Văn Học & Nghệ Thuật

Ngựa trong thi ca

Hình ảnh đôi tuấn mã hùng dũng mang lại tài lộc và tám con ngựa dựng bờm phi nước đại trên thiên lý biểu tượng của sự thành công trong quan lộ, thành đạt trong thi cử. Lịch sử từng ghi bao chiến công hiển hách của bao anh hùng vào sinh ra tử trên lưng bao chiến mã.

Ngựa trong thi ca

Sưu tầm của Vinh Hồ

 

n

Hình ảnh đôi tuấn mã hùng dũng mang lại tài lộc và tám con ngựa dựng bờm phi nước đại trên thiên lý biểu tượng của sự thành công trong quan lộ, thành đạt trong thi cử. Lịch sử từng ghi bao chiến công hiển hách của bao anh hùng vào sinh ra tử trên lưng bao chiến mã.

Trong thế giới động vật, ngựa có nhiều đặc điểm:

- Ngựa ngủ ít hơn các loài vật khác, ngủ đứng thay vì nằm.
- Ngựa có thể ăn suốt ngày, có thể vừa kéo xe vừa ăn.
- Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ được chứng minh trên thực tế.
- Không loạn luân.
-Trung thành, thủy chung.
-Tình chiến hữu đồng sanh đồng tử.  

Chính vì thế mà ngựa được nhắc đến rất nhiều trong thi ca.
Xin trích một số sau đây:

1. Ngựa Ô Truy, Hạng Võ, và Ngu Cơ:

 Hạng  Võ bị vây khốn tại Cữu Lý Sơn vẫn suốt  ngày cự chiến đẩy lui 60 viên tướng Hán. Tiếng tiêu ảo não của Trương Lương từ núi Kê Minh vọng đến khiến quân Sở thêm buồn, hàng đêm bỏ trốn, tám ngàn đệ tử chỉ còn vài trăm. Sở Bá Vương quyết chọc thủng vòng vây về Giang Đông dựng lại cơ đồ. Giã biệt Ngu Cơ, Ông khuyên nàng bảo trọng, với tấm nhan sắc nàng ở lại đó tất sẽ được yêu vì. Khúc nhạc phủ theo điệu Sở Từ thật bi tráng được Sở Bá Vương ứng khẩu trước giờ ly biệt với Ngu Cơ:

Lực bạt sơn hề, khí cái thế
Thời bất  lợi hề, truy bất thệ
Truy bất thệ hề, khả nài hà?
Ngu hề ngu hề! Khả nại hà!

Dịch nghĩa:

Chí khí ta trùm trời, sức mạnh ta chuyển núi
Tiếc không được thời, ngựa truy hết lối.
Ngựa hết lối biết làm sao?
Ngu Cơ, Ngu Cơ! Biết làm sao!

Ngu Cơ tay nâng ly rượu biệt ly, hát khúc đáp lời:

Quân Hán đóng khắp mặt
Tiếng Sở bốn phương reo
Đại Vương chí khí tận
Còn mất thiếp xin theo

Dứt lời, nàng tuốt gươm báu đâm vào cổ tự vận, để tình quân khỏi bận bịu kịp  lên đàng. Trên lưng ngựa Ô Truy màu đen đã hoá đỏ vì máu, Hạng Võ tiến đến đâu quân Hán vây đến đó, đều bị lưỡi gươm ông ngã như rạ. Hôm sau thoát khoỉ vòng vây, chỉ còn hai tướng tâm phúc là Chu Lan và Hoàn Sở chạy theo, nhưng cả hai đều kiệt sức, tự vận, để khỏi rơi vào tay địch. Chạy đến bến Ô Giang, Hạng Võ được viên đình trưởng mời xuống thuyền vượt qua sông. Bên kia là đất Giang Đông, ông lại hưng binh mấy chốc? Hạng Võ từ chối, vì ông biết trả lời sao về tám ngàn tử đệ đất nầy đã theo ông, ông bèn gởi ngựa Ô Truy qua sông thay cho ông chào dân chúng. Ngựa dặm châm không chịu xuống thuyền. Hạng Võ ngoái nhìn đoàn quân Hán  đã đuổi kịp mà không dám tiến tới, thấy dưới cờ có tướng Lã Mã Phụng. Ông gọi tên tướng nầy: “Ngày trước ngươi từng theo giúp ta, ta chưa có gì đền đáp thì ngươi theo phò Hán. Nay còn gặp lại, ta tặng ngươi cái đầu của ta để mang về lãnh tước Vạn Hộ Hầu của Lưu Bang”. Dứt lời Hạng Võ tự dứt dầu mình cắm trên thanh gươm đưa tới.

Ngựa Ô Truy nhìn thân hình chủ tướng còn đứng sửng, bỗng nó hí vang trời rồi phóng thẳng xuống dòng Trường Giang sâu thẳm nước cuồn cuộn, mất tăm dạng. Ở tuổi 31, Hạng Võ đã chết rất kiêu hùng, cả Ngu Cơ và thần mã cũng không kém!

2. Lương Châu Từ: bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng của Vương Hàn được sáng tác từ tên gọi của một điệu hát cổ nói về chủ đề trận mạc, biên ải:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

Dịch nghĩa:

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng đàn tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, anh chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về đâu.

Lương Châu từ 
Bồ đào mỹ tửu chén lưu ly
Lên ngựa! tỳ bà giục giã đi
Chiến địa say nằm anh chớ giễu
Xưa nay chinh chiến mấy ai về
(Vinh Hồ dịch)

3. Lục súc tranh công: truyện Nôm khuyết danh. Sáu con vật nuôi trong nhà: trâu, chó, ngựa, dê, gà và lợn tranh nhau công trạng của mình, người chủ phải can thiệp vào, dàn hòa mới yên.
Một số gia súc ghen tài với ngựa, đã nói xấu ngựa đủ điều. Ngựa phản bác lại vừa tự khen mình, vừa kể công đánh Nam dẹp Bắc:

Ngựa nghe nói, tím gan, nổi phổi,
Liền chạy ra hầm hí vang tai:
"Ớ! này, này, tao bảo chúng bay,
Đố mặt ai dày bằng mặt ngựa ?
Tuy rằng thú, cũng hai giống thú,
Thú như tao ai dám phen lê
Tao đã từng, đi quán, về quê,
Đã ghe trận đánh nam, dẹp bắc.
Mỏi gối nưng phò xã tắc,
Mòn lưng cúi đội vương công.
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề loan giá,

Đã nhiều thủa ngăn thành, thủ phủ
Lại ghe phen đột pháo, xông tên
Đàng xa xôi ngàn dặm quan sơn
Ngựa phi đệ một giờ liền thấu.
Các chú đặng ăn no, nằm ngủ,
Bởi vì ta cần cán, giữ gìn.
Khắn khắn lo nhà trị, nước yên,
Chốn chốn đặng nông bô lạc nghiệp.
Các chú những nằm trong xó bếp,

Nếu tao chẳng lo trong việc nước,
Giặc đến nhà ai để chúng bay ?
Thật biết một mà chẳng biết mười,
Chớ lừng lẫy cậy tài, cậy thế".

(Lục súc tranh công)

4. Tỳ bà hành: bài thơ dài 616 chữ của Bạch Cư Dị về cuộc đời trôi nổi truân chuyên của kẻ ca kỷ đàn tỳ bà. Phần lời tựa do Nguyễn Hữu Vinh, phần thơ do Phan Huy Vịnh dịch nôm theo thể song thất lục bát:

-Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhơn hạ mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền

Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.

5. Chinh Phụ Ngâm: của Đặng Trần Côn bằng Hán tự, bản dịch Nôm của Bà Đoàn Thị Điểm. Một kiệt tác mang nặng tâm tư, tình cảm, nỗi buồn thương ai oán của nàng chinh phụ:

n- Ngoài đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ không bằng ngựa, thủy không bằng thuyền

-Chí làm trai dậm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tợ hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu

-Xông pha gió bãi trăng ngàn
Tên reo đầu ngựa giáo lan mặt thành

Hình ảnh người Chinh Phu mang võ phục màu đỏ tợ như ánh nắng chiều, oai nghi trên lưng con tuấn mã màu trắng tinh anh như tuyết:

-Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in

Một đoàn quân với cờ xí tung bay, với tiếng nhạc ngựa hòa trong tiếng trống và nơi đây hai người thương yêu phải chia rẽ, cách xa:

-Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bổng chia tay
Hà Lương chia rẽ đường này
Bên đường trông bóng cờ bay bùi ngùi

-Quân trước đã gần ngoài doanh liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Đưa chàng vạn dậm lên đường
Lòng chàng ý thiếp ai buồn hơn ai !

Người chinh phu ở nơi sương gió:
-
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn
Giòng nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm yên, gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh


-
Xông pha gió bãi trăng ngàn
Tên reo đầu ngựa giáo lan mặt thành.


 -Chàng ruổi ngựa dậm trường mây phủ
Thiếp dạo hài lối cũ rêu xanh.

6. Thăng Long Hoài Cổ: của Bà Huyện Thanh Quan

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây, luống đoạn trường

7. Truyện Kiều: nhắc đến ngựa hơn mười lần. Hai câu sau tả cảnh chị em Kiều đi lễ Thanh Minh:

-Dập diều tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Chính trong cảnh đi tảo mộ nầy, Kim Kiều gặp nhau:

-Dùng dằng nửa ở nửa về
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần 
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng.


-
Tuyết in sắc ngựa câu dòn, 
Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời. 
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tư tình.

Kim Kiều chia tay:

-Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa người còn ghé theo.


-
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.

 
-Người nách thước kẻ tay dao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.

Mã Giám Sinh chở Kiều trên xe ngựa:

-Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.
 

Sở Khanh bỏ Kiều quất ngựa truy phong:

-Nàng càng thổn thức gan vàng,
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!

Thúc Sinh chia tay Kiều về nhà bàn với vợ cho Kiều ở chung: 

Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san

Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh

Kiều bị Hoạn Thư cho người bắt cóc:

-Thuốc mê đâu đã tưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm-bao biết gì!
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào, viện sách, bốn bề lửa dong.

Từ Hải giúp Kiều trả oán, báo ân: 

-Trông trời, trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng dong.

Từ Hải nghênh đón Kiều:

-Kéo cờ lũy, phát súng thành,
Từ công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài.

Vương Quan và Kim Trọng được bổ nhậm làm quan:

Sắm sanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.

8. Nguyễn Đình Chiểu:

- Trong Lục Vân Tiên có một câu nói về ngựa:

Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô.

- Trong 2 câu đối ca ngợi sự hy sinh cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc chống Pháp:

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây.
Trăm năm âm phủ lấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ

9. Cung Oán Ngâm Khúc:

Mùi phú quí nhữ làng xa mã
Bã vinh hoa lừa gã công khanh.
 

10. Đánh cờ người: của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:  

Chàng với thiếp canh khuya trằn trọc
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người
Hẹn rằng đấu chí mà chơi
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết

---
Thoạt mới vào chàng liền nhảy Ngựa
Thiếp vội vàng vén phứa Tuợng lên
Hai Xe đà chàng gác hai bên
Thiếp sợ bí thiếp liền ghễnh Sĩ

11. Bài thơ Mõi Mòn:  theo lối vấn đáp của Thanh Tịnh:

-Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ
Tìm thử chân mây khói toả mờ
Có bóng tình quân muôn dặm ruổi
Ngựa hồng tung bụi cõi xa mơ?

-Xa nhìn bên cõi trời mây
Chị ơi em thấy một cây liễu buồn

-Bên rừng em hãy lặng nhìn theo
Có phải chăng em ngựa xuống đèo?
Chị ngỡ như cháng lên tiếng gọi
Trên mình ngựa hí lạc vang reo.

-Bên rừng ngọn gió rung cây
Chị ơi! Con nhện lạc bầy kêu sương.

-Tên chị ai gieo giữa gió chiều
Phải chăng em hỡi tiếng chàng kêu?
Trên dòng sông lặng em nhìn thử
Có phải chăng người của chị yêu?

-Sông chiều đưa chiếc thuyền lan.
Chị ơi con sáo gọi ngàn bên sông...
Ô kìa! Bên cõi trời đông
Ngựa ai còn ruỗi dặm hồng xa xa...

-Này lặng em ơi lặng lặng nhìn
Phải chăng mình ngựa sắc hồng in?
Nhẹ nhàng em khẻ buông rèm xuống,
Chị sợ trong sương bóng ngựa chìm.

-Ngựa hồng đã đến bên hiên,
Chị ơi! Trên ngựa chiếc yên...vắng người.

n

Vinh Hồ sưu tầm.

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Ngựa trong thi ca

Hình ảnh đôi tuấn mã hùng dũng mang lại tài lộc và tám con ngựa dựng bờm phi nước đại trên thiên lý biểu tượng của sự thành công trong quan lộ, thành đạt trong thi cử. Lịch sử từng ghi bao chiến công hiển hách của bao anh hùng vào sinh ra tử trên lưng bao chiến mã.

Ngựa trong thi ca

Sưu tầm của Vinh Hồ

 

n

Hình ảnh đôi tuấn mã hùng dũng mang lại tài lộc và tám con ngựa dựng bờm phi nước đại trên thiên lý biểu tượng của sự thành công trong quan lộ, thành đạt trong thi cử. Lịch sử từng ghi bao chiến công hiển hách của bao anh hùng vào sinh ra tử trên lưng bao chiến mã.

Trong thế giới động vật, ngựa có nhiều đặc điểm:

- Ngựa ngủ ít hơn các loài vật khác, ngủ đứng thay vì nằm.
- Ngựa có thể ăn suốt ngày, có thể vừa kéo xe vừa ăn.
- Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ được chứng minh trên thực tế.
- Không loạn luân.
-Trung thành, thủy chung.
-Tình chiến hữu đồng sanh đồng tử.  

Chính vì thế mà ngựa được nhắc đến rất nhiều trong thi ca.
Xin trích một số sau đây:

1. Ngựa Ô Truy, Hạng Võ, và Ngu Cơ:

 Hạng  Võ bị vây khốn tại Cữu Lý Sơn vẫn suốt  ngày cự chiến đẩy lui 60 viên tướng Hán. Tiếng tiêu ảo não của Trương Lương từ núi Kê Minh vọng đến khiến quân Sở thêm buồn, hàng đêm bỏ trốn, tám ngàn đệ tử chỉ còn vài trăm. Sở Bá Vương quyết chọc thủng vòng vây về Giang Đông dựng lại cơ đồ. Giã biệt Ngu Cơ, Ông khuyên nàng bảo trọng, với tấm nhan sắc nàng ở lại đó tất sẽ được yêu vì. Khúc nhạc phủ theo điệu Sở Từ thật bi tráng được Sở Bá Vương ứng khẩu trước giờ ly biệt với Ngu Cơ:

Lực bạt sơn hề, khí cái thế
Thời bất  lợi hề, truy bất thệ
Truy bất thệ hề, khả nài hà?
Ngu hề ngu hề! Khả nại hà!

Dịch nghĩa:

Chí khí ta trùm trời, sức mạnh ta chuyển núi
Tiếc không được thời, ngựa truy hết lối.
Ngựa hết lối biết làm sao?
Ngu Cơ, Ngu Cơ! Biết làm sao!

Ngu Cơ tay nâng ly rượu biệt ly, hát khúc đáp lời:

Quân Hán đóng khắp mặt
Tiếng Sở bốn phương reo
Đại Vương chí khí tận
Còn mất thiếp xin theo

Dứt lời, nàng tuốt gươm báu đâm vào cổ tự vận, để tình quân khỏi bận bịu kịp  lên đàng. Trên lưng ngựa Ô Truy màu đen đã hoá đỏ vì máu, Hạng Võ tiến đến đâu quân Hán vây đến đó, đều bị lưỡi gươm ông ngã như rạ. Hôm sau thoát khoỉ vòng vây, chỉ còn hai tướng tâm phúc là Chu Lan và Hoàn Sở chạy theo, nhưng cả hai đều kiệt sức, tự vận, để khỏi rơi vào tay địch. Chạy đến bến Ô Giang, Hạng Võ được viên đình trưởng mời xuống thuyền vượt qua sông. Bên kia là đất Giang Đông, ông lại hưng binh mấy chốc? Hạng Võ từ chối, vì ông biết trả lời sao về tám ngàn tử đệ đất nầy đã theo ông, ông bèn gởi ngựa Ô Truy qua sông thay cho ông chào dân chúng. Ngựa dặm châm không chịu xuống thuyền. Hạng Võ ngoái nhìn đoàn quân Hán  đã đuổi kịp mà không dám tiến tới, thấy dưới cờ có tướng Lã Mã Phụng. Ông gọi tên tướng nầy: “Ngày trước ngươi từng theo giúp ta, ta chưa có gì đền đáp thì ngươi theo phò Hán. Nay còn gặp lại, ta tặng ngươi cái đầu của ta để mang về lãnh tước Vạn Hộ Hầu của Lưu Bang”. Dứt lời Hạng Võ tự dứt dầu mình cắm trên thanh gươm đưa tới.

Ngựa Ô Truy nhìn thân hình chủ tướng còn đứng sửng, bỗng nó hí vang trời rồi phóng thẳng xuống dòng Trường Giang sâu thẳm nước cuồn cuộn, mất tăm dạng. Ở tuổi 31, Hạng Võ đã chết rất kiêu hùng, cả Ngu Cơ và thần mã cũng không kém!

2. Lương Châu Từ: bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng của Vương Hàn được sáng tác từ tên gọi của một điệu hát cổ nói về chủ đề trận mạc, biên ải:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

Dịch nghĩa:

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng đàn tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, anh chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về đâu.

Lương Châu từ 
Bồ đào mỹ tửu chén lưu ly
Lên ngựa! tỳ bà giục giã đi
Chiến địa say nằm anh chớ giễu
Xưa nay chinh chiến mấy ai về
(Vinh Hồ dịch)

3. Lục súc tranh công: truyện Nôm khuyết danh. Sáu con vật nuôi trong nhà: trâu, chó, ngựa, dê, gà và lợn tranh nhau công trạng của mình, người chủ phải can thiệp vào, dàn hòa mới yên.
Một số gia súc ghen tài với ngựa, đã nói xấu ngựa đủ điều. Ngựa phản bác lại vừa tự khen mình, vừa kể công đánh Nam dẹp Bắc:

Ngựa nghe nói, tím gan, nổi phổi,
Liền chạy ra hầm hí vang tai:
"Ớ! này, này, tao bảo chúng bay,
Đố mặt ai dày bằng mặt ngựa ?
Tuy rằng thú, cũng hai giống thú,
Thú như tao ai dám phen lê
Tao đã từng, đi quán, về quê,
Đã ghe trận đánh nam, dẹp bắc.
Mỏi gối nưng phò xã tắc,
Mòn lưng cúi đội vương công.
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề loan giá,

Đã nhiều thủa ngăn thành, thủ phủ
Lại ghe phen đột pháo, xông tên
Đàng xa xôi ngàn dặm quan sơn
Ngựa phi đệ một giờ liền thấu.
Các chú đặng ăn no, nằm ngủ,
Bởi vì ta cần cán, giữ gìn.
Khắn khắn lo nhà trị, nước yên,
Chốn chốn đặng nông bô lạc nghiệp.
Các chú những nằm trong xó bếp,

Nếu tao chẳng lo trong việc nước,
Giặc đến nhà ai để chúng bay ?
Thật biết một mà chẳng biết mười,
Chớ lừng lẫy cậy tài, cậy thế".

(Lục súc tranh công)

4. Tỳ bà hành: bài thơ dài 616 chữ của Bạch Cư Dị về cuộc đời trôi nổi truân chuyên của kẻ ca kỷ đàn tỳ bà. Phần lời tựa do Nguyễn Hữu Vinh, phần thơ do Phan Huy Vịnh dịch nôm theo thể song thất lục bát:

-Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhơn hạ mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền

Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.

5. Chinh Phụ Ngâm: của Đặng Trần Côn bằng Hán tự, bản dịch Nôm của Bà Đoàn Thị Điểm. Một kiệt tác mang nặng tâm tư, tình cảm, nỗi buồn thương ai oán của nàng chinh phụ:

n- Ngoài đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ không bằng ngựa, thủy không bằng thuyền

-Chí làm trai dậm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tợ hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu

-Xông pha gió bãi trăng ngàn
Tên reo đầu ngựa giáo lan mặt thành

Hình ảnh người Chinh Phu mang võ phục màu đỏ tợ như ánh nắng chiều, oai nghi trên lưng con tuấn mã màu trắng tinh anh như tuyết:

-Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in

Một đoàn quân với cờ xí tung bay, với tiếng nhạc ngựa hòa trong tiếng trống và nơi đây hai người thương yêu phải chia rẽ, cách xa:

-Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bổng chia tay
Hà Lương chia rẽ đường này
Bên đường trông bóng cờ bay bùi ngùi

-Quân trước đã gần ngoài doanh liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Đưa chàng vạn dậm lên đường
Lòng chàng ý thiếp ai buồn hơn ai !

Người chinh phu ở nơi sương gió:
-
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn
Giòng nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm yên, gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh


-
Xông pha gió bãi trăng ngàn
Tên reo đầu ngựa giáo lan mặt thành.


 -Chàng ruổi ngựa dậm trường mây phủ
Thiếp dạo hài lối cũ rêu xanh.

6. Thăng Long Hoài Cổ: của Bà Huyện Thanh Quan

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây, luống đoạn trường

7. Truyện Kiều: nhắc đến ngựa hơn mười lần. Hai câu sau tả cảnh chị em Kiều đi lễ Thanh Minh:

-Dập diều tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Chính trong cảnh đi tảo mộ nầy, Kim Kiều gặp nhau:

-Dùng dằng nửa ở nửa về
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần 
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng.


-
Tuyết in sắc ngựa câu dòn, 
Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời. 
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tư tình.

Kim Kiều chia tay:

-Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa người còn ghé theo.


-
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.

 
-Người nách thước kẻ tay dao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.

Mã Giám Sinh chở Kiều trên xe ngựa:

-Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.
 

Sở Khanh bỏ Kiều quất ngựa truy phong:

-Nàng càng thổn thức gan vàng,
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!

Thúc Sinh chia tay Kiều về nhà bàn với vợ cho Kiều ở chung: 

Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san

Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh

Kiều bị Hoạn Thư cho người bắt cóc:

-Thuốc mê đâu đã tưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm-bao biết gì!
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào, viện sách, bốn bề lửa dong.

Từ Hải giúp Kiều trả oán, báo ân: 

-Trông trời, trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng dong.

Từ Hải nghênh đón Kiều:

-Kéo cờ lũy, phát súng thành,
Từ công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài.

Vương Quan và Kim Trọng được bổ nhậm làm quan:

Sắm sanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.

8. Nguyễn Đình Chiểu:

- Trong Lục Vân Tiên có một câu nói về ngựa:

Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô.

- Trong 2 câu đối ca ngợi sự hy sinh cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc chống Pháp:

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây.
Trăm năm âm phủ lấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ

9. Cung Oán Ngâm Khúc:

Mùi phú quí nhữ làng xa mã
Bã vinh hoa lừa gã công khanh.
 

10. Đánh cờ người: của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:  

Chàng với thiếp canh khuya trằn trọc
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người
Hẹn rằng đấu chí mà chơi
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết

---
Thoạt mới vào chàng liền nhảy Ngựa
Thiếp vội vàng vén phứa Tuợng lên
Hai Xe đà chàng gác hai bên
Thiếp sợ bí thiếp liền ghễnh Sĩ

11. Bài thơ Mõi Mòn:  theo lối vấn đáp của Thanh Tịnh:

-Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ
Tìm thử chân mây khói toả mờ
Có bóng tình quân muôn dặm ruổi
Ngựa hồng tung bụi cõi xa mơ?

-Xa nhìn bên cõi trời mây
Chị ơi em thấy một cây liễu buồn

-Bên rừng em hãy lặng nhìn theo
Có phải chăng em ngựa xuống đèo?
Chị ngỡ như cháng lên tiếng gọi
Trên mình ngựa hí lạc vang reo.

-Bên rừng ngọn gió rung cây
Chị ơi! Con nhện lạc bầy kêu sương.

-Tên chị ai gieo giữa gió chiều
Phải chăng em hỡi tiếng chàng kêu?
Trên dòng sông lặng em nhìn thử
Có phải chăng người của chị yêu?

-Sông chiều đưa chiếc thuyền lan.
Chị ơi con sáo gọi ngàn bên sông...
Ô kìa! Bên cõi trời đông
Ngựa ai còn ruỗi dặm hồng xa xa...

-Này lặng em ơi lặng lặng nhìn
Phải chăng mình ngựa sắc hồng in?
Nhẹ nhàng em khẻ buông rèm xuống,
Chị sợ trong sương bóng ngựa chìm.

-Ngựa hồng đã đến bên hiên,
Chị ơi! Trên ngựa chiếc yên...vắng người.

n

Vinh Hồ sưu tầm.

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm