Đoạn Đường Chiến Binh
Ngày tháng Hè sau cùng,
Ngày
tháng Hè sau cùng,
NguyenVuDuong MD54
Trời về chiều gần tối, khí hậu đã bớt nóng oi bức. Mấy tuần sau
ngày
ngưng tiếng súng khắp nơi, cuối tháng 4 năm 75. Trong quán cóc,
góc phố nhỏ,
quận sát cạnh thành phố, cảnh ngổn ngang hỗn tạp trên đường phố
vẫn còn như
nguyên vẹn. Gã ngồi một mình, vóc dáng người vừa phải, cạnh
chiếc bàn gỗ
vuông con khá thấp, trên đó, hai ly cà phê đen nhỏ, một bình
đựng nước trà
bằng sành sứ, chiếc gạt tàn thuốc bằng sắt, mầu sơn đỏ rỉ sét,
bao thuốc lá
không còn nguyên vẹn hình dáng và chiếc hộp quẹt zippo nắp đậy
kín, nhưng
vẫn còn hé mở. Gã bận chiếc quần lính, hai ống quần có một vài
lỗ lủng nhỏ,
mầu hoa lá rừng cũ mèn, mầu bệt nâu đất đỏ đã không còn tươi
sắc. Bận chiếc
áo sơ mi dài tay của quân đội mầu xanh lục lá chuối bạc mầu, bó
sát người,
không hợp với khổ người của gã, chiếc áo chắc lấy của ai đó mặc
vào. Một tay
áo buông thả, một tay áo sắn lên cao, lộ rõ mầu da sám nâu với
những đường
gân đen, và đôi bàn tay có vài ngón cong vẹo. Đôi mắt gã đăm
chiêu nhìn ra
ngoài đường phố. Bên kia đường, phia đối diện quán, nơi chỉ mới
đây thôi, khi từ
miền Trung về, gã đã ghé vào, căn cứ bộ tư lệnh sư đoàn gã phục
vụ. Một tay
cầm giữ ly cà phê, một tay cầm điếu thuốc lá không đầu lọc, cúi
đầu nhìn xuống
đất, miệng lẩm bẩm, phát ra những âm thanh nho nhỏ, đứt đoạn.
- Tiên sư mày, tại sao?
tại sao? lại bỏ tao những giờ phút như lúc này, tại
sao mày lại chết cơ chứ? tại sao? không ngồi đây như mọi khi,
nhâm nhi ly cà
phê và cùng nhau nhớ lại những tháng ngày hành quân, những tháng
ngày ăn
cơm sấy, mì gói, uống nước lấy từ các hố bom, những tháng ngày
bom đạn, lửa
cháy đỏ ngút trời nơi cao nguyên, nơi rừng già cổ thụ, nơi rừng
tre miền Đông
Tây Ninh dầy đặc, đi xuyên phá bị những con vắt bám đầy người,
tại sao...?
Trong quán phía đối diện, một gã khác tuổi đời chắc ít hơn hay
cũng
tương tự, ngồi trầm ngâm im lặng ngắm nhìn mọi cử chỉ hành động
của gã. Vì
không nghe rõ được những điều gã lẩm bẩm phát ra, gã lặng lẽ
đứng lên, tiến lại
ngồi trên chiếc ghế nhỏ của bàn trống kế bên. Chiếc bàn này cũng
cũ kỹ mầu
sám đen y như bàn của gã quần hoa rừng. Tay đặt ly ca phê thật
nhẹ lên bàn, cố
ý không cho tạo nên bất cứ âm thanh lớn nhỏ nào. Gã này quần áo
ăn bận thì
ngược lại, chiếc quần jean vải dầy mầu xanh dương bạc cũ, nơi
đầu gối ở bên
chân phải, cũng có một vài lỗ thủng nhỏ, bân chiếc áo trận cũng
mầu hoa lá
rừng, nhưng trên đó mầu xanh lục bệt lá cây nhiều hơn so với mầu
bệt đỏ bùn
đất với chiếc quần của gã, chân mang đôi dép da mầu nâu đậm đã
cong mũi,
Gã quần hoa rừng, đưa điếu thuốc lên miệng, ngửng đầu hút một
hơi khá
dài, rồi cúi đầu nhã khói ra từ từ, đặt diếu thuốc lá cháy dở
trên chiếc bình gạt
tàn, tay chống cằm, nhìn ngoài đường bằng đôi mắt xa vắng. Đường
phố lúc
này về tối, nên cũng ít xe cộ chạy qua lại như thời điểm buổi
sáng, có bụi đất bay
bổng xen lẫn những mảnh vụn cỏ rác. Hút xong hơi thuốc, cúi nhìn
ly cà phê
còn nguyên đã nguội lạnh trên bàn, gã bẩm bẩm:
- Tiên sư mày, sao lại không uống cà phê đi, để nguội ngắt, đâu
có còn
ngon nữa.
- Ngồi với tao một lát nữa rồi hãy đi về chuẩn bị hành trang đi
hành quân cũng
còn kịp.
- À, nói với vợ mày, kỳ đi hành quân này, nhớ mua mang theo cho
tao ít
khô cá khô lóc, riêng cà
phê và thuốc lá, tao khỏi phải nhắc, vì bà ấy biết tao và
mày cùng hút chung một loại thuốc.
- Mày yên chí đi, về hậu cứ không trễ đâu, đích thân của tụi
mình, tao cảm
nhận được trong đại đội có lẽ
tụi mình được ông ấy thích nhất, mặc dù, tuy đôi
lúc, trước hàng quân, ông thường
to tiếng răn đe phạt tụi mình, cái tội, mỗi khi
hành quân về đến hậu cứ, tao với
mày thường quăng mẹ nó ba lô và súng đạn,
bỏ cả gác sách, dông tuốt về
Saigon ăn chơi. Tao thương nhất bố thượng sĩ
thường vụ, bố phải gánh vác mấy
thứ của nợ này của tụi mình, cũng như bố còn
phải nghe than phiền đầy lỗ tai
của những đứa trong đại đội, vì quê quán ở mãi
tít tận miền Trung, không có chỗ
nào đi, mỗi khi hành quân về, chỉ quanh quẩn
trong trang trại hậu cứ và
thường bị phải gánh vác thêm mấy công việc của
những đứa như tụi mình để lại.
- Ê Việt, mày còn nhớ những ngày
xưa không? Những năm tháng tuổi học
trò. Ngày ấy, tụi mình là những
nhóc tì con. ở chung xóm, học chung trường.
Sau hiệp định 54, mày theo bố mẹ
di cư vào miền Nam bằng tàu thủy há mồm.
Thuở ấy đám nhóc tì tụi mình
thường đánh nhau chí chóe, bên phe rau muống,
bên phe giá sống. Tao quen mày
từ ngày phe mày ít người, bị phe tao đánh cho
một trận tơi bời hóa và mày là
một trong đám bị ăn đòn nhiều nhất, tao thấy tội,
đến bên, dìu mày về nhà. Kỳ thi
tú tài cả hai bị rớt đài, tao với mày vì hoàn cảnh
gia đình, không còn chọn lựa nào
khác, bọn mình rủ nhau vào lính. Ngày ấy,
chẳng có đứa nào thấy được sự
nguy hiểm việc lựa chọn làm cái nghề đi đánh
nhau bằng súng đạn, lãnh đồng
lương chết đói. Sau ba tháng đổ mồ hôi, vất vả
trong quân trường, tao và mày rủ
nhau cùng tình nguyện về phục vụ trong binh
chủng Nhảy Dù. Nhớ lại lần đàu
tiên đeo dù nhảy, ngồi trên phi cơ tao cầu
nguyện liên tục. Khi vừa phóng
ra khỏi cửa phi cơ, cuối đầu nhắm tịt mắt, miệng
đếm, ba trăm ba mươi mốt, ba
trăm ba mươi hai và vừa đếm hết con số 333, thì
dù mở kéo giật người lên, rồi hạ
xuống từ từ, nhìn phía dưới thấy mặt đất cứ trồi
lên, sợ gẫy cẳng, quên mẹ nó cả
bài học đáp xuống đất, co chân, tao đáp xuống
bằng mông ê cả đít, đã vậy, bữa
đó gặp gió to, bị dù lôi kéo lướt trên mặt đất
như lướt ván trên sông; cố kìm
lại, trật cả tay. Lý do về Nhảy Dù, cũng do bởi lúc
còn là những chú nhóc học sinh,
mỗi khi ra đường, thấy mấy anh lính Dù, với
quần áo hoa rừng, đầu đội chiếc
nón bê rê mầu đỏ, đi ngênh ngay giữa phố,
nhiều anh còn có các cô đào xinh
như mộng kế bên, trông thật đẹp và oai phong,
hơn hẳn so với các loại lính
khác.
Năm tháng đầu đời quân ngũ cũng
không đến nỗi vất vả và nguy hiểm
cho lắm, bởi khi ấy súng đạn của
cả hai phía chưa có mức tàn sát lan rộng mãnh
liệt. Từ sau vụ trận Mậu Thân,
dẹp giặc trong thành phố, rồi lan rộng khắp bốn
vùng chiến thuật. Khởi đầu cho
những trận chiến khốc liệt kéo theo là trận Hạ
Lào năm 71. Sau cuộc hành quân này, tao với mày vẫn còn may
mắn được
nguyên vẹn, mặc dù tụi mình đã
mất đi khá nhiếu đám bạn thân, mất cả bố
thường vụ kính yêu, một người mà
tụi mình coi ông như cha ruột, tao vẫn tiếc
không được chào thân xác bố lần
cuối.
- Kính thưa bố, ở nơi chốn nào
đó bên ngoài thế giới này. Những thằng
lính ngày xưa của bố, lúc nào
chúng cũng luôn luôn tin tưởng, được bố thương
yêu che chở, dù ở trong bất cứ
hoàn cảnh nào,
- À mà này bố! nơi chốn bình yên ấy ? chắc
không có cảnh bố phải la hét
đám thuộc hạ ba gai bỏ canh gác,
bỏ cả chùi súng đạn mỗi khi hành quân về, và
chắc bố cũng không còn phải nghe
mấy anh chàng lính Mũ Đỏ quê miền Trung,
làu nhàu bố bắt chúng canh gác
trực trại, thế cho đám ba gai như tụi con.
- Bố ơi! ước gì lúc này mà có bố
bên cạnh, những giờ phút cay đắng tủi
hổ như lúc này.,,,nhưng mà thôi,
bố mất đi, thà như vậy, còn hơn bây giờ bố còn
sống.
Từ Chơn Thành, đại đội mình cùng
tiểu đoàn theo trục lộ 13 tiến quân vào
thị xã An Lộc, để giải tỏa áp
lực bị chiếm đóng bởi Cộng quân. Vài tuần lễ đầu
khá căng thẳng, nhưng cũng không
đến nỗi nào, rồi mưa pháo, xen lẫn tiếng
gầm thét cúa các chiến xa hạng
nặng của cộng quân mà lần đầu tiên trong đời
lính, tụi mình nghe được. Trong
trận đánh khốc liệt này tao bị thương nhẹ nơi
·
cánh tay, còn mày thì may mắn
không bị vết tích nào. Vừa gần xong trận An Lộc,
chưa được nghỉ dưỡng quân, tụi
mình lại ra tham dự trận Cổ Thành, Quảng Trị.
Buổi tối đó, dưới những hố chống
pháo được đào vội, tung đất đá sỏi lên để trú
ẩn, tao còn nhớ đã nói với mày:
- Ê Việt, tao linh cảm, nếu kỳ
này tao có mệnh hệ gì, nhớ đừng báo vội
cho bà già tao biết, kể cả đứa
em gái út của tao.
- Nam, sư bố mày đừng nói nhảm.
Khi đơn vị tiến gần sát cận cổ
thành. Sau nhiều loạt mưa pháo, đồng ập
xuống trên đầu, với đủ loại mức
tàn phá, từ trên không, xuống đến dưới mặt đất.
Kiểm tuyến, thường vụ báo, mày
tử trận vì trúng phải đạn pháo.
- Tiên sư mày, Việt, sao người
ra đi lại không phải là tao, như linh cảm,
mà lại là mày? bởi vì mày còn
rât nhiều trách nhiệm còn phải lo, mày ra đi dễ
dàng đến thế sao?
Suốt bao nhiêu trận chiến, từ
những "đỉnh gió hú" cao ngất trời nơi cao
nguyên đất đỏ Kontum, Plei-me,
Ban Mê thuật, xuống thung lũng, miền giáp cát
trắng Nha Trang, hay những nơi
vách núi hiểm trở gần biên giới Thái, Lào. cũng
như các trận bên Cam Bốt rồi
Bình Long, An Lộc Mày và tao đều cùng nhau qua
khỏi, dù đám bạn bè thân thương
đồng lứa hay các lứa sau tụi mình trong đơn vị
đã nằm xuống rất nhiều, kể cả
những ông thầy đích thân coi anh em thuộc hạ
còn hơn cả tình anh em ruột
thịt.
- Tại sao mày lại ra đi chỉ vọn
vẹn một vài loạt đợt mưa pháo của cộng
quân.
- Việt, tiên sư mày bỏ tao lại,
mày ác thật !
Lúc đưa xác mày về với gia đình
vợ con. Lũ nhỏ chạy ra ôm chân tao
mừng rỡ, chúng cũng tưởng như
mọi lần, bố của chúng và người bạn thân của
bố đi hành quân về, nhìn những
người lính bận quân phục như bố, khiêng chiếc
quan tài, đứa con gái lớn nhất
của mày hỏi tao:
- Chú Nam, mấy ông lính như chú,
họ khiêng cái hòm gì mà to thế ? Vơ
mày từ trong nhà vụt chạy ra,
nhìn quan tài, chưa nói được câu nào đã ngã quị
trên sân gạch trước nhà,,,,, rồi
vợ mày đứng lên thấy tao.
- Anh Nam, Việt đâu?,,,nhưng rồi
lại im bặt. Với tất cả mọi cố gắng kìm
hãm cơn uất hận đau xót đến tận
cùng, vợ mày vừa nắm áo, vừa đấm ngực tao
nói trong cơn đứt đoạn:
- Anh đã hứa với tôi, trước mỗi
lần đi hành quân,,,,, anh chẳng bảo với tôi
rằng,,,, cả hai đều trở về cơ
mà. Sao giờ này,,,, anh có thể nhẫn tâm đưa Việt trở
về nằm yên trong cái hòm gỗ xa
lạ này.
- Việt, mày thấy đó, tại sao
người ra đi không phải là tao, vì như vậy, ít ra
tao không phải nghe được những
than trách đầy thân thương đến tận cùng đáy
tâm hồn của vợ mày dành cho tao.
- Chi Việt, không biết giờ này
chị ở đâu, nếu có đọc những dòng chữ này,
cho tôi xin được một lần
nữa, cuối đầu trước chị và mấy cháu, xin
tha thứ cho
một người bạn đã không giữ được
trọn lời hứa.
Đầu ngục xuống chiếc bàn, trên
tay cầm điếu thuốc đã tắt nghịm từ lâu.
Sự im lặng kéo dài cũng khá lâu.
Và rồi, gã quần jean xanh đứng dậy, tiến thật
chậm đến sát bên, đưa hai ngón
tay rút mẩu thuốc tàn ra khỏi tay gã.
- Ê, ai làm cái gì đó, miêng kêu
lên nho nhỏ nhưng vẫn không nhìn lên.
- Thưa anh, tôi đây, tôi tên
Hùng, lúc trước ở binh chủng Thủy Quân Lục
Chiến. Nghe nói vậy hắn ngửng
lên, đôi mắt, nước vẫn còn ướt sũng trên khuôn
mặt ẩn hiện rõ tất cả nỗi đau
khổ đang chịu đựng trong tâm hồn.
- Cám ơn anh, tôi tên Nam, lính
nhảy dù.
- Xin anh Nam cho phép tôi được
ngồi chung bàn. Gã gật đầu:
- Lính tráng gì, mà sao lại
khách sáo thế!
- Anh nói vậy tôi an tâm.
Diễn tiến được tiếp nối, bằng
một giọng trầm buồn, gã lính mũ nồi xanh, tâm sự:
·
Sau khi đi thi, đậu được cái
mảnh bằng tú tài, gia đình không có đủ tiền để
học tiếp, gã tình nguyện vào Thủ
Đức, trước thời hạn tuổi động viên, mãn khóa
quân trường, chon binh chủng
Thủy Quân Lục Chiến để phục vụ. Mấy năm đầu
đơn vị đóng loanh quanh Saigon,
rồi tình thế chính trị và quân sự sôi động, cả
nguyên một sư đoàn ra trấn ải
nơi vùng I chiến thuật, phía bờ Nam sông Bến
Hải. Ngày đó, mấy anh lính dưới
quyền thường nói với gã, họ là lính Địa Phương
Quân, Nghĩa Quân, bận sắc phục
loại mới, màu hoa lá xanh của đồng rừng.
Thời gian sau, gã cũng có người
yêu tại Saigon, và thường hát bằng cái giọng
khan khan vịt đực nhạc bản,
"Chiều trên phá Tam Giang", Đám lính tráng thuộc
hạ tâng bốc gã và họ bảo gã hát
còn hay hơn cả ca sĩ Trung Chỉnh, một anh
chàng quân y sĩ cùng binh chủng.
Rồi bẵng một thời gian dài,
không thấy hắn còn ngêu ngao nhạc bản quen
thuộc nữa, đám bạn bè và lính
tráng dưới quyền tò mò hỏi, gã đành bật mí cho
biết tại vì gia đình không môn
đăng hậu đối và tôn giáo. Một chiều nọ, ngồi một
mình trong căn chòi bỏ hoang,
vùng nơi đơn vị chiếm đóng, chạy dài ven biển
đến bến phá Tam Giang, đối diện
phía Tây là "Dẫy Phố Dìu Hiu" cây số 17, trục
quốc lộ 1 Quảng Trị, gã lẩm
bẩm:
- Thế nào xứng đáng môn đăng?
Thê nào hộ đối,? Tôn giáo nào mà
chẳng có một đức tin để tôn thờ?
- Thế gian này, gia đình nghèo
cũng có tội thật sao?
Hiểu truyện tình của gã, một
người bạn thân, đã khuyên gã như thế này:
- Hùng, mày, từ nay, đừng có bao
giờ hy vọng để khỏi bị thất vọng.
Mối tình đầu đời của gã kết thúc
chưa vươi đi hẳn nỗi nhớ thương, thì
cuộc triệt thoái bất ngờ vụt
đến. Từ bến bờ phá Tam Giang, hắn thoát chạy vào
Nam. Biến cố này, thời gian sau,
một anh chàng cùng gốc binh chủng của hắn
viết hồi ký đặt cho cái tên
"tháng 3 gẫy súng". Đến đây, gã dừng lại:
- Gẫy súng thật phải không anh?
- Đúng, đúng, gẫy súng thật,
không những thế, mà còn gẫy rất nhiều
những thứ khác, Và rồi, gã đứng
dậy, vừa nói vừa vung hai cánh tay lên không.
- Gẫy, gẫy, gẫy tất cả, gẫy tan
tành như xác pháo, tiên sư đời, sao tự
nhiên đang đánh nhau mà lại phải
buông súng xuống,,,,, mà tổ cha nó, trận chiến
đã kết thúc đâu! Có bao giờ bọn
chó đẻ chúng thắng đâu ?,,,,,mà lại phải buông
súng xuống. Hết cơn giận, gã
ngồi xuống.
- Việt, mày có nghe tao nói
không? Cũng may cho mày đã không còn, để
nhìn thấy hình ảnh mấy ngày đầu
im tiếng súng, một đoàn quân với đủ loại quân
phục, từ đầu xuống chân ăn bận
không đúng cách lần lượt bước ra đi khỏi thành
phố ; phía đối diện bên kia
đường, cũng gọi là đoàn quân, đứa chân đất, đứa
chân mang dép sợi cao su đen, cũng
quần áo lếch thếch màu xanh lá chuối non,
đứa đội chiếc nón cối, đứa nón
vải tai bèo, vai vác súng đủ loại, bước tiến vào
trong thành phố với đôi mắt ngỡ
ngàng, nở tròn xoe, hết nhìn nhà cửa, hàng
quán, rồi lại nhìn xe cộ chạy
ngược xuôi.
Nói xong, gã cầm bình trà, đổ
nước vào đầy ly, uống một hơi gần hết
nước. Im lặng trong chốc lát, và
rồi gã vụt đứng bật dậy, hét to:
- Tổ cha nó, mấy cái ông to đầu
đâu hết rồi ? gã quần jean xanh.
- Mấy ông đó, gần như chạy hết
rồi !
NguyenVuDuong MD54
Trung tuần tháng Sáu, 41 năm sau.
Bàn ra tán vào (0)
Ngày tháng Hè sau cùng,
Ngày
tháng Hè sau cùng,
NguyenVuDuong MD54
Trời về chiều gần tối, khí hậu đã bớt nóng oi bức. Mấy tuần sau
ngày
ngưng tiếng súng khắp nơi, cuối tháng 4 năm 75. Trong quán cóc,
góc phố nhỏ,
quận sát cạnh thành phố, cảnh ngổn ngang hỗn tạp trên đường phố
vẫn còn như
nguyên vẹn. Gã ngồi một mình, vóc dáng người vừa phải, cạnh
chiếc bàn gỗ
vuông con khá thấp, trên đó, hai ly cà phê đen nhỏ, một bình
đựng nước trà
bằng sành sứ, chiếc gạt tàn thuốc bằng sắt, mầu sơn đỏ rỉ sét,
bao thuốc lá
không còn nguyên vẹn hình dáng và chiếc hộp quẹt zippo nắp đậy
kín, nhưng
vẫn còn hé mở. Gã bận chiếc quần lính, hai ống quần có một vài
lỗ lủng nhỏ,
mầu hoa lá rừng cũ mèn, mầu bệt nâu đất đỏ đã không còn tươi
sắc. Bận chiếc
áo sơ mi dài tay của quân đội mầu xanh lục lá chuối bạc mầu, bó
sát người,
không hợp với khổ người của gã, chiếc áo chắc lấy của ai đó mặc
vào. Một tay
áo buông thả, một tay áo sắn lên cao, lộ rõ mầu da sám nâu với
những đường
gân đen, và đôi bàn tay có vài ngón cong vẹo. Đôi mắt gã đăm
chiêu nhìn ra
ngoài đường phố. Bên kia đường, phia đối diện quán, nơi chỉ mới
đây thôi, khi từ
miền Trung về, gã đã ghé vào, căn cứ bộ tư lệnh sư đoàn gã phục
vụ. Một tay
cầm giữ ly cà phê, một tay cầm điếu thuốc lá không đầu lọc, cúi
đầu nhìn xuống
đất, miệng lẩm bẩm, phát ra những âm thanh nho nhỏ, đứt đoạn.
- Tiên sư mày, tại sao?
tại sao? lại bỏ tao những giờ phút như lúc này, tại
sao mày lại chết cơ chứ? tại sao? không ngồi đây như mọi khi,
nhâm nhi ly cà
phê và cùng nhau nhớ lại những tháng ngày hành quân, những tháng
ngày ăn
cơm sấy, mì gói, uống nước lấy từ các hố bom, những tháng ngày
bom đạn, lửa
cháy đỏ ngút trời nơi cao nguyên, nơi rừng già cổ thụ, nơi rừng
tre miền Đông
Tây Ninh dầy đặc, đi xuyên phá bị những con vắt bám đầy người,
tại sao...?
Trong quán phía đối diện, một gã khác tuổi đời chắc ít hơn hay
cũng
tương tự, ngồi trầm ngâm im lặng ngắm nhìn mọi cử chỉ hành động
của gã. Vì
không nghe rõ được những điều gã lẩm bẩm phát ra, gã lặng lẽ
đứng lên, tiến lại
ngồi trên chiếc ghế nhỏ của bàn trống kế bên. Chiếc bàn này cũng
cũ kỹ mầu
sám đen y như bàn của gã quần hoa rừng. Tay đặt ly ca phê thật
nhẹ lên bàn, cố
ý không cho tạo nên bất cứ âm thanh lớn nhỏ nào. Gã này quần áo
ăn bận thì
ngược lại, chiếc quần jean vải dầy mầu xanh dương bạc cũ, nơi
đầu gối ở bên
chân phải, cũng có một vài lỗ thủng nhỏ, bân chiếc áo trận cũng
mầu hoa lá
rừng, nhưng trên đó mầu xanh lục bệt lá cây nhiều hơn so với mầu
bệt đỏ bùn
đất với chiếc quần của gã, chân mang đôi dép da mầu nâu đậm đã
cong mũi,
Gã quần hoa rừng, đưa điếu thuốc lên miệng, ngửng đầu hút một
hơi khá
dài, rồi cúi đầu nhã khói ra từ từ, đặt diếu thuốc lá cháy dở
trên chiếc bình gạt
tàn, tay chống cằm, nhìn ngoài đường bằng đôi mắt xa vắng. Đường
phố lúc
này về tối, nên cũng ít xe cộ chạy qua lại như thời điểm buổi
sáng, có bụi đất bay
bổng xen lẫn những mảnh vụn cỏ rác. Hút xong hơi thuốc, cúi nhìn
ly cà phê
còn nguyên đã nguội lạnh trên bàn, gã bẩm bẩm:
- Tiên sư mày, sao lại không uống cà phê đi, để nguội ngắt, đâu
có còn
ngon nữa.
- Ngồi với tao một lát nữa rồi hãy đi về chuẩn bị hành trang đi
hành quân cũng
còn kịp.
- À, nói với vợ mày, kỳ đi hành quân này, nhớ mua mang theo cho
tao ít
khô cá khô lóc, riêng cà
phê và thuốc lá, tao khỏi phải nhắc, vì bà ấy biết tao và
mày cùng hút chung một loại thuốc.
- Mày yên chí đi, về hậu cứ không trễ đâu, đích thân của tụi
mình, tao cảm
nhận được trong đại đội có lẽ
tụi mình được ông ấy thích nhất, mặc dù, tuy đôi
lúc, trước hàng quân, ông thường
to tiếng răn đe phạt tụi mình, cái tội, mỗi khi
hành quân về đến hậu cứ, tao với
mày thường quăng mẹ nó ba lô và súng đạn,
bỏ cả gác sách, dông tuốt về
Saigon ăn chơi. Tao thương nhất bố thượng sĩ
thường vụ, bố phải gánh vác mấy
thứ của nợ này của tụi mình, cũng như bố còn
phải nghe than phiền đầy lỗ tai
của những đứa trong đại đội, vì quê quán ở mãi
tít tận miền Trung, không có chỗ
nào đi, mỗi khi hành quân về, chỉ quanh quẩn
trong trang trại hậu cứ và
thường bị phải gánh vác thêm mấy công việc của
những đứa như tụi mình để lại.
- Ê Việt, mày còn nhớ những ngày
xưa không? Những năm tháng tuổi học
trò. Ngày ấy, tụi mình là những
nhóc tì con. ở chung xóm, học chung trường.
Sau hiệp định 54, mày theo bố mẹ
di cư vào miền Nam bằng tàu thủy há mồm.
Thuở ấy đám nhóc tì tụi mình
thường đánh nhau chí chóe, bên phe rau muống,
bên phe giá sống. Tao quen mày
từ ngày phe mày ít người, bị phe tao đánh cho
một trận tơi bời hóa và mày là
một trong đám bị ăn đòn nhiều nhất, tao thấy tội,
đến bên, dìu mày về nhà. Kỳ thi
tú tài cả hai bị rớt đài, tao với mày vì hoàn cảnh
gia đình, không còn chọn lựa nào
khác, bọn mình rủ nhau vào lính. Ngày ấy,
chẳng có đứa nào thấy được sự
nguy hiểm việc lựa chọn làm cái nghề đi đánh
nhau bằng súng đạn, lãnh đồng
lương chết đói. Sau ba tháng đổ mồ hôi, vất vả
trong quân trường, tao và mày rủ
nhau cùng tình nguyện về phục vụ trong binh
chủng Nhảy Dù. Nhớ lại lần đàu
tiên đeo dù nhảy, ngồi trên phi cơ tao cầu
nguyện liên tục. Khi vừa phóng
ra khỏi cửa phi cơ, cuối đầu nhắm tịt mắt, miệng
đếm, ba trăm ba mươi mốt, ba
trăm ba mươi hai và vừa đếm hết con số 333, thì
dù mở kéo giật người lên, rồi hạ
xuống từ từ, nhìn phía dưới thấy mặt đất cứ trồi
lên, sợ gẫy cẳng, quên mẹ nó cả
bài học đáp xuống đất, co chân, tao đáp xuống
bằng mông ê cả đít, đã vậy, bữa
đó gặp gió to, bị dù lôi kéo lướt trên mặt đất
như lướt ván trên sông; cố kìm
lại, trật cả tay. Lý do về Nhảy Dù, cũng do bởi lúc
còn là những chú nhóc học sinh,
mỗi khi ra đường, thấy mấy anh lính Dù, với
quần áo hoa rừng, đầu đội chiếc
nón bê rê mầu đỏ, đi ngênh ngay giữa phố,
nhiều anh còn có các cô đào xinh
như mộng kế bên, trông thật đẹp và oai phong,
hơn hẳn so với các loại lính
khác.
Năm tháng đầu đời quân ngũ cũng
không đến nỗi vất vả và nguy hiểm
cho lắm, bởi khi ấy súng đạn của
cả hai phía chưa có mức tàn sát lan rộng mãnh
liệt. Từ sau vụ trận Mậu Thân,
dẹp giặc trong thành phố, rồi lan rộng khắp bốn
vùng chiến thuật. Khởi đầu cho
những trận chiến khốc liệt kéo theo là trận Hạ
Lào năm 71. Sau cuộc hành quân này, tao với mày vẫn còn may
mắn được
nguyên vẹn, mặc dù tụi mình đã
mất đi khá nhiếu đám bạn thân, mất cả bố
thường vụ kính yêu, một người mà
tụi mình coi ông như cha ruột, tao vẫn tiếc
không được chào thân xác bố lần
cuối.
- Kính thưa bố, ở nơi chốn nào
đó bên ngoài thế giới này. Những thằng
lính ngày xưa của bố, lúc nào
chúng cũng luôn luôn tin tưởng, được bố thương
yêu che chở, dù ở trong bất cứ
hoàn cảnh nào,
- À mà này bố! nơi chốn bình yên ấy ? chắc
không có cảnh bố phải la hét
đám thuộc hạ ba gai bỏ canh gác,
bỏ cả chùi súng đạn mỗi khi hành quân về, và
chắc bố cũng không còn phải nghe
mấy anh chàng lính Mũ Đỏ quê miền Trung,
làu nhàu bố bắt chúng canh gác
trực trại, thế cho đám ba gai như tụi con.
- Bố ơi! ước gì lúc này mà có bố
bên cạnh, những giờ phút cay đắng tủi
hổ như lúc này.,,,nhưng mà thôi,
bố mất đi, thà như vậy, còn hơn bây giờ bố còn
sống.
Từ Chơn Thành, đại đội mình cùng
tiểu đoàn theo trục lộ 13 tiến quân vào
thị xã An Lộc, để giải tỏa áp
lực bị chiếm đóng bởi Cộng quân. Vài tuần lễ đầu
khá căng thẳng, nhưng cũng không
đến nỗi nào, rồi mưa pháo, xen lẫn tiếng
gầm thét cúa các chiến xa hạng
nặng của cộng quân mà lần đầu tiên trong đời
lính, tụi mình nghe được. Trong
trận đánh khốc liệt này tao bị thương nhẹ nơi
·
cánh tay, còn mày thì may mắn
không bị vết tích nào. Vừa gần xong trận An Lộc,
chưa được nghỉ dưỡng quân, tụi
mình lại ra tham dự trận Cổ Thành, Quảng Trị.
Buổi tối đó, dưới những hố chống
pháo được đào vội, tung đất đá sỏi lên để trú
ẩn, tao còn nhớ đã nói với mày:
- Ê Việt, tao linh cảm, nếu kỳ
này tao có mệnh hệ gì, nhớ đừng báo vội
cho bà già tao biết, kể cả đứa
em gái út của tao.
- Nam, sư bố mày đừng nói nhảm.
Khi đơn vị tiến gần sát cận cổ
thành. Sau nhiều loạt mưa pháo, đồng ập
xuống trên đầu, với đủ loại mức
tàn phá, từ trên không, xuống đến dưới mặt đất.
Kiểm tuyến, thường vụ báo, mày
tử trận vì trúng phải đạn pháo.
- Tiên sư mày, Việt, sao người
ra đi lại không phải là tao, như linh cảm,
mà lại là mày? bởi vì mày còn
rât nhiều trách nhiệm còn phải lo, mày ra đi dễ
dàng đến thế sao?
Suốt bao nhiêu trận chiến, từ
những "đỉnh gió hú" cao ngất trời nơi cao
nguyên đất đỏ Kontum, Plei-me,
Ban Mê thuật, xuống thung lũng, miền giáp cát
trắng Nha Trang, hay những nơi
vách núi hiểm trở gần biên giới Thái, Lào. cũng
như các trận bên Cam Bốt rồi
Bình Long, An Lộc Mày và tao đều cùng nhau qua
khỏi, dù đám bạn bè thân thương
đồng lứa hay các lứa sau tụi mình trong đơn vị
đã nằm xuống rất nhiều, kể cả
những ông thầy đích thân coi anh em thuộc hạ
còn hơn cả tình anh em ruột
thịt.
- Tại sao mày lại ra đi chỉ vọn
vẹn một vài loạt đợt mưa pháo của cộng
quân.
- Việt, tiên sư mày bỏ tao lại,
mày ác thật !
Lúc đưa xác mày về với gia đình
vợ con. Lũ nhỏ chạy ra ôm chân tao
mừng rỡ, chúng cũng tưởng như
mọi lần, bố của chúng và người bạn thân của
bố đi hành quân về, nhìn những
người lính bận quân phục như bố, khiêng chiếc
quan tài, đứa con gái lớn nhất
của mày hỏi tao:
- Chú Nam, mấy ông lính như chú,
họ khiêng cái hòm gì mà to thế ? Vơ
mày từ trong nhà vụt chạy ra,
nhìn quan tài, chưa nói được câu nào đã ngã quị
trên sân gạch trước nhà,,,,, rồi
vợ mày đứng lên thấy tao.
- Anh Nam, Việt đâu?,,,nhưng rồi
lại im bặt. Với tất cả mọi cố gắng kìm
hãm cơn uất hận đau xót đến tận
cùng, vợ mày vừa nắm áo, vừa đấm ngực tao
nói trong cơn đứt đoạn:
- Anh đã hứa với tôi, trước mỗi
lần đi hành quân,,,,, anh chẳng bảo với tôi
rằng,,,, cả hai đều trở về cơ
mà. Sao giờ này,,,, anh có thể nhẫn tâm đưa Việt trở
về nằm yên trong cái hòm gỗ xa
lạ này.
- Việt, mày thấy đó, tại sao
người ra đi không phải là tao, vì như vậy, ít ra
tao không phải nghe được những
than trách đầy thân thương đến tận cùng đáy
tâm hồn của vợ mày dành cho tao.
- Chi Việt, không biết giờ này
chị ở đâu, nếu có đọc những dòng chữ này,
cho tôi xin được một lần
nữa, cuối đầu trước chị và mấy cháu, xin
tha thứ cho
một người bạn đã không giữ được
trọn lời hứa.
Đầu ngục xuống chiếc bàn, trên
tay cầm điếu thuốc đã tắt nghịm từ lâu.
Sự im lặng kéo dài cũng khá lâu.
Và rồi, gã quần jean xanh đứng dậy, tiến thật
chậm đến sát bên, đưa hai ngón
tay rút mẩu thuốc tàn ra khỏi tay gã.
- Ê, ai làm cái gì đó, miêng kêu
lên nho nhỏ nhưng vẫn không nhìn lên.
- Thưa anh, tôi đây, tôi tên
Hùng, lúc trước ở binh chủng Thủy Quân Lục
Chiến. Nghe nói vậy hắn ngửng
lên, đôi mắt, nước vẫn còn ướt sũng trên khuôn
mặt ẩn hiện rõ tất cả nỗi đau
khổ đang chịu đựng trong tâm hồn.
- Cám ơn anh, tôi tên Nam, lính
nhảy dù.
- Xin anh Nam cho phép tôi được
ngồi chung bàn. Gã gật đầu:
- Lính tráng gì, mà sao lại
khách sáo thế!
- Anh nói vậy tôi an tâm.
Diễn tiến được tiếp nối, bằng
một giọng trầm buồn, gã lính mũ nồi xanh, tâm sự:
·
Sau khi đi thi, đậu được cái
mảnh bằng tú tài, gia đình không có đủ tiền để
học tiếp, gã tình nguyện vào Thủ
Đức, trước thời hạn tuổi động viên, mãn khóa
quân trường, chon binh chủng
Thủy Quân Lục Chiến để phục vụ. Mấy năm đầu
đơn vị đóng loanh quanh Saigon,
rồi tình thế chính trị và quân sự sôi động, cả
nguyên một sư đoàn ra trấn ải
nơi vùng I chiến thuật, phía bờ Nam sông Bến
Hải. Ngày đó, mấy anh lính dưới
quyền thường nói với gã, họ là lính Địa Phương
Quân, Nghĩa Quân, bận sắc phục
loại mới, màu hoa lá xanh của đồng rừng.
Thời gian sau, gã cũng có người
yêu tại Saigon, và thường hát bằng cái giọng
khan khan vịt đực nhạc bản,
"Chiều trên phá Tam Giang", Đám lính tráng thuộc
hạ tâng bốc gã và họ bảo gã hát
còn hay hơn cả ca sĩ Trung Chỉnh, một anh
chàng quân y sĩ cùng binh chủng.
Rồi bẵng một thời gian dài,
không thấy hắn còn ngêu ngao nhạc bản quen
thuộc nữa, đám bạn bè và lính
tráng dưới quyền tò mò hỏi, gã đành bật mí cho
biết tại vì gia đình không môn
đăng hậu đối và tôn giáo. Một chiều nọ, ngồi một
mình trong căn chòi bỏ hoang,
vùng nơi đơn vị chiếm đóng, chạy dài ven biển
đến bến phá Tam Giang, đối diện
phía Tây là "Dẫy Phố Dìu Hiu" cây số 17, trục
quốc lộ 1 Quảng Trị, gã lẩm
bẩm:
- Thế nào xứng đáng môn đăng?
Thê nào hộ đối,? Tôn giáo nào mà
chẳng có một đức tin để tôn thờ?
- Thế gian này, gia đình nghèo
cũng có tội thật sao?
Hiểu truyện tình của gã, một
người bạn thân, đã khuyên gã như thế này:
- Hùng, mày, từ nay, đừng có bao
giờ hy vọng để khỏi bị thất vọng.
Mối tình đầu đời của gã kết thúc
chưa vươi đi hẳn nỗi nhớ thương, thì
cuộc triệt thoái bất ngờ vụt
đến. Từ bến bờ phá Tam Giang, hắn thoát chạy vào
Nam. Biến cố này, thời gian sau,
một anh chàng cùng gốc binh chủng của hắn
viết hồi ký đặt cho cái tên
"tháng 3 gẫy súng". Đến đây, gã dừng lại:
- Gẫy súng thật phải không anh?
- Đúng, đúng, gẫy súng thật,
không những thế, mà còn gẫy rất nhiều
những thứ khác, Và rồi, gã đứng
dậy, vừa nói vừa vung hai cánh tay lên không.
- Gẫy, gẫy, gẫy tất cả, gẫy tan
tành như xác pháo, tiên sư đời, sao tự
nhiên đang đánh nhau mà lại phải
buông súng xuống,,,,, mà tổ cha nó, trận chiến
đã kết thúc đâu! Có bao giờ bọn
chó đẻ chúng thắng đâu ?,,,,,mà lại phải buông
súng xuống. Hết cơn giận, gã
ngồi xuống.
- Việt, mày có nghe tao nói
không? Cũng may cho mày đã không còn, để
nhìn thấy hình ảnh mấy ngày đầu
im tiếng súng, một đoàn quân với đủ loại quân
phục, từ đầu xuống chân ăn bận
không đúng cách lần lượt bước ra đi khỏi thành
phố ; phía đối diện bên kia
đường, cũng gọi là đoàn quân, đứa chân đất, đứa
chân mang dép sợi cao su đen, cũng
quần áo lếch thếch màu xanh lá chuối non,
đứa đội chiếc nón cối, đứa nón
vải tai bèo, vai vác súng đủ loại, bước tiến vào
trong thành phố với đôi mắt ngỡ
ngàng, nở tròn xoe, hết nhìn nhà cửa, hàng
quán, rồi lại nhìn xe cộ chạy
ngược xuôi.
Nói xong, gã cầm bình trà, đổ
nước vào đầy ly, uống một hơi gần hết
nước. Im lặng trong chốc lát, và
rồi gã vụt đứng bật dậy, hét to:
- Tổ cha nó, mấy cái ông to đầu
đâu hết rồi ? gã quần jean xanh.
- Mấy ông đó, gần như chạy hết
rồi !
NguyenVuDuong MD54
Trung tuần tháng Sáu, 41 năm sau.