Cõi Người Ta
Người Nhật ‘tốt’ hay không ‘tốt’?
                hông thường người nước ngoài hay phàn nàn người Nhật cứng nhắc và nguyên tắc, nhưng thực tế… vẫn có ngoại lệ.
            
                
        
Không đơn giản “tốt” hay “xấu”
Khi mới tiếp xúc với một nền văn hóa nào đó hoặc tiếp xúc lâu nhưng 
không thể thâm nhập sâu được vì rào cản ngôn ngữ người ta thường không 
tránh khỏi những nỗi kinh ngạc. Vợ tôi cũng thế.
Đến đâu, sau khi làm việc với người Nhật xong vợ tôi đều bảo “ông ấy tốt
 thế”, “chị ấy tốt thật”. Những người vợ tôi vừa “khen” và cảm động là 
các nhân viên làm việc ở tòa thị chính, ngân hàng, các bác sĩ, y tá làm ở
 bệnh viện…
Tôi bảo vợ: “Chẳng phải thế đâu. Biết thế nào là tốt. Họ chỉ làm công 
việc của họ thôi”. Nghe thế, vợ tôi có vẻ không bằng lòng, cau mặt lườm:
 “Cứ nói như anh ấy…”.
Kỳ thực đúng là như thế. Nếu bạn sống hợp pháp ở Nhật, thì kể cả bạn 
không hề biết một từ tiếng Nhật và là người nước ngoài, trong hầu hết 
các trường hợp bạn sẽ vẫn nhận được sự ân cần, chu đáo và lịch sự ở các 
cơ quan công quyền lẫn nhưng nơi cung cấp dịch vụ.
Lý do đơn giản nằm ở chỗ cả pháp luật và quan niệm đạo đức thông thường,
 phổ biến trong xã hội Nhật đều coi các nhân viên công quyền là người 
làm thuê nhận tiền công (lương) từ tiền thuế của dân. Cảm quan của người
 Nhật về tiền thuế rất rõ ràng và mạnh mẽ. Những sự lãng phí hay các vụ 
biển thủ tiền công làm cho họ tức giận nghiêm trọng.
Các cơ quan công quyền và nhân viên của họ cũng ý thức rất rõ  người dân
 là “ông chủ” hoặc chí ít là “khách hàng”. Trong xưng hô họ gọi người 
dân đến làm việc là “quý khách”.
Không thể nhận xét người Nhật "tốt" hay "xấu" một cách đơn giản. Ảnh minh họa: Mettahu.blogspot.com
Đối với những nơi khác như công ty, khách sạn, nhà hàng… họ coi những 
người đến với họ là khách hàng.  Họ cung cấp dịch vụ làm khách hàng vừa 
lòng và thu  phí dịch vụ tương ứng.  Trong tư duy và cách làm việc đó, 
hành xử của nhân viên là dựa trên luật pháp và các nguyên tắc giao tiếp 
đã được “chuẩn hóa”.
Điều này khá thú vị. Nếu bạn quan sát kĩ sẽ thấy ở Nhật, các nhân viên 
của cùng một hệ thống sẽ có những lời nói và hành động trước khách hàng y
 hệt nhau, dù họ làm việc ở  Kyushu hay hòn đảo Hokkaido ở cực bắc.
Hành xử của nhân viên trong khi làm việc luôn được giám sát nghiêm ngặt 
bởi cấp trên và camera nội bộ. Mọi hành vi vô lễ với khách hàng, người 
dân hoặc sai với “quy chuẩn” đều bị xử lý thích đáng.
Và như thế, có thể thấy, câu nhận xét của vợ tôi về họ là một sự sai 
lầm. Không thể đánh giá họ là “tốt” hay “xấu” một cách đơn giản. Họ trên
 hết chỉ là những người lao động chăm chỉ và tuân thủ nghiêm túc theo 
quy chuẩn. Họ tươi cười đấy nhưng khó biết họ thật sự nghĩ gì. Họ khó 
chịu với khách hàng đấy nhưng không họ không bao giờ đuổi khách hay 
buông lời khiếm nhã.
Vì thế dễ hiểu khi bạn  thấy trong chốn công sở hay cửa hàng họ vừa quỳ 
xuống nói chuyện với bạn rất ân cần với nụ cười tươi nhưng khi bước ra 
ngoài đường họ hoàn toàn xa lạ với bạn dù vừa mới giáp mặt và tư vấn cho
 bạn trước đó chưa đầy… 2  phút. 
Người Việt: “gia đình” là trung tâm?
Tham chiếu với người Việt chúng ta thì sao? Tôi nghĩ lời nhận xét của vợ
 tôi về chuyện ai đó tốt hay không trong trường hợp này là hợp lý. Người
 Việt trong vô thức coi cả xã hội là một gia đình và dùng quan hệ gia 
đình để quy chiếu mọi quan hệ xã hội.
Tư duy này thể hiện rất rõ trong sự xưng hô của người Việt. Người già 
thì gọi là “bác”, là “ông”, “bà”, “cụ”. Người trẻ hơn thì gọi là chú, là
 anh. Ít tuổi hơn thì là em, là cháu. Cách gọi những người hoàn toàn xa 
lạ là bố (mẹ) và xưng “con” dù không có quan hệ thuyết thống tương đối 
phổ biến.
Phải chăng việc coi trọng hệ giá trị đó khiến người Việt hành xử dựa 
trên sự phán đoán của tình cảm cá nhân (hay như nhiều người nói người 
Việt duy tình). Điều này chi phối từ những nhân viên công vụ ở chốn tôn 
nghiêm hay ở nhà hàng, cửa hiệu, chúng ta có xu hướng “ưu tiên” hơn với 
những người có quan hệ thân thiết, quen biết, những người được coi là 
“anh em”.
Vẫn có ngoại lệ
Đọc đến đây, rất có thể sẽ có bạn kêu lên: “Anh viết sai. Không phải 
thế”. Có thể. Vì trải nghiệm của bạn khác tôi. Hơn nữa cũng có ngoại lệ.
Thế nước Nhật có ngoại lệ không?
Thông thường người nước ngoài hay phàn nàn người Nhật cứng nhắc và 
nguyên tắc, nhưng thực tế… vẫn có ngoại lệ. Xin kể hai ngoại lệ khá thú 
vị liên quan đến trải nghiệm của tôi.
Câu chuyện thứ nhất liên quan đến chuyện ở trọ của tôi. Khi đến Nhật lần
 thứ nhất và học xong chương trình thực tập sinh, tôi muốn thi vào cao 
học nhưng ông thầy hướng dẫn không đồng ý. Ý ông là tôi phải học thêm 
một năm tiếng Nhật nữa. Không có cách nào khác, tôi trở thành du học 
sinh tư phí tự chi trả học phí và đi làm kiếm sống để học.
Rắc rối là chi phí ở bên ngoài khá đắt trong khi theo quy định tôi sẽ 
phải dọn ra khỏi KTX khi trở thành sinh viên tư phí. Có lẽ đọc hồ sơ và 
biết câu chuyện của tôi, ông trưởng phòng hành chính gọi tôi vào phòng 
bảo: “Lẽ ra anh phải chuyển ra ngoài nhưng tôi đã bảo lãnh để anh có thể
 ở lại một năm”. Thật là ngoài sức tưởng tượng.
Cũng chính ông sau này là người đã tự bỏ tiền túi tạm đóng học phí cho 
một du học sinh Việt Nam khác khi thời hạn đóng tiền đã sắp hết mà cậu 
ta chưa có đủ tiền. Hành động này của ông vượt ra khỏi cả “nghĩa vụ” của
 ông trong công việc. Với tôi, ông thật sự là “một người tốt”.
Câu chuyện thứ hai là ở bệnh viện. Vợ tôi mang bầu và sinh con ở Nhật. 
Đến tuần cận ngày dự sinh bà bác sĩ làm tình nguyện viên ở đó thì thầm 
với tôi: “Nên chuyển sang khám vào ngày thứ 3 vì bác sĩ X đó tôi thân 
thiết và có kinh nghiệm hơn”. Cái này cũng vượt ra ngoài “quy chuẩn” 
thông thường. Có lẽ bà cụ coi chúng tôi như con và động lòng thương cảm 
vì  hai vợ chồng tôi không có bà sang trợ giúp.
Khi gặp ông bác sĩ mới tôi hiểu thêm lý do tại sao bà bác sĩ tốt bụng 
gợi ý. Bác sĩ này đã từng làm việc 3 tháng ở bệnh viện Từ Dũ của Việt 
Nam. Cả ông và vợ đều là học trò “cưng” của bà bác sĩ tình nguyện.  Hơn 
hai tuần sau khi ra viện, bà bác sĩ  mặc Kimono, tự lái xe đến tận nơi 
tôi ở  chơi và cho con tôi rất nhiều đồ chơi. Đấy cũng là một ngoại lệ.
****
Bởi tư duy khác biệt, nên trong đời sống và công việc, người Việt thường
 chỉ cảm thấy thoải mái và dễ dàng trong “mạng lưới” do chính mình tạo 
ra thông qua các mối quan hệ thân thuộc và quen biết. Mạng lưới ấy dựa 
trên tình cảm cá nhân và các lợi ích riêng tư. Rời ra khỏi mạng lưới ấy,
 người Việt sẽ như con cá ra khỏi nước. Có lẽ vì thế mà trong cuộc đời 
mình, một mối quan tâm lớn của người Việt là gắng sức thiết lập các mối 
quan hệ thân quen.
Người Nhật thì khác. Xã hội của họ là một hệ thống được quy chuẩn và 
pháp chế hóa. Ai có chức phận của người đó. Để bước chân vào “người 
thân“ trong mạng lưới mang tính cá nhân của họ không phải là điều dễ. 
Đặc tính này cũng gây nên nhiều hệ lụy. Một trong những hệ lụy đó là nỗi
 cô đơn. Xin dành những hệ lụy ấy cho bài viết sau.
Nguyễn Quốc Vương
(Tuần Việt Nam)
            Người Nhật ‘tốt’ hay không ‘tốt’?
                hông thường người nước ngoài hay phàn nàn người Nhật cứng nhắc và nguyên tắc, nhưng thực tế… vẫn có ngoại lệ.
            
            
Không đơn giản “tốt” hay “xấu”
Khi mới tiếp xúc với một nền văn hóa nào đó hoặc tiếp xúc lâu nhưng 
không thể thâm nhập sâu được vì rào cản ngôn ngữ người ta thường không 
tránh khỏi những nỗi kinh ngạc. Vợ tôi cũng thế.
Đến đâu, sau khi làm việc với người Nhật xong vợ tôi đều bảo “ông ấy tốt
 thế”, “chị ấy tốt thật”. Những người vợ tôi vừa “khen” và cảm động là 
các nhân viên làm việc ở tòa thị chính, ngân hàng, các bác sĩ, y tá làm ở
 bệnh viện…
Tôi bảo vợ: “Chẳng phải thế đâu. Biết thế nào là tốt. Họ chỉ làm công 
việc của họ thôi”. Nghe thế, vợ tôi có vẻ không bằng lòng, cau mặt lườm:
 “Cứ nói như anh ấy…”.
Kỳ thực đúng là như thế. Nếu bạn sống hợp pháp ở Nhật, thì kể cả bạn 
không hề biết một từ tiếng Nhật và là người nước ngoài, trong hầu hết 
các trường hợp bạn sẽ vẫn nhận được sự ân cần, chu đáo và lịch sự ở các 
cơ quan công quyền lẫn nhưng nơi cung cấp dịch vụ.
Lý do đơn giản nằm ở chỗ cả pháp luật và quan niệm đạo đức thông thường,
 phổ biến trong xã hội Nhật đều coi các nhân viên công quyền là người 
làm thuê nhận tiền công (lương) từ tiền thuế của dân. Cảm quan của người
 Nhật về tiền thuế rất rõ ràng và mạnh mẽ. Những sự lãng phí hay các vụ 
biển thủ tiền công làm cho họ tức giận nghiêm trọng.
Các cơ quan công quyền và nhân viên của họ cũng ý thức rất rõ  người dân
 là “ông chủ” hoặc chí ít là “khách hàng”. Trong xưng hô họ gọi người 
dân đến làm việc là “quý khách”.
Không thể nhận xét người Nhật "tốt" hay "xấu" một cách đơn giản. Ảnh minh họa: Mettahu.blogspot.com
Đối với những nơi khác như công ty, khách sạn, nhà hàng… họ coi những 
người đến với họ là khách hàng.  Họ cung cấp dịch vụ làm khách hàng vừa 
lòng và thu  phí dịch vụ tương ứng.  Trong tư duy và cách làm việc đó, 
hành xử của nhân viên là dựa trên luật pháp và các nguyên tắc giao tiếp 
đã được “chuẩn hóa”.
Điều này khá thú vị. Nếu bạn quan sát kĩ sẽ thấy ở Nhật, các nhân viên 
của cùng một hệ thống sẽ có những lời nói và hành động trước khách hàng y
 hệt nhau, dù họ làm việc ở  Kyushu hay hòn đảo Hokkaido ở cực bắc.
Hành xử của nhân viên trong khi làm việc luôn được giám sát nghiêm ngặt 
bởi cấp trên và camera nội bộ. Mọi hành vi vô lễ với khách hàng, người 
dân hoặc sai với “quy chuẩn” đều bị xử lý thích đáng.
Và như thế, có thể thấy, câu nhận xét của vợ tôi về họ là một sự sai 
lầm. Không thể đánh giá họ là “tốt” hay “xấu” một cách đơn giản. Họ trên
 hết chỉ là những người lao động chăm chỉ và tuân thủ nghiêm túc theo 
quy chuẩn. Họ tươi cười đấy nhưng khó biết họ thật sự nghĩ gì. Họ khó 
chịu với khách hàng đấy nhưng không họ không bao giờ đuổi khách hay 
buông lời khiếm nhã.
Vì thế dễ hiểu khi bạn  thấy trong chốn công sở hay cửa hàng họ vừa quỳ 
xuống nói chuyện với bạn rất ân cần với nụ cười tươi nhưng khi bước ra 
ngoài đường họ hoàn toàn xa lạ với bạn dù vừa mới giáp mặt và tư vấn cho
 bạn trước đó chưa đầy… 2  phút. 
Người Việt: “gia đình” là trung tâm?
Tham chiếu với người Việt chúng ta thì sao? Tôi nghĩ lời nhận xét của vợ
 tôi về chuyện ai đó tốt hay không trong trường hợp này là hợp lý. Người
 Việt trong vô thức coi cả xã hội là một gia đình và dùng quan hệ gia 
đình để quy chiếu mọi quan hệ xã hội.
Tư duy này thể hiện rất rõ trong sự xưng hô của người Việt. Người già 
thì gọi là “bác”, là “ông”, “bà”, “cụ”. Người trẻ hơn thì gọi là chú, là
 anh. Ít tuổi hơn thì là em, là cháu. Cách gọi những người hoàn toàn xa 
lạ là bố (mẹ) và xưng “con” dù không có quan hệ thuyết thống tương đối 
phổ biến.
Phải chăng việc coi trọng hệ giá trị đó khiến người Việt hành xử dựa 
trên sự phán đoán của tình cảm cá nhân (hay như nhiều người nói người 
Việt duy tình). Điều này chi phối từ những nhân viên công vụ ở chốn tôn 
nghiêm hay ở nhà hàng, cửa hiệu, chúng ta có xu hướng “ưu tiên” hơn với 
những người có quan hệ thân thiết, quen biết, những người được coi là 
“anh em”.
Vẫn có ngoại lệ
Đọc đến đây, rất có thể sẽ có bạn kêu lên: “Anh viết sai. Không phải 
thế”. Có thể. Vì trải nghiệm của bạn khác tôi. Hơn nữa cũng có ngoại lệ.
Thế nước Nhật có ngoại lệ không?
Thông thường người nước ngoài hay phàn nàn người Nhật cứng nhắc và 
nguyên tắc, nhưng thực tế… vẫn có ngoại lệ. Xin kể hai ngoại lệ khá thú 
vị liên quan đến trải nghiệm của tôi.
Câu chuyện thứ nhất liên quan đến chuyện ở trọ của tôi. Khi đến Nhật lần
 thứ nhất và học xong chương trình thực tập sinh, tôi muốn thi vào cao 
học nhưng ông thầy hướng dẫn không đồng ý. Ý ông là tôi phải học thêm 
một năm tiếng Nhật nữa. Không có cách nào khác, tôi trở thành du học 
sinh tư phí tự chi trả học phí và đi làm kiếm sống để học.
Rắc rối là chi phí ở bên ngoài khá đắt trong khi theo quy định tôi sẽ 
phải dọn ra khỏi KTX khi trở thành sinh viên tư phí. Có lẽ đọc hồ sơ và 
biết câu chuyện của tôi, ông trưởng phòng hành chính gọi tôi vào phòng 
bảo: “Lẽ ra anh phải chuyển ra ngoài nhưng tôi đã bảo lãnh để anh có thể
 ở lại một năm”. Thật là ngoài sức tưởng tượng.
Cũng chính ông sau này là người đã tự bỏ tiền túi tạm đóng học phí cho 
một du học sinh Việt Nam khác khi thời hạn đóng tiền đã sắp hết mà cậu 
ta chưa có đủ tiền. Hành động này của ông vượt ra khỏi cả “nghĩa vụ” của
 ông trong công việc. Với tôi, ông thật sự là “một người tốt”.
Câu chuyện thứ hai là ở bệnh viện. Vợ tôi mang bầu và sinh con ở Nhật. 
Đến tuần cận ngày dự sinh bà bác sĩ làm tình nguyện viên ở đó thì thầm 
với tôi: “Nên chuyển sang khám vào ngày thứ 3 vì bác sĩ X đó tôi thân 
thiết và có kinh nghiệm hơn”. Cái này cũng vượt ra ngoài “quy chuẩn” 
thông thường. Có lẽ bà cụ coi chúng tôi như con và động lòng thương cảm 
vì  hai vợ chồng tôi không có bà sang trợ giúp.
Khi gặp ông bác sĩ mới tôi hiểu thêm lý do tại sao bà bác sĩ tốt bụng 
gợi ý. Bác sĩ này đã từng làm việc 3 tháng ở bệnh viện Từ Dũ của Việt 
Nam. Cả ông và vợ đều là học trò “cưng” của bà bác sĩ tình nguyện.  Hơn 
hai tuần sau khi ra viện, bà bác sĩ  mặc Kimono, tự lái xe đến tận nơi 
tôi ở  chơi và cho con tôi rất nhiều đồ chơi. Đấy cũng là một ngoại lệ.
****
Bởi tư duy khác biệt, nên trong đời sống và công việc, người Việt thường
 chỉ cảm thấy thoải mái và dễ dàng trong “mạng lưới” do chính mình tạo 
ra thông qua các mối quan hệ thân thuộc và quen biết. Mạng lưới ấy dựa 
trên tình cảm cá nhân và các lợi ích riêng tư. Rời ra khỏi mạng lưới ấy,
 người Việt sẽ như con cá ra khỏi nước. Có lẽ vì thế mà trong cuộc đời 
mình, một mối quan tâm lớn của người Việt là gắng sức thiết lập các mối 
quan hệ thân quen.
Người Nhật thì khác. Xã hội của họ là một hệ thống được quy chuẩn và 
pháp chế hóa. Ai có chức phận của người đó. Để bước chân vào “người 
thân“ trong mạng lưới mang tính cá nhân của họ không phải là điều dễ. 
Đặc tính này cũng gây nên nhiều hệ lụy. Một trong những hệ lụy đó là nỗi
 cô đơn. Xin dành những hệ lụy ấy cho bài viết sau.
Nguyễn Quốc Vương
(Tuần Việt Nam)
            
       

















