Văn Học & Nghệ Thuật

Nhớ nhà thơ Nguyễn Chí Thiện: Tựa của Nguyễn Ngọc Bích

Hôm nay tưởng niệm anh, chúng tôi mời bạn đọc cùng chúng tôi xem lại bài Tựa cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện do Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích viết cách đây 15 năm


LTS. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện qua đời tháng Mười năm 2012, đến nay đã tròn bốn năm.
Hôm nay tưởng niệm anh, chúng tôi mời bạn đọc cùng chúng tôi xem lại bài Tựa cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện do Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích viết cách đây 15 năm. Bài Tựa như một đánh giá những đóng góp của Nguyễn Chí Thiện về văn, về  thơ và về các vận động không ngừng nghỉ từ trong nước ra hải ngoại để tố cáo bộ mặt phi nhân của chế độ cộng sản.
Chúng tôi cũng đăng lại một truyện ngắn trong cuốn Hỏa Lò, truyện Đàn Bò Sữa, như một hoạt cảnh ngộ nghĩnh vừa gợi tò mò vừa thương tâm diễn ra trong một phòng nữ tù nhân của nhà tù Hỏa Lò giữa Hà Nội.
Và một bài thơ, Sẽ Có Một Ngày, như một tiên cảm, một nguyện ước ngày chế độ cộng sản sẽ tan biến trên đất nước Việt Nam. - DĐTK

TỰA
Nguyễn Ngọc Bích
Cuối năm 1996, thi-sĩ Nguyễn Chí Thiện và tôi được Cộng- đồng Người Việt Tự do Úc-châu mời đi nói chuyện một vòng chung quanh nước Úc. Mới ra khỏi Việt-nam được một năm, và lại có lợi-điểm là thơ ông đã được khắp năm châu đón nhận như một tiếng nói sâu sắc và đích-thực nhất về một Việt- nam ngục tù, đến đâu ông cũng được tiếp đón nồng hậu và rất thành công dù là đem những chuyện tâm-tình ra nói vi người Việt Sydney, Melboume, Canberra, Brisbane, Adelaide (Nam-úc) hay tận Perth (miền Viễn-tây của nước Úc) hay là đem chuyện Việt-nam ra nói với người bản-xứ, từ các dân-biểu nghị-sĩ quốc-hội đến các nhà văn, nhà báo hoặc giới đại-học (sinh-viên cũng như giáo-sư). V Mỹ, có người hỏi tôi tại sao mà ông có thể thành công như vậy được? Câu trả lời, tôi thiết nghĩ, thật đơn giản: ông đem con tim ông ra nói chuyện với mọi người. Sn có một trí nhớ phi thường, ông lại có một bộ óc rất khoa-học, tuyệt-đốì tôn trọng sự thật, không ngoa-ngôn, không đại-ngôn, sự việc như thế nào ông trình by đúng như thế, không thêm, không bớt nên ông đã khắc phục được mọi ngờ vực và chiếm lĩnh được niềm tin trọn vẹn của người nghe. Tất cả những dối trá về ông—như bảo ông là Nguyễn Chí Thiện giả—đã sụp đ nhanh chóng sau khi người ta tiếp cận và nói chuyện với ông.

Ông không chỉ nói về ông hay thơ của ông. Ồng nói về đất nước, về những trại tù ông đã đi qua, về chế-độ dựng xây trên sự man trá. Ông nói chuyện về thơ văn không chỉ của Việt-nam mà còn của cả thế-giới, nhất là thơ Tầu, thơ Pháp, thơ Anh mà ông thuộc rất nhiều, hoặc truyện Tầu, tiểu-thuyết Pháp, tiểu-thuyết Nga. Về khách-sạn hay nhà trọ, hai chúng tôi nhiều khi còn nói chuyện đến khuya mà chưa dứt. Thì ra tôi mới rõ, dù như ông đã trải qua 27 năm tù hay nửa đời người tính đến ngày ông được ra khỏi Việt-nam, vốn sống của ông vẫn vô cùng phong phú. Cái mà người khác coi là gii-hạn— bn vách tường xà-lim—thì ở nơi ông đã nở ra những bông hoa rất quý, “hoa địa-ngục,” dể cảnh tỉnh con người và đem lại một thông-điệp hy-vọng cho tương-lai.
Thấy sức khỏe ông sau bao năm lao lung xem chừng đáng lo ngại, tôi đã hơn một lần thúc giục Ông nên ghi lại những chuyện tù mà ông đã từng sống qua hay chứng-kiến, tối-thiểu thì cũng như chứng-nhân của một thời-đại. Hoặc những nhận xét đôi khi rất tinh tế của ông về văn-chương, văn-học Việt- nam, nhất là dưới thời Cộng-sản. Ông suy nghĩ rồi quyết-định: “Tôi sẽ viết về Hỏa Lò! Những truyện hàng ngày thôi nhưng sẽ động lòng người.”
Sau khi về Mỹ, thấy ông vẫn giữ một lịch-trình đi nói chuyện rất bận rộn, từ Đông sang Tây, từ Edmonton, Canada, sang đến 6-7 nước Âu-châu mỗi bận ông nhận đi nói chuyện, tôi không khỏi ái ngại lo cho sức khỏe của ông. Rồi đôi lần gặp ông ở Virginia giữa những chuyến đi, ông lại than là mắt của ông hồi này rất kém, chỉ đọc 10-15 phút là dã nhức đầu không thể nào đọc tiếp được, nói gì đến viết. Nhiều bạn đã tìm cách giúp ông bằng cách đem máy điện-toán đến nhà và lắp tiếng Việt vào để cho ông dùng, người thì đề nghị ông nếu mắt kém hãy nói vào băng để đưa cho người khác chuyển-tả. Nhưng mọi đề nghị, ông đều từ chối. Có thể là do tính độc-lập sn có của ông, không quen nhờ vả. Cũng có thể là mỗi người ưa một cách viết, viết bằng tay vẫn sướng hơn vì nó như cho ta cảm-tưởng đi thẳng từ óc qua các dây thần-kinh tay, nhập vào ngòi bút rồi dàn trải ra mặt giấy, vả lại, viết xuống giấy hình như vẫn có cái gì thật hơn, nắm bắt được hơn là loại chữ viết “ảo” của máy.
Đến khi ông lại nhận được lời mời của Nghị-viện các Nhà văn (Parlement des Ecrivains) ở Âu-châu mời sang năm thứ hai đến ở một thành-phố tá-túc, nghĩa là St-Lô gần bờ biển Normandie ở Pháp, thì chúng tôi ít có liên-lạc thường-xuyên để mà theo dõi công việc làm của ông. Tháng 11 năm 1999, tôi có dịp qua St-Lô thăm ông, hỏi chuyện, ông vẫn chưa viết được gì nhiều. (Chỉ vui là ông sang đến trời Tây rồi mà vẫn không thoát được cái dấu Việt-nam hay cái dấu ấn Đa-ngục: Thành-ph ông viết “ô” có dấu mũ tử tế và trạm xe buýt trước cửa bin-đinh ông ở lại mang tên “Enfer.”) Rồi ông đem cho xem một s bài thơ dịch sang tiếng Pháp từ hai cuốn Hoa Địa Ngục của ông mà Nghị-viện các Nhà văn có nhã-ý muốn in ra cho ông.
Quay về Mỹ, tôi đinh-ninh là bận như thế, giỏi lắm năm nay ông chỉ hoàn-tất được tập thơ dịch sang tiếng Pháp của ông là cùng. Vì ngoài chuyện làm việc với hai dịch-giả, một nhà thơ Pháp và một bác-sĩ Việt-nam yêu thơ ông, ông còn đi dự nhiều “colloques” hay “conrences” về thơ văn thế-giới, hoặc đi sang tận Béc-lin để bàn về cuốn sách Le Livre noir du Communisme (“Tập Sách Đen về Cộng sản”), cãi nhau với cả những người như sử-gia Pierre Margolin, người viết phần về Việt-nam trong sách kia. Nhưng đến tháng 2 năm nay, sau khi nhận được hai tin vui về ông (cuốn song-ngữ Fleurs de l’Enfer đã in ra và sách Who’s Who in Twentieth-century World Poetry in ở Anh có mục nói về ông, dành cho ông một bài viết trang trọng hơn cả cho Pablo Neruda, nhà thơ Chi-lê và Giải Nobel Văn-học 1971) thì bỗng-nhiên bưu-diện cũng mang đến cho chúng tôi đĩa thu toàn-bộ tập truyện mà bạn đọc đang cầm trong tay.
Thật là một sức làm việc phi thường, hiếm có. Và sau khi đọc, chúng tôi đã quyết-định c gắng tối-đa để kịp làm quà đón ông về Mỹ vào tháng Sáu tới đây. Nói thế có nghĩa là dù như tập truyện đã đánh máy rồi, chúng tôi vẫn phải tranh thủ thời-gian mới kp lịch-trình mong mun. Thêm vào đó, ông cũng ngỏ ý mun tôi có my lời để giới-thiệu đứa con tinh- thần mới nhất của ông.
***
Giới-thiệu Nguyễn Chí Thiện? Liệu có bằng thừa không?
Đúng, nếu nói về thơ ông. Nhưng một Nguyễn Chí Thiện viết truyện, viết hư-cấu thì sao? Tôi chắc chắn những vị nào theo dõi sát sinh-hoạt văn-hóa ở hải-ngoại trong những năm gần đây hẳn đã bắt gặp một số bài luận-chiến của ông về chính-trị, nhất là trong những báo của các anh em Đông-Âu, hay là bài “Phùng Cung” mà ông viết về bạn ông, in lần đầu trên báo Khởi Hành của Viên Linh, vừa để gợi một số kỷ-niệm về một con người tài-hoa và có tư-cách mới nằm xuống vừa để làm Tựa cho tập truyện mà Phùng Cung dã giao cho Nguyễn Hữu Hiệu để đem ra ngoài này. Nhưng một Nguyễn Chí Thiện đi vào ngành Tiểu-thuyết thì sao?
Tập truyện gồm sáu truyện ngắn và một truyện có lẽ phải gọi là truyện vừa (novelette) mới đúng, truyện “Sương Buồn Ôm Kín Non Sông.” Một chủ-đề xuyên suốt hơn 300 trang, chuyện Hỏa Lò, nhà tù có lẽ nổi tiếng nhất miền Bắc.
Có người sẽ hỏi: Lại chuyện tù? Có lạc hậu không, có là một đề-tài cũ quá rồi không? Biết bao nhiêu người viết về tù tội, “học tập cải tạo” rồi, ra thêm một cuốn nữa có nhàm chán không?
Tôi xin thưa ngay:
Dù như các tác-giả xuất thân từ miền Nam trong chiến- tranh đã có hàng chục tác-phẩm lớn về chế-độ tù tội hay “học tập cải tạo” của người Cộng-sản, bắt đầu từ Trại Đầm Đùn của Trần Văn Thái trong thời chiến đến những Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, Đáy Địa Ngục của Tạ Tỵ, hay Ánh Sáng và Bóng Tối của Hoàng Liên sau này, sau năm 75, những tiếng nói ra đi từ miền Bắc về đề tài này nói chung hãy còn hiếm và khá muộn màng. Chẳng thế mà một tập truyện như Thằng Người Có Đuôi của Thế Giang khi được báo Người Việt tung ra cách đây hơn 10 nãm cũng đã được đón nhận như một mặc- khải nhưng rồi phải đợi gn một thập niên, ta mới lại có Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên (ra năm 1998) rồi năm ngoái, Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn. Sự đón nhận vô cùng nồng-nhiệt đối với những tác-phẩm này cho thấy là Nguyễn Chí Thiện quả đã không sai khi ông viết trong lời tựa cho tập Hạt Máu Thơ (tức Hoa Địa Ngục II) là không có đề-tài nhàm chán, chỉ có những tài-năng không đạt tiêu-chuẩn khi viết thất bại về một đề-tài nào.
Bắt tay vào việc mà biết trước là khó, là sẽ có những người so sánh ông với những tác-phẩm đi trước mà viết về cùng một loại đề-tài, Nguyễn Chí Thiện không phải là không biết sẽ đứng trước một thử thách gay go. Nhưng ông vẫn nhận thách thức đó và từ một ngòi bút thơ, ông đã chuyển sang văn xuôi, sang một phong-cách thật sống động, thành công đặc-biệt trong những vai phụ nữ. Đây là một nét rất mới trong hầu hết các tác-phẩm viết về trại tù hay nhà tù, kể cả các trại “học tập cải tạo,” ngoại-lệ có chăng là hồi-ký của Nhã Ca.
Nhưng Nguyễn Chí Thiện viết rất “con người,” các vai nữ trong truyện của ông nhiều khi hơn hẳn các vai nam về mưu trí hay tình người, kể cả tình yêu trong ngục tù và khi đứng trước cái chết. Nếu các hồi-ký về ngục-tù hay “học tập cải tạo” phần lớn là viết về mình hay một hai cá-nhân nào đó mà mình biết nhiều thì truyện tù, truyện Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện lại tái-tạo được cả một thế-giới với những vui buồn, sân hận, với cả một ngôn ngữ rất đặc-thù của tù miền Bắc, rồi với cả những mẫu người còn giữ được nhân-phẩm trong tù để đôi khi cải tạo được người khác, thậm chí cả những tên quản giáo hắc ám (như Ngưu-Ma-Vương) để chúng trông ra cái huyền-nhiệm của cuộc đời. Truyện của Nguyễn Chí Thiện, cuối cùng, là một khẳng-định về lòng nhân của con người để cho phép chúng ta, người đọc, vẫn còn tìm dược một tia hy-vọng.
NGUYỄN NGỌC BÍCH
Springfield, VirginiaNgày 23 tháng Tư 2001

Bàn ra tán vào (1)

Anh Võ
"Hoa Địa Ngục" không phãi cũa Ông Nguyễn chí Thiện. 1/. Từ khi nó được đưa vào (do hành động có tính cách James Bond)tòa Địa sứ Anh cho đến khi được phỗ biến rộng rãi trên các diễn đàn, có những đứt đoạn khó hiễu. (Quý vị nào có manh mối xin cho tôi biết đễ cãnh tĩnh). 2/. Một bậc thi hào nỗi tiếng khắp năm châu như vậy, sao hẹp hòi đến nỗi từ chối không cho bà Hoàng dược Sư 10 chỗ ngồi như bà đã xin, lại còn bắt bà đứng suốt buỗi thão luận. 3/. Nếu tôi là người yêu nước, chống Cọng, anh hùng ngục thất, với những bài thơ chấn động cã loài người, sao tôi chịu đễ cho những tùy tùng cũa tôi la lối náo động nghị trường đễ bênh vực cho tôi. 4/ Và đây là điễm quan trọng nhất: Khi tôi là "duyên cớ" đễ cho đồng bào tỵ nạn đã chia rẽ lại càng chia rẽ thêm, sao tôi không chịu viết lại bức thư bằng Pháp văn đễ hàn gắn rạn nức đã có sẵn. Quên mình đã viết gì là lẽ đương nhiên, nhưng nếu đã viết được như vậy thì khí có người đọc lại cho, dầu có đọc sai văn phạm, nhứt định cũng viết đúng.Từ chối không là cái nhục, mà ngược lại là một cữ chĩ anh hùng.

----------------------------------------------------------------------------------

Comment




  • Input symbols

Nhớ nhà thơ Nguyễn Chí Thiện: Tựa của Nguyễn Ngọc Bích

Hôm nay tưởng niệm anh, chúng tôi mời bạn đọc cùng chúng tôi xem lại bài Tựa cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện do Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích viết cách đây 15 năm


LTS. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện qua đời tháng Mười năm 2012, đến nay đã tròn bốn năm.
Hôm nay tưởng niệm anh, chúng tôi mời bạn đọc cùng chúng tôi xem lại bài Tựa cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện do Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích viết cách đây 15 năm. Bài Tựa như một đánh giá những đóng góp của Nguyễn Chí Thiện về văn, về  thơ và về các vận động không ngừng nghỉ từ trong nước ra hải ngoại để tố cáo bộ mặt phi nhân của chế độ cộng sản.
Chúng tôi cũng đăng lại một truyện ngắn trong cuốn Hỏa Lò, truyện Đàn Bò Sữa, như một hoạt cảnh ngộ nghĩnh vừa gợi tò mò vừa thương tâm diễn ra trong một phòng nữ tù nhân của nhà tù Hỏa Lò giữa Hà Nội.
Và một bài thơ, Sẽ Có Một Ngày, như một tiên cảm, một nguyện ước ngày chế độ cộng sản sẽ tan biến trên đất nước Việt Nam. - DĐTK

TỰA
Nguyễn Ngọc Bích
Cuối năm 1996, thi-sĩ Nguyễn Chí Thiện và tôi được Cộng- đồng Người Việt Tự do Úc-châu mời đi nói chuyện một vòng chung quanh nước Úc. Mới ra khỏi Việt-nam được một năm, và lại có lợi-điểm là thơ ông đã được khắp năm châu đón nhận như một tiếng nói sâu sắc và đích-thực nhất về một Việt- nam ngục tù, đến đâu ông cũng được tiếp đón nồng hậu và rất thành công dù là đem những chuyện tâm-tình ra nói vi người Việt Sydney, Melboume, Canberra, Brisbane, Adelaide (Nam-úc) hay tận Perth (miền Viễn-tây của nước Úc) hay là đem chuyện Việt-nam ra nói với người bản-xứ, từ các dân-biểu nghị-sĩ quốc-hội đến các nhà văn, nhà báo hoặc giới đại-học (sinh-viên cũng như giáo-sư). V Mỹ, có người hỏi tôi tại sao mà ông có thể thành công như vậy được? Câu trả lời, tôi thiết nghĩ, thật đơn giản: ông đem con tim ông ra nói chuyện với mọi người. Sn có một trí nhớ phi thường, ông lại có một bộ óc rất khoa-học, tuyệt-đốì tôn trọng sự thật, không ngoa-ngôn, không đại-ngôn, sự việc như thế nào ông trình by đúng như thế, không thêm, không bớt nên ông đã khắc phục được mọi ngờ vực và chiếm lĩnh được niềm tin trọn vẹn của người nghe. Tất cả những dối trá về ông—như bảo ông là Nguyễn Chí Thiện giả—đã sụp đ nhanh chóng sau khi người ta tiếp cận và nói chuyện với ông.

Ông không chỉ nói về ông hay thơ của ông. Ồng nói về đất nước, về những trại tù ông đã đi qua, về chế-độ dựng xây trên sự man trá. Ông nói chuyện về thơ văn không chỉ của Việt-nam mà còn của cả thế-giới, nhất là thơ Tầu, thơ Pháp, thơ Anh mà ông thuộc rất nhiều, hoặc truyện Tầu, tiểu-thuyết Pháp, tiểu-thuyết Nga. Về khách-sạn hay nhà trọ, hai chúng tôi nhiều khi còn nói chuyện đến khuya mà chưa dứt. Thì ra tôi mới rõ, dù như ông đã trải qua 27 năm tù hay nửa đời người tính đến ngày ông được ra khỏi Việt-nam, vốn sống của ông vẫn vô cùng phong phú. Cái mà người khác coi là gii-hạn— bn vách tường xà-lim—thì ở nơi ông đã nở ra những bông hoa rất quý, “hoa địa-ngục,” dể cảnh tỉnh con người và đem lại một thông-điệp hy-vọng cho tương-lai.
Thấy sức khỏe ông sau bao năm lao lung xem chừng đáng lo ngại, tôi đã hơn một lần thúc giục Ông nên ghi lại những chuyện tù mà ông đã từng sống qua hay chứng-kiến, tối-thiểu thì cũng như chứng-nhân của một thời-đại. Hoặc những nhận xét đôi khi rất tinh tế của ông về văn-chương, văn-học Việt- nam, nhất là dưới thời Cộng-sản. Ông suy nghĩ rồi quyết-định: “Tôi sẽ viết về Hỏa Lò! Những truyện hàng ngày thôi nhưng sẽ động lòng người.”
Sau khi về Mỹ, thấy ông vẫn giữ một lịch-trình đi nói chuyện rất bận rộn, từ Đông sang Tây, từ Edmonton, Canada, sang đến 6-7 nước Âu-châu mỗi bận ông nhận đi nói chuyện, tôi không khỏi ái ngại lo cho sức khỏe của ông. Rồi đôi lần gặp ông ở Virginia giữa những chuyến đi, ông lại than là mắt của ông hồi này rất kém, chỉ đọc 10-15 phút là dã nhức đầu không thể nào đọc tiếp được, nói gì đến viết. Nhiều bạn đã tìm cách giúp ông bằng cách đem máy điện-toán đến nhà và lắp tiếng Việt vào để cho ông dùng, người thì đề nghị ông nếu mắt kém hãy nói vào băng để đưa cho người khác chuyển-tả. Nhưng mọi đề nghị, ông đều từ chối. Có thể là do tính độc-lập sn có của ông, không quen nhờ vả. Cũng có thể là mỗi người ưa một cách viết, viết bằng tay vẫn sướng hơn vì nó như cho ta cảm-tưởng đi thẳng từ óc qua các dây thần-kinh tay, nhập vào ngòi bút rồi dàn trải ra mặt giấy, vả lại, viết xuống giấy hình như vẫn có cái gì thật hơn, nắm bắt được hơn là loại chữ viết “ảo” của máy.
Đến khi ông lại nhận được lời mời của Nghị-viện các Nhà văn (Parlement des Ecrivains) ở Âu-châu mời sang năm thứ hai đến ở một thành-phố tá-túc, nghĩa là St-Lô gần bờ biển Normandie ở Pháp, thì chúng tôi ít có liên-lạc thường-xuyên để mà theo dõi công việc làm của ông. Tháng 11 năm 1999, tôi có dịp qua St-Lô thăm ông, hỏi chuyện, ông vẫn chưa viết được gì nhiều. (Chỉ vui là ông sang đến trời Tây rồi mà vẫn không thoát được cái dấu Việt-nam hay cái dấu ấn Đa-ngục: Thành-ph ông viết “ô” có dấu mũ tử tế và trạm xe buýt trước cửa bin-đinh ông ở lại mang tên “Enfer.”) Rồi ông đem cho xem một s bài thơ dịch sang tiếng Pháp từ hai cuốn Hoa Địa Ngục của ông mà Nghị-viện các Nhà văn có nhã-ý muốn in ra cho ông.
Quay về Mỹ, tôi đinh-ninh là bận như thế, giỏi lắm năm nay ông chỉ hoàn-tất được tập thơ dịch sang tiếng Pháp của ông là cùng. Vì ngoài chuyện làm việc với hai dịch-giả, một nhà thơ Pháp và một bác-sĩ Việt-nam yêu thơ ông, ông còn đi dự nhiều “colloques” hay “conrences” về thơ văn thế-giới, hoặc đi sang tận Béc-lin để bàn về cuốn sách Le Livre noir du Communisme (“Tập Sách Đen về Cộng sản”), cãi nhau với cả những người như sử-gia Pierre Margolin, người viết phần về Việt-nam trong sách kia. Nhưng đến tháng 2 năm nay, sau khi nhận được hai tin vui về ông (cuốn song-ngữ Fleurs de l’Enfer đã in ra và sách Who’s Who in Twentieth-century World Poetry in ở Anh có mục nói về ông, dành cho ông một bài viết trang trọng hơn cả cho Pablo Neruda, nhà thơ Chi-lê và Giải Nobel Văn-học 1971) thì bỗng-nhiên bưu-diện cũng mang đến cho chúng tôi đĩa thu toàn-bộ tập truyện mà bạn đọc đang cầm trong tay.
Thật là một sức làm việc phi thường, hiếm có. Và sau khi đọc, chúng tôi đã quyết-định c gắng tối-đa để kịp làm quà đón ông về Mỹ vào tháng Sáu tới đây. Nói thế có nghĩa là dù như tập truyện đã đánh máy rồi, chúng tôi vẫn phải tranh thủ thời-gian mới kp lịch-trình mong mun. Thêm vào đó, ông cũng ngỏ ý mun tôi có my lời để giới-thiệu đứa con tinh- thần mới nhất của ông.
***
Giới-thiệu Nguyễn Chí Thiện? Liệu có bằng thừa không?
Đúng, nếu nói về thơ ông. Nhưng một Nguyễn Chí Thiện viết truyện, viết hư-cấu thì sao? Tôi chắc chắn những vị nào theo dõi sát sinh-hoạt văn-hóa ở hải-ngoại trong những năm gần đây hẳn đã bắt gặp một số bài luận-chiến của ông về chính-trị, nhất là trong những báo của các anh em Đông-Âu, hay là bài “Phùng Cung” mà ông viết về bạn ông, in lần đầu trên báo Khởi Hành của Viên Linh, vừa để gợi một số kỷ-niệm về một con người tài-hoa và có tư-cách mới nằm xuống vừa để làm Tựa cho tập truyện mà Phùng Cung dã giao cho Nguyễn Hữu Hiệu để đem ra ngoài này. Nhưng một Nguyễn Chí Thiện đi vào ngành Tiểu-thuyết thì sao?
Tập truyện gồm sáu truyện ngắn và một truyện có lẽ phải gọi là truyện vừa (novelette) mới đúng, truyện “Sương Buồn Ôm Kín Non Sông.” Một chủ-đề xuyên suốt hơn 300 trang, chuyện Hỏa Lò, nhà tù có lẽ nổi tiếng nhất miền Bắc.
Có người sẽ hỏi: Lại chuyện tù? Có lạc hậu không, có là một đề-tài cũ quá rồi không? Biết bao nhiêu người viết về tù tội, “học tập cải tạo” rồi, ra thêm một cuốn nữa có nhàm chán không?
Tôi xin thưa ngay:
Dù như các tác-giả xuất thân từ miền Nam trong chiến- tranh đã có hàng chục tác-phẩm lớn về chế-độ tù tội hay “học tập cải tạo” của người Cộng-sản, bắt đầu từ Trại Đầm Đùn của Trần Văn Thái trong thời chiến đến những Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, Đáy Địa Ngục của Tạ Tỵ, hay Ánh Sáng và Bóng Tối của Hoàng Liên sau này, sau năm 75, những tiếng nói ra đi từ miền Bắc về đề tài này nói chung hãy còn hiếm và khá muộn màng. Chẳng thế mà một tập truyện như Thằng Người Có Đuôi của Thế Giang khi được báo Người Việt tung ra cách đây hơn 10 nãm cũng đã được đón nhận như một mặc- khải nhưng rồi phải đợi gn một thập niên, ta mới lại có Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên (ra năm 1998) rồi năm ngoái, Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn. Sự đón nhận vô cùng nồng-nhiệt đối với những tác-phẩm này cho thấy là Nguyễn Chí Thiện quả đã không sai khi ông viết trong lời tựa cho tập Hạt Máu Thơ (tức Hoa Địa Ngục II) là không có đề-tài nhàm chán, chỉ có những tài-năng không đạt tiêu-chuẩn khi viết thất bại về một đề-tài nào.
Bắt tay vào việc mà biết trước là khó, là sẽ có những người so sánh ông với những tác-phẩm đi trước mà viết về cùng một loại đề-tài, Nguyễn Chí Thiện không phải là không biết sẽ đứng trước một thử thách gay go. Nhưng ông vẫn nhận thách thức đó và từ một ngòi bút thơ, ông đã chuyển sang văn xuôi, sang một phong-cách thật sống động, thành công đặc-biệt trong những vai phụ nữ. Đây là một nét rất mới trong hầu hết các tác-phẩm viết về trại tù hay nhà tù, kể cả các trại “học tập cải tạo,” ngoại-lệ có chăng là hồi-ký của Nhã Ca.
Nhưng Nguyễn Chí Thiện viết rất “con người,” các vai nữ trong truyện của ông nhiều khi hơn hẳn các vai nam về mưu trí hay tình người, kể cả tình yêu trong ngục tù và khi đứng trước cái chết. Nếu các hồi-ký về ngục-tù hay “học tập cải tạo” phần lớn là viết về mình hay một hai cá-nhân nào đó mà mình biết nhiều thì truyện tù, truyện Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện lại tái-tạo được cả một thế-giới với những vui buồn, sân hận, với cả một ngôn ngữ rất đặc-thù của tù miền Bắc, rồi với cả những mẫu người còn giữ được nhân-phẩm trong tù để đôi khi cải tạo được người khác, thậm chí cả những tên quản giáo hắc ám (như Ngưu-Ma-Vương) để chúng trông ra cái huyền-nhiệm của cuộc đời. Truyện của Nguyễn Chí Thiện, cuối cùng, là một khẳng-định về lòng nhân của con người để cho phép chúng ta, người đọc, vẫn còn tìm dược một tia hy-vọng.
NGUYỄN NGỌC BÍCH
Springfield, VirginiaNgày 23 tháng Tư 2001

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm