Văn Học & Nghệ Thuật
Nguyên nhân một thời vang bóng và sự lụi tàn không thể níu giữ của thơ Tố Hữu
Bàn luận về thơ Tố Hữu ngày nay vẫn có hai luồng ý kiến trái chiều và cũng có quan điểm trung dung. Những người nặng lòng “nhớ rừng” thì ngẩn ngơ luyến tiếc thơ Tố Hữu một thời vang bóng
Bàn luận về thơ Tố Hữu ngày nay vẫn có hai luồng ý kiến trái chiều và
cũng có quan điểm trung dung. Những người nặng lòng “nhớ rừng” thì ngẩn
ngơ luyến tiếc thơ Tố Hữu một thời vang bóng. Đến bây giờ những cụ
những bác “hổ nhớ rừng” thi thoảng bất giác bật ra đôi câu “lẩy thơ” Tố
Hữu, như một quán tính.
Nhà thơ Tố Hữu |
Những người chán ngán thơ Tố Hữu thì ngẫu hứng “nhại thơ” ông ta. Hoặc mượn thơ Tố Hữu làm chuyện tiếu lâm.
Uống rượu đố nhau:
Đố: Tố Hữu làm công tác gì ở chiến khu Việt Bắc ?
Đáp: làm nghề tài xế cho Bác, đây chính Tố Hữu khai:
“Bác bảo đi, là đi
Bác bảo thắng, là thắng”
(Sáng tháng Năm, 5/1951, tập Việt Bắc)
Tôi nghĩ hai câu trên không phải thơ, chỉ là câu nói thường, ngắt nhịp 2 hàng kiểu đối ngẫu.
Một giáo viên toán yêu thơ phản bác đoạn thơ sau của Tố Hữu:
“Mà nói vậy trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho Thơ và phần để Em yêu”
(Bài ca Xuân 61).
Phần Thơ của Tố Hữu đều đã dành cho Đảng tất cả rồi (tuyên truyền chủ
trương đường lối đảng). Vậy là, trái tim TH chia 3 thì dành hơn 2 phần
cho Đảng, còn 1 phần bé nhất lép nhất cho em. Thế là phân chia ăn gian
nhá ! Nhìn chung, tứ thơ này thực là vớ vẩn, yêu Đảng, yêu thơ, yêu em
thực tế tồn tại độc lập, song song, mắc mớ gì mà phải chia 3. Chia ba
nghĩa là chẳng trung thành với ai cả. Vậy mà khoe “trái tim anh rất chân
thật” ! Xạo đến thế là cùng !
Sau Hiệp định Paris, Tố Hữu viết:
“Việt Nam ơi, máu và hoa ấy
Có đủ mai sau, thắm những ngày?”
(bài Việt Nam Máu và Hoa, 28/1/1973, tập thơ Máu và Hoa, 1977)
Gần đây các lãnh tụ đăng đàn hội nghị có mốt đứng ngập lút trong hoa.
Dân gian nhại thơ đề 4 bức ảnh sau đây tràn trên mạng xã hội:
“Máu ở chiến trường, Hoa ở đây”:
GS toán học Văn Như Cương hiệu trưởng một trường THPT tư thục Hà Nội kể chuyện tiếu lâm về thơ Tố Hữu: “Chân lí là cái gì”.
Năm 1966 một đoàn trí thức sắp đi Maxcơva làm nghiên cứu sinh. Trước khi
đi chúng tôi được nghe đ/c Tố Hữu giảng bài huấn thị. Khuyên nhủ chúng
tôi về sinh hoạt ở nước bạn, đ/c nói đến vấn đề “váy ngắn”,“chân dài”.
Đ/c bảo: “các bạn cứ việc nhìn chân đầm, nhưng đừng quên chân lí”, hội
trường xôn xao tán thưởng câu chơi chữ rất hay. Anh bạn ngồi bên tôi
bỗng nói: “Nhìn chân đầm thì làm sao quên chân lí được, đơn giản là vì
chân lí chỉ nằm trên chân đầm có một đoạn ngắn thôi mà”. Hắn nói khá to
mọi người ngồi xung quanh cười ầm lên tán thưởng. Tôi nói khẽ với hắn:
“Cái định nghĩa của cậu về chân lí quá hay, nhưng chính Tố Hữu đã nói
như thế rồi. Đ/c nói trong bài thơ ‘Hãy nhớ lấy lời tôi’ ca ngợi Nguyễn
Văn Trỗi, đây nhé: Có những phút làm nên lịch sử / Có cái chết hóa thành
bất tử /Có những lời hơn mọi bài ca / Có con người như chân lí sinh ra…
Đấy, con người từ “chân lí” sinh ra thì chân lí là cái gì nếu không
phải là cái cậu vừa nói ?”.
Lẩy thơ và nhại thơ là hai thái độ trái ngược nhau. Lẩy thơ là kính trọng, nhại thơ là khinh bỉ.
Những người trung dung muốn khách quan nhìn nhận Tố Hữu, cố vượt qua cảm
tính yêu ghét, băn khoăn rằng dù sao Tố Hữu cũng là một tài năng thơ
thực sự kia mà. Có lẽ nào công chúng văn học cả một thời đều ngu dốt hàm
hồ ?!
Giới nghiên cứu cũng chần chừ khi đánh giá “công- tội” Tố Hữu, đắn đo tỷ
lệ chừng bao nhiêu thì vừa phải. Công bảy tội ba hay công ba tội bảy,
hay là tỷ lệ khác nữa ?
Tôi cũng ngạc nhiên, cả một thời những nhà nghiên cứu văn học uyên bác
thơ văn đông tây kim cổ mà không nhận ra rằng thơ Tố Hữu chỉ là văn ghép
vần tuyên truyền cổ động, thiếu hẳn chất thơ. Ngay từ 1955, thi sĩ
Hoàng Cầm và một số thi sĩ trong và ngoài quân đội đã phê phán thẳng
thừng rằng thơ Tố Hữu không phải là thơ. Sau đó Tố Hữu điên tiết tìm cớ
trả thù những người phê bình, lồng ghép họ vào vụ Nhân văn- Giai phẩm.
Đòn đau nhớ đời, còn ai dám phê thơ Tố nữa. Hồi ấy lứa chúng tôi còn
nhỏ, sau này nghiên cứu văn học chưa tới bến bờ. Giá hồi ấy sành sỏi như
các bậc thầy thì chúng tôi cũng chẳng dám nói, có viết ra cũng chẳng ai
đăng. Bây giờ chúng tôi đem 5 tiêu chí thơ trữ tình của nhân loại áp
vào thơ Tố Hữu thì thấy quả thực thơ ông ta chỉ còn vài ba phần trăm gọi
là thơ.
Cân nhắc tỷ lệ ba/bảy hay bảy/ba là nói nôm na dễ hiểu thôi, nghệ thuật
chỉ định tính, làm sao mà định lượng được. Quan trọng nhất với thi ca là
cái dư vị, cái hậu vân vương cuối cùng. Ngọt thanh hay lợm giọng mới là
kết quả cơ bản nhất.
VÌ SAO THƠ TỐ HỮU MỘT THỜI LÔI CUỐN BẠN ĐỌC ?
Tập thơ “Từ ấy” đưa chàng trai Nguyễn Kim Thành Tố Hữu vào đời. Các
giáo trình văn học đều xếp tập thơ TỪ ẤY vào giai đoạn 1930-1945, bất
chấp rằng giai đoạn này hầu như không ai biết thơ Tố Hữu. Công trình THI
NHÂN VIỆT NAM của nhà văn Hoài Thanh không hề điểm qua một dòng thơ Từ
ấy, chẳng phải vì ghét mà vì chưa từng nghe ai đọc hay nói tới thơ Tố
Hữu. Đến khi Sự biến Tháng Tám xảy ra, cái tên Tố Hữu mới gắn liền với
bài thơ “Huế tháng Tám” và thơ Từ Ấy được tán phát trong vùng kháng
chiến. Sau 1954 thơ Tố Hữu mới ào ạt xuất bản và bá chiếm toàn bộ hệ
thống thông tin đại chúng và trường học.
Phương pháp dựa hơi lịch sử và truyền thống
Sau 1954, Bộ máy tuyên truyền, đài báo độc quyền nhà nước khởi động mở
chiến dịch tuyên truyền nhen nhóm tinh thần “đấu tranh thống nhất đất
nước”, trường kỳ và công phu phủ sóng trên toàn miền Bắc.
Truyền thống 4000 lịch sử Việt Nam được miêu tả thiên về chống ngoại xâm
đã giúp cảm hứng cho Tố Hữu viết thơ kiểu “tát nước theo mưa”.
Văn chương dân gian được chú trọng, ngoài quán tính còn là thấm nhuần
tinh thần khoa học Tây phương. Đừng tưởng luận điểm “giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc” là quan điểm “độc đáo” của Đảng như các bác thợ lý luận
tuyên truyền nghệ thuật thường rao giảng, thậm chí Đảng còn ra nghị
quyết “giữ gìn bản sắc” (!) Thực ra sáng tác kết hợp hiện đại và truyền
thống là tư duy nghệ thuật phương Tây. Từ thời phong kiến các cụ đã dựa
vào thất ngôn cổ thi kết hợp lục bát dân tộc làm ra thể song thất lục
bát tuyệt vời. Lớp thi sĩ tân học đầu tiên đã Việt hóa thơ thất ngôn cổ
thi thành THƠ MỚI tám chữ (đôi khi xen bảy chữ). THƠ MỚi uyển chuyển dễ
nghe dễ thuộc hơn hẳn so với cổ thi. Người làm thơ cũng thoải mái diễn
đạt tâm tư cảm xúc hơn xưa.
Tố Hữu biết tận dụng ca dao dân ca nói về những bà mẹ nông dân, viết ra
những “Bà bủ, Bầm ơi, Phá đường, Bà má Hậu giang, Mẹ Suốt, chị Trần Thị
Lý…” rặt một giọng ca tụng công lao cho kháng chiến. Ông ta chưa bao giờ
thấu hiểu tâm tình và thân phận của bà mẹ và phụ nữ, ông ta chỉ ca tụng
mặt ích lợi mà các bà các chị đóng góp mà thôi.
Nghệ thuật là một dòng chảy liên tục, bất kỳ tác phẩm bình thường nào
cũng sinh ra từ một suối nguồn. Nghệ thuật không thể đến từ một hành
tinh xa lạ. Thơ Tố Hữu cũng không ngoại lệ. Chính trào lưu văn học lãng
mạn và hiện thực phê phán 1930-45 đã lỡ sinh ra đứa con “nghịch tử” tên
là TỪ ẤY. Nhưng đứa con ấy cố ý nhận xằng cha mẹ đẻ. Nó hát “Từ ấy trong
tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim”. “Mặt trời” ấy là chủ
nghĩa Mác Lê nin. Ý Tố Hữu nói là chủ nghĩa Mác- Lê sinh ra thơ ông, ông
chẳng hề mang ơn nền thơ dân tộc mang nặng đẻ đau.
Thực ra thơ Tố Hữu sinh ra từ đây. Trào lưu văn chương lãng mạn và hiện
thực bừng nở giai đoạn 1930-45 với hàng trăm cây bút tài hoa tạo nên một
CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN VIỆT NAM MỚI dưới ảnh hưởng chủ nghĩa nhân văn
phương Tây. Đó là giai đoạn văn học trăm hoa đua nở và ngát hương. Ảnh
hưởng của chủ nghĩa nhân văn mới (humanisme) đã bồi dưỡng và đẩy mạnh
chủ nghĩa nhân văn truyền thống dân tộc Việt vượt lên một bước dài lịch
sử.
Hàng ngũ thi nhân Việt Nam mới có cả trăm nhà được tập hợp trong công
trình “Thi Nhân Việt Nam” của nhà văn Hoài Thanh nhưng vắng mặt Tố Hữu
vì ông ta chưa xuất đầu lộ diện trên văn đàn công khai.
“Lòng nhân ái Tố Hữu” ví như cốc sữa pha vào xô nước lã. Trong cuộc thảo
luận về tập thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu năm 1955, một thi sĩ nhận xét
thẳng tưng (Hoàng Cầm nhận xét: "Bài ‘Ta đi tới’ giống như một vại nước
to, đầy tràn, pha loãng một màu sữa. Loãng quá). Đó là nguyên nhân trực
tiếp kích hoạt cơn- điên- quyền- lực mang tên Tố Hữu. Và ông ta ra tay
tàn sát phong trào dân chủ Nhân văn Giai phẩm với khẩu hiệu bảo vệ Đảng…
Phương pháp hớt tay trên
Những thân phận con người bé nhỏ, nghèo hèn được văn nghệ sĩ đương thời
phát hiện, mô tả bằng nghệ thuật đã làm cơ sở cho Tố Hữu túm lấy mà hớt
tay trên. Những cô gái lầu xanh như Tuyết được miêu tả với lòng xót xa
thông cảm thực sự trong “Đời mưa gió” (tiểu thuyết Khái Hưng & Nhất
Linh), “Nguyệt cầm”,“Lời kỹ nữ” (Xuân Diệu). Những phóng sự “thằng ở con
sen” của Vũ Trọng Phụng, Tôi kéo xe (Tam Lang), phóng sự “Việc làng”
của Ngô Tất Tố, truyện ngắn Nguyễn Công Hoa, những văn sĩ trí thức nông
dân đang “Sống mòn” và cố nông lưu manh hóa Chí Phèo của Nam Cao v.v…
Bên cạnh tinh thần nhân văn chủ nghĩa phương Tây, sáng tác 1930-45 cũng
noi theo cả truyền thống cổ thi “Những điều trông thấy” (Sở kiến hành,
Đỗ Phủ, Nguyễn Du).
Các văn nghệ sĩ 1930-45 phát hiện và miêu tả con người “bé nhỏ” theo xu
hướng nghiên cứu thân phận xã hội trong văn học phương Tây thế kỷ 19.
Họ cố gắng phơi bày, chia sẻ, chưa vội tùy tiện nêu ra một giải pháp.
Tố Hữu ranh ma chơi bài hớt tay trên. Anh ta tả cô gái điếm sông Hương
không có tên, không có thân phận (phiếm chỉ). Tố Hữu đã dựa cái tên nhân
vật là “cô Tuyết” (hàm ý trong sạch) của tiểu thuyết “Đời mưa gió”
(Nhất Linh, Khái Hưng) và hô to lời hứa sẽ giải phóng tất cả, “Ngày mai
em sẽ từ trong tới ngoài/ Thơm như hương nhụy hoa lài/ sạch như nước
suối ban mai giữa rừng”.
Thân phận những em bé, cô bé đi ở cho nhà giàu xuất hiện trong các sáng
tác của những nhà văn đích thực Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam
Cao…Tố Hữu chụp lấy một em bé đặt cho cái tên là “Phước” trong bài thơ
“Đi đi em” (Rứa là hết ngày mai em đi mãi/ còn mong chi ngày trở lại
Phước ơi…Nuôi đi em cho đến lớn đến già/ mầm hận ấy trong lồng xương ống
máu/ để thêm nóng mai kia hồn chiến đấu/ mà hôm nay anh đã nhóm trong
lòng”.
Ngôn ngữ dân gian ngày nay bật ra khi thất vọng:“Thôi rồi Lượm ơi”.
Bài thơ “Lượm” của Tố Hữu kể chuyện em bé tên Lượm (hư cấu) đi liên lạc
đưa thư bị lính Pháp bắn chết. (Bỗng tôi nhớ trên mạng gần đây lan
truyền lời một số nhân chứng ở quê hương Đất Đỏ, Bà Rịa kể rằng em bé Võ
Thị Sáu khoảng 15 tuổi có vấn đề tâm thần và rất nghịch ngợm, ưa đi
lang thang, bị ai đó xui ném lựu đạn giữa chợ giết Cai tổng Tòng một
viên chức địa phương. Báo chí nói “trận đánh” đã giết được Cai tổng Tòng
tay sai của Pháp. Kỳ thực, ông cai tổng Tòng chỉ bị thương vẫn sống tới
những năm 80 mới qua đời, chỉ chết oan một số phụ nữ đi chợ). Chưa nói
những người du kích cộng sản nhẫn tâm lợi dụng em bé ngây thơ xui em vào
chỗ chết. Thật khó tin rằng những em bé ngày xưa đã có “lý tưởng cách
mạng” và tự nguyện hi sinh cho lý tưởng. Tiểu thuyết “Những người khốn
khổ” của thi hào Victor Hugo có nhân vật thiếu niên độc đáo là bé
Gavroche hi sinh vì cách mạng Pháp trên chiến lũy Paris. Nhà văn kể rằng
bé Gavroch bụi đời hay bị cảnh sát kéo tai hoặc bắt bỏ vào đồn vài bữa.
Điều đó giải thích dễ hiểu vì sao bé Gvroche tham gia khởi nghĩa, vì em
nhìn thấy khởi nghĩa chống lại cảnh sát. Tố Hữu tinh khôn chộp ngay
hình ảnh em bé Pháp và tân trang thành em bé Việt Nam mang tên “Lượm”.
Tuy vậy nhà thơ “đạo văn” khá vụng về. Bạn đọc có thể so sánh hai nhân
vật sẽ thấy rõ điều đó.
“Sáng tạo” nghệ thuật kiểu như Tố Hữu thì dễ quá !
Ăn theo và ăn tất, đó là phương pháp sáng tác ma lanh láu cá của Tố Hữu khi bước vào làng thơ giai đoạn 1930-45.
Người Việt nhân ái, truyền thống nghìn xưa. Đọc thơ Tố Hữu hồi ấy người
ta động lòng trắc ẩn, bùi tai với những vần thơ gieo điêu luyện và nhịp
nhàng bằng trắc mang tính duy cảm.
Thủ pháp lời hứa Mác- Lê
Lời hứa tào lao là miếng võ tuyệt chiêu của lý tưởng Marx Lê (vùng lên,
liên hiệp lại thì giai cấp VS sẽ giành được tất cả, nếu có mất thì chỉ
mất xiềng xích). Lời hứa chứa đầy bạo lực nguy hiểm ai ngờ sau đó đã và
sẽ còn tàn phá tất cả. Nguy hiểm thay cho nền văn minh nhân loại nhiều
thế kỷ tích luỹ có thể sụp đổ vì một “lời hứa duy ý chí” của Marx. Lịch
sử nhân loại đến cuối thế kỷ 2o đã chứng minh lời hứa Các Mác và Lê Nin
là Lời Hứa Cuội.
SỰ LỤI TÀN VÔ PHƯƠNG NÍU GIỮ
Thơ Tố Hữu sau 1975 ngắc ngoải thêm 10 năm nữa mới rã rời. Vì sao ?
Trong lòng đa số nhân dân Việt Nam, niềm tin thiên đường XHCN lụi tàn rơi lả tả từng ngày.
Mặt trái CNXH lộ ra. Lãnh đạo lúng túng như là vỡ trận. Hai cuộc chiến
tranh biên giới lộ rõ đường lối đối ngoại của Đảng yếu kém và sai lầm tự
bao giờ, chót đâm lao phải theo lao ! Đường lối xây dựng đất nước sai
lầm kinh khủng, vu vơ, quờ quạng. Đói khát thiếu thốn và bất công tham
nhũng bắt đầu lên ngôi.
Sư phản bội trắng trợn của Trung cộng 1979 là một cú sốc chính trị mạnh.
Chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam và tình trạng suy sụp kinh tế
xã hội buộc Đảng vội họp đại hội VI. Liên Xô đang đổi màu tốc độ nhanh
và thay máu ê kip lãnh đạo. Giọt nước tràn ly là “bức tường Berlin ô
nhục” và Liên Xô tan rã.
Trong bối cảnh bi thảm đó, thơ Tố Hữu hóa ra trơ trẽn. Sự giả dối của
những tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa bị phơi ra giữa trời, mặt trong lật
trái ra mặt ngoài.
Dù sao thơ Tố Hữu một thời cũng biểu hiện niềm lạc quan và niềm tin, cảm
hứng lớn bao trùm, mặc dù nó mơ hồ, trừu tượng như ảo vọng. Thơ Tố Hữu
trải dài qua các tập Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và Hoa là những
liều thuốc doping cho tinh thần công chúng trong chiến tranh 1954-1975.
THỬ NHÌN HỌC VẤN NHÀ THƠ VÀ GIÀN LÃNH ĐẠO ĐẦU ĐÀN
Ngày nay nhìn vào bằng cấp (chỉ số học vấn) của lớp trí thức hiện thời, rất khó biết thực hư ra sao.
Tuy nhiên, ngược dòng lịch sử non 100 năm trước thì không ai nghi ngờ bằng cấp học vị của các trí thức thời ấy.
Một ngày nào đó, ta thử nhìn vào trình độ học vấn của Tố Hữu đồng thời
nhìn luôn cả đội ngũ lãnh đạo thời ấy, ta chẳng khỏi giật mình, ngơ ngác
ra.
Bằng cấp học vấn có thể cho thấy nhiều điều bất ngờ. Nhìn lại tình trạng
trí thức đầu thế kỷ 20 đến những năm Ba mươi và thấy ngỡ ngàng.
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là lớp trí thức ưu tú bản lề phong kiến
chuyển sang hiện đại. Hai cụ là hai đại diện ưu tú nhất (cùng với các vị
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền…).
Tuy nhiên về sau cụ Phan Chu Trinh vượt hẳn lên với học thuyết cách mạng
đúng đắn nhất.
Một điều bất ngờ nhận ra quá muộn: Lớp trí thức hạng Nhất thong thả thận
trọng nghiên cứu xã hội VIệt Nam, chưa vội vạch ra con đường “kách
mệnh”. Họ chỉ chú tâm vào xây dựng một nền chính trị mới và nền văn hoá
mới với mục tiêu DÂN CHỦ, lộ trình tranh đấu lâu dài chắc chắn cho nền
ĐỘC LẬP của nước VIỆT NAM. Trong khi đó, Lớp trí thức hạng Nhì lại hăng
hái sôi sục “kách mệnh” vô sản. Nghịch lý thời đại chăng ? Hóa ra, đến
thế kỷ 21 mới thấy, lớp trí thức hạng Nhất vẫn xứng là hạng Nhất, đỉnh
cao tiêu biểu là ngọn cờ Phan Châu Trinh. Vậy là nền tri thức của nhân
loại không có nghịch lý nếu ta nhìn xuyên suốt một trăm năm qua. TRI
THỨC vẫn là CHÂN LÝ.
Lúc ấy, Việt Nam đã có đến hàng trăm trí thức Tây học như luật gia, kỹ
sư, bác sĩ, tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân (một số đã tham gia chính quyền
Nam triều, còn lại là trí thức hoạt động tự do). Lớp này xin gọi là lớp
trí thức hạng Nhất.
Những người cách mạng vô sản đầu đàn thực ra mới chỉ sở hữu trình độ học
vấn hạng Nhì. Lớp trí thức hạng Nhì này chính là đội ngũ lãnh tụ “cách
mạng”, gồm ít nhất hai lớp nhỏ.
Lớp thứ 2.1 có các vị Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn
Thị Minh Khai, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Hà Huy Tập…chưa có ai vượt
trên học vấn phổ thông. Riêng Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh
Khai được cho là học trường chính trị mang tên “Đại học Phương Đông” do
quốc tế Cộng sản, tức Liên Xô lập ra. Liệu có thể gọi đó là “đại học”
được không, “đại học” theo chuẩn mực mô hình nào ? (Ngày nay không ai
nhắc đến trường ấy trong hệ thống đại học nước Nga nữa). Thông tin cho
rằng ông Nguyễn Ái Quốc được bổ nhiệm là “giảng viên hoặc trợ giảng đại
học phương Đông” cũng khiến người ta phải băn khoăn khó hiểu hay ngỡ
ngàng.
Lớp thứ 2.2 gồm lãnh đạo cao cấp lớp hai, có các ông Trường Chinh, Phạm
Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh… và Tố Hữu.
Cả hai lớp lãnh tụ CM đầu đàn đều chưa vượt quá phổ thông trung học
(thời ấy tốt nghiệp thường gọi tú tài). Bất ngờ quá ! Bây giờ mới thắc
mắc thì quá trễ. (Tuy nhiên còn một điều đặc biệt: nhiều lãnh tụ vô sản
có năng khiếu thơ và văn chương. Nghĩ lại giật mình, chính trị chết là ở
chỗ thi ca này đây).
KẾT: HAI HỘI THẢO TỐ HỮU (1992 và 2015)
Từ xưa đến nay chỉ có hai hội thảo Tố Hữu được nhắc tới, cách nhau khá xa.
Hội thảo đầu tiên tại khoa Văn ĐHSP Hà Nội năm 1992 thu hút hầu hết cơ
quan văn học lớn trong nước. Giới nghiên cứu cho rằng đây là phiên xử án
sơ thẩm kiêm phúc thẩm. Do không có “kháng án” nên từ bấy đến nay “hồ
sơ vụ án” khép lại.
Hội thảo gần đây nhất (2015) do lão giáo sư Hoàng Chương (ngành tuồng cổ
mà cũng có “giáo sư” ư) đứng ra tổ chức muốn coi nó là “phiên phúc
thẩm”. Tham dự là những người cao tuổi, bảo thủ, tự thương mình mà đi
dự. Đi tham dự để vuốt ve cái tự ái bị tổn thương của chính mình chứ
chẳng phải tiếc thương gì Tố Hữu. Một cái tổ chức dân sự u ơ thùng rỗng
kêu to đứng ra bày trò “Hội thảo Tố Hữu với văn hóa dân tộc”. Bản tin
báo Đại đoàn kết: Kỷ niệm 95 ngày sinh nhà thơ Tố Hữu, ngày 16/10/2015,
Trung tâm Bảo tồn và Phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam phối hợp với
“Hội thơ Đường luật Việt Nam” đã tổ chức Hội thảo“Tố Hữu với văn hóa dân
tộc”.
Buồn cười nhất là GS tuồng ngồi chủ tọa nhắc nhở những người nói chuyện
riêng mất trật tự, rằng “Xin quí vị hãy tôn trọng cổ nhân thì quí vị sẽ
được phù hộ”. Than ôi, chủ tọa hội thảo thiếu lý lẽ và cảm hứng đến mức
phải đem “Ma Tố Hữu” ra dọa người còn sống.
Bài tường thuật Hội thảo già nua lại do anh chàng nhà báo nhà thơ Hồng
Thanh Quang duyệt đăng bài cúng giỗ trên tờ “Đại đoàn kết”.
Ngoài ra làng báo chí Văn học nghệ thuật không thấy ai nhắc tới “hội thảo” đó nữa.
Phùng Hoài Ngọc
* Bài viết theo quan điểm riêng của tác giả.
(VNTB)
Bàn ra tán vào (1)
SR
Một khi nhiễm ĐẢNG TÍNH rồi.........Tính người mất hết,sống đời hôi tanh.........Giốnh như con chó trung thành........Chủ là trộm cướp,cũng đành cúc cung..........Đảng cho ăn cứt cũng mừng.........Chỉ còn biết đảng đã từng nuôi ăn..........
----------------------------------------------------------------------------------
Nguyên nhân một thời vang bóng và sự lụi tàn không thể níu giữ của thơ Tố Hữu
Bàn luận về thơ Tố Hữu ngày nay vẫn có hai luồng ý kiến trái chiều và cũng có quan điểm trung dung. Những người nặng lòng “nhớ rừng” thì ngẩn ngơ luyến tiếc thơ Tố Hữu một thời vang bóng
Bàn luận về thơ Tố Hữu ngày nay vẫn có hai luồng ý kiến trái chiều và
cũng có quan điểm trung dung. Những người nặng lòng “nhớ rừng” thì ngẩn
ngơ luyến tiếc thơ Tố Hữu một thời vang bóng. Đến bây giờ những cụ
những bác “hổ nhớ rừng” thi thoảng bất giác bật ra đôi câu “lẩy thơ” Tố
Hữu, như một quán tính.
Nhà thơ Tố Hữu |
Những người chán ngán thơ Tố Hữu thì ngẫu hứng “nhại thơ” ông ta. Hoặc mượn thơ Tố Hữu làm chuyện tiếu lâm.
Uống rượu đố nhau:
Đố: Tố Hữu làm công tác gì ở chiến khu Việt Bắc ?
Đáp: làm nghề tài xế cho Bác, đây chính Tố Hữu khai:
“Bác bảo đi, là đi
Bác bảo thắng, là thắng”
(Sáng tháng Năm, 5/1951, tập Việt Bắc)
Tôi nghĩ hai câu trên không phải thơ, chỉ là câu nói thường, ngắt nhịp 2 hàng kiểu đối ngẫu.
Một giáo viên toán yêu thơ phản bác đoạn thơ sau của Tố Hữu:
“Mà nói vậy trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho Thơ và phần để Em yêu”
(Bài ca Xuân 61).
Phần Thơ của Tố Hữu đều đã dành cho Đảng tất cả rồi (tuyên truyền chủ
trương đường lối đảng). Vậy là, trái tim TH chia 3 thì dành hơn 2 phần
cho Đảng, còn 1 phần bé nhất lép nhất cho em. Thế là phân chia ăn gian
nhá ! Nhìn chung, tứ thơ này thực là vớ vẩn, yêu Đảng, yêu thơ, yêu em
thực tế tồn tại độc lập, song song, mắc mớ gì mà phải chia 3. Chia ba
nghĩa là chẳng trung thành với ai cả. Vậy mà khoe “trái tim anh rất chân
thật” ! Xạo đến thế là cùng !
Sau Hiệp định Paris, Tố Hữu viết:
“Việt Nam ơi, máu và hoa ấy
Có đủ mai sau, thắm những ngày?”
(bài Việt Nam Máu và Hoa, 28/1/1973, tập thơ Máu và Hoa, 1977)
Gần đây các lãnh tụ đăng đàn hội nghị có mốt đứng ngập lút trong hoa.
Dân gian nhại thơ đề 4 bức ảnh sau đây tràn trên mạng xã hội:
“Máu ở chiến trường, Hoa ở đây”:
GS toán học Văn Như Cương hiệu trưởng một trường THPT tư thục Hà Nội kể chuyện tiếu lâm về thơ Tố Hữu: “Chân lí là cái gì”.
Năm 1966 một đoàn trí thức sắp đi Maxcơva làm nghiên cứu sinh. Trước khi
đi chúng tôi được nghe đ/c Tố Hữu giảng bài huấn thị. Khuyên nhủ chúng
tôi về sinh hoạt ở nước bạn, đ/c nói đến vấn đề “váy ngắn”,“chân dài”.
Đ/c bảo: “các bạn cứ việc nhìn chân đầm, nhưng đừng quên chân lí”, hội
trường xôn xao tán thưởng câu chơi chữ rất hay. Anh bạn ngồi bên tôi
bỗng nói: “Nhìn chân đầm thì làm sao quên chân lí được, đơn giản là vì
chân lí chỉ nằm trên chân đầm có một đoạn ngắn thôi mà”. Hắn nói khá to
mọi người ngồi xung quanh cười ầm lên tán thưởng. Tôi nói khẽ với hắn:
“Cái định nghĩa của cậu về chân lí quá hay, nhưng chính Tố Hữu đã nói
như thế rồi. Đ/c nói trong bài thơ ‘Hãy nhớ lấy lời tôi’ ca ngợi Nguyễn
Văn Trỗi, đây nhé: Có những phút làm nên lịch sử / Có cái chết hóa thành
bất tử /Có những lời hơn mọi bài ca / Có con người như chân lí sinh ra…
Đấy, con người từ “chân lí” sinh ra thì chân lí là cái gì nếu không
phải là cái cậu vừa nói ?”.
Lẩy thơ và nhại thơ là hai thái độ trái ngược nhau. Lẩy thơ là kính trọng, nhại thơ là khinh bỉ.
Những người trung dung muốn khách quan nhìn nhận Tố Hữu, cố vượt qua cảm
tính yêu ghét, băn khoăn rằng dù sao Tố Hữu cũng là một tài năng thơ
thực sự kia mà. Có lẽ nào công chúng văn học cả một thời đều ngu dốt hàm
hồ ?!
Giới nghiên cứu cũng chần chừ khi đánh giá “công- tội” Tố Hữu, đắn đo tỷ
lệ chừng bao nhiêu thì vừa phải. Công bảy tội ba hay công ba tội bảy,
hay là tỷ lệ khác nữa ?
Tôi cũng ngạc nhiên, cả một thời những nhà nghiên cứu văn học uyên bác
thơ văn đông tây kim cổ mà không nhận ra rằng thơ Tố Hữu chỉ là văn ghép
vần tuyên truyền cổ động, thiếu hẳn chất thơ. Ngay từ 1955, thi sĩ
Hoàng Cầm và một số thi sĩ trong và ngoài quân đội đã phê phán thẳng
thừng rằng thơ Tố Hữu không phải là thơ. Sau đó Tố Hữu điên tiết tìm cớ
trả thù những người phê bình, lồng ghép họ vào vụ Nhân văn- Giai phẩm.
Đòn đau nhớ đời, còn ai dám phê thơ Tố nữa. Hồi ấy lứa chúng tôi còn
nhỏ, sau này nghiên cứu văn học chưa tới bến bờ. Giá hồi ấy sành sỏi như
các bậc thầy thì chúng tôi cũng chẳng dám nói, có viết ra cũng chẳng ai
đăng. Bây giờ chúng tôi đem 5 tiêu chí thơ trữ tình của nhân loại áp
vào thơ Tố Hữu thì thấy quả thực thơ ông ta chỉ còn vài ba phần trăm gọi
là thơ.
Cân nhắc tỷ lệ ba/bảy hay bảy/ba là nói nôm na dễ hiểu thôi, nghệ thuật
chỉ định tính, làm sao mà định lượng được. Quan trọng nhất với thi ca là
cái dư vị, cái hậu vân vương cuối cùng. Ngọt thanh hay lợm giọng mới là
kết quả cơ bản nhất.
VÌ SAO THƠ TỐ HỮU MỘT THỜI LÔI CUỐN BẠN ĐỌC ?
Tập thơ “Từ ấy” đưa chàng trai Nguyễn Kim Thành Tố Hữu vào đời. Các
giáo trình văn học đều xếp tập thơ TỪ ẤY vào giai đoạn 1930-1945, bất
chấp rằng giai đoạn này hầu như không ai biết thơ Tố Hữu. Công trình THI
NHÂN VIỆT NAM của nhà văn Hoài Thanh không hề điểm qua một dòng thơ Từ
ấy, chẳng phải vì ghét mà vì chưa từng nghe ai đọc hay nói tới thơ Tố
Hữu. Đến khi Sự biến Tháng Tám xảy ra, cái tên Tố Hữu mới gắn liền với
bài thơ “Huế tháng Tám” và thơ Từ Ấy được tán phát trong vùng kháng
chiến. Sau 1954 thơ Tố Hữu mới ào ạt xuất bản và bá chiếm toàn bộ hệ
thống thông tin đại chúng và trường học.
Phương pháp dựa hơi lịch sử và truyền thống
Sau 1954, Bộ máy tuyên truyền, đài báo độc quyền nhà nước khởi động mở
chiến dịch tuyên truyền nhen nhóm tinh thần “đấu tranh thống nhất đất
nước”, trường kỳ và công phu phủ sóng trên toàn miền Bắc.
Truyền thống 4000 lịch sử Việt Nam được miêu tả thiên về chống ngoại xâm
đã giúp cảm hứng cho Tố Hữu viết thơ kiểu “tát nước theo mưa”.
Văn chương dân gian được chú trọng, ngoài quán tính còn là thấm nhuần
tinh thần khoa học Tây phương. Đừng tưởng luận điểm “giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc” là quan điểm “độc đáo” của Đảng như các bác thợ lý luận
tuyên truyền nghệ thuật thường rao giảng, thậm chí Đảng còn ra nghị
quyết “giữ gìn bản sắc” (!) Thực ra sáng tác kết hợp hiện đại và truyền
thống là tư duy nghệ thuật phương Tây. Từ thời phong kiến các cụ đã dựa
vào thất ngôn cổ thi kết hợp lục bát dân tộc làm ra thể song thất lục
bát tuyệt vời. Lớp thi sĩ tân học đầu tiên đã Việt hóa thơ thất ngôn cổ
thi thành THƠ MỚI tám chữ (đôi khi xen bảy chữ). THƠ MỚi uyển chuyển dễ
nghe dễ thuộc hơn hẳn so với cổ thi. Người làm thơ cũng thoải mái diễn
đạt tâm tư cảm xúc hơn xưa.
Tố Hữu biết tận dụng ca dao dân ca nói về những bà mẹ nông dân, viết ra
những “Bà bủ, Bầm ơi, Phá đường, Bà má Hậu giang, Mẹ Suốt, chị Trần Thị
Lý…” rặt một giọng ca tụng công lao cho kháng chiến. Ông ta chưa bao giờ
thấu hiểu tâm tình và thân phận của bà mẹ và phụ nữ, ông ta chỉ ca tụng
mặt ích lợi mà các bà các chị đóng góp mà thôi.
Nghệ thuật là một dòng chảy liên tục, bất kỳ tác phẩm bình thường nào
cũng sinh ra từ một suối nguồn. Nghệ thuật không thể đến từ một hành
tinh xa lạ. Thơ Tố Hữu cũng không ngoại lệ. Chính trào lưu văn học lãng
mạn và hiện thực phê phán 1930-45 đã lỡ sinh ra đứa con “nghịch tử” tên
là TỪ ẤY. Nhưng đứa con ấy cố ý nhận xằng cha mẹ đẻ. Nó hát “Từ ấy trong
tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim”. “Mặt trời” ấy là chủ
nghĩa Mác Lê nin. Ý Tố Hữu nói là chủ nghĩa Mác- Lê sinh ra thơ ông, ông
chẳng hề mang ơn nền thơ dân tộc mang nặng đẻ đau.
Thực ra thơ Tố Hữu sinh ra từ đây. Trào lưu văn chương lãng mạn và hiện
thực bừng nở giai đoạn 1930-45 với hàng trăm cây bút tài hoa tạo nên một
CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN VIỆT NAM MỚI dưới ảnh hưởng chủ nghĩa nhân văn
phương Tây. Đó là giai đoạn văn học trăm hoa đua nở và ngát hương. Ảnh
hưởng của chủ nghĩa nhân văn mới (humanisme) đã bồi dưỡng và đẩy mạnh
chủ nghĩa nhân văn truyền thống dân tộc Việt vượt lên một bước dài lịch
sử.
Hàng ngũ thi nhân Việt Nam mới có cả trăm nhà được tập hợp trong công
trình “Thi Nhân Việt Nam” của nhà văn Hoài Thanh nhưng vắng mặt Tố Hữu
vì ông ta chưa xuất đầu lộ diện trên văn đàn công khai.
“Lòng nhân ái Tố Hữu” ví như cốc sữa pha vào xô nước lã. Trong cuộc thảo
luận về tập thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu năm 1955, một thi sĩ nhận xét
thẳng tưng (Hoàng Cầm nhận xét: "Bài ‘Ta đi tới’ giống như một vại nước
to, đầy tràn, pha loãng một màu sữa. Loãng quá). Đó là nguyên nhân trực
tiếp kích hoạt cơn- điên- quyền- lực mang tên Tố Hữu. Và ông ta ra tay
tàn sát phong trào dân chủ Nhân văn Giai phẩm với khẩu hiệu bảo vệ Đảng…
Phương pháp hớt tay trên
Những thân phận con người bé nhỏ, nghèo hèn được văn nghệ sĩ đương thời
phát hiện, mô tả bằng nghệ thuật đã làm cơ sở cho Tố Hữu túm lấy mà hớt
tay trên. Những cô gái lầu xanh như Tuyết được miêu tả với lòng xót xa
thông cảm thực sự trong “Đời mưa gió” (tiểu thuyết Khái Hưng & Nhất
Linh), “Nguyệt cầm”,“Lời kỹ nữ” (Xuân Diệu). Những phóng sự “thằng ở con
sen” của Vũ Trọng Phụng, Tôi kéo xe (Tam Lang), phóng sự “Việc làng”
của Ngô Tất Tố, truyện ngắn Nguyễn Công Hoa, những văn sĩ trí thức nông
dân đang “Sống mòn” và cố nông lưu manh hóa Chí Phèo của Nam Cao v.v…
Bên cạnh tinh thần nhân văn chủ nghĩa phương Tây, sáng tác 1930-45 cũng
noi theo cả truyền thống cổ thi “Những điều trông thấy” (Sở kiến hành,
Đỗ Phủ, Nguyễn Du).
Các văn nghệ sĩ 1930-45 phát hiện và miêu tả con người “bé nhỏ” theo xu
hướng nghiên cứu thân phận xã hội trong văn học phương Tây thế kỷ 19.
Họ cố gắng phơi bày, chia sẻ, chưa vội tùy tiện nêu ra một giải pháp.
Tố Hữu ranh ma chơi bài hớt tay trên. Anh ta tả cô gái điếm sông Hương
không có tên, không có thân phận (phiếm chỉ). Tố Hữu đã dựa cái tên nhân
vật là “cô Tuyết” (hàm ý trong sạch) của tiểu thuyết “Đời mưa gió”
(Nhất Linh, Khái Hưng) và hô to lời hứa sẽ giải phóng tất cả, “Ngày mai
em sẽ từ trong tới ngoài/ Thơm như hương nhụy hoa lài/ sạch như nước
suối ban mai giữa rừng”.
Thân phận những em bé, cô bé đi ở cho nhà giàu xuất hiện trong các sáng
tác của những nhà văn đích thực Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam
Cao…Tố Hữu chụp lấy một em bé đặt cho cái tên là “Phước” trong bài thơ
“Đi đi em” (Rứa là hết ngày mai em đi mãi/ còn mong chi ngày trở lại
Phước ơi…Nuôi đi em cho đến lớn đến già/ mầm hận ấy trong lồng xương ống
máu/ để thêm nóng mai kia hồn chiến đấu/ mà hôm nay anh đã nhóm trong
lòng”.
Ngôn ngữ dân gian ngày nay bật ra khi thất vọng:“Thôi rồi Lượm ơi”.
Bài thơ “Lượm” của Tố Hữu kể chuyện em bé tên Lượm (hư cấu) đi liên lạc
đưa thư bị lính Pháp bắn chết. (Bỗng tôi nhớ trên mạng gần đây lan
truyền lời một số nhân chứng ở quê hương Đất Đỏ, Bà Rịa kể rằng em bé Võ
Thị Sáu khoảng 15 tuổi có vấn đề tâm thần và rất nghịch ngợm, ưa đi
lang thang, bị ai đó xui ném lựu đạn giữa chợ giết Cai tổng Tòng một
viên chức địa phương. Báo chí nói “trận đánh” đã giết được Cai tổng Tòng
tay sai của Pháp. Kỳ thực, ông cai tổng Tòng chỉ bị thương vẫn sống tới
những năm 80 mới qua đời, chỉ chết oan một số phụ nữ đi chợ). Chưa nói
những người du kích cộng sản nhẫn tâm lợi dụng em bé ngây thơ xui em vào
chỗ chết. Thật khó tin rằng những em bé ngày xưa đã có “lý tưởng cách
mạng” và tự nguyện hi sinh cho lý tưởng. Tiểu thuyết “Những người khốn
khổ” của thi hào Victor Hugo có nhân vật thiếu niên độc đáo là bé
Gavroche hi sinh vì cách mạng Pháp trên chiến lũy Paris. Nhà văn kể rằng
bé Gavroch bụi đời hay bị cảnh sát kéo tai hoặc bắt bỏ vào đồn vài bữa.
Điều đó giải thích dễ hiểu vì sao bé Gvroche tham gia khởi nghĩa, vì em
nhìn thấy khởi nghĩa chống lại cảnh sát. Tố Hữu tinh khôn chộp ngay
hình ảnh em bé Pháp và tân trang thành em bé Việt Nam mang tên “Lượm”.
Tuy vậy nhà thơ “đạo văn” khá vụng về. Bạn đọc có thể so sánh hai nhân
vật sẽ thấy rõ điều đó.
“Sáng tạo” nghệ thuật kiểu như Tố Hữu thì dễ quá !
Ăn theo và ăn tất, đó là phương pháp sáng tác ma lanh láu cá của Tố Hữu khi bước vào làng thơ giai đoạn 1930-45.
Người Việt nhân ái, truyền thống nghìn xưa. Đọc thơ Tố Hữu hồi ấy người
ta động lòng trắc ẩn, bùi tai với những vần thơ gieo điêu luyện và nhịp
nhàng bằng trắc mang tính duy cảm.
Thủ pháp lời hứa Mác- Lê
Lời hứa tào lao là miếng võ tuyệt chiêu của lý tưởng Marx Lê (vùng lên,
liên hiệp lại thì giai cấp VS sẽ giành được tất cả, nếu có mất thì chỉ
mất xiềng xích). Lời hứa chứa đầy bạo lực nguy hiểm ai ngờ sau đó đã và
sẽ còn tàn phá tất cả. Nguy hiểm thay cho nền văn minh nhân loại nhiều
thế kỷ tích luỹ có thể sụp đổ vì một “lời hứa duy ý chí” của Marx. Lịch
sử nhân loại đến cuối thế kỷ 2o đã chứng minh lời hứa Các Mác và Lê Nin
là Lời Hứa Cuội.
SỰ LỤI TÀN VÔ PHƯƠNG NÍU GIỮ
Thơ Tố Hữu sau 1975 ngắc ngoải thêm 10 năm nữa mới rã rời. Vì sao ?
Trong lòng đa số nhân dân Việt Nam, niềm tin thiên đường XHCN lụi tàn rơi lả tả từng ngày.
Mặt trái CNXH lộ ra. Lãnh đạo lúng túng như là vỡ trận. Hai cuộc chiến
tranh biên giới lộ rõ đường lối đối ngoại của Đảng yếu kém và sai lầm tự
bao giờ, chót đâm lao phải theo lao ! Đường lối xây dựng đất nước sai
lầm kinh khủng, vu vơ, quờ quạng. Đói khát thiếu thốn và bất công tham
nhũng bắt đầu lên ngôi.
Sư phản bội trắng trợn của Trung cộng 1979 là một cú sốc chính trị mạnh.
Chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam và tình trạng suy sụp kinh tế
xã hội buộc Đảng vội họp đại hội VI. Liên Xô đang đổi màu tốc độ nhanh
và thay máu ê kip lãnh đạo. Giọt nước tràn ly là “bức tường Berlin ô
nhục” và Liên Xô tan rã.
Trong bối cảnh bi thảm đó, thơ Tố Hữu hóa ra trơ trẽn. Sự giả dối của
những tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa bị phơi ra giữa trời, mặt trong lật
trái ra mặt ngoài.
Dù sao thơ Tố Hữu một thời cũng biểu hiện niềm lạc quan và niềm tin, cảm
hứng lớn bao trùm, mặc dù nó mơ hồ, trừu tượng như ảo vọng. Thơ Tố Hữu
trải dài qua các tập Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và Hoa là những
liều thuốc doping cho tinh thần công chúng trong chiến tranh 1954-1975.
THỬ NHÌN HỌC VẤN NHÀ THƠ VÀ GIÀN LÃNH ĐẠO ĐẦU ĐÀN
Ngày nay nhìn vào bằng cấp (chỉ số học vấn) của lớp trí thức hiện thời, rất khó biết thực hư ra sao.
Tuy nhiên, ngược dòng lịch sử non 100 năm trước thì không ai nghi ngờ bằng cấp học vị của các trí thức thời ấy.
Một ngày nào đó, ta thử nhìn vào trình độ học vấn của Tố Hữu đồng thời
nhìn luôn cả đội ngũ lãnh đạo thời ấy, ta chẳng khỏi giật mình, ngơ ngác
ra.
Bằng cấp học vấn có thể cho thấy nhiều điều bất ngờ. Nhìn lại tình trạng
trí thức đầu thế kỷ 20 đến những năm Ba mươi và thấy ngỡ ngàng.
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là lớp trí thức ưu tú bản lề phong kiến
chuyển sang hiện đại. Hai cụ là hai đại diện ưu tú nhất (cùng với các vị
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền…).
Tuy nhiên về sau cụ Phan Chu Trinh vượt hẳn lên với học thuyết cách mạng
đúng đắn nhất.
Một điều bất ngờ nhận ra quá muộn: Lớp trí thức hạng Nhất thong thả thận
trọng nghiên cứu xã hội VIệt Nam, chưa vội vạch ra con đường “kách
mệnh”. Họ chỉ chú tâm vào xây dựng một nền chính trị mới và nền văn hoá
mới với mục tiêu DÂN CHỦ, lộ trình tranh đấu lâu dài chắc chắn cho nền
ĐỘC LẬP của nước VIỆT NAM. Trong khi đó, Lớp trí thức hạng Nhì lại hăng
hái sôi sục “kách mệnh” vô sản. Nghịch lý thời đại chăng ? Hóa ra, đến
thế kỷ 21 mới thấy, lớp trí thức hạng Nhất vẫn xứng là hạng Nhất, đỉnh
cao tiêu biểu là ngọn cờ Phan Châu Trinh. Vậy là nền tri thức của nhân
loại không có nghịch lý nếu ta nhìn xuyên suốt một trăm năm qua. TRI
THỨC vẫn là CHÂN LÝ.
Lúc ấy, Việt Nam đã có đến hàng trăm trí thức Tây học như luật gia, kỹ
sư, bác sĩ, tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân (một số đã tham gia chính quyền
Nam triều, còn lại là trí thức hoạt động tự do). Lớp này xin gọi là lớp
trí thức hạng Nhất.
Những người cách mạng vô sản đầu đàn thực ra mới chỉ sở hữu trình độ học
vấn hạng Nhì. Lớp trí thức hạng Nhì này chính là đội ngũ lãnh tụ “cách
mạng”, gồm ít nhất hai lớp nhỏ.
Lớp thứ 2.1 có các vị Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn
Thị Minh Khai, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Hà Huy Tập…chưa có ai vượt
trên học vấn phổ thông. Riêng Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh
Khai được cho là học trường chính trị mang tên “Đại học Phương Đông” do
quốc tế Cộng sản, tức Liên Xô lập ra. Liệu có thể gọi đó là “đại học”
được không, “đại học” theo chuẩn mực mô hình nào ? (Ngày nay không ai
nhắc đến trường ấy trong hệ thống đại học nước Nga nữa). Thông tin cho
rằng ông Nguyễn Ái Quốc được bổ nhiệm là “giảng viên hoặc trợ giảng đại
học phương Đông” cũng khiến người ta phải băn khoăn khó hiểu hay ngỡ
ngàng.
Lớp thứ 2.2 gồm lãnh đạo cao cấp lớp hai, có các ông Trường Chinh, Phạm
Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh… và Tố Hữu.
Cả hai lớp lãnh tụ CM đầu đàn đều chưa vượt quá phổ thông trung học
(thời ấy tốt nghiệp thường gọi tú tài). Bất ngờ quá ! Bây giờ mới thắc
mắc thì quá trễ. (Tuy nhiên còn một điều đặc biệt: nhiều lãnh tụ vô sản
có năng khiếu thơ và văn chương. Nghĩ lại giật mình, chính trị chết là ở
chỗ thi ca này đây).
KẾT: HAI HỘI THẢO TỐ HỮU (1992 và 2015)
Từ xưa đến nay chỉ có hai hội thảo Tố Hữu được nhắc tới, cách nhau khá xa.
Hội thảo đầu tiên tại khoa Văn ĐHSP Hà Nội năm 1992 thu hút hầu hết cơ
quan văn học lớn trong nước. Giới nghiên cứu cho rằng đây là phiên xử án
sơ thẩm kiêm phúc thẩm. Do không có “kháng án” nên từ bấy đến nay “hồ
sơ vụ án” khép lại.
Hội thảo gần đây nhất (2015) do lão giáo sư Hoàng Chương (ngành tuồng cổ
mà cũng có “giáo sư” ư) đứng ra tổ chức muốn coi nó là “phiên phúc
thẩm”. Tham dự là những người cao tuổi, bảo thủ, tự thương mình mà đi
dự. Đi tham dự để vuốt ve cái tự ái bị tổn thương của chính mình chứ
chẳng phải tiếc thương gì Tố Hữu. Một cái tổ chức dân sự u ơ thùng rỗng
kêu to đứng ra bày trò “Hội thảo Tố Hữu với văn hóa dân tộc”. Bản tin
báo Đại đoàn kết: Kỷ niệm 95 ngày sinh nhà thơ Tố Hữu, ngày 16/10/2015,
Trung tâm Bảo tồn và Phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam phối hợp với
“Hội thơ Đường luật Việt Nam” đã tổ chức Hội thảo“Tố Hữu với văn hóa dân
tộc”.
Buồn cười nhất là GS tuồng ngồi chủ tọa nhắc nhở những người nói chuyện
riêng mất trật tự, rằng “Xin quí vị hãy tôn trọng cổ nhân thì quí vị sẽ
được phù hộ”. Than ôi, chủ tọa hội thảo thiếu lý lẽ và cảm hứng đến mức
phải đem “Ma Tố Hữu” ra dọa người còn sống.
Bài tường thuật Hội thảo già nua lại do anh chàng nhà báo nhà thơ Hồng
Thanh Quang duyệt đăng bài cúng giỗ trên tờ “Đại đoàn kết”.
Ngoài ra làng báo chí Văn học nghệ thuật không thấy ai nhắc tới “hội thảo” đó nữa.
Phùng Hoài Ngọc
* Bài viết theo quan điểm riêng của tác giả.
(VNTB)