Văn Học & Nghệ Thuật

Nữ sĩ HỒ XUÂN HƯƠNG MỘT THIÊN TÀI NHƯNG BẤT HẠNH

Nữ sĩ nổi tiếng một thời được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1) Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh - Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong Đàng ngoài, lấy sông Linh Giang làm biên giới từ những năm 1627 đến 1772.
Nữ sĩ HỒ XUÂN HƯƠNG MỘT THIÊN TÀI NHƯNG BẤT HẠNH
Nguyễn Quý Đại



Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai...
Giấc mộng con của Tản Đà

Dân tộc Việt Nam luôn chiến đấu dành độc lập, tự do, mở đầu cuộc khởi nghiã của chị em Hai Bà Trưng (40-30 trước công Nguyên) và Bà Triệu (năm 248) để lại những chiến tích oai hùng. Những người không cầm gươm, đao xông pha nơi chiến trận, thì cầm bút đóng góp cho nền văn hoá dân tộc những nhà thơ nữ nổi tiếng như : Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công Chúa với Ai tư vãn... Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh. Nữ sĩ nổi tiếng một thời được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1) Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh - Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong Đàng ngoài, lấy sông Linh Giang làm biên giới từ những năm 1627 đến 1772.

Hồ xuân Hương sinh năm (1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai : Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ năm đời (3)

Hồ Xuân Hương và thân phận

Ông Hồ Phi Diễn thi đỗ Tống Sinh làm quan cuối thời đại vua Lê. Ông đã lập gia đình nhưng cưới thêm vợ thứ quê Hải Dương, sinh ra Xuân Hương. Lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, Xuân Hương rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian phải ở nhà giúp mẹ lo sinh sống gia đình. Xuân Hương tự học thêm, thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Có Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hoà tục gọi là Tổng Cóc ở làng Tứ Xã (nay thuộc huyện Phong châu - Vĩnh Phú). Cai Tổng mến tài của Xuân Hương, nhờ người mai mối cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Theo tục truyền chiều 30 tết, Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ bị Hồ Xuân Hương ra câu đố.

"Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới"

Sáng hôm sau, Tổng Cóc đến làm xong thủ tục xông nhà đọc lại câu đối

"Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào"

Có thể Xuân Hương mến mộ chàng trai nầy có khiếu văn chương? nên nhận lời kết hôn với Tổng Cóc. Theo tài liệu của Giáo sư Lê trí Viễn (4), Tổng Cóc không phải là một anh trọc phú, mà là một nho sĩ từng có phen lều chõng như ai và trong sự gặp gỡ Xuân Hương có chuyện chữ nghiã chứ chẳng phải chỉ có đồng tiền... " Tổng Cóc yêu thương Xuân Hương và từng bảo nàng làm thơ viết vào gỗ để người ta sơn then giữ cho bền, hiện nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương huyện Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Bút tích còn 4 câu thơ :

Thảo lai băng ngọc kính
Xuân tận hoá công hương
Độc bằng đan quế thượng
Hào phóng bích hoa hương

tạm dịch

Nói đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm (5)

Tình yêu giữa hai người không được bao lâu trong hoàn cảnh gia đình mà người chồng yếu đuối, Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng... không tránh được va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến "Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu" Xuân Hương bị gia đình bên chồng đè nén với thân phận làm lẽ. Nên đã phản kháng quyết bỏ nhà ra đi. Thân phận của Xuân Hương cũng như hoàn cảnh cua kiếp đàn bà làm lẽ mọn :

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung !
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong
Ca dao cũng có bài

Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn...

Từ giã gia đình Tổng Cóc đi tìm phương trời thơ mộng tự do hơn, vốn người yêu thơ văn lãng mạn muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường, tình yêu được trân quý hơn, nên Xuân Hương làm bài thơ giã từ "khóc Tổng Cóc".

Chàng Cóc ơi ! Chàng Cóc ơi !


Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé

Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

Bài "khóc Tổng Cóc "gây nhiều dư luận trong văn học, những người ở Làng Mương, làng Giáp nói bài thơ đó là khóc cho mối tình của Xuân Hương, không phải khóc người chồng đã mất, bởi vì Xuân Hương từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ lẽ trong gia đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Tổng Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi... để giễu lúc Tổng Cóc còn sống, Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng trong cảnh lẽ mọn không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư

Rằng tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
Kiều cuả Nguyễn Du

Thời gian chung sống tri ngộ ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú bây giờ) tuy làm vợ lẽ nhưng ông Phủ coi nàng là bạn văn chương tình duyên không đến nỗi bẽ bàng. Nhưng tình nghiã vợ chồng chỉ trong 27 tháng ông Phủ mất, Xuân Hương đã khóc chồng. Cuộc đời Xuân Hương về tình duyên bất hạnh.

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi !

Cuộc đời Xuân Hương có thể "bảy nổi ba chìm” qua hai đời chồng hy sinh cả đời chịu thân phận làm lẽ mọn, nỗi khổ đau cũng là niềm dang dở cái mối duyên thiên, duyên trời nào có phải là hậu qủa oan nghiệt của con nguời như "chữ tài liền với chữ tai một vần" !

Thơ và bạn đời

Tập thơ Lưu Hương Ký chú dẫn: Hoan Trung Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương nữ sĩ sử tập Lưu Hương Ký viết xong năm Giáp Tuất (1814) mãi đến năm 1964 được phát hiện (?). Tên di cảo có nghiã là ghi mùi hương thơm của ngọc lưu, chữ Lưu này nhắc nơi Xuân Hương sinh ở huyện Quỳnh Lưu. Trong tập thơ có 30 đầu đề ; 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm, phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết, nồng nàn yêu đương mong đợi. Ở Cổ Nguyệt Đường do Xuân Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ. Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương rất nhiều bài gợi cảm, lãng mạn với những văn nhân thi sĩ như (trích dẫn mỗi người một tựa đề) :

Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) bài: Cảm cựu Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không ?
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sưong đeo mái
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng treo...

Xuân Hương với Tốn Phong hai bài : Ngụ ý đến Tốn Phong Thi" v v...

Đường hoa diù dặt bước đông phong
Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công
Lạ mặt dám quen, cùng gió nước
Nặng lòng nên nhẹ đến non sông
Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc
Phòng gấm trăng in dải thức hồng
Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ !
Trước trăm năm hẳn nợ chi không ?

Xuân Hương với Hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần Ngọc Quán....

Vác cắm đàn tao một ngọn cờ
Ấy người thân đấy, phải hay chưa ?
Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu
Giắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình nguyệt góp người chung đỉnh lại
Trời Hoan mỏ mặt nước non xưa
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá ?
Thèo đảnh khen ai khéo đạt cho!

Xuân Hương với Mai Sơn Phủ" Hoạ thơ Sơn Phủ" bài thơ bằng Hán văn gởi bạn tỏ lòng quyến luyến nhớ thương. khoảng thời gian (1799- 1801)

Này đoạn chung tình biết với nhau
Tiễn đưa ba bước cũng nên câu
Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
Trước mặt đi về gấp bóng câu
Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm
Này bạn chung tình biết với nhau...

Xướng họa với Chiêu Hổ tức Phạm đình Hổ (1768-1839) đối thủ với Hồ Xuân Hương

Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay...

Xuân Hương trải qua nhiều kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về ái tình để rồi "quang cảnh trong đời chiếc gối mơ!” đời sống phóng túng của Xuân Hương để nhận lấy lời phê bình "tự thán"

Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay

Sau khi viết xong tập Lưu Hương Ký (1814), bảy năm sau (1822) Xuân Hương mất, nhưng mộ bà được táng ở đâu? ngày nay vẫn chưa tìm được tung tích, chắc chắn cũng ở quanh Hà Nội ? năm 1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương "Long Biên trúc chi từ" bản dịch ra Việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn

Đây hồ rực rỡ hoa sen
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gío xuân mấy độ thế tình không hay !!

Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến "nhất nam viết tử thập nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn

Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

Hồ Xuân Hương thông minh, có tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là "lẳng lơ"! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ :

Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ?

Dưới xã hội thời phong kiến người ta quan niệm "trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng" Xã hội bất công ! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng... Nhưng Xuân Hương đã muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay :

Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai ?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.

Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điễn tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ.

Đọc bài "Ngủ quên" như xem bức tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động.... cảm thấy rung động nghệ thuật trước hình ảnh đẹp lành mạnh.

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.

Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục... Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài... Nhóm khác phê bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén "Libido"... Bài thơ đầu đề không được thanh "Dương vật" Hồ Xuân Hương tả rất hay

Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen

Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng?... Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh... những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian.

Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.


Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường

Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
(Ca dao)

Đời sống qua thi ca bình dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu cày hút thuốc người bình dân.

Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
(Ca dao)

Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn tả lại chuyện tình dục trong khuê phòng,

Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ

hoặc

Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà


Đủ ngần ấy nếp mới là người soi


Hay Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh

Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay

Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái "tục" trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ sau để so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ

Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Huyện Thanh Quan

Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán

Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia

Nghiã là

Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia

Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ

Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc


Đầm đià lá liễu giọt sương rơi

Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo


Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, "một đèo, một đèo lại một đèo" từ màu sắc "cửa son đỏ lóet; tùm hum, xanh rì; lún phún; lắt lẻo"... Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu đi qua đèo thi độc giả chia sẻ với thi nhân Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc, thông thường ít nghe diệp âm "hõm hòm hom, toen hoẻn... " trong bài vịnh hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm


Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương ! là một thiên tài cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước... vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân trong động hương khói pha mờ mù sương.

Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm....

Bài "đánh đu" bức tranh quê sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá ?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không !

Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập

Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không.

Ngày nay ở miền Bắc hội xuân vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón... tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài... gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc

Qua ca dao Việt nam cũng có nhiều bài truyền tụng rất là "tục" như cái vịnh cái quạt

Rành rành ba góc rành rành
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì...

Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát, bất cứ ở đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa.

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa...

Ngành tiểu công nghệ dệt vải thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất vải tốt không phai màu phải ngâm lâu

Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu

Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội; Phật giáo vào thời Xuân Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa... Xuân Hương đã nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo

Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo

Hay qua bài

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà

Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau... trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người

Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt


Khối tình cọ mãi với non sông

Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
(Đá ông chồng, đá bà chồng)

hoặc qua bài tình tự

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.

Xuân Hương vịnh bánh trôi nước quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận? nhưng tấm lòng được tôn trọng

Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được... Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam...

Nguyễn Quý Đại


1/ Chữ Nôm có vai trò nổi bật trong sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân, thi sĩ mọi thời đều đã dùng chữ Hán làm thơ, viết truyện, nhưng chỉ có với chữ Nôm, người Việt mới tạo nên những tác phẩm bất hủ. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất còn lưu truyền là Quốc âm Thi tập của Nguyễn Trãi (1380 - 1420) sau đó là Bạch vân Am quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).

Văn học Việt nam qua các thời đại, chữ Hán các tiền nhân viết những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, còn với chữ Nôm gần như các cụ chỉ làm thơ Sở trường và thành công bằng hai thể thơ giàu dân tộc tính này, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX Văn học cổ điển Việt Nam có những tác phẩm xuất sắc khiến thế giới phải biết đến là Chinh phụ Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748); Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 -1820). Chúng ta còn các tên tuổi sáng giá khác nữa từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX như: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, đặc biệt thơ cuả Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương v.v... Chính nhờ ở những tác giả này, tiếng Việt hấp thụ hai nguồn văn tự là chữ Hán và văn tự văn hóa dân gian, chữ Nôm để trở thành một ngôn ngữ văn học sáng chói và giàu sức diễn đạt

2/ Được dẫn chứng trong Hồ Quỳnh Gia Phả gia phả họ Hồ ở Quỳnh Lưu. Nhưng tác giả Lê Xuân Sơn viết trong tập " Hồ Xuân Hương thơ và đời viết "HXH con ông Hồ sĩ Danh (1706-1783) em cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống (1738-1786) là một vị quan đầu triều thời chuá Trịnh ?

3/ Những kỳ Án trong việt sử T.giả Trần Gia Phụng

4/( Hồ Xuân Hương thơ và cuộc đời trang 206) nhà xuất bản văn học.

5/ Theo phóng sự Hồ X Hương và Tổng Cóc (Nguyễn Hữu Thanh)
Tài liệu đọc thêm : Hồ Xuân Hương toàn tập của Gs Ngô lăng Vân; nghĩ về thơ HXH.cuả Gs Lê Trí Viẽn, Ng Đức Quỳnh....

 DoDom Chuyển

Bàn ra tán vào (2)

quang dinh
TÂM THANH THI TẬP * HUYỀN THOẠI NGƯỜI TRẦN DÂN TIÊN * HỒ TẬP CHƯƠNG TẤT THÀNH ÁI QUỐC * NGUYỄN SINH CUNG: “19-05-1890” ? KIM LIÊN thôn , LAM LIÊN xã , NAM ĐÀN huyện , NGHỆ AN tỉnh ? N.S.CUÔNG:10 tuổi => NGUYỄN TẤT THÀNH Hơn bốn mươi lần đổi tên “Cuối cùng tạp chủng : HỒ CHÍ MINH ?” “NO HO” * Ẩm tửu say đày tù phu giã rượu quan toan già hạ thủ một trăm cây Có ngờ đâu phạm nhân bỗng chết ngay mụ vợ nó đắng cay dâng sớ kiện Tội giết người rủi thay ma tửu luyện cậu ấm CÔN , SINH SẮC đẻ ngang hông Làm quan gian sức mấy rõ ruộng đồng đành nam triễn làm lang làng bốc thuốc Tiếng PHÁP thuộc dao cầu không đầy vốc ngài lang trung vọc cây cỏ miệt vườn Khách láng giềng hốt chẳng mấy cân thương xúi quý tử BẾN NHÀ RỒNG tây tiến * “Cẩu phụ sinh cẩu tử quan ta túy tửu xử Chưa ẩm đầy một cữ phạm hình sự chết ngay” * “Ecole coloniale” nộp đơn xin cống hiến “Mẹc” me tây liệng giấy xuống vỉa hè Kể từ đây “CÔN mất dạy” thay phe thề khởi nghiệp bồi bàn kiêm phó nháy “Nguyễn ÁI Quốc” tên chung ba thầy dạy Phan Văn Trường tiến sỹ Nguyễn An Ninh SINH CUNG rình cử nhân triết Thế Truyền đi mao xí trộm bút danh đồng chí * “Họ cha không thèm kí tên mẹ đặt khác từ Ai đẻ đứa con hư Hồ bất minh như thế” * Bà THỤY KHUÊ nhiều năm nghiên cứu kỹ phát hiện ra học lực của VĂN BA Chẳng đáng làm môn đệ giữa chân bà I tờ ít chữ chưa đầy lá mít TRẦN DÂN TIÊN mặt dày trên bị thịt tự khoe mình có công diệt quốc gia Cõng rắn về xơi tái đám gà nhà , báo : PHÁP bắt PHAN BỘI CHÂU giam lỏng * Cụ PHAN BỘI CHÂU lúc chống PHÁP thường kí tên HẢI THỤ Hiệu : SÀO NAM TỬ& THỊ HÁN “26-12-1867” NGHỆ AN Ngày :1-7-1925 LÂM ĐỨC THỤ và “LÝ THUỴ” = “H.C.M.” Bán tin nơi ở của PHAN BỘI CHÂU cho mật thám PHÁP Cụ bị giam lỏng từ 1926 đến 29-10-1940 thì mất * BẦY TÔI BỒI TÂY * Môi SINH CUNG bồi tây không hề mỏng vốn quen nghề “rải dứa”võng biệt phòng Thế cho nên HỒ quốc tặc được phong cẩu tạp chủng chồn lai “NGƯỜI” bán nước Nhờ quốc tế đệ tam bày mưu chước TỐNG VĂN SƠ nhất quyết phải thờ bà TĂNG TUYẾT MINH đệ nhất đĩ TRUNG HOA kèm nội gián nàng LY SAM xú nữ Trai tứ chiếng gái giang hồ không cữ Việt gian LIN quyết thử cả hai nàng Chẳng ai ngờ một kỹ nữ có mang LÝ THỤY đạo : văn “LAO TRUNG NHẬT KÍ” * “Trộm LAO TRUNG NHẬT KÍ đạo văn của LÝ THỤY Tư tưởng ăn cắp ý đạo đức cái chi chi” * Ba đóa hoa “PAUL Tất Thành” chưa phỉ vội đèo bồng dâm phụ Đặng Dĩnh Siêu CHU ÂN LAI không thể mất nàng KIỀU tống LÝ THỤY phòng gian phu tự sướng NGA XÔ thấy “LIN tốt làm” tưởng thưởng mượn luật sư giỏi cãi cối cãi chày HỒ CHÍ MINH đớp được một vận may chỉ tọa khám vốn chưa đầy sáu tháng * “VĂN BA LÝ THỤY TẤT THÀNH : TỐNG VĂN SƠ lỡ ô danh chém vè Chàng LIN nổ pháo bắt xe gian phu tọa khám ai dè nửa năm” * Ghẻ chốc lác TỐNG VĂN SƠ lành háng cuối tháng sau vội bay tuốt sang NGA “ VÉRA VASILIERA” dâm nữ cởi cánh ngà , LIN đày tớ rừng TAIGA phục hoạt Gió “mát cu va” dâm phòng hoan lạc NGUYỄN TẤT THÀNH đạt chín cõi mây mưa Tội gian dâm sáu tháng vẫn chưa chừa tái tây tiến lúc bạn vừa sa bẫy * “Cái sảy nảy cái ung đại đồng không dùng chung Nằm vùng tên dâm tặc mặt đệ nhất gian hùng” * VĂN BA cậy nước HOA KỲ đưa đẩy mánh kim thiền thoát xác lỡ vang danh Nguyễn Tất Thành trại ÁI QUỐC cũng đành bọn đồng rận bách thanh kêu tương ứng * “Lòn háng TÂY lấy TẦU theo MỸ bám pín trâu Người ở đâu mất dạy hỏi thôn nữ vườn trầu ?” * Vừa đi đường vừa kể , chuyện một nàng lai TẦU;T.Lan giờ ở đâu Đố đồng chí tìm thấy cuộc mưu sinh đưa đẩy chân DÂN TIÊN khắp nơi Rơi vào chỗ không mời đã đời trong nhà thổ Trinh nữ cũng lả lơi , xơi cả bà hết thời , qua tay khách làng chơi CuÔng càng hồ hởi , Sinh Cung thêm phấn khởi , bởi vài bồ dâm phụ Dù phải thưa bằng cụ cũng cố dụ gái tơ bọn vẹm cái lững lờ mu cao chờ kỵ sỹ * Vào những đêm trăng mờ già Thu nằm võng mơ một vài cô rửng mỡ Rồng lộn to hết cở môi mép đỡ chân tay khỏi sợ ống điếu cày Chí Minh không chịu nẩy HỘ HỔ HÔ HỐ HỒ * “Cu li” PHÁP “bầy tôi” hoài mệt mỏi đày tớ tây sang nô lệ “NGA XÔ” “PHÚ LANG SA” bỏ lại mấy cô bồ một nữ tử ngậm ngùi phân ly lệ Mao Trạch Đông thương tình thu môn đệ nhất nghệ tinh thời thế mấy ai vinh MÁC LÊ NIN ban giáo vụ đánh rình đổi ở đợ Hồ Chí Minh tạp chủng * “Ngưu tầm đúng giống ngưu mã kiếm ngay dòng mã Quên tổ tiên mồ mả Hồ xảo trá khôn cùng” * Đắc địa lợi túi tham thiên vô lũng khủng bố dân làm thủng đất miền nam “Đồng thọ chia hơn mười sáu tấn vàng” kho bạc vụn lũ lâu la xâu xé Trường Chinh đành quên ơn người sinh đẻ cái mẽ kho cũng vu khống phú ông Xúi đi B cởi quần áo tồng ngồng XUÂN KHU tố tội ông bà cha mẹ * “Phỏng giái quân đánh rình chắc hồn phách HỒ tinh Giật mình nơi chín suối đuổi thuyền nhân lênh đênh” * Bảy thập kỉ biết bao nhiêu huyết lệ Dưới búa liềm thề cướp của sát nhân Tiếng oán than vang vọng khắp dương trần Bầy quỷ đỏ học láo lông “MAO ít” * Hang PẮC PÓ : CHÚ THU trồng cây thịt NGUYỄN THỊ MINH KHAI gà mái tịt chồng LÊ HỒNG PHONG bận khủng bố phương đông Khuê trung lạnh đèo bồng hông thủ lãnh * “NGUYỄN THỊ MINH KHAI [1910] Tên thật NGUYỄN THỊ VỊNH chị NGUYỄN QUANG THÁI “Vợ đầu của VÕ NGUYÊN GIÁP” 1941: MINH KHAI bị xử tử tại HỐC MÔN Trước HỒ lấy LÊ HỒNG PHONG làm chồng” HỒNG PHONG chết tại CÔN ĐẢO [1942] tên thật : LÊ HUY DOÃN có con gái : LÊ THỊ HỒNG MINH [1939] * MA THIÊN LẢNH giữa dâm phòng xoãi cánh HỒ CHÍ MINH lâm hạnh gái TÀY, NÙNG NÔNG THỊ XUÂN sinh nghịch cẩu TẤT TRUNG Sau một tháng bất trùng phùng phụ mẫu Bộ chính trị quyết tâm đem đi giấu Từ VŨ KỲ hoàng tử hóa thất tung “Phụ vương sao nỡ lạnh lùng , không cho mẫu tử trùng phùng cung vua” QUẢ BÁO * TRẦN QUỐC HOÀN trưởng công an thảo khấu Giữa dâm cung cưỡng bức ẩu vua bà Vờ điếc câm nén nhịn nhục vương ma Mục sở thị lũ quần thần hạ bệ * Chủ tịch nước đêm đông thầm rơi lệ Đệ tử mình dám giởn mặt diêm vương Hiếp dâm xong chưa thỏa mãn chiếu giường Ra lệnh giết thây XUÂN quăng xe cán * NÔNG [NGUYỄN] THỊ XUÂN [1956-1957] mẹ NGUYỄN [HỒ ]TẤT TRUNG * “ÂU CƠ còn đẻ cả lò LẠC LONG QUÂN há không bò vô hang” “Tiên rồng cắc cớ chào hàng Tinh binh BÁCH VIỆT lên đàng nam chinh” * Bầy hộ lí có nhiều cô MƯỜNG MÁN Chán XUÂN , VÀNG còn xả láng NGÁT , TRƯNG Đảng trung ương bộ chính trị khó lường ĐỒNG , DUẨN , THỌ , KHU : “CHÍ MINH không vợ” * Số 66 phố HÀNG BÔNG NHUỘM TRẦN QUỐC HOÀN quyết chí cuỗm THỊ XUÂN Sau khi thoả mãn hiếp dâm Công an bộ trưởng xe đâm chết nàng Chị em bất khả đội tang Duyên may còn có THỊ VÀNG nối ngôi Trên giường chủ tịch rình mồi Khúc dồi đại vĩ đôi môi tày nùng * “TRẦN ĐĂNG NINH “NINH XỒM”&TẠ QUANG CHIẾN” “Hai tên sát thủ”:11-02-1957 * “TRƯỜNG CHINH muốn NGUYỄN TẤT THÀNH ngưng thở Hội quần ma ra nghị quyết tử hình NGUYỄN SINH CUNG quốc tặc được anh linh Thình lình chết vào đúng ngày quốc khánh” * Thế kỷ sau ban chấp hành bể mánh Tránh ngày thiêng đành để giỗ hôm sau Suối LÊ NIN núi CÁC MÁC bạc đầu Nội bộ đảng cuộc bể dâu thanh lọc TÌM ĐƯỜNG BÁN NƯỚC * Trước lúc đến BẾN THÀNH xin lánh nạn Vượt biên trên Amiral Latouch-Tréville NGUYỄN TẤT THÀNH vẫn nhớ rõ cái tên Nàng ÚT HUỆ gái tiền giang trung hậu * Đường duyên lỡ vờ cho là tại xấu NGUYỄN SINH CUNG vì quyền lợi đổi danh Khi tương lai mờ mịt ẩn sau mành TẤT THÀNH trộm tên chung người ÁI QUỐC * Một nắm chữ ngâm nga câu PHÁP thuộc Chàng VĂN BA khó triệt được BOURDON “MARIE BIÈRE” nhìn nữ tử khóc ròng Khi thân phụ nỡ quên tình tấm mẳn * Nàng LOUISE công nhân tây cay đắng Gặp VĂN BA coi như trắng hai tay Dân PARIS thợ làm mũ hàng ngày Bao nhiêu của chàng giang hồ mượn tạm * “Bụi đời cứ ăn chơi đồ chùa không ai mời Bày ra mặc sức xơi PAUL TẤT THÀNH được lời” * Chơi với giặc hai mang làm mật thám Báo lính tây triệt nghịch chí đồng hương Cả mỹ nhân đã từng ngủ trên giường Vì hám lợi VĂN BA lường gạt tất * Dùi phó nháy vườn hoang chê thiếu đất Cất bước chân qua bốn biển đại du Gà năm châu còn hàng tá con mù Nghe ÁI QUỐC dụ phu nhân lãnh tụ * “Hình chí mô”người trên răng dưới củ Gót giang hồ in đậm váy nữ nhân Tại dương gian không muốn dính bụi TRẦN DÂN TIÊN mộng đào nguyên cùng TỪ THỨC * “Đạo nào cũng cấm dâm nhưng độc đảng chết bầm HỒ CHÍ MINH giáo chủ tôn thờ bạch mi thần” * “VỪA ĐI VỪA HÓT” * Vợ đồng chí cũng nhẫn tâm cưỡng bức NGUYỄN THỊ MINH KHAI chịu nhục giữa đêm Lúc trông chồng mãi vọng nguyệt bên thềm HỒNG PHONG hởi ! có rõ lòng sương phụ * Vì đảng thể quên luôn tình máu mủ NGUYỄN TẤT TRUNG khó nhìn mặt cha con Cộng sản còn , phụ tử biệt ly còn Khủng bố mất đừng hòng mong dung thứ * Cai trị dân khác chi bầy quỷ dữ Ám sát người những kẻ dám không theo Biến dân đen sống trong kiếp đói nghèo Hóa thổ phỉ thành hiền nhân hiệp sỹ * Gia nhập đảng dụ ma cô điếm đĩ Bọn côn đồ luật pháp sống ngoài vòng Xã hội đen chủ nghĩa núp bên trong Trung ương đảng nguyên thiến heo hoạn chó * “Khủng bố để cướp sản , đảng của bọn lục lâm ẤT DẬU đói nên lầm , tám mươi năm câm nín” * Nhà sàn gió KIM LIÊN luôn mở ngõ HUỲNH THỊ THANH XUÂN kỉ mới mười lăm Lần đầu tiên gặp BÁC tưởng nghe nhầm Lãnh tụ hỏi lỗ rò nào tới tháng * Em thỏ thẻ vừa qua ngày khô háng Bác tuyên truyền vào láng dạng ra xem Tối ba mươi mờ tỏ một bức rèm Đè em xuống trên gụ lim lâm hạnh * “Đêm qua mơ thấy Bác , hát khúc nhạc đồng quê Sáng nay quên lời thề , giữ tấm thân trinh trắng” * Cối THANH XUÂN giã chày vồ thủ lãnh mạnh dùi cui kém cạnh tránh chín lần Đỉnh vu sơn em đau xót châu thân vực ân ái buông trôi đời con gái Nguyễn Sinh Cung thuyền tình chưa quá tải gái miền nam nữ tướng giải phóng quân ĐỊNH mu cao cũng chàng hảng hợp quần BÌNH muỗi thị ló tò he hưởng sái * CHIA CHÁC CHIẾN LỢI PHẨM * “Phó chủ tịch nước và nữ tướng giải phóng quân miền nam”=1965 * ĐỊNH tướng tú bà BÌNH muỗi bán hoa vào hội quần ma CHA GIÀ mua tất CU CƯỜM : ĐỊNH giật DÁI NGỰA : khất BÌNH LỒN TIÊN : CHÍ MINH CẶC BẦN : CHEM CHÉP Nhà sàn chèm bẹp đẹp mặt thiếu niên Bác thỏa cơn ghiền dâm điên 69 * Cửa mình môi mép nón cối dép râu SÀI GÒN thảm sầu tập trung cải tạo Ba năm bố láo phòng giái miền nam KỲ THIỆU chưa cam thượng đội hạ đạp Vú Nàng Ô Cấp Thạch Nhũ U Minh Chàm Quạp Quảng Bình Trường chinh Khu Đĩ Đi B đánh MỸ nhà Ngụy vua rinh vợ Ngụy chúa rình tống tình con Ngụy * Chiếu xe pháo sĩ mã tốt hoà minh tướng tượng giật mình SINH CUNG âm vật Bắc nam cầm sắt chắc cú “đại du” nghị quyết trả thù cúc cu gù gái Hộ lý thoải mái trải dãy trường sơn cây gậy không sờn sướng hơn dương cụ Chú Thu thụ hưởng lạc thú kẻ thù đệ tử ngu phu lập đồn tử thủ * Hộ lí trẻ lăm le làm vịt mái LIN gà cồ xí xố thuyết tam vô Thời xô bồ quyết cưa đổ cả lô thế cướp nước đồ cô hồn các đảng Lúc bụi đời ăn chơi hơi lãng mạn khi cầm quyền không kén cá chọn canh Trái ngọt ngon phải bứng gốc chặt cành dù rể lá có hôi tanh mùi máu * “Cháu ngoan của bác HỒ , thờ chủ nghĩa tam vô Xô bồ trong cung cấm , những hũ mắm lõa lồ” * ĐỖ THỊ LẠC tuổi không hơn các cháu giấu trong vườn Bác “ÁI QUẤT” quật riêng Hồ sàng kiêng “đạt thị lỗ” láng giềng cụ phong chức CHỊ THUẦN viên liên lạc Nguyễn Thị Phương Mai vàng chưa chuẩn đạt gạt thông tin thứ trưởng gác bên hè “Vác cày qua núi” trọc cấy tiểu khê tiểu vẹt đỏ dầm dề sa đại lệ * “Cây gậy chõi trường sơn , sức mấy đầu quy sờn Đất không ơn sỏi đá , má hồng cũng lên cơn” * Hoàng Văn Hoan gục đầu quy tuyên thệ mẹ VIỆT NAM tâng bốc đấng hùng anh Cơm chẳng ngon canh cải nhót không lành sợ bạn khử đành qua TẦU lánh nạn Tứ tự tốt chúng ta là bè bạn bom đạn còn cũng không thể hại nhau Da anh em nên chỉ có một màu tình huynh đệ trung ương không cấm cản * “Thanh trừng bọn đồng chí định chạy theo phe NGỤY Lăm le đi đánh đĩ đuổi quân MỸ quá đà” * TUYẾT LAN TAN NGỌC NÁT VÀNG * T.LAN cùng TRẦN DÂN TIÊN nã đạn , từ nước ngoài cũng hóng hớt tấn công Chơi trên cơ phản động Phạm Văn Đồng lén lút bán Trường Hoàng Sa của NGỤY Đảng thổ phỉ nào biết gì liêm sĩ danh ông nghè chưa đỗ đã lấy le Khúc lưỡi bò hó hé vội le te , khoe té tát nạp biển đông khủng sản * “Bác qua TẦU dòm dõ , món thịt chó QUẢNG TÂY Lũ lâu la bầy hầy , tiết canh cầy trây trét” * Tên phù thủy “kít sinh dơ”đánh đĩ bắt tay TẦU sau hội nghị ban đêm Miền nam thua “tàu lạ”lấn qua thềm hạm chiến MỸ tình vờ như không thấy Nội các THIỆU cả một bầy sa bẫy quân miền nam bị gãy súng nửa chừng Chớp thời cơ phản tặc NGUyễn THÀnhTRUng thằng gián điệp nhị trùng tung phi pháo * “Đừng tin DÓC BA CHỚP không đớp KÍT SINH DƠ Đồng minh MỸ tình vờ TẦU cộng vơ hẩu lớ” * Quân tướng tá thi đua nhau nín thở bộ đội vồ xô đổ cửa miền nam HỒ CHÍ MINH tên quốc tặc dâm loàn vội cưỡng chiếm ngay SÀI GÒN xinh đẹp Hoàng Quốc Việt bên bàn đèn chèm bẹp dẹp chiến thư mưu hán hóa VIỆT NAM Sáu tỉnh thành thọ bài học không kham cúi đầu chó biến thân thành thái thú * “Tháng hai năm bảy chín TẦU vây kín sáu thành Đánh gọn rút lui nhanh hằng trăm ngàn sinh mạng” * Bầy ruồi trâu tôn TẦU làm minh chủ lũ trung ương đảng mụ mị theo NGA Dạy VIỆT NAM một bài học quá đà sáu thành phố địa đầu gần thúc thủ * Xưa VIỆT NAM CỘNG HÒA ăn thua đủ Dù HOÀNG SA lũ TẦU ghẻ hung hăng Giải phóng quân phá hoại biết bao lần SÀI GÒN quyết cùng trong ngoài đối địch * “Năm mười rồi mười lăm có người hai nhăm năm Hoặc hơn nữa cải tạo trại tập trung lương tâm” * SÀI GÒN dù bị cầm nhầm , vẫn không tuân lũ ó đâm giết người Hàng đoàn thuyền vượt trùng khơi , ra đi mong được đổi đời tối tăm Quốc vong trí thức hờn căm thất phu chịu nhục ngậm tăm chờ thời Bơ thừa sữa cặn không mời dép râu nón cối lả lơi bê về “Cái nồi ngồi trên chiếc cốc , bộ đội ngu ngốc bốc gạo dốc bàn cầu Đồng hồ không người lái ,ló hai cái cửa sổ ,không cần có ô tô ,vẫn lõa lồ thu ảnh” BETRAYER : BÁN NƯỚC * Betrayer : tên VIỆT gian lộ rõ rước voi về dày xéo mộ tổ tiên Vì lợi danh nợ mãnh lực kim tiền nhượng biển đảo Mao Trạch Đông sư phụ Ma Thiên Lảnh : CHÚ THU lo bù khú dãy Trường Sơn khói lửa phủ đồng minh Chiến công về lãnh tụ hưởng một mình mặt trận bại xương khô mồ dân tộc * “Đổi cho thầy quần đảo Hồ cáo không lấy gạo chỉ muốn nhiều đạn bom Anh MỸ đứng ngoài nhòm NGA XÔ luôn hứa hão ANH NAM xin báo cáo Từng cột mốc lằn ranh đo đạt vốn không rành đành dành cho CÁC CHÚ” * LUSTFUL : DÂM TẶC * Hang PẮC PÓ lo mưu ma quỷ chước rước nàng nào lâm hạnh đúng đêm trăng Lũ lâu la lấp ló cả trăm thằng chỉ được ngắm từ xa trong bóng tối Cường khí lực tên giặc già gian dối thúc đầu quy như trống dục sa trường Cả tá nàng ban mỗi một câu thương bầy hộ lí đảng vô thường chuẩn đỏ * “Đêm nay BÁC không ngủ chưa đủ đô đồ xài CHÚ THU gọi tay sai hộ lí hoài chẳng mệt” * PLAGIARIZER :ĐẠO VĂN * Ngồi trong hang HỒ mơ màng chém gió :vừa đi đường vừa kể chuyện chiến chinh TRẦN DÂN TIÊN tự sướng bản thân mình Văn LÝ THỤY đạo “lao trung nhật kí” Thân với MỸ vờ đi B diệt NGỤY lòn đít TÂY sông BẾN HẢI chia đôi Đẫy lâu la phục kích khắp núi đồi NGA TẦU cộng thông đồng chờ nam tiến * “Mặc tù phu LÝ THỤY , cương hay nhu tùy ý Nhất trí TỐNG VĂN SƠ , thơ LAO TRUNG NHẬT KÝ Không thấy bàn đuổi MỸ , chẳng kĩ thuật đánh TÂY Văn phong vẫn bầy hầy , từ mẫu quốc nan chảy” * DEFRAUDER : XẢO QUYỆT * Big Minh đẩy SÀI GÒN lâm ám tiển :quân miền nam giải phóng thuộc cáo HỒ Đất tự do cho bè lũ tam vô vồ từng mảnh núi non đầy màu mỡ Hiệp định nào cho HỒ ly tráo trở tết MẬU THÂN đình chiến vẫn cương cần Diệt đồng bào bất kể cựu tù nhân nã bom đạn vào dân quân nghỉ lễ * “Bỏ nghị định PARIS đoàn quân giải phóng đi Vào SÀI GÒN cưỡng chiếm liêm sĩ để làm gì” * INSOLENT : VÔ GIÁO DỤC * Trước thánh thần lộ nguyên hình thổ phỉ HỒ bố láo dám xưng bác với tôi Giọng văn nghe sặc sụa của đồ tồi ngồi chày cối hội hàng tôm sạp cá “Phỏng giái quân” cho xới tung mồ mả đất ông bà quân cán chính miền nam Buộc đổi tiền đánh tư sản chưa kham làm li biệt hàng ngàn tù chính trị * “Tôi tôi bác bác tọa trên ngôi Bác bác tôi tôi mỗi thế ngồi Giang sơn khói lửa tôi an giấc Cỗ mồi sao bác chẳng ướt môi” * MURDERER : SÁT NHÂN * Nửa đêm giờ tí canh ba chú Thu rụ rị rủ gà chọi nhau Con đen cánh đánh phủ đầu đỏ mào xông xáo hàm râu buông dài Ngỡ rằng kỵ mã sức dai ai ngờ nửa khắc rơi đài thảm thương Tinh binh tan tác trên giường bất minh ảo tưởng dọc đường đi B * Thanh niên thiếu nữ không về lực trai vướng bụi môn lề miền nam Phấn son vẹm cái không cam bơ thừa sữa cặn tốt làm đam mê Gió đưa ngọn trúc hẹn thề gặp quân nhân NGỤY không chê anh nào Thà trao cờ đỏ vàng sao hơn buông đài đổng xuống hào hiến thân * Không như mọi nữ thị XUÂN lục lâm lãnh tự cởi quần chơi rông Ngỡ rằng đậu chến thai rồng không ngờ chủ tịch vần công đổi bồ Nửa đêm tai nạn viết vô Quốc Hoàn viết hữu lõa lồ cưỡng dâm Giũa đường một chiếc xe đâm hỏi ai gây cảnh nhẫn tâm thế này * Dương trần tiên ác đọa đày hay tên dâm tặc họ HỒ bất minh Năm châu bốn biển giật mình phu thê lại nỡ cạn tình thế ru Rõ ràng những kẻ đui mù mới tin cộng sản cao mưu rộng tài Bỗng dưng thảm tử nhân tai chẳng thà địch họa kéo dài nhiều năm * “Ghi chú : 6 đức tính vĩ đại của HỒ quốc tặc” * 01-BETRAYER : kẻ bán nước 02-LUSTFUL : dâm tặc 03-PLAGIARIZER : đạo văn 04-DEFRAUDER : xảo quyệt 05-INSOLENT : hỗn láo với tổ tiên “vô giáo dục” 06-MURDERER : sát nhân Theo : “XOATHANTUONG TRIPOD.COM” CHẠY GIẶC LẦN THỨ NHẤT * Hai mươi tháng bảy năm tư Nhân dân miền bắc di cư lên đường Phương nam chia gánh đau thương Tránh loài quỷ đỏ vô thường dã man Quê hương đất nước điêu tàn TẦU TÂY PHÁP NHẬT VIỆT gian giở trò Lường cân đếm gạt điếm đo Vĩ tuyến mười bảy chia đò HIỀN LƯƠNG * Dòng sông BẾN HẢI tai ương Xác người trôi nổi như tương đậu nành Hồng binh không thấy mùi tanh Mặc tình bắn giết đua tranh cướp cờ Lão già phụ nữ trẻ thơ Vì dân chủ phải qua bờ tự do Không ai muốn lại HỎA LÒ ĐẦM ĐÙN đáy vực đói no CỔNG TRỜI * “Tử biệt nghiệt sinh ly chẳng ai muốn bị đì cu li cho CÁC CHÚ” * NGÔ ĐÌNH DIỆM đích thân mời KHU TRÙ MẬT định cho người tha hương SÀI GÒN đô thị phố phường Dang tay rộng mở tình thương đồng bào Còn cở đẫm huyết đính sao Là còn khói lửa tuôn trào chưa ngưng Chiến tranh vì chẳng đặng đừng Giặc HỒ quyết tử không ngừng xâm lăng * Trung ương đảng cộng bốn thằng ĐỒNG KHU DUẨN THỌ lăng nhăng cả bầy Sát nhân bộ chính trị đầy Dâm ô đồ tể mặt dày lưu manh Đầu đàn không cội không cành Bất trinh họ mẹ buông mành tên cha Rước voi chà đạp quê nhà Độc xà xích quỷ cắn gà VIỆT NAM * “ANH NAM thừa máu mủ địa chủ khắp năm châu Không cần phải làm giàu bám pín trâu CÁC CHÚ” * CHẠY GIẶC LẦN THỨ HAI * Ba mươi tháng bốn bảy nhăm Miền nam tan tác thịt băm trên bàn PARIS hội nghị liên can Đoàn quân HÀ NỘI trùm tang SÀI GÒN VIỆT gian xảo quyệt ra đòn Từ CỦ CHI phóng đạn bom NGA TẦU Có người chạy giặc lần đầu Dân di cư cũ lên tàu lần hai * Thiên cơ địa hại nhân tai Bao nhiêu xác của anh tài vùi chôn Sóng ma gió quỷ dập dồn Đại dương cốt nhục thịt xương núi rừng Từ đây nương tựa người dưng Trùng phùng viễn xứ khó mừng di dân Tái đong song đếm lưỡng cân Năm châu bốn biển điệp cần tồn sinh * “Giang sơn đi về đâu dưới tay thái thú TẦU Lũ công an độc trị hồ chó má xà mâu” * Hồ tinh tạp chủng chí minh Sát nhân đồ tể tội hình khó tha Khi nào quốc tế thượng tòa Hỏi cho kĩ lưởng mẹ cha người nào Lúc là MÁC lúc là MAO Lúc thì liềm búa lúc sao huyết cờ Sản sinh ngu dốt lú dơ DŨNG HÙNG SANG TRỌNG mịt mờ nước non * Cực đoan chống cộng sắc son Phế binh NGỤY mất một hòn cũng chơi Chửi cha chúng nó đã đời Lũ không nhận mẹ phí lời đãi bôi Điếc câm đành chịu ngậm môi Trên răng dưới củ ai ngồi rỗi hơi Thơ dâm văn tục không mời Dư luận viên đỏ lả lơi vào hùa * “Nghe như thoang thoảng cay chua Được mùa lá cải bán mua vỉa hè” CHẠY GIẶC LẦN THỨ BA * Có người vượt biển mỏi mòn Trông chờ vào đám cháu con dẫn đường Dù trên sóng THÁI BÌNH DƯƠNG Hay chui đất MỸ bằng đường du sinh Thông minh gánh xiếc lập trình Lỡ ngu làm vận động viên chèo thuyền Ca nô bồi hót huyên thuyên Miễn là sang nước thông truyền hữu duyên * Miền nam đã lỡ thề nguyền Nếu cây cột điện có quyền dụng chân Đảng cho xin có ai cần Tự do dân chủ thánh thần ban ân VIỆT NAM địa ngục dương trần Hỏi bao nhiêu kẻ dấn thân nô TẦU Giang sơn cẩm tú đi đâu Nghe bầy thái thú gâu gâu BA ĐÌNH * Cội nguồn bao tội lỗi hang PẮC PÓ lội ra Lãnh tụ xưng vương ma cha già dân cộng sản Tất thành công cách mạng xúi con cháu đi B Ngu trung giữ lời thề sinh bắc vào nam tử “Đổng , đài , đạp” không cữ thượng vàng hạ cám khoe Mang cục sắt con xe lấy le về quê mẹ * HỒ SỰC MỒI CẨU QUẢNG TÂY * Bồi thưa bác QUẢNG TÂY không khoác thịt các em tươi mát năm châu Đã lâu nay quốc bảo nước TẦU mềm như bún thơm hơn lọ mứt Chân trường túc trăng tròn đúng mực bụng thuôn săn mông ngực đại size Cạo lông đi da trắng như lai ướp riềng mẻ thêm tài hấp dẫn * Lúc hạ thủ lửa trui cẩn thận nhỡ sai lầm tan nát đời HOA Đợi lòng nướng chớ khá lo ra khi chờ luộc sẳn sàng giò hấp Món rựa mận chẳng cần dồi gấp cất bên trong vài đĩa chả chìa Cuốn mỡ chài tương hợp men bia tàn tiệc nhậu “dzách lầu” xáo thủ * Lẩu hà nàm không cần chính chủ xem hình hài đầy đủ chân tay Rượu bồ đào khỏi phải sợ say khi an ngọa cũng ngoài ống cống Đừng theo lũ chết chùm một đống xây kim lăng phản động đẩy đưa Hộ lý em vẫn đứng gốc dừa ĐỊNH tướng tỷ sọc dưa BÌNH muỗi ĂN CHƠI XƠI THẬT * QUẢNG ĐÔNG “hạ cờ tây” Bác đi gió về mây Bày cỗ mồi thịt cầy “Đúng nó rồi” TẦU đây QUẢNG TÂY mời cáo HỒ cầy bảy món mại dzô Năm châu đều nổi tiếng miếng ngon dâng tận miệng * Bảy chiêu thức cẩu trui giềng mẻ mắm tôm mùi Tỏi hồi om húng lủi từng lon bia em khui Chó má sực thịt chó thỏ không nhấm thịt thỏ Sống tạm trên cõi đời phải hưởng thụ khúc dồi * Địa phủ khó thấm môi những miếng mồi linh cẩu Bác không cần phải giấu trung ương đảng gặm rồi * “Sống trên đời không xơi miếng dồi chó Chết xuống âm phủ đếch có mà ăn” * Chó không ăn thịt chó cùng loài khó giết nhau Kẻ sát hại đồng bào đích thị là đồ má Chó dù có đấu đá chẳng bẻ cổ đập đầu Rủi mắc bệnh xà mâu chúng cũng không thèm giấu * Loài quỷ đỏ khát máu thích xâu xé anh em Khủng bố trong bóng đêm chỉ có dòng chó má Xích quỷ thèm thịt cá chúng đả cả đệ huynh Lăm le toan đánh rình BẮC KINH tính bành trướng * “Tôi có một giấc mơ : bộ đội đã sát nhân Vì lầm cho rằng xung quanh mình toàn chó chỉ mỗi bọ mạ là : NGƯỜI” Cái bát đựng cơm cái nơm đơm cá Bầy lũ chó má đá bát đạp nơm Vài anh hùng rơm BA ĐÌNH thơm miệng Không dám lên tiếng sợ viếng HOÀNG SA * Hạm chiến TẦU qua quân ta nín địt HÀ NỘI bị thịt kín kẽ che tai Bịt mắt quý ngài chân dài váy ngắn Nước non cay đắng biển mặn trên môi Nương rẫy núi đồi mời tư bản đỏ “Con khỉ đầu chó đít thỏ lưu manh đòi hỏi tàu nhanh tanh banh PẮC PÓ Lục lâm lo ló dọn cỏ miền nam thảo khấu không kham nhờ hàm cướp tổ” * THANH TÂM THANH * Thương quốc gia tâm thanh không ngon giấc Giận nước nhà tư bản đỏ nhiễu nhương Một bầy thái thú vô thường Giống dòng chó má tai ương đồng bào * Người yêu nước chịu lao lung thống khổ Kẻ sát nhân vẫn hí hững nghênh ngang Bà con cô bác xóm làng Chưa cùng nhau diệt VIỆT gian bạo tàn * THĂNG lớn chức to hàm tư bản đỏ DOAN mồm loa mép giải gái quái thai Dân oan chờ chết dài dài Bởi bầy chém gió khoe tài ăn sương * Gái đứng đường cương ma cô hè phổ Hỗ tương nhau ủy viên đảng trung ương Mưu sâu kế hiểm trên giường Gây nên bao cảnh tang thương quê nhà * BỐN LỀ LƯỠNG LỰ * Đây đóa kì hoa kia bầy TẦU cộng Biển đông dậy sóng hóng hớt bên nào Cờ đỏ vàng sao xương thịt đồng bào Cải cách ruộng đất máu đào tạo ra Nước nhà những bãi tha ma Trần Dân Tiên cảnh can qua thế này * “Đàn bà con trẻ nín địt nói khẻ Khoe mẽ la to đảng có hỏa lò tro người yêu nước” * Ba mươi sáu chước cất bước ra đi bè lũ vô nghì đại tư bản đỏ Một thằng chém gió cả họ thượng phong đôi vẹm động phòng trời trồng bá tánh HÀ NỘI trúng mánh vây cánh tay sai tên nào khó xài ra oai hốt hết Một đồng chí chết mệt cả trung ương bầy sâu trong vườn khẩn trương thượng tướng * Hội nghị bảy nướng trong trướng vài em mắt mũi lèm nhèm hom hem trọng lú Khinh chú ba dơ bất khả trở cờ không ngờ thợ thơ ngay đơ cán cuốc Một thằng bị luộc cả duộc được nhờ sữa cặn thừa bơ phơ nhau thoải mái Nhiều con vẹm cái gãi háng lăn tăn nhổ sợi lông măng mừng sinh nhật BÁC LUẬT RỪNG ĐẢNG BẢO * Pháp luật nào đổ tiền vào tư túi Pháp luật nào chiếm núi bạc rừng vàng Pháp luật nào đông hải phải oán than Luật pháp ấy luật rừng hay luật đảng * Pháp luật nào xúi công an lấy mạng Pháp luật nào tư bản đỏ bảo kê Vì túi tham công lý bỏ lời thề Pháp luật ấy luật rừng hay luật đảng * Pháp luật nào bày ra trò “kách mạng” Pháp luật nào cho chó má dẫn đường Pháp luật nào tàn phá cả quê hương Pháp luật ấy luật rừng hay luật đảng * Pháp luật nào cấm nhân dân trong sáng Pháp luật nào tự phát xã hội đen Đày dân oan vào ngõ tối không đèn Luật của đảng luật rừng bưng pháp rú * ĐẢNG ĐỘC NHẤT * Từ tài sản tính mạng đến nhà cửa ruộng vườn Kể cả chuyện yêu thương dân chỉ được quản lý Đó mới là chân lí bố láo Hồ chí Minh Khi quyết định cướp rình nước VIỆT NAM yêu dấu * Chọn giống dòng khát máu Bác dụ nhập đảng viên Lâu la nào không chuyên cấm vào trung ương đảng Bác bày duyên “cắt mạng” đảng tối thượng tà quyền Bác bất cần lời khuyên khi cải cách ruộng đất * Đảng bá đạo duy nhất dân chất chứa căm hờn Thử xem phe nào hơn mặc dân oan thắc mắc Mạng dân đảng còn cắt huống hồ chi cát đất Bác phân cho lính lác đạo đức TRẦN DÂN TIÊN * Mặc thế giới giật mình nhân quyền do đảng quyết Thuyết cộng sản tam vô bầy cá vồ hăng tiết Tự do dân chủ diệt giết luôn cả họ hàng Mặc dân đen khóc than bầy sói lang đảng bảo BỌ MẠ VIỆT NAM ANH HÙNG * Tay mạ bưng chiếc mủng , đít thủng buộc ràng thun Hay tay mạ run run mả tổ tiên chưa cúng Công an vừa thị chúng đất đai bắc nam trung Đảng chỉ đạo cho dùng không ai được đánh đụng * Tai mạ nghe tiếng súng hồ như trúng sau lưng Đạn xuất từ trong rừng luật không xưng thảo khấu Cởi lai quần còn giấu ruột tượng mạ không giàu Của nả có còn đâu đảng tóm thâu sạch bụng * Đảng xây chỗ thờ cúng đất khó nảy bọ hung Chỉ vài con thạch sùng cắc kè trên bá súng Vai bọ quang đôi thúng đầu kê thêm một thùng Hai chân bọ bung xung thức ăn chung người ngựa * Lũ trẻ con ỉa mửa kê hột vãi lung tung Đất bỗng nảy bọ hung thức ăn chung mèo chó Đảng hỏi trẻ mạ bọ mi mô đồ nhà khó Có khổ cứ xin cho nhà quan của quý đỏ * ĐẠI BẢO QUỐC HẠI * Ngài đại biểu cho ai , ai đặt ngài ngồi đấy Mắt của ngài có thấy dân đen đang bi ai Ai bầu cử các ngài những vua chúa trên ngai Chỉ định ngài ngồi đấy hai mắt ngài có thấy ghế ngài chỉ có oai * Ngài lên tiếng cho ai , ai trả lương cho ngài Chém gió rất giỏi dai ai thèm nghe quý ngài Giữa hội trường quốc hại đại bảo lo thương mãi Quý ngài không tranh cãi dân oan trong tương lai ruộng đất mất dài dài * Các ngài có nói sai chẳng ai thèm sửa chữa Quý ngài cứ làm nữa quốc tế không mắc lừa Các ngài vẫn làm bừa xin hãy chừa chỗ trống Dân oan còn muốn sống dưới cả đống đại gia chăm chút móng hồng gà * Tú ông thông tú bà mại dâm cứ xả ga Bộ xã hội không la đố cha cục nào dám Chó chết cũng làm đám mời hết bọn hám danh Lũ côn đồ lưu manh quen đứng canh ngoài cửa dọn bữa dư luận viên HÀNG NGÀY THẤY CHẾT * Hôm qua mười người chết bữa nay chết hai mươi Ngày mai biết bao người chết chưa phải là hết Chết không biết người cười tử vong tại biếng lười Hay thị chúng đười ươi mặc cuộc đời sống chết * Cứ chém gió mà cười hãy sống đúng loài người Đừng học theo thói lười mười bằng gian học giả Chính trị chớ lơi lả mà cả với dân oan Dù mất đất ba làng chưa đầu hàng độc đảng * Cạn tàu đành ráo máng Trọng lú choảng Ba dơ Hùng Sang cũng bơ phờ sợ đồng chí phơ láng Thế mới là cách mạng sửa soạn tái đổi đời Ai bảo không ngậm môi sau khi ăn cơm hớt * Tám mươi năm lòng HỒNG HÀ vấy bẩn Lũ lụt tràn lấn lướt đáy CỬU LONG Nhị thập niên khói lửa thuyết đại đồng Chợt nhìn lại những dòng sông nhiễm độc * Bọn lú lẫn định đắp mông cao tốc Chí không thành nên chỉ mọc sân gôn Lệnh BA ĐÌNH thái thú buộc dân dồn Kinh tế mới bất khả thông thủy lợi * Điện hạt nhân đám đầu đần tấn tới NHẬT thối lui khi vướng trận sóng thần Cả triệu người đòi hỏi phải cách tân Không liều lĩnh phiêu lưu thêm động đất * Nghị trong phòng nhờ đám đông cùng gật Chẳng mất gì ngoài thất lạc phong bao Đấy là xương là máu của đồng bào Phải tiết kiệm khi cất đầu quy tất * Đảng trộm cướp thanh trừng nhau tối mật Nhiều tay sai không có đất để chôn Tiền chỉa chôm dồn vào quán mộc tồn Hay quá bộ học khôn trong nhà chứa “Phu thê hương lửa đứng giửa hai làng Nước mắt chứa chan xé tan thẻ đảng” HỘI NGHỊ BÀN NGANG * Hội nghị nhân dân đảng quyết rồi Nghị ngồi nghị gật cũng mau thôi Chớ lái sang lề quân phản động Đừng nghe mồm họ tố trên môi * Đảng cử dân bầu y như cũ Dí ân dân ý tại thế thời Băm bảy năm rồi thôi tại NGỤY MỸ đi TẦU đến lại trò chơi * Đồ tể ba đời còn xông xáo Anh nào chém gió giỏi lên ngôi Chớ chĩa xâu xa vào thế sự Không chìa tri thức cỗ mâm mồi * Hùng Dũng Tấn Sang ngu lú dại Bốn tên quái thú chủ trương lời Kĩ luật bao che cho đệ tử Khử nhanh nhốt gọn bọn đâm hơi * CÓC HỘI GHẾ DỌC * Thời sự loanh quanh Đại bảo có quyền tranh với cãi Nguyên nhân thương mãi Quý anh tài từng trải vẫn đói no Nhân dân nằm co Cóc hội cứ mò kho thủ tướng Quần chúng đòi nướng Hãy thượng tên tổng bí thư Khói lửa mịt mù Nhớ “mút cu va” “hoa thịnh đốn” Đồng chí đổ đốn Trước tiên trị đồ khốn CÁC CHÚ TẦU phù Cấm dân viễn du Hãy bỏ chữ địch thù trong tư tưởng TRẦN DÂN TIÊN hưởng Một chút mưa móc thóc giống của thế nhân Tứ trụ đầu đần Nắn gân nhiều anh phân vân lề dân lối đảng * SINH NHẬT HỒ TẬP CHƯƠNG * Bắc Kinh mẫu quốc dẫn đường Hóa trang Hồ cáo Tập Chương hợp thời Cha già dân tộc thảnh thơi Vào hang CỐC PÓ ăn chơi đã đời Năm canh thao thức không ngơi Tuyển bầy hộ lí lả lơi gối hầu Tình tang dạo khúc cắm câu Ca nương gõ nhịp cô đầu chầu văn * Trung ương gãi dái lăn tăn Chiếu chăn của nả lai căng NGA TẦU Quân ta nón cối dép râu Thiếu cân sức mấy dám bâu theo ruồi Xuân khu thọ duẩn vuốt đuôi Trường chinh mất cuộc “bầu đuồi” ruổi dong Đợi chờ hưởng sái đừng hòng May ra mục sở thị mông quan bà * Trên giường thủ lãnh hái hoa Ban chấp hành cũng xuýt xoa ngoài hè Hồ như thí chốt bắt xe An ninh bảo vệ tai nghe khò khè Gà rừng chợt gáy te te Canh ba giờ tí đòn đè chọi nhau Trần truồng chủ tịch đỏ đầu Mỹ nhân dang cánh đen màu khẩu dâm * Phụng loan giao hợp sắc cầm Hay con chèo bẻo ó đâm lộn lèo Xót xa thay lũ chồn cheo Muỗi bâu sưng thịt sương đèo teo da Vu sơn tuyệt đỉnh cha già Xung phong trai gái lá đa hộ phòng Trong hang nổi trận cuồng phong Hay nàng Nùng đánh “pinh pong” hai hòn * “Tiêu đêm một món ăn ngon Bùi bùi béo béo giòn giòn don don Còn hơn thưởng thức mộc tồn Khúc dồi đại vĩ linh hồn dã nhân” * HỒ BẤT MINH NGÀY SINH * Khi phó nháy PARIS lúc WASHINGTON rải dứa Nguyễn Sinh Cuông bất hứa quỷ kiến sầu Quê hương tổ quốc nơi đâu Miễn là được chủ tóm thâu tận dùng Khách lãng du dụ con cù dân chủ Không máu mủ cũng đồng chí anh em Làm chơi ăn thật để xem Thằng nào nổi gió tắt đèn non sông * Mộng đại đồng vần công bình thiên hạ Quân chết tá lả như lá mạ mùa thu Hồ không đi học chữ nhu Qua NGA XÔ học “mút cu” hành nghề Băm sáu chước Hồ đam mê độc cước Chân thứ ba hạ thủ bốn năm bà Kì nhân đệ nhất TRUNG HOA Mỹ nhì tam “Phú Lang Sa” hảo cầu * Đi về đâu quê hương không biên giới Tổ quốc nào cho kẻ thích tam vô Thà như một lũ cá vồ Dưới hầm cầu tõm đợi vồ phân rơi Đất ngoại bang chẳng mời Hồ cũng đến Chủ không mến khách Lin cũng xông vào Phải chăng chết sặc thuốc lào Ngồi trong khám tối lén đào điếu lên * Lưu manh trộm tập lao trung nhật kí Thơ Lý Thụy bạn mao xí biệt phòng Gây nên một trận cuồng phong Tổ MAO thánh MÁC thông dòng LÊ NIN Cờ búa liềm không thiêng liêng bất phất Giáo bạch mi chết con chị còn em Mía ngon cả bụi ăn quen Giết XUÂN đâm xác lệnh chen thị VÀNG * Cáo hồ tử thỏ chồn cheo khó xử Quốc khánh ngày lâu la cử phát tang Không thân tộc chẳng họ hàng Bà con nội ngoại điêu tàn từ lâu * NGÀY TRẦN DÂN TIÊN SINH * Vừa đi vừa kể chuyện , luyện hấp tinh đại pháp : cả đàn gà mái đạp Bác mặc tình thao tác , Nông Trưng ngừng thâm Ngát : nhiều đêm cũng xơ xác Gió mùa thu xào xạc , thì thào bọn lính lác : đạt thị lỗ Đỗ Lạc Hồ mây trôi bèo dạt , còm cỏi đôi gối hạc : khổ công Bác hốc hác * Hang PẮC PÓ hoan lạc , bầy hộ lí khao khát : sa trường quân tiếu mạc Băm sáu kiểu to tát , lộn lèo cũng chẳng khác : chỉ trừ không tấu nhạc Bác vác cày tam giác , gậy trường sơn như tạc : sức mấy đòi đổi chác Mảnh sơn hà tan nát , khúc đại du ào ạt : thanh thiếu nữ ngơ ngác * Bằng bằng trắc , trắc bằng bằng nam tiến Bông bập bông , bông bông bập SÀI GÒN Có còn ai không tin thuyết đại đồng “Giết giết nửa bàn tay không ngơi nghỉ” * Bập hoa hồng công an còn lừa đĩ Huống hồ chi điếm khủng sản đại gia Lũ BA ĐÌNH tứ trụ dụng quyền tà Bông bông bập biển đông không lay chuyển * Ba triệu đứa đảng viên Hồ linh khuyển Tuyển ngoài vòng luật pháp của nhân dân Xã hội đen định hướng được cầm cân Bọn đầu trộm lưu manh đuôi thảo khấu * Trang sử xanh tụi giả sư cất giấu Hồ Tập Chương đám khủng bố không rành Tám mươi năm vẫn lường gạt trẻ ranh Học học nửa giáo búa liềm lê mác * Biện chứng duy vật quăng vào sọt rác Xác côn đồ phạm húy hủy khô thi Mộng thiên niên vạn tuế chẳng ra gì Quỷ loạn thế NGƯỜI TRẦN DÂN TIÊN ác * Xướng tự sướng ai khôn liền bằng Bác Phê cùng phê đám đại biểu cậm ngu Đập dân oan dễ hơn đánh kẻ thù Bất tín nhiệm X thua bè chủ tịch * TÂM THANH

----------------------------------------------------------------------------------

Lê Ðắc
Cuối tuần chẳng đậy chẳng che* Ngã ba sung sướng no hair háng lòi* Ngồi cười đứng khóc bi ai* Ði thì bẩm bẩm chửi hoài dép râu* Già Hồ thơ thuổng của Tầu* Trần Dân Tiên viết từ lâu lắm rồi* Hậu duệ cháu “bác” khen hoài* Thất ngôn bát cú “bác” thời khỏi chê* Lục bát “bác” viết ê hề* Rảnh rang khoe đĩ gái sề đêm Thu* Thế là “bác” lại bốn lù* Tim la dính chấu sưng cu buồn rầu* Lậu mủ tiếp diễn theo sau* Péciline chích riết qua cầu hết luôn*

----------------------------------------------------------------------------------

Comment




  • Input symbols

Nữ sĩ HỒ XUÂN HƯƠNG MỘT THIÊN TÀI NHƯNG BẤT HẠNH

Nữ sĩ nổi tiếng một thời được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1) Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh - Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong Đàng ngoài, lấy sông Linh Giang làm biên giới từ những năm 1627 đến 1772.
Nữ sĩ HỒ XUÂN HƯƠNG MỘT THIÊN TÀI NHƯNG BẤT HẠNH
Nguyễn Quý Đại



Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai...
Giấc mộng con của Tản Đà

Dân tộc Việt Nam luôn chiến đấu dành độc lập, tự do, mở đầu cuộc khởi nghiã của chị em Hai Bà Trưng (40-30 trước công Nguyên) và Bà Triệu (năm 248) để lại những chiến tích oai hùng. Những người không cầm gươm, đao xông pha nơi chiến trận, thì cầm bút đóng góp cho nền văn hoá dân tộc những nhà thơ nữ nổi tiếng như : Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công Chúa với Ai tư vãn... Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh. Nữ sĩ nổi tiếng một thời được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1) Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh - Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong Đàng ngoài, lấy sông Linh Giang làm biên giới từ những năm 1627 đến 1772.

Hồ xuân Hương sinh năm (1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai : Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ năm đời (3)

Hồ Xuân Hương và thân phận

Ông Hồ Phi Diễn thi đỗ Tống Sinh làm quan cuối thời đại vua Lê. Ông đã lập gia đình nhưng cưới thêm vợ thứ quê Hải Dương, sinh ra Xuân Hương. Lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, Xuân Hương rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian phải ở nhà giúp mẹ lo sinh sống gia đình. Xuân Hương tự học thêm, thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Có Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hoà tục gọi là Tổng Cóc ở làng Tứ Xã (nay thuộc huyện Phong châu - Vĩnh Phú). Cai Tổng mến tài của Xuân Hương, nhờ người mai mối cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Theo tục truyền chiều 30 tết, Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ bị Hồ Xuân Hương ra câu đố.

"Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới"

Sáng hôm sau, Tổng Cóc đến làm xong thủ tục xông nhà đọc lại câu đối

"Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào"

Có thể Xuân Hương mến mộ chàng trai nầy có khiếu văn chương? nên nhận lời kết hôn với Tổng Cóc. Theo tài liệu của Giáo sư Lê trí Viễn (4), Tổng Cóc không phải là một anh trọc phú, mà là một nho sĩ từng có phen lều chõng như ai và trong sự gặp gỡ Xuân Hương có chuyện chữ nghiã chứ chẳng phải chỉ có đồng tiền... " Tổng Cóc yêu thương Xuân Hương và từng bảo nàng làm thơ viết vào gỗ để người ta sơn then giữ cho bền, hiện nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương huyện Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Bút tích còn 4 câu thơ :

Thảo lai băng ngọc kính
Xuân tận hoá công hương
Độc bằng đan quế thượng
Hào phóng bích hoa hương

tạm dịch

Nói đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm (5)

Tình yêu giữa hai người không được bao lâu trong hoàn cảnh gia đình mà người chồng yếu đuối, Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng... không tránh được va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến "Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu" Xuân Hương bị gia đình bên chồng đè nén với thân phận làm lẽ. Nên đã phản kháng quyết bỏ nhà ra đi. Thân phận của Xuân Hương cũng như hoàn cảnh cua kiếp đàn bà làm lẽ mọn :

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung !
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong
Ca dao cũng có bài

Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn...

Từ giã gia đình Tổng Cóc đi tìm phương trời thơ mộng tự do hơn, vốn người yêu thơ văn lãng mạn muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường, tình yêu được trân quý hơn, nên Xuân Hương làm bài thơ giã từ "khóc Tổng Cóc".

Chàng Cóc ơi ! Chàng Cóc ơi !


Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé

Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

Bài "khóc Tổng Cóc "gây nhiều dư luận trong văn học, những người ở Làng Mương, làng Giáp nói bài thơ đó là khóc cho mối tình của Xuân Hương, không phải khóc người chồng đã mất, bởi vì Xuân Hương từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ lẽ trong gia đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Tổng Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi... để giễu lúc Tổng Cóc còn sống, Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng trong cảnh lẽ mọn không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư

Rằng tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
Kiều cuả Nguyễn Du

Thời gian chung sống tri ngộ ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú bây giờ) tuy làm vợ lẽ nhưng ông Phủ coi nàng là bạn văn chương tình duyên không đến nỗi bẽ bàng. Nhưng tình nghiã vợ chồng chỉ trong 27 tháng ông Phủ mất, Xuân Hương đã khóc chồng. Cuộc đời Xuân Hương về tình duyên bất hạnh.

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi !

Cuộc đời Xuân Hương có thể "bảy nổi ba chìm” qua hai đời chồng hy sinh cả đời chịu thân phận làm lẽ mọn, nỗi khổ đau cũng là niềm dang dở cái mối duyên thiên, duyên trời nào có phải là hậu qủa oan nghiệt của con nguời như "chữ tài liền với chữ tai một vần" !

Thơ và bạn đời

Tập thơ Lưu Hương Ký chú dẫn: Hoan Trung Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương nữ sĩ sử tập Lưu Hương Ký viết xong năm Giáp Tuất (1814) mãi đến năm 1964 được phát hiện (?). Tên di cảo có nghiã là ghi mùi hương thơm của ngọc lưu, chữ Lưu này nhắc nơi Xuân Hương sinh ở huyện Quỳnh Lưu. Trong tập thơ có 30 đầu đề ; 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm, phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết, nồng nàn yêu đương mong đợi. Ở Cổ Nguyệt Đường do Xuân Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ. Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương rất nhiều bài gợi cảm, lãng mạn với những văn nhân thi sĩ như (trích dẫn mỗi người một tựa đề) :

Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) bài: Cảm cựu Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không ?
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sưong đeo mái
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng treo...

Xuân Hương với Tốn Phong hai bài : Ngụ ý đến Tốn Phong Thi" v v...

Đường hoa diù dặt bước đông phong
Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công
Lạ mặt dám quen, cùng gió nước
Nặng lòng nên nhẹ đến non sông
Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc
Phòng gấm trăng in dải thức hồng
Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ !
Trước trăm năm hẳn nợ chi không ?

Xuân Hương với Hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần Ngọc Quán....

Vác cắm đàn tao một ngọn cờ
Ấy người thân đấy, phải hay chưa ?
Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu
Giắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình nguyệt góp người chung đỉnh lại
Trời Hoan mỏ mặt nước non xưa
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá ?
Thèo đảnh khen ai khéo đạt cho!

Xuân Hương với Mai Sơn Phủ" Hoạ thơ Sơn Phủ" bài thơ bằng Hán văn gởi bạn tỏ lòng quyến luyến nhớ thương. khoảng thời gian (1799- 1801)

Này đoạn chung tình biết với nhau
Tiễn đưa ba bước cũng nên câu
Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
Trước mặt đi về gấp bóng câu
Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm
Này bạn chung tình biết với nhau...

Xướng họa với Chiêu Hổ tức Phạm đình Hổ (1768-1839) đối thủ với Hồ Xuân Hương

Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay...

Xuân Hương trải qua nhiều kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về ái tình để rồi "quang cảnh trong đời chiếc gối mơ!” đời sống phóng túng của Xuân Hương để nhận lấy lời phê bình "tự thán"

Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay

Sau khi viết xong tập Lưu Hương Ký (1814), bảy năm sau (1822) Xuân Hương mất, nhưng mộ bà được táng ở đâu? ngày nay vẫn chưa tìm được tung tích, chắc chắn cũng ở quanh Hà Nội ? năm 1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương "Long Biên trúc chi từ" bản dịch ra Việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn

Đây hồ rực rỡ hoa sen
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gío xuân mấy độ thế tình không hay !!

Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến "nhất nam viết tử thập nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn

Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

Hồ Xuân Hương thông minh, có tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là "lẳng lơ"! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ :

Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ?

Dưới xã hội thời phong kiến người ta quan niệm "trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng" Xã hội bất công ! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng... Nhưng Xuân Hương đã muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay :

Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai ?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.

Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điễn tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ.

Đọc bài "Ngủ quên" như xem bức tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động.... cảm thấy rung động nghệ thuật trước hình ảnh đẹp lành mạnh.

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.

Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục... Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài... Nhóm khác phê bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén "Libido"... Bài thơ đầu đề không được thanh "Dương vật" Hồ Xuân Hương tả rất hay

Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen

Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng?... Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh... những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian.

Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.


Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường

Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
(Ca dao)

Đời sống qua thi ca bình dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu cày hút thuốc người bình dân.

Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
(Ca dao)

Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn tả lại chuyện tình dục trong khuê phòng,

Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ

hoặc

Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà


Đủ ngần ấy nếp mới là người soi


Hay Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh

Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay

Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái "tục" trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ sau để so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ

Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Huyện Thanh Quan

Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán

Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia

Nghiã là

Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia

Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ

Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc


Đầm đià lá liễu giọt sương rơi

Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo


Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, "một đèo, một đèo lại một đèo" từ màu sắc "cửa son đỏ lóet; tùm hum, xanh rì; lún phún; lắt lẻo"... Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu đi qua đèo thi độc giả chia sẻ với thi nhân Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc, thông thường ít nghe diệp âm "hõm hòm hom, toen hoẻn... " trong bài vịnh hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm


Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương ! là một thiên tài cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước... vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân trong động hương khói pha mờ mù sương.

Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm....

Bài "đánh đu" bức tranh quê sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá ?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không !

Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập

Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không.

Ngày nay ở miền Bắc hội xuân vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón... tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài... gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc

Qua ca dao Việt nam cũng có nhiều bài truyền tụng rất là "tục" như cái vịnh cái quạt

Rành rành ba góc rành rành
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì...

Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát, bất cứ ở đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa.

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa...

Ngành tiểu công nghệ dệt vải thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất vải tốt không phai màu phải ngâm lâu

Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu

Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội; Phật giáo vào thời Xuân Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa... Xuân Hương đã nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo

Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo

Hay qua bài

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà

Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau... trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người

Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt


Khối tình cọ mãi với non sông

Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
(Đá ông chồng, đá bà chồng)

hoặc qua bài tình tự

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.

Xuân Hương vịnh bánh trôi nước quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận? nhưng tấm lòng được tôn trọng

Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được... Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam...

Nguyễn Quý Đại


1/ Chữ Nôm có vai trò nổi bật trong sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân, thi sĩ mọi thời đều đã dùng chữ Hán làm thơ, viết truyện, nhưng chỉ có với chữ Nôm, người Việt mới tạo nên những tác phẩm bất hủ. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất còn lưu truyền là Quốc âm Thi tập của Nguyễn Trãi (1380 - 1420) sau đó là Bạch vân Am quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).

Văn học Việt nam qua các thời đại, chữ Hán các tiền nhân viết những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, còn với chữ Nôm gần như các cụ chỉ làm thơ Sở trường và thành công bằng hai thể thơ giàu dân tộc tính này, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX Văn học cổ điển Việt Nam có những tác phẩm xuất sắc khiến thế giới phải biết đến là Chinh phụ Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748); Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 -1820). Chúng ta còn các tên tuổi sáng giá khác nữa từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX như: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, đặc biệt thơ cuả Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương v.v... Chính nhờ ở những tác giả này, tiếng Việt hấp thụ hai nguồn văn tự là chữ Hán và văn tự văn hóa dân gian, chữ Nôm để trở thành một ngôn ngữ văn học sáng chói và giàu sức diễn đạt

2/ Được dẫn chứng trong Hồ Quỳnh Gia Phả gia phả họ Hồ ở Quỳnh Lưu. Nhưng tác giả Lê Xuân Sơn viết trong tập " Hồ Xuân Hương thơ và đời viết "HXH con ông Hồ sĩ Danh (1706-1783) em cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống (1738-1786) là một vị quan đầu triều thời chuá Trịnh ?

3/ Những kỳ Án trong việt sử T.giả Trần Gia Phụng

4/( Hồ Xuân Hương thơ và cuộc đời trang 206) nhà xuất bản văn học.

5/ Theo phóng sự Hồ X Hương và Tổng Cóc (Nguyễn Hữu Thanh)
Tài liệu đọc thêm : Hồ Xuân Hương toàn tập của Gs Ngô lăng Vân; nghĩ về thơ HXH.cuả Gs Lê Trí Viẽn, Ng Đức Quỳnh....

 DoDom Chuyển

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm