính thức tôn vinh các
chiến sĩ Hoàng Sa đã hy sinh ngày 19.1.1974, trong ngày tưởng niệm
40 năm trận hải chiến giửa hải Quân VNCH và Tàu Cộng nơi Hoàng Sa để
bảo vệ chủ quyền của VN.
Còn đối với các tướng lãnh quân đội Nhân Dân CHXHCNVN, khi giàn
khoan HD 981 được Tàu Cộng đưa vào vùng hải phận VN, thì đây chính
là thời điểm để mọi ngườ có thể nhìn thấy được họ là những người
NGỤY CHÍNH CHỦ 100% từ đầu đến chân!
Một Nguỵ Văn Thà của VNCH dám nã đạn vào đầu giặc xâm lược khác xa
với các tướng của quân đội Nhân Dân co đầu rút cổ, xây dựng hoà bình
với kẻ thù, cương quyết bám bờ để bảo vệ chủ quyền của đảng và thiên
triều. Hết thuốc chửa!!
TINH THẦN VNCH LUÔN BẤT DIỆT!
CÁM ƠN ANH, NGƯỜI CHIẾN SĨ VNCH!
NẾU ĐƯỢC LÀM CON DÂN CỦA MỘT NƯỚC, NHƯ NƯỚC VNCH, LÀ MỘT NIỀM HẢNH
DIỆN CHO MỌI THẾ HỆ CON CHÁU VIỆT TỘC.
CHÚNG TÔI KHÔNG HỀ XẤU HỔ VỚI ƯỚC MƠ ĐÓ !
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Ngày 19 tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Bichthuy Ly
16-6-2014
Tôi, chưa một lần được chứng kiến đoàn hùng binh VNCH đi diển binh
trên các đại lộ của Sài Gòn năm xưa, vì lúc đó chưa chào đời. Người
viết chỉ được nghe kể từ ông tôi và cha, ngoài ra người viết còn
dành một số thời giờ riêng tư để tham khảo sử sách trên Internet và
các Clip Video về ngày Quân Lực 19.6 của VNCH. Là một hậu duệ, tôi
cố gắng tìm hiểu các chi tiết về ngày lịch sử nầy. Để nhận ra được
những điển son của nó và so sánh với các chế độ cùng thời quanh khu
vực nói chung.
Đây là một ngày tương đối trọng đại vì nó luôn vương vấn trong tâm
thức của những người đã từng khoát áo chinh y trong cuộc chiến chống
lại quân xâm lược cộng sản Bắc Việt từ năm 1954 đén ngày 30.4.1975.
Ra đến hải ngoại trong 4 thập niên qua, hàng năm ngày nầy đều được
các bậc bác, chú,cha... anh vinh danh trong những nơi có người Việt
tị nạn cộng sản đông đúc sinh sống.
Theo các tài liệu của VNCH ghi nhận; trong thời điểm từ khi đảo
chính nền đệ nhất VNCH 1.11.1963 cho đến 19.6.1965; miền nam VN đã
trải qua nhiều biến động về chính trị. Các cuộc đảo chính, chỉnh
lý... do các tướng lãnh hám danh liên tục thực hiện làm xáo trộn
tình hình an ninh phòng thủ của miền nam, từ đó đã làm kinh tế cũng
bị ảnh hưởng dây chuyền....Đứng trước tình hình quá bất ổn của một
đất nước đang nằm trong sự đe doạ của cộng sản, đất nước đã bước đến
mấp mé bên bờ vực thẳm, chỉ một bước nữa thôi, quân dân Miền Nam rất
có thể sẽ nằm dưới sự thống trị của cộng sản Hà Nội; Không cho phép
những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa khoanh tay đứng nhìn
điều đó xảy ra. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một tập thể duy nhất có
tổ chức chặt chẽ và tinh thần kỷ luật cao, không thể chần chờ trước
cơn quốc biến, nên đã đứng ra nhận chịu trên vai trách nhiệm nặng nề
cứu nguy đất nước và dân tộc, một Hội Đồng Quân Lực đã ra đời để cứu
nguy miền nam lúc bấy giờ và đứng ra giải quyết sự tranh chấp của
khối Phật Giáo Ấn Quang do các sư Thích Tâm Châu, Thích Hộ
Giác,Thích Trí Quang ..cầm đầu đòi giải tán chính phủ Trần Văn
Hương.
Nhưng để tỏ rõ thiện chí và quyết tâm kiến tạo nền dân chủ cho Miền
Nam, ngày 5.5.1965, Hội Ðồng Quân Lực đã quyết định trao quyền lãnh
đạo đất nước lại cho chính phủ dân sự, cụ Phan Khắc Sửu được mời làm
Quốc Trưởng, Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng. Nhưng cũng chỉ hơn
một tháng sau, ngày 11.6.1965, chính phủ dân sự do cụ Phan Khắc Sửu
làm Quốc Trưởng nhận định rằng tình hình đất nước đã đến lúc lâm
nguy nếu người quốc gia không mạnh mẽ hành động và tìm ra một con
đường tức thời nào đó. Một con đường, sau những cân nhắc thận trọng,
chính là sức mạnh của Quân Ðội. Chính phủ Phan Khắc Sửu quyết định
trao trả quyền lãnh đạo đất nước lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 19.6.1965 một Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp
Trung Ương, gồm một số tướng lãnh các cấp, trong một buổi lễ ra mắt
được tổ chức long trọng ở Thủ Ðô Sài Gòn, đã tuyên thệ trung thành
với Tổ Quốc, nhận trách nhiệm lèo lái quốc gia và làm thành phần
tiền phương của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa bảo vệ đất nước.
Quyết Ðịnh:
Ðiều 1. Thành lập một ủy ban lãnh đạo của Quân Lực mệnh danh là Ủy
Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia.
Ðiều 2. Thành phần của Ủy Ban nói trên gồm có : một Chủ Tịch, một
Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng
Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
Ðiều 3. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa điều khiển Quốc Gia.
Ðiều 4. Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:
A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
B. Tổng Thư Ký : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.
C. Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao
Kỳ.
Ðiều 5. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và
các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.
Sài Gòn, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Toàn thể các Tướng Lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
NHỮNG ĐIỂM SON ĐƯỢC GHI NHẬN SAU NGÀY 19.6
Từ đó, ngày 19.6 được đánh dấu như là một cái mốc lịch sử, một
chương mới của cuộc chiến đấu chống khối cộng sản quốc tế của quân
dân Miền Nam, mà Quân Lực Việt Nam Cộng hòa là thành phần gồng gánh
trách nhiệm lãnh đạo đất nước, xây dựng nền độc lập, tự do và dân
chủ, bình định những mầm móng nằm vùng bạo loạn trong khối Phật Giáo
Ấn Quang, ở tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống sự xâm lăng
cuồng sát của đạo quân hiếu chiến cộng sản Bắc Việt. Trung Tướng
Nguyễn Văn Thiệu sau khi đắc cử Tổng Thống đầu tiên của nền Ðệ Nhị
Cộng Hòa trong tháng 11.1967 vẫn tiếp tục cho tổ chức trọng thể lễ
kỷ niệm hàng năm ngày Quân Lực 19.6 với những cuộc diễn binh của tất
cả các đơn vị và quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để
biểu dương sức mạnh và ý chí quật khởi của dân tộc Việt Nam chống
xâm lược cộng sản từ phương Bắc.
1. Một điểm nổi bật nhất mà tôi nhận thấy được từ những người quân
nhân VNCH khi họ đứng ra đãm trách việc lảnh đạo quốc gia, là những
người nắm được quyền lực tột đỉnh trong tầm tay, nhưng nơi họ không
hề phát sinh một chính quyền độc tài quân phiệt. Ngược lại miền nam
được vui hưởng trong một thể chế hoàn toàn dân chủ, tự do đặt trên
nền tảng Pháp trị. Đó là một điểm đáng được ghi nhận nơi QL.VNCH.
Nếu như đó là một quân đội của Thái Lan, Indonesia, Miến Điện, Mã
Lai...thì chắc chắn sẽ không bao giờ được xã hội dân chủ như miền
nam VN lúc bấy giờ.
2. VNCH là một quốc gia tại Đông Nam Á có được bản Hiến Pháp văn
minh tiến bộ, nhân bản và dân chủ nhất trong khu vực. Một bản HP mà
ngày hôm nay các tổ chức đấu tranh dân chủ mới trong và ngoài nước
đang mong đợi và tranh đấu để có, đó là cái mà nước VNCH đã có cách
đây hơn nửa thế kỷ. Xin tham khảo bản HP đó tại link nầy:
http://www.danviet.de/doc/muc10/b3411d.pdf , các bạn có thể tham
khảo bản HP của VNCH năm 1967 và bản HP 2013 của CHXHCNVN để thấy
được sự tiến bộ về tư tưởng của các quân nhân VNCH.
3. Miền nam VN có một chế độ hoàn toàn đa đảng với trên 38 Phong
Trào, Liên Minh, Mặt Trận, Chính đảng... cùng tham gia sinh hoạt với
chính quyền, để cùng chia sẽ trách nhiệm với những người gốc quân
nhân trong QL.VNCH. Tính đến năm 1970 thì chính trường Miền Nam có
chín chính đảng hoạt động chính thức. Đó là:
1.Việt Nam Nhân xã Cách mạng Đảng.
2.Lực lượng Đại Đoàn kết
3.Đại Việt Cách mạng Đảng
4.Việt Nam Quốc Dân Đảng, Xứ Đảng bộ Miền Nam
5.Việt Nam Quốc dân Đảng Thống Nhất
6.Mặt trận Nhân dân Cứu nguy Dân tộc
7.Phong trào Quốc gia Cấp tiến
8.Tập đoàn Cựu Chiến sĩ Hòa Hảo Dân xã
9.Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng.
Và có hơn 88 Tổ chức chính trị, Liên Minh, Phong Trào..luôn cã các
tổ chức thân cộng như: Lực lượng Rồng Vàng của Thượng Toạ Thích Đôn
Hậu ( sau Mậu Thân 1968đã vào bưng theo vc); Mặt trận Nhân Dân cứu
Quốc của Lâm Văn Tết ( sau Mậu Thân cũng theo vc); Phong Trào Tranh
Đấu Bảo Vệ Hoà Bình và Hạnh Phúc của Thượng Toạ Thích Quảng Liên và
Luật Sư Trịnh Đình Thảo; Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của Bác Sĩ Lê
Khắc Quyến. Các hội viên của các tổ chức nầy phần lớn theo vc ra
bưng sau Mậu Thân 1968 ( nguồn- sách Đảng phái chính trị VN, Nguyễn
Khắc Ngữ, tr.96 & 97).
Tất cả cùng sinh hoạt trong không khí Dân Chủ Tự Do của miền nam VN.
Những trò chơi Dân Chủ nầy chỉ có nước VNCH mới dám thực hiện. Còn
nước CHXHCNVN thì không hy vọng, vì các đỉnh cao cho đa đảng là ngòi
nổ hủy diệt chế độ nên tìm mọi cách để khống chế.
4. Về Lập Pháp Có Quốc hội lưỡng viện: Thượng viện có 30-60 nghị sĩ
nhiệm kỳ 6 năm bầu theo liên danh lấy toàn quốc làm đơn vị độc nhất.
Hạ viện có 100 đến 200 dân biểu nhiệm kỳ 4 năm bầu theo cá nhân căn
cứ theo từng tỉnh. Chiếu theo Hiến pháp thì Hạ viện phải có 6 ghế
dành cho người Việt gốc Miên, 6 người Thượng, 2 người Chàm, và 2
người thuộc dân tộc thiểu số miền núi Bắc Việt di cư vào Nam. Khóa
đầu tiên Thượng viện năm 1967-1973 có 6 liên danh; mỗi liên danh là
10 người, tổng cộng là 60 nghị sĩ. Nguyễn Văn Huyền được bầu làm Chủ
tịch Thượng viện.
Khóa đầu tiên Hạ viện năm 1967-1971 có 137 dân biểu; Nguyễn Bá Lương
trúng tuyển làm Chủ tịch Hạ viện. Năm 1971 số dân biểu tăng lên
thành 159; mỗi dân biểu đại diện khoảng 50.000 cử tri.
Trong Quốc hội vào thời điểm năm 1974 thì Thượng viện có 41 nghị sĩ
thân chính phủ, 19 nghị sĩ đối lập; Hạ viện có 84 dân biểu thân
chính phủ, 59 đối lập và 16 độc lập, sinh hoạt chính trị hết sức sôi
nổi trong nghị trường hoà toàn do dân chọn.
5. VNCH được sự đồng tình ủng hộ và đặt liên hệ ngoại giao với trên
87 quốc gia trên thế giới.
HAI VĂN BẢN QUAN TRỌNG CHO VIỆC HÌNH THÀNH NGÀY 19.6:
TUYÊN CÁO CỦA QUỐC TRƯỞNG
CHỦ TỊCH HỘI ÐỒNG QUỐC GIA LẬP PHÁP VÀ
THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA
Sau khi duyệt lại tình trạng ngày càng một khẩn trương của đất nước,
sau khi đã xét lại và xác nhận rằng : những cơ cấu và thể chế Quốc
Gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế, sau khi đã hội ý cùng
toàn thể tướng lãnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tại Phủ Thủ Tướng
ngày 11.6.1965, chúng tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ðồng
Quốc Gia Lập Pháp, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đồng thanh quyết định
long trọng trao trả lại cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm
và quyền hành lãnh đạo quốc gia đã được Hội Ðồng Quân Lực ủy thác
cho chúng tôi chiếu theo Quyết Ðịnh số 8 ngày 5.5.1965, Tuyên Cáo số
7 ngày 5.5.1965, Quyết Ðịnh số 5 ngày 16.2.1965, Quyết Ðịnh số 6
ngày 17.2.1965 và Quyết Ðịnh số 4 ngày 16.2.1965.
Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt giai tầng địa
phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của
Cách Mạng 1.11.1963.
Làm tại Sài Gòn ngày 11.6.1965
Phan Khắc Sửu
Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa
Phan Huy Quát
Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa
Phạm Xuân Chiểu
Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp
Ngày 12.6.1965, trong một buổi họp quy tụ tất cả những tướng lãnh
đang nắm những trọng trách trong Quân Ðội từ cấp Tổng Tham Mưu
Trưởng, Tư Lệnh bốn Vùng Chiến Thuật cho đến các Tư Lệnh Quân Binh
Chủng, Hội Ðồng Quân Lực đã đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm
nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (tương đương Tổng
Thống), Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban
Hành Pháp Trung Ương (tương đương Thủ Tướng), thông qua quyết định
như sau:
QUYẾT ÐỊNH THÀNH LẬP ỦY BAN LÃNH ÐẠO QUỐC GIA
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
- Sau khi nghiên cứu Bản Tuyên Cáo Chung của Quốc Trưởng, Hội Ðồng
Quốc Gia Lập Pháp và Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 11.6.1965 trao
trả trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo Quốc Gia cho Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa.
- Chiếu biên bản Ðại Hội Ðồng các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa ngày 12.6.1965.
Các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tư Lệnh các vùng chiến
thuật và quân binh chủng đã quyết định:
Quyết Ðịnh:
Ðiều 1. Thành lập một ủy ban lãnh đạo của Quân Lực mệnh danh là Ủy
Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia.
Ðiều 2. Thành phần của Ủy Ban nói trên gồm có : một Chủ Tịch, một
Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng
Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
Ðiều 3. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa điều khiển Quốc Gia.
Ðiều 4. Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:
A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
B. Tổng Thư Ký : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.
C. Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao
Kỳ.
Ðiều 5. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và
các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.
Sài Gòn, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Toàn thể các Tướng Lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Là một hậu duệ VNCH, tôi rất kính phục sự hình thành một cơ chế xã
hội Dân Chủ Pháp Trị và Đa Đảng từ trong tinh thần TỔ QUỐC DANH DỰ
và TRÁCH NHIỆM của các tướng lãnh trong QL.VNCH. Dỉ nhiên đây là
nhận định của người trẻ hoàn toàn mang tính khách quan, không phe
phái, vụ lợi ..để làm sai lệch trong vấn về nhận định.
KẾT LUẬN:
Quân đội VNCH tuy bất hạnh trong quá khứ, họ bị bắt buộc buông súng
giữa chừng , khi cuộc cờ còn đang dang dở; nhưng ít ra người trẻ
chúng tôi nhận thấy được họ rất được xứng đáng để vinh danh vì họ
không đi ngược với đà tiến tư tưởng trong các xã hội văn minh khác
cùng thời. Họ đã nỗi bật vì đã xây dựng được một xã hội thật dân chủ
tự do và tiến bộ. Ngày Quân Lực 19.6 với người trẻ chúng tôi là ngày
mà thế giới phải ghi nhận một bước tiến từ một quân lực tuy còn son
trẻ, nhưng thật sự đã trưởng thành từ tư tưởng đến hành động trong
việc xây dựng một quốc gia văn minh nhằm tạo hạnh phúc cho nhân dân
miền nam. Một chế độ mà những dũng tướng luôn sát cánh với đồng bào
và tổ quốc. Họ là những người đã bị tà quyền gọi là ngụy quân nhưng
bản chất họ không ngụy, mà là chân. Tới nay gần 4 thập niến trôi qua
sau cuộc chiến, giờ đây chính phe thắng cuộc buộc phải lật lại suy
tư và những lập luận đã có từ trước. Họ đã chính thức tôn vinh các
chiến sĩ Hoàng Sa đã hy sinh ngày 19.1.1974, trong ngày tưởng niệm
40 năm trận hải chiến giửa hải Quân VNCH và Tàu Cộng nơi Hoàng Sa để
bảo vệ chủ quyền của VN.
Còn đối với các tướng lãnh quân đội Nhân Dân CHXHCNVN, khi giàn
khoan HD 981 được Tàu Cộng đưa vào vùng hải phận VN, thì đây chính
là thời điểm để mọi ngườ có thể nhìn thấy được họ là những người
NGỤY CHÍNH CHỦ 100% từ đầu đến chân!
Một Nguỵ Văn Thà của VNCH dám nã đạn vào đầu giặc xâm lược khác xa
với các tướng của quân đội Nhân Dân co đầu rút cổ, xây dựng hoà bình
với kẻ thù, cương quyết bám bờ để bảo vệ chủ quyền của đảng và thiên
triều. Hết thuốc chửa!!
TINH THẦN VNCH LUÔN BẤT DIỆT!
CÁM ƠN ANH, NGƯỜI CHIẾN SĨ VNCH!
NẾU ĐƯỢC LÀM CON DÂN CỦA MỘT NƯỚC, NHƯ NƯỚC VNCH, LÀ MỘT NIỀM HẢNH
DIỆN CHO MỌI THẾ HỆ CON CHÁU VIỆT TỘC.
CHÚNG TÔI KHÔNG HỀ XẤU HỔ VỚI ƯỚC MƠ ĐÓ !