Tham Khảo
Nguồn Gốc Của Xã Hội Chủ Nghĩa Của Mỹ
Mỹ từng là một quốc gia theo mô hình xã hội chủ nghĩa? Rất ngạc nhiên, nhưng đúng vậy. Những người đầu tiên đến định cư ở Plymouth và Jamestown vào đầu những năm 1600
Mỹ từng là một quốc gia theo mô hình xã hội chủ nghĩa? Rất ngạc nhiên,
nhưng đúng vậy. Những người đầu tiên đến định cư ở Plymouth và Jamestown
vào đầu những năm 1600 đã thử nghiệm mô hình xã hội chủ nghĩa. Nó đã
hoạt động hiệu quả không? Giáo sư lịch sử Larry Schweikart từ Đại Học
Dayton sẽ chia sẻ những câu chuyện hấp dẫn này.
Người Mỹ đã không phát minh ra thị trường tự do – chủ nghĩa tư bản. Nhưng bạn có thể nói chính họ là người đã hoàn thiện nó.
Trong
khi làm việc đó, họ đã tạo ra nhiều của cải cho loài người hơn bất kỳ
xã hội nào trong lịch sử thế giới. Để bắt đầu hiểu được sự hấp dẫn và
phức tạp của câu chuyện, chúng ta phải du hành ngược thời gian khi những
người đầu tiên định cư tại nước Mỹ.
Nhưng trước khi chúng ta bước vào lịch sử, hãy để tôi định nghĩa những
gì tôi hiểu về chủ nghĩa tư bản. Nó không đơn thuần là một thuật ngữ dễ
dàng để tóm gọn, bởi vì nó đã phát triển qua hàng ngàn năm dưới sự tương
tác của con người. Adam Smith, nhà tư tưởng vĩ đại người Anh, lần đầu
tiên đã mô tả về nó trong luận án nổi tiếng của ông năm 1776, Sự Giàu Có
Của Các Quốc Gia, nhưng ông không phải người phát minh ra nó.
Trong trường hợp này, tôi định nghĩa chủ nghĩa tư bản như một hệ thống
kinh tế, mà trong đó các cá nhân tự do quyết định những gì họ sẽ sản
xuất và đối tượng mà họ sẽ phục vụ. Khi cả hai bên đều đồng ý, nó là một
hệ thống mà muốn thành công đòi hỏi bạn phải phục vụ cho nhu cầu của
người khác trước khi bạn được thưởng cho công việc của mình.
Bây giờ trở lại chuyện lịch sử:
Khi những người đầu tiên đến định cư ở Jamestown năm 1607 và sau đó là
Plymouth năm 1620 – họ đã hoạt động theo một hệ thống kinh tế thường
dùng bởi các quốc gia Châu Âu vào thời đó, được gọi là Chủ Nghĩa Trọng
Thương. Dưới Chủ Nghĩa Trọng Thương các doanh nghiệp, đặc biệt là ở các
thuộc địa, họ hoạt động vì lợi ích của nhà nước. Trong khi các chính phủ
cho phép các doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận, thì mục đích chính của họ
là để thúc đẩy các lợi ích quốc gia của nước Anh, Tây Ban Nha hoặc Pháp.
Những người định cư đầu tiên ở Mỹ đã thiết lập mô hình tự duy trì để
chính phủ Anh không phải hỗ trợ họ. Và họ đã phải bảo vệ lãnh thổ đó. Đó
là chìa khóa cho trò chơi mang tên “thuộc địa”: Nếu nước Anh giữ lãnh
thổ, Tây Ban Nha và Pháp sẽ không.
Những người thực dân đầu tiên đã bắt đầu cuộc phiêu lưu của họ với những
thứ mà họ cho rằng là những ý tưởng tốt đẹp. Họ thiết lập một kho chứa
hạt chung từ những thứ mà họ cho rằng sẽ sử dụng những thứ họ cần và đưa
vào đó những thứ họ có thể. Đất đai cũng được đưa vào của chung và công
việc cũng làm chung. Họ không sở hữu đất đai riêng cho mình. Mặt dù
không có tên gọi nào cho hệ thống này, nó là một mô hình lý tưởng của
chủ nghĩa xã hội. Và bạn có thể đoán được những gì đã xảy ra. Nó đã sụp
đổ gần như ngay lập tức. Khi những người khai hoang học được rằng, khi
tất cả mọi người được hưởng mọi thứ, không ai muốn có trách nhiệm cho
bất cứ điều gì. Một người thực dân bắt đầu công việc sớm hay ở lại làm
đến muộn cũng nhận được số lương thực giống một người làm việc trễ và ra
về sớm, thậm chí không làm gì cả.
Sau khoảng hai năm, những người khai hoang đã phải ăn dây giày và chuột.
Một nửa trong số họ đã chết vì đói. Thuyền trưởng John Smith (của vùng
Pocahontas nổi tiếng) đã kiểm soát vùng thuộc địa và loại bỏ các mô hình
xã hội chủ nghĩa. Những người thực dân đã nhận được phần đất của chính
mình, sở hữu tư sản đã đến với thế giới mới. “Anh không làm việc, anh sẽ
không có miếng ăn.” – Smith nói với họ, trích dẫn từ kinh thánh. Họ đã
làm việc chăm chỉ. Và đã có ăn. Và vùng thuộc thuộc này đã được cứu.
Câu chuyện cũng diễn ra tương tự ở phía bắc – thuộc địa Plymouth 10 năm
sau. Mặc dù đây là cuộc địa của Thanh giáo với mục đích tôn giáo, vùng
đất này cũng áp dụng kế hoạc tương tự và đã thất bại như thị trấn của
Jamestown. Như một thống đốc trẻ, William Bradford đã ghi lại, bằng cách
áp dụng các hệ thống cộng đồng “Chúng tôi đã nghĩ rằng chúng tôi khôn
ngoan hơn cả Chúa”. Và họ nhanh chóng từ bỏ mô hình công cho sở hữu tư.
Nhanh chóng, họ đã có một sự sung túc, và họ đã kỷ niệm chúng bằng ngày
lễ mà nay ta gọi là “Lễ Tạ Ơn”. Hơn 150 năm sau, chính nhờ bài học khó
học này, người ta biết phải tự chịu trách nhiệm cho kinh tế riêng của
họ, nó đã trở một quy ước khôn ngoan.
Cách Mạng Mỹ phần lớn đã phải chiến đấu trên những gánh nặng mà chủ
nghĩa trọng thương của Anh đã đặt trên các thuộc địa. Hai loại thuế
không được ưa thích – The Stamp Act và The Tea Act – là ví dụ tiêu biểu.
Người Mỹ đã thấy chính phủ Anh điều tiết và kiểm soát hầu như tất cả
các hoạt động kinh tế của họ – và họ không thích như thế.
Và giờ, đó là sự thật mà ngay cả khi giành được độc lập, không một ai
trong số những người sáng lập có thể được gọi là nhà tư bản. Ý tưởng của
chủ nghĩa tư bản như là sự mô tả của một hệ thống kinh tế chỉ mới được
bắt đầu thảo luận ở Mỹ. Nhiều người trong số những người sáng lập có tầm
ảnh hưởng nhất bằng trực giác đã bị hút vào nguyên tắc thị trường tự
do. Ý tưởng về quyền sở hữu đất tư nhân của Thomas Jefferson đã định
hình nên Pháp Lệnh Về Đất nổi tiếng năm 1785, đã tạo nên đất công cộng
cho công dân, trong khi đó khái niệm về trách nhiệm cá nhân và sự bất
khả xâm phạm khế ước của Alexander Hamilton có thể được nhìn thấy trong
Cuộc Hoảng Loạn năm 1791-1792, trong đó ông kiên quyết từ chối sự cho
phép chính phủ Hoa Kỳ giải cứu các ngân hàng, kẻ đã gây ra sự khủng
hoảng. Benjamin Franklin, đã thực hiện chủ nghĩa tư bản trong suốt cuộc
đời ông với xưởng in của ông và trong châm ngôn của mình trong “Lịch Thư
Của Richard Nghèo”.
Hiến Pháp – chính bản thân nó ngập trong những khái niệm cốt lõi về thị
trường tự do: sự bất khả xâm phạm của các bản hợp đồng; tự do bày tỏ cảm
xúc; giới hạn quyền lực khả năng của chính phủ trong việc điều chỉnh
thuế; sự nhấn mạnh về việc trả các món nợ; và hơn nữa.
Một cách ngắn gọn, đó là sự khôn ngoan của kinh nghiệm, không phải các
tư tưởng học thuật, nó tạo ra các nguyên tắc thị trường tư do ở Mỹ. Kết
quả tạo nên các quốc gia thịnh vượng và tự do nhất trong lịch sử thế
giới.
Tôi là Larry Schweikart của Đại Học Dayton, đại diện cho Đại Học Prager.
Larry Schweikart, America’s Socialist Origins, Prager University
Dịch: Bé Sao, Biên tập: Ku Búa
(@ CAFEKUBUA.COM)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Nguồn Gốc Của Xã Hội Chủ Nghĩa Của Mỹ
Mỹ từng là một quốc gia theo mô hình xã hội chủ nghĩa? Rất ngạc nhiên, nhưng đúng vậy. Những người đầu tiên đến định cư ở Plymouth và Jamestown vào đầu những năm 1600
Mỹ từng là một quốc gia theo mô hình xã hội chủ nghĩa? Rất ngạc nhiên,
nhưng đúng vậy. Những người đầu tiên đến định cư ở Plymouth và Jamestown
vào đầu những năm 1600 đã thử nghiệm mô hình xã hội chủ nghĩa. Nó đã
hoạt động hiệu quả không? Giáo sư lịch sử Larry Schweikart từ Đại Học
Dayton sẽ chia sẻ những câu chuyện hấp dẫn này.
Người Mỹ đã không phát minh ra thị trường tự do – chủ nghĩa tư bản. Nhưng bạn có thể nói chính họ là người đã hoàn thiện nó.
Trong
khi làm việc đó, họ đã tạo ra nhiều của cải cho loài người hơn bất kỳ
xã hội nào trong lịch sử thế giới. Để bắt đầu hiểu được sự hấp dẫn và
phức tạp của câu chuyện, chúng ta phải du hành ngược thời gian khi những
người đầu tiên định cư tại nước Mỹ.
Nhưng trước khi chúng ta bước vào lịch sử, hãy để tôi định nghĩa những
gì tôi hiểu về chủ nghĩa tư bản. Nó không đơn thuần là một thuật ngữ dễ
dàng để tóm gọn, bởi vì nó đã phát triển qua hàng ngàn năm dưới sự tương
tác của con người. Adam Smith, nhà tư tưởng vĩ đại người Anh, lần đầu
tiên đã mô tả về nó trong luận án nổi tiếng của ông năm 1776, Sự Giàu Có
Của Các Quốc Gia, nhưng ông không phải người phát minh ra nó.
Trong trường hợp này, tôi định nghĩa chủ nghĩa tư bản như một hệ thống
kinh tế, mà trong đó các cá nhân tự do quyết định những gì họ sẽ sản
xuất và đối tượng mà họ sẽ phục vụ. Khi cả hai bên đều đồng ý, nó là một
hệ thống mà muốn thành công đòi hỏi bạn phải phục vụ cho nhu cầu của
người khác trước khi bạn được thưởng cho công việc của mình.
Bây giờ trở lại chuyện lịch sử:
Khi những người đầu tiên đến định cư ở Jamestown năm 1607 và sau đó là
Plymouth năm 1620 – họ đã hoạt động theo một hệ thống kinh tế thường
dùng bởi các quốc gia Châu Âu vào thời đó, được gọi là Chủ Nghĩa Trọng
Thương. Dưới Chủ Nghĩa Trọng Thương các doanh nghiệp, đặc biệt là ở các
thuộc địa, họ hoạt động vì lợi ích của nhà nước. Trong khi các chính phủ
cho phép các doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận, thì mục đích chính của họ
là để thúc đẩy các lợi ích quốc gia của nước Anh, Tây Ban Nha hoặc Pháp.
Những người định cư đầu tiên ở Mỹ đã thiết lập mô hình tự duy trì để
chính phủ Anh không phải hỗ trợ họ. Và họ đã phải bảo vệ lãnh thổ đó. Đó
là chìa khóa cho trò chơi mang tên “thuộc địa”: Nếu nước Anh giữ lãnh
thổ, Tây Ban Nha và Pháp sẽ không.
Những người thực dân đầu tiên đã bắt đầu cuộc phiêu lưu của họ với những
thứ mà họ cho rằng là những ý tưởng tốt đẹp. Họ thiết lập một kho chứa
hạt chung từ những thứ mà họ cho rằng sẽ sử dụng những thứ họ cần và đưa
vào đó những thứ họ có thể. Đất đai cũng được đưa vào của chung và công
việc cũng làm chung. Họ không sở hữu đất đai riêng cho mình. Mặt dù
không có tên gọi nào cho hệ thống này, nó là một mô hình lý tưởng của
chủ nghĩa xã hội. Và bạn có thể đoán được những gì đã xảy ra. Nó đã sụp
đổ gần như ngay lập tức. Khi những người khai hoang học được rằng, khi
tất cả mọi người được hưởng mọi thứ, không ai muốn có trách nhiệm cho
bất cứ điều gì. Một người thực dân bắt đầu công việc sớm hay ở lại làm
đến muộn cũng nhận được số lương thực giống một người làm việc trễ và ra
về sớm, thậm chí không làm gì cả.
Sau khoảng hai năm, những người khai hoang đã phải ăn dây giày và chuột.
Một nửa trong số họ đã chết vì đói. Thuyền trưởng John Smith (của vùng
Pocahontas nổi tiếng) đã kiểm soát vùng thuộc địa và loại bỏ các mô hình
xã hội chủ nghĩa. Những người thực dân đã nhận được phần đất của chính
mình, sở hữu tư sản đã đến với thế giới mới. “Anh không làm việc, anh sẽ
không có miếng ăn.” – Smith nói với họ, trích dẫn từ kinh thánh. Họ đã
làm việc chăm chỉ. Và đã có ăn. Và vùng thuộc thuộc này đã được cứu.
Câu chuyện cũng diễn ra tương tự ở phía bắc – thuộc địa Plymouth 10 năm
sau. Mặc dù đây là cuộc địa của Thanh giáo với mục đích tôn giáo, vùng
đất này cũng áp dụng kế hoạc tương tự và đã thất bại như thị trấn của
Jamestown. Như một thống đốc trẻ, William Bradford đã ghi lại, bằng cách
áp dụng các hệ thống cộng đồng “Chúng tôi đã nghĩ rằng chúng tôi khôn
ngoan hơn cả Chúa”. Và họ nhanh chóng từ bỏ mô hình công cho sở hữu tư.
Nhanh chóng, họ đã có một sự sung túc, và họ đã kỷ niệm chúng bằng ngày
lễ mà nay ta gọi là “Lễ Tạ Ơn”. Hơn 150 năm sau, chính nhờ bài học khó
học này, người ta biết phải tự chịu trách nhiệm cho kinh tế riêng của
họ, nó đã trở một quy ước khôn ngoan.
Cách Mạng Mỹ phần lớn đã phải chiến đấu trên những gánh nặng mà chủ
nghĩa trọng thương của Anh đã đặt trên các thuộc địa. Hai loại thuế
không được ưa thích – The Stamp Act và The Tea Act – là ví dụ tiêu biểu.
Người Mỹ đã thấy chính phủ Anh điều tiết và kiểm soát hầu như tất cả
các hoạt động kinh tế của họ – và họ không thích như thế.
Và giờ, đó là sự thật mà ngay cả khi giành được độc lập, không một ai
trong số những người sáng lập có thể được gọi là nhà tư bản. Ý tưởng của
chủ nghĩa tư bản như là sự mô tả của một hệ thống kinh tế chỉ mới được
bắt đầu thảo luận ở Mỹ. Nhiều người trong số những người sáng lập có tầm
ảnh hưởng nhất bằng trực giác đã bị hút vào nguyên tắc thị trường tự
do. Ý tưởng về quyền sở hữu đất tư nhân của Thomas Jefferson đã định
hình nên Pháp Lệnh Về Đất nổi tiếng năm 1785, đã tạo nên đất công cộng
cho công dân, trong khi đó khái niệm về trách nhiệm cá nhân và sự bất
khả xâm phạm khế ước của Alexander Hamilton có thể được nhìn thấy trong
Cuộc Hoảng Loạn năm 1791-1792, trong đó ông kiên quyết từ chối sự cho
phép chính phủ Hoa Kỳ giải cứu các ngân hàng, kẻ đã gây ra sự khủng
hoảng. Benjamin Franklin, đã thực hiện chủ nghĩa tư bản trong suốt cuộc
đời ông với xưởng in của ông và trong châm ngôn của mình trong “Lịch Thư
Của Richard Nghèo”.
Hiến Pháp – chính bản thân nó ngập trong những khái niệm cốt lõi về thị
trường tự do: sự bất khả xâm phạm của các bản hợp đồng; tự do bày tỏ cảm
xúc; giới hạn quyền lực khả năng của chính phủ trong việc điều chỉnh
thuế; sự nhấn mạnh về việc trả các món nợ; và hơn nữa.
Một cách ngắn gọn, đó là sự khôn ngoan của kinh nghiệm, không phải các
tư tưởng học thuật, nó tạo ra các nguyên tắc thị trường tư do ở Mỹ. Kết
quả tạo nên các quốc gia thịnh vượng và tự do nhất trong lịch sử thế
giới.
Tôi là Larry Schweikart của Đại Học Dayton, đại diện cho Đại Học Prager.
Larry Schweikart, America’s Socialist Origins, Prager University
Dịch: Bé Sao, Biên tập: Ku Búa
(@ CAFEKUBUA.COM)