“Mũ Đen” Hoàng Nhật Thơ
Cuộc chiến quân sự trên quê hương Việt Nam đã trôi xa 35 năm trên giòng sông dĩ vãng, nhưng dư âm từ một “Tháng Tư Đen” tang thương vẫn còn vang vọng mỗi ngày trong lòng của chúng ta, nhất là đối với những người đã một thời khoác áo kaki … hình ảnh hào hùng cùng với sự hy sinh cao cả và lý tưởng chiến đấu chính nghĩa “Bảo Quốc-An Dân” của Người Lính VNCH vĩnh viễn trường tồn với thời gian, sống mãi trong lòng dân tộc, muôn đời rạng ngời trong dòng sử Việt. 35 năm, một chuỗi thời gian quá đủ dài để cho người dân miền Bắc cũng như những thế hệ sinh ra hoặc trưởng thành sau ngày 30/04/1975, hiểu rõ chính những Người Lính VNCH mới thật sự là những người yêu nước, thương dân … những người dám chết cho quê hương, dân tộc. Bọn CSVN cũng biết rõ điều này, nhưng với bản chất gian manh cố hữu, lũ quỷ đỏ độc ác, gian tà dùng bạo lực sắt máu từ ngày “giải phóng” cướp được Miền Nam để huênh hoang, láo phét và sửa đổi lịch sử … chúng đê hèn, trơ trẻn, dối trá bưng bít, che đậy sự thật bằng gông cùm, xiềng xích.
Những bài văn, vần thơ, dòng nhạc là nguồn từ ngữ trong niềm cảm xúc chân thành xuất phát từ tận đáy con tim, sâu thẳm trong khối óc của những tác giả trân quý đặt Người Lính VNCH vào một vị trí trang trọng nhất trên trang sử Việt trong kho tàng văn học lưu lại cho ngàn đời sau. Cuộc chiến quân sự đã chấm dứt nhưng cuộc chiến Quốc-Cộng vẫn còn tiếp diễn cho đến khi nào lũ cộng sản bạo tàn, khát máu bị khai tử vĩnh viễn trên đất nước Việt Nam ; Hai chữ “Tự Do” của Miền Nam Việt Nam trong thời chiến đã được Người Lính VNCH viết bằng máu, thì hai chữ “Tự Do” cho quê hương trong tương lai cũng phải được viết bằng máu.
Người Lính xa quê hương xin được gởi đến quý vị một thời khoác chiến y đang mòn gót giày lưu vong trên đất khách hoặc đang ngậm đắng nuốt cay trên quê hương bị tạm chiếm cũng như tất cả người dân Việt trong và ngoài nước một bài viết mang tên :
“Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ
lau sậy này … Bây giờ anh ở đâu, bây giờ anh ở đâu ? Còn trên đời này
đang xông pha đèo cao dốc thẳm hay đã về bên kia phương trời miên viễn
chiêm bao … Trên đầu anh cái nón sắt ngày nào ấp ủ, mộng mơ của anh …
mộng mơ của một con người …”
Ôi nó khác chi mây trời hiền hòa, khác chi bốn mùa êm trôi, có tiếng
cười thủy tinh của vài đứa trẻ và hơi ấm vòng tay ôm của một người vợ
hiền, phải thế không anh ?
Trong cái nón sắt của anh … mặt trời vẫn còn đó ban ngày và ban đêm mặt
trăng hoặc muôn muôn triệu triệu vì sao vẫn còn đó, tất cả vẫn còn đó …
vẫn còn đó. Nhưng anh, bây giờ anh ở đâu … con ểnh ương vẫn còn gọi tên
anh trong mưa dầm, tên anh nghe như tiếng thở dài của lòng đất mẹ. Dạo
tháng ba tên anh lẫn trong tiếng sấm đầu mùa mưa, nghe như tiếng gầm
phẫn nộ đến từ cuối trời.
Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy này …
Anh là ai ? Anh là ai ? Anh là Ai ?”
Anh là Người Lính VNCH, những người sống và chết cho quê hương, dân tộc. Trước khi bước vào cuộc đời quân ngũ để gìn giữ, bảo vệ quê cha, đất tổ … Anh là những người thanh niên lớn lên trên dãy giang san hoa gấm thân yêu hình chữ “S” mang tên Việt Nam, một đất nước nhỏ bé hiền hòa đầy tình tự dân tộc được dựng xây bằng bốn ngàn năm văn hiến bởi xương máu của các bậc tiền nhân. Ngày 19/08/1945, Hồ Chí Minh, một tên nô bộc của khối Cộng sản Quốc Tế đã cướp chính quyền ở miền Bắc và thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 02/09/1945, áp đặt ách cai trị độc tài, sắt máu, bạo tàn của chủ nghĩa cộng sản vô thần ; Với dã tâm, mưu đồ nhuộm đỏ cả đất nước và bành trướng chủ nghĩa cộng sản nơi vùng Đông Nam Á theo lệnh của quan thầy Nga Sô và Trung Cộng, nên ngay sau khi đất nước bị chia đôi bởi Hiệp Định Geneve ngày 20/07/1954, Hồ Chí Minh đã cài lại miền Nam một số cán bộ nồng cốt để thực hiện cuồng vọng nhuộm đỏ nửa phần còn lại của đất nước. Kể từ biến cố lịch sử này, cây cầu Hiền Lương trên dòng sông Bến Hải trơ vắng không bóng dáng người qua lại, ở hai bên đầu cầu là hai thế giới hoàn toàn tương phản khác biệt nhau … phân nửa đất nước bên phía Bắc cầu Hiền Lương bị ngập chìm trong biển máu và nước mắt của người dân bởi sự cai trị khát máu, độc tài của Hồ Chí Minh và đảng CSVN ; Phân nửa đất nước từ phía Nam cầu Hiền Lương dài xuống tận đến mũi Cà Mau được dựng xây trên nền tảng “Nhân Bản-Tự Do – Dân Chủ” qua hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa. Tưởng đâu người dân của Miền Nam Việt Nam được sống trong cảnh thanh bình, nào ngờ tham vọng điên cuồng bệnh hoạn khát máu của tên “thiên cổ tội nhân” Hồ Chí Minh đã gây nên một cuộc chiến tương tàn, thảm khốc, máu đổ, thây phơi trên mảnh đất miền Nam thân yêu, khói lửa tang tóc phủ trùm quê hương. Với chiêu bài gian trá “Chống Mỹ cứu Nước” và để lừa bịp thế giới, che mắt người dân về cuộc chiến xâm lăng nhuộm đỏ miền Nam, Hồ Chí Minh đã nặn ra thêm cái quái thai “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” ngày 20/12/1960.
Giấc ngủ an lành của người dân miền Nam bị đánh thức
bởi đạn thù, pháo giặc … biết bao nhiêu dân lành, trẻ thơ vô tội đã ngủ
vùi tan xác trong vũng máu bởi đạn pháo “giải phóng” ; Sự sinh hoạt nhộn
nhịp an vui của người dân hậu phương nơi phố chợ trở thành hỗn loạn,
kinh hoàng … xác người, thịt xương máu đào vương vãi trong buổi cơm,
trên thúng rau, hàng thịt, gánh xôi bởi những quả đạn pháo, hỏa tiển
mang nhãn hiệu của khối Cộng sản Quốc Tế được sử dụng bởi những người đi
“giải phóng miền Nam” ; Vết phấn trắng, chiếc áo trắng, sách vở chốn
học đường nhuộm một màu máu đỏ của những em bé học sinh ngây thơ, vô tội
bởi đạn pháo của những kẻ sát nhân mạo danh đi “chống Mỹ cứu Nước” …!
Trước khi đi vào bước quân hành của những người trưởng thành trong bộ
quân phục QLVNCH qua những tình khúc một thời chinh chiến, những người
sống trong đường bay của đạn thù, pháo giặc … hít thở khói thuốc súng sa
trường, lấy máu hồng viết hai chữ “Tự Do” và đem sinh mạng bảo vệ hai
chữ “Tự Do” đó cho Miền Nam Việt Nam suốt 20 năm. Người viết xin tóm tắt
ngắn gọn về sự hình thành QLVNCH … Năm 1949, Quốc Trưởng Bảo Đại thành
lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam để đối đầu với lực lượng Việt Minh, cái
áo khoác của CSVN ; Ngày 26/10/1955, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khai sinh
nền Đệ Nhất Cộng Hòa và với tư cách là người lãnh đạo Quốc Gia kiêm Tổng
Tư Lệnh Tối Cao đã cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng thân thương, hào hùng này được trân quý giữ
cho đến ngày hôm nay và mãi mãi về sau.
Những dòng chữ “tâm tư” trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết xin được :
_”Vinh Danh” những Người Lính VNCH đã đem cuộc đời bảo vệ quê hương, dân tộc.
_”Tưởng Niệm” những anh hùng QLVNCH “Vị Quốc Vong Thân”, những người nằm xuống trong cuộc chiến, những người tuẩn tiết vì quốc nạn “30/04/1975” và những người gục ngã trong lao tù cộng sản sau ngày “gãy súng”.
_”Tri Ân” tất cả anh em Thương Phế Binh VNCH đã đem một phần thân thể của mình ghép thành hai chữ “TỰ DO” cho quê hương và những người đã đem sinh mạng, máu đào, mồ hôi của mình bảo vệ, gìn giữ hai chữ “TỰ DO” đó.
“Xếp áo thư sinh, tôi đã lên đường vì đã trọn thương, lênh đênh tám hướng bạc màu vai sương, tóc nhuốm bụi đường, cuối nẻo phong mờ nhủ riêng ai đó tha thiết đợi chờ ngày đêm, tôi sẽ về dệt mơ ước … em ơi khi non nước đang còn mịt mờ bên phương nớ, chuyện đó đừng mơ … Anh bỏ trường xưa, bỏ áo thư sinh theo tiếng gọi lên đường, anh đi vì đất nước khổ đau, anh đi .. anh quên thân mình. Em vì anh tóc bới chẳng lược cài, thôi điểm trang má phấn chẳng cần gì … xa phồn hoa với những chiều dập dìu, cho anh vững lòng anh đi …“. Những người trai mang giòng máu hào kiệt đã xếp lại chiếc áo thư sinh, vui bước lên đường theo tiếng gọi non sông … từ giã học đường … từ biệt cha mẹ già … gởi lại sau lưng những gì thân yêu nhất … gởi lại đóa hoa tình yêu vừa chớm nở vương tà áo trắng bên hàng Phượng Vỹ đỏ thắm nơi sân trường … “Đầu Xuân mình yêu nhau, cuối Hè mình giã từ … mùa Thu xuôi quân về biên khu cho tới Đông tàn chỉ nhận một lần thư, mong sao em anh hiểu đời lính dẫu phong trần, nhưng yêu như yêu nhân tình và đậm đà như chúng mình, những đêm hẹn hò giận hờn rồi yêu nhau hơn ...”.
Gió núi biên thùy … rừng sâu nước đọng … trùng khơi lộng gió … không gian bao la … trận chiến nào không có sự hy sinh, không giữ lại một phần thân thể của những người trai hùng … sóng nước nào không loang đỏ giòng máu của những người yêu “Tổ Quốc Đại Dương” … vùng mây trời nào không vương giọt máu đào của những người nghiêng cánh sắt “Tổ Quốc Không Gian” … địa danh nào thiếu dấu chân anh … “Ôi Đăm Be … Đức Cơ … Bình Giả … Cà Tum … trưa Chu Prong gió mù … đêm Cồn Tiên thức sâu …“. Cuộc đời của Người Lính là khói lửa sa trường, là nắng cháy bước quân hành, là gió mưa giông bão tơi tả tấm poncho phủ che đời lính, là sương mù giăng kín lối, là những đêm dài nghe tiếng côn trùng rả rích giữa không gian tĩnh mịch lúc đóng quân nơi ven rừng im lắng rợn người … “Xuyên lá cành trăng lên lều vải, lòng đất ấm thương tình đôi mươi, thương những người mạch sống đơn côi, đang tìm một cuộc đời cho lòng vơi nét phong sương …“. Làm sao nói lên được hết sự hy sinh của Người Lính đối với tổ quốc … làm sao diễn đạt được trọn vẹn tâm tư của những người “Vì ngàn yêu thương, anh xếp bút mực xanh băng mình vào sương gió sống trọn kiếp trai hùng …“. Trên những nẻo đường đất nước mà Người Lính đã đi qua … hình ảnh quê hương bị loang lỗ, hình ảnh thê lương thống khổ của người dân bởi thảm họa cộng sản đã làm xót xa Người Lính … tiếng chuông đón mừng Giáng Sinh “bình an dưới thế cho người thiện tâm” ngân nga vang vọng về giao thông hào bên hàng rào kẽm gai, Người Lính đưa ánh mắt buồn xa vắng ngước nhìn trời cao …”Thượng Đế hỡi có thấu cho Việt Nam này, nhiều sóng gió trôi giạt lâu dài, từng chiến đấu tiêu diệt quân thù bạo tàn. Thượng Đế hỡi hãy lắng nghe người dân hiền, vì đất nước đang còn ưu phiền, còn tiếng khóc đi vào đêm trường triền miên ...”, những lúc dừng quân nơi phố nhỏ, sau giờ phút nói cười rộn rã, chếch choáng mềm môi nâng ly “Huynh Đệ Chi Binh” trong mịt mờ khói thuốc … Người Lính trở về với sự cô đơn tràn ngập khoảng không gian trống vắng trong căn lều vải nhỏ bé … “Ở phương này vui kiếp sống chinh nhân nhưng không quên dệt mơ ước, ước ngày nao quê hương tàn chinh chiến cho tơ duyên đượm thắm màu, và phương đó em ơi có gì vui xin biên thư về cho anh, nhớ thương vơi đầy … đêm nay trên đồn vắng, thương em thương nhiều lắm … em ơi biết cho chăng … tỉnh lẻ đêm buồn ...” … sau tình yêu quê hương, dân tộc, tình bạn bè, đồng đội thì cánh thư hồng hậu phương là niềm vui khỏa lấp phần nào nỗi cô đơn của người lính trong những lúc trầm ngâm suy tư nơi một góc vắng nào đó của tâm hồn … “Chinh nhân ơi, khi anh trở về … Chinh nhân ơi, khi anh trở về, người yêu ra mừng đón, người yêu anh bé nhỏ sẽ yêu anh trọn đời ...”.
Ngày nào khói lửa chiến chinh còn lan tràn trên quê hương, thì hai chữ “Trách Nhiệm” vẫn còn trĩu nặng trên vai những người trai hùng … ngày đêm họ đi vào chốn hiểm nguy để tìm nguồn vui cho đời, đôi chân cứng đá mềm vẫn còn in dấu khắp muôn nơi … “Đường dài miệt mài tôi đi, gió sương xa nhà đêm xuống ngủ lưng đèo, anh ơi có về đô thị … nhớ tìm lại thăm phố nhỏ nhiều mưa bay, cho tôi nhắn gởi đôi lời … nhắn thăm gác nghèo với bạn bè thân thiết, thăm đường lá đổ với hiệu cà phê quen có người đẹp lặng buồn …“. Từng đóa hoa Mai vàng rũ cánh rụng rơi vào dĩ vãng … từng cánh Phượng hồng tàn phai theo tiếng Ve sầu trong nắng Hạ … từng chiếc lá mùa Thu úa sầu lửng lơ dưới nắng vàng hiu hắt rồi theo cơn gió bay xa cuối trời … từng mùa Đông giá rét chầm chậm trôi qua … “Từ ngày xa nhau, chinh chiến đưa anh về đâu … vai súng vượt biên, mưa nắng Khe Sanh rừng sâu. Người thân ai cũng nhắc tên anh trong thương yêu, biết giờ anh chốn nao …” … Kiếp chinh nhân phiêu bạt theo khói lửa chiến tranh đâu có nơi chốn nào cố định … vừa giẫm tàn những chiếc lá mùa Thu nơi rừng già U Minh, đã hứng chịu cơn giá rét mùa Đông nơi vùng gió núi biên thùy … “Tôi ở miền xa, trời quen đất lạ … nhiều Đông lắm Hạ nối tiếp đi qua, thiếu bóng đàn bà, đời không dám tới … đành viết cho tôi nhạc tình sao lắm lời. Đơn vị thường khi nằm trên đất giặc, thèm trong hãi hùng tiếng hát môi em, tiếng hát ngọt mềm, người nâng lính khổ viết bởi câu ca vì tiền hay thiết tha …“, những giọt mồ hôi tuôn chảy ngày đêm đẫm ướt chiến y trong cái giá buốt trên bước quân hành đã cuốn trôi đi mùa Đông đáng ghét … “Đêm nay núi rừng gió nhẹ sang Xuân, thoáng mùi Mai nở đâu đây, ru hồn lạc loài chơi vơi. Khi xưa những ngày binh lửa chưa sang, bếp hồng quây quần bên nhau nghe mẹ kể chuyện đời xưa …” ; Người nhớ thương mẹ già nắng mưa còng lưng bên liếp rau, vườn cà … Kẻ chạnh lòng nghĩ đến vợ hiền tần tảo sớm hôm nuôi con thơ dại … “Ngày đó anh còn nhớ buổi đăng trình em bồng con đứng nhìn … ngoài kia trống giục quân reo, bao lớp trai anh hùng đã tìm ra chiến trường. Còn nhớ con mình ngày đó tháng chưa tròn, anh đặt tên chúng mình, giờ con biết đọc hay chưa hay nhắc tên ba hoài … để em nhớ thương thêm …“. Biết rằng đời lính nặng nợ núi sông, nặng tình đồng đội nên ít khi về thăm nhà … những người yêu, những người vợ lính đã trân quý xếp mảnh tình riêng vào một góc thầm kín trong tâm hồn … những ngày phép ngắn ngủi là khoảng thời gian quý giá để trao cho nhau những nhớ thương trong tháng ngày xa cách, trao cho nhau những gì tha thiết nhất trên đời, những gì không nói lên bằng lời … “Cửa tâm tư là mắt, nên khi đối mặt chuyện buồn dương gian lẫn mất, đưa ta đi về nguyên thủy loài người, mùa yêu khi muốn ngỏ, vụng về ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay …. Gặp anh trong phút này là mừng trong phút này, khi chiến tranh còn gây thêm máu lửa, thì mộng mơ xin trả hết cho đời, quê hương này còn mãi mãi nhờ anh … Khi đôi chân vẫn chưa mòn trên núi cao, khi đêm đêm súng căm hờn vẫn đổi trao … anh vẫn đi đi giết thù, anh vẫn mong tìm ngày vui cho chúng mình …“.
Đôi trái tim cùng hòa nhịp trong cung đàn tình yêu nồng thắm của những ngày vui thoáng vội qua mau, bốn mắt trao nhau thay cho những lời chưa thoát khỏi bờ môi … “Đây gói hành trang xếp lại cho tròn để anh đi nhé, xin chớ u buồn vì trong những ngày dài anh vắng bên em … Hôm nay tay cầm tay mình chưa nói chi nhiều trong lúc tạm xa, rồi đêm khuya vắng em trở giấc mơ màng, là khi em thấy nhiều ước mơ … Em ơi anh đi vì nước non mình đợi chờ, muôn quân đang reo lửa khói tung ngập màu cờ, thân trai ra đi nợ nước đôi vai gánh nặng, buồn chi cách xa vì ngày vui sẽ không xa … Hôm nay anh đi vì muốn duyên mình đẹp màu, bao năm chia ly là mấy trăm vạn ngày sầu, vui lên đi em rượu tiễn sao không uống cạn, để anh bước đi cho phỉ chí mộng làm trai …“. Bỏ lại thành phố sau lưng … ánh đèn rực rỡ nơi chốn phồn hoa, đô thị xa dần và mờ khuất … Người Lính âm thầm bước đi trong màn đêm để canh giữ quê hương, cho người dân được tròn giấc ngủ … “Nặng vai balô khi chuyển quân qua áo sương lạnh đầy hơn một lần, gian nan giữa giờ phố phường ngủ trọn mơ đêm dương gian, mình đi khi nước đau chẳng thở than … Từ KBC giá lạnh rừng sâu, anh gởi lời thăm về em yêu dấu, qua bao ngày chúng mình xa nhau … chắc em để phấn son nhạt màu và buồn trong cả giấc chiêm bao …“, đối với kẻ chinh nhân thì tình nào hơn tình non nước … hạnh phúc nào hơn hạnh phúc của người dân … Em hãy điểm phấn tô son lại, mỉm với nhân gian một nụ cười và “Xin hiểu tình yêu trong thời chiến chinh này, mấy người mơ ước cho tròn … càng khổ càng đau thì tình yêu càng sâu khi dắt đưa nhau về bến. Ngăn cách bây giờ cho mai mốt sum vầy không thấy thẹn cùng sông núi, vì đời khổ đau … anh góp một phần xương máu, đôi cánh tay này anh hiến trọn cho tình quê ...”.
Suốt quãng đường chinh chiến, Người Lính đã bao lần trình diện đơn vị mới để bổ xung quân số và theo nhu cầu của chiến trường, tình bạn bè đồng đội thắm thiết sống chết bên nhau bao tháng ngày qua, mai này phải chia tay … kẻ nơi, người ngả … thôi thì “Đêm nay ta trút cạn tâm sự bên phố khuya quạnh hiu, bên quán xưa tiêu điều, đường tình chan chứa … mai anh đi rồi, giờ mình nói gì thêm nữa. Quê hương trăm nẻo đường xa vời, thương nhớ xẻ làm đôi giây phút không nỡ rời, cầm tay khẽ nói tin nhau trong đời, tình bạn bè anh với tôi. Từ nay đôi đứa đôi đường còn lại tôi ở phương này, dặn anh về đơn vị mới nhớ biên thư thăm nhiều nhé. Anh ơi, anh ơi … tôi biết nói chi đây giây phút quyến luyến chia tay, canh gác đã đến phiên rồi … kỷ niệm trong đời, lời tôi lần cuối thôi nâng cạn hết ly này …“. Người Lính thu xếp chút thì giờ từ biệt người yêu … những bước chân chầm chậm bên nhau như muốn thời gian chớ vội qua mau, những giọt sương mai đẫm ướt đôi vai, vài cơn gió lùa se lạnh hay lạnh trong lòng người ở lại … “Trời đêm dần tàn, tôi đến sân ga đưa tiễn người trai lính về ngàn … cầm chắc đôi tay ghi vào đời tâm tư ngày nay, gió khuya ôi lạnh sao … ướt nhẹ đôi tà áo ...” … Tiếng còi tàu hú vang mang đứa con yêu của tổ quốc khuất chìm trong màn sương khi mặt trời còn say ngủ … “Ashau, Cam Lộ, Hạ Lào, Khe Sanh, pháo nổ trên Cổ Thành … Xin vinh thăng những mộ xanh cỏ biếc, có kẻ hôm qua đã ngủ quên trên chiến trường, ôi chiến trường dài hơn tuổi mình …”. Người Lính đi vào vùng lửa đạn để tìm mạch sống, nguồn vui cho đời … những ai đã từng khoác áo trận mới hiểu được sự gian nan, hiểm nguy của đời lính, những người đặt tổ quốc và sinh mạng của người dân trên cả mạng sống của mình, cái chết và sống chỉ cách nhau trong nháy mắt … kiếp chinh nhân nào ai biết trước được tương lai … “Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả .., anh trở về … anh trở về hàng cây nghiêng ngả, anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa. Anh trở về bằng chiếc băng-ca trên trực thăng sơn màu tang trắng ...”
Những dấu đạn thù, mảnh pháo giặc trên thân thể Người Lính là những chiến tích hào hùng từ các mặt trận lớn nhỏ trên bốn vùng chiến thuật … từ sóng nước của năm vùng duyên hải hoặc từ vùng trời không gian bị đan kín bởi mạng lưới phòng không dày đặc của cộng quân. Sau mùa Hè Đỏ Lửa 1972, khói lửa chiến tranh đã thưa dần, nhưng quê hương chưa thật sự thanh bình, cuộc sống của người dân chưa được trọn vẹn an vui … vài dòng chữ ghi vội giữa rừng xanh … “Em ơi, cho dù súng thù giờ đây lẻ loi … nhưng anh vẫn còn trách nhiệm vì dân hiến thân, nên thư của anh vẫn là thư lính trong đêm rừng sâu đèn sao sáng soi, vài câu viết vội vài dòng chân thành, mong người em yêu thấu hiểu lòng anh …”. Làm người yêu của lính, làm vợ kẻ chinh nhân là chấp nhận sự chia ly, là chấp nhận những gì tang thương có thể xảy đến bất cứ giờ phút nào, là cảm thông với những người quằn nặng gánh giang sơn … hình ảnh quê hương bị dày xéo bởi cộng nô, hình ảnh thê lương của người dân vì thảm cảnh chiến tranh đã vương “Mắt em buồn cuộc chiến quê hương, tóc em dài màu hỏa châu vương, vì ai gieo khói lửa cho u hoài muôn thưở … em buồn … buồn vì quê hương …”. Đời lính chiến … đầu nón sắt đội trời tổ quốc … khẩu súng thép trên tay gìn giữ quê cha … chân mang giày saut bước đi trên mảnh đất mẹ … lưng mang balô trĩu nặng tình yêu quê hương dân tộc … gia tài của Người Lính vỏn vẹn chỉ có thế … Người Lính biết lấy gì tặng người yêu trong dịp về thành phố tham dự kỷ niệm “Ngày Quân Lực 19/06”, ngoại trừ “Hái trộm hoa rừng về trao một người ngày xưa anh đã hứa, màu hoa kỷ niệm tuy đã tàn úa tâm tư dạt dào. Năm xưa lối này vẫn thường dìu em đi, tàng cây năm trước anh viết tên em còn xanh lá cành ghi dấu kỷ niệm những ngày còn bên nhau … Tôi lại gặp anh, người trai nơi chiến tuyến … súng trên vai bước về qua đường phố. Tôi lại gặp anh giờ đây nơi quán nhỏ, tuổi ba mươi mà ngỡ như trẻ thơ, nhớ gì từ ngày anh xa mái trường, nhớ gì từ ngày anh vui lên đường, lối gầy về nhà anh hoa phượng thắm, màu xanh áo người thương, nắng chiều đẹp quê hương hay nhạc buồn đêm sương …“. Những ngày phép của “Mùa Hè năm nay, anh sẽ đưa em vòng khắp cả hí trường, nghe người ca bài ca lời thương lời nhớ … chén tiễn chén đưa cho rã rời một đêm hẹn ước, dứt áo tìm vui nơi chiến trường có bạn có thù …”. Những chuyện tình thời chinh chiến có sự chia tay nào không vương lại nỗi buồn trong ánh mắt giai nhân … những lời hứa, những lời tâm sự canh tàn canh quyến luyến thời gian còn lại bên nhau … những lời an ủi, vỗ về có làm vơi đi những gì đang nghèn nghẹn trong tim hay làm cho những giọt lệ chợt rơi từ đôi mắt ngọc … “Anh hứa đưa em về nơi chân trời tím, nghe gió êm qua đáy tim từng hoàng hôn. Xin không thiếu trăng vàng trên tóc em, với ánh sao vơi đầy mắt người yêu. Anh vì lửa khói quê hương, đường hun hút biên cương … một mình ngắm trăng suông. Em về bên ấy thương mong từng chiều rớt bên song, em có mơ gì không … Anh biết em mơ về nơi chân trời tím, nghe đáy tim mơ ước khi ta trọn đôi, xin yêu ai muôn đời không lẻ loi như sắc mây chân trời tím chiều rơi … “. Nhưng chân trời tím ước mơ đã bị trùm phủ một màu đen tang tóc, những lời hứa trong niềm mơ ước đơn sơ đó đã không bao giờ đến, vì nó đã tan vỡ toàn diện trong một ngày nghiệt ngã của quê hương … ngày “30/04 gãy súng” !
Hai mươi năm chinh chiến, có biết bao nhiêu bà mẹ già lần mò ra trước ao, với giòng lệ nhạt nhòa từ đôi mắt mù lòa đón đứa con yêu trở về với một cánh tay áo, một ống quần dư thừa hoặc không còn ánh sáng cuộc đời … “Mẹ lần mò ra trước ao, nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ ...” ; Bao nhiêu người con yêu của tổ quốc đã xong nợ xương máu không trở về … bao nhiêu người quả phụ lệ nhòa chít khăn tang trên mái tóc còn xanh, bao nhiêu người vợ trẻ vừa nở nụ cười hạnh phúc trong ngày cưới đã ngỡ ngàng, bàng hoàng xót xa mang vành tang trắng trở thành góa phụ ngây thơ … “Bây giờ anh phủ màu cờ, bây giờ anh phủ màu cờ … Em không nhìn được xác chàng, anh thêm lon giữa hai hàng nến trong, mùi hương cứ tưởng hơi chồng, ôm mộ cứ tưởng ôm vòng người yêu ...”. Chiến tranh là mất mát đau thương hằn sâu vết thương lòng những người ở lại … Nhưng sau cuộc chiến lại là một sự mất mát, tang thương gấp trăm ngàn lần những gì tang thương nhất trong cuộc chiến …!
“Sau cuộc chiến này, còn chi không anh … còn chi
không anh … hay chỉ còn lại tấm thẻ bài đang ngậm ngùi mang tên anh.
Giòng máu nào là của mẹ … niềm tin nào là của em … Ôi trên tấm thẻ bài
này, tấm thẻ bài này đã từng chuyên chở tất cả giấc mộng yêu đương, mộng
yêu đương không bao giờ đến, không bao giờ đến nữa vì anh không còn
mang tấm thẻ bài trở về bên em …
Anh đã đi, đã đi vào vùng miên viễn đời người … Anh ngủ yên, ngủ yên như
cỏ úa … Anh ơi, sau cuộc chiến này có còn chi để lại hay chỉ còn lại
tấm thẻ bài mang tên anh … tên anh.
Tấm thẻ bài phân loại máu anh, máu Việt Nam mang tình của mẹ, tình của mẹ không bao giờ hận thù.
Anh … Anh có biết tấm thẻ bài của anh để lại … cuộc chiến này vẫn còn đó không thôi … cuộc chiến này vẫn còn đó anh ơi …
Sau cuộc chiến này, còn chi không anh … còn chi không anh … hay chỉ còn
lại tấm thẻ bài đang lạnh lùng trên tay em. Giòng máu nào là của mẹ …
niềm tin nào là của em … Ôi trên tấm thẻ bài này, tấm thẻ bài này đã
từng ấp ủ tất cả giấc mộng yêu đương, mộng yêu đương không bao giờ đến,
không bao giờ đến nữa vì anh không còn mang tấm thẻ bài trở về bên em …
Mộng yêu đương không bao giờ đến, không bao giờ đến nữa vì anh không còn mang tấm thẻ bài trở về bên em ...”
Thay mặt cho tất cả anh chị em đã đóng góp thời gian
và tiếng hát trong bài viết này … Xin chân thành gởi nén hương lòng đến
những anh hùng QLVNCH đã cho chúng tôi sự sống bằng sinh mạng của các
anh ; Chân thành cảm ơn những Người Lính VNCH đã hy sinh xương máu cũng
như các anh em TPB.VNCH đã hy sinh một phần thân thể cho chúng tôi còn được nguyên vẹn hình hài hít thở bầu không khí tự do ngày hôm nay.
“Vinh Danh – Tưởng Niệm – Tri Ân” Người Lính VNCH, những anh hùng bất tử trong dòng lịch sử Việt Nam, trong dòng thời gian vô cùng tận của tạo hoá.
Ngày 06 tháng 11 năm 2010.
“Mũ Đen” Hoàng Nhật Thơ
http://batkhuat.net/van-nguoilinh-vnch-nhungtinhkhuc-battu.htm