Văn Học & Nghệ Thuật
Qua" Và "Bậu" Trong Văn Thơ Miền Nam
Hai đại từ xưng hô “qua”, “bậu” đã ăn sâu vào đời sống của người dân phương Nam, chẳng những thường thể hiện trong ca dao mà còn trong văn thơ:
...Dân rằng: „Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành“...
(Bậu ở đây là Lục Vân Tiên trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu)
... Tú Phan nói chưa dứt lời thì lại thấy họ khiêng về một bộ tranh cẩn với một cặp lục bình lớn và đưa một phong thơ nữa. Tú Phan xé thơ coi rồi cười mà nói với mấy người kia:- Mấy em về nói qua cám ơn ông Bá hộ nha! ...
(Nhơn Tình Ấm Lạnh, Hồ Biểu Chánh (1925))
Có dạo người dân, trong ý trêu cợt lối viết văn rặt Nam Kỳ, đặt câu sau:“Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà qua qua“.
Sau đây vài thí dụ trong những bài ca dao đã sưu tầm:
1. “Bậu” trong tâm tình nhớ thương:
Ngó lên Hòn Kẽm đá dừng
Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bậu ơi
Bướm xa hoa bướm lại dật dờ
Anh xa xôi bậu đêm chờ ngày trông.
(Hòn Kẽm: địa danh miền Trung)
Bước sang canh một, anh thắp ngọn đèn vàng
Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời,
Canh hai vật đổi sao dời,
Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung.
Canh ba cờ phất trống rung
Mặc ai ai thẳng ai dùn mặc ai
Canh tư hạc đậu cành mai
Sương sa lác đác khói bay mịt mờ
Canh chầy tơ tưởng tưởng tơ
Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.
2. “Bậu” trong trách móc:
Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chùa Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua?
3. “Bậu” trong trêu chọc:
Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng:
Chữ đề tên bậu, không chồng có con.
Bậu đừng lên xuống đèo bồng,
Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan.
4. “Bậu” trong sự hóm hỉnh:
Bậu để chế cho ai, xé anh một nửa,
Bậu để chế cho chồng, châm lửa đốt đi.
Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Chiều nay qua phản hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào
Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông.
Từ một đại từ và một danh từ bình thường, sau một tiến trình hội nhập hoặc nhớ lại, „qua“, „bậu“ đã trở thành hai đại từ độc đáo của lứa đôi, phưởng phất thi vị với nghĩa súc tích hơn và ngôi thứ được xác định rành rẽ hơn từ gốc (Hoa, Mạ). Hai đại từ này phổ biến giới hạn ở vùng đất Phương Nam, vì ở đây số người Việt và người Hoa hầu như tương đương nhau trong thời di dân lập ấp và người Mạ là chủ đất cũng còn đông đảo. Khi người Việt quay về với ngôn từ thống nhất, hai đại từ này cùng với một số không ít từ ngữ hội nhập - đã đóng vai trò nhịp cầu của giai đoạn sơ khai, nhịp cầu nối liền những dân tộc cùng chung sống trong một vùng đất, là phương tiện viễn thông ngôn ngữ trong lịch sử hội nhập miền Nam - đã “chết” và đã trở thành dĩ vãng!
Phan Tấn Tài
|
Bàn ra tán vào (0)
Qua" Và "Bậu" Trong Văn Thơ Miền Nam
Hai đại từ xưng hô “qua”, “bậu” đã ăn sâu vào đời sống của người dân phương Nam, chẳng những thường thể hiện trong ca dao mà còn trong văn thơ:
...Dân rằng: „Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành“...
(Bậu ở đây là Lục Vân Tiên trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu)
... Tú Phan nói chưa dứt lời thì lại thấy họ khiêng về một bộ tranh cẩn với một cặp lục bình lớn và đưa một phong thơ nữa. Tú Phan xé thơ coi rồi cười mà nói với mấy người kia:- Mấy em về nói qua cám ơn ông Bá hộ nha! ...
(Nhơn Tình Ấm Lạnh, Hồ Biểu Chánh (1925))
Có dạo người dân, trong ý trêu cợt lối viết văn rặt Nam Kỳ, đặt câu sau:“Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà qua qua“.
Sau đây vài thí dụ trong những bài ca dao đã sưu tầm:
1. “Bậu” trong tâm tình nhớ thương:
Ngó lên Hòn Kẽm đá dừng
Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bậu ơi
Bướm xa hoa bướm lại dật dờ
Anh xa xôi bậu đêm chờ ngày trông.
(Hòn Kẽm: địa danh miền Trung)
Bước sang canh một, anh thắp ngọn đèn vàng
Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời,
Canh hai vật đổi sao dời,
Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung.
Canh ba cờ phất trống rung
Mặc ai ai thẳng ai dùn mặc ai
Canh tư hạc đậu cành mai
Sương sa lác đác khói bay mịt mờ
Canh chầy tơ tưởng tưởng tơ
Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.
2. “Bậu” trong trách móc:
Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chùa Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua?
3. “Bậu” trong trêu chọc:
Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng:
Chữ đề tên bậu, không chồng có con.
Bậu đừng lên xuống đèo bồng,
Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan.
4. “Bậu” trong sự hóm hỉnh:
Bậu để chế cho ai, xé anh một nửa,
Bậu để chế cho chồng, châm lửa đốt đi.
Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Chiều nay qua phản hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào
Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông.
Từ một đại từ và một danh từ bình thường, sau một tiến trình hội nhập hoặc nhớ lại, „qua“, „bậu“ đã trở thành hai đại từ độc đáo của lứa đôi, phưởng phất thi vị với nghĩa súc tích hơn và ngôi thứ được xác định rành rẽ hơn từ gốc (Hoa, Mạ). Hai đại từ này phổ biến giới hạn ở vùng đất Phương Nam, vì ở đây số người Việt và người Hoa hầu như tương đương nhau trong thời di dân lập ấp và người Mạ là chủ đất cũng còn đông đảo. Khi người Việt quay về với ngôn từ thống nhất, hai đại từ này cùng với một số không ít từ ngữ hội nhập - đã đóng vai trò nhịp cầu của giai đoạn sơ khai, nhịp cầu nối liền những dân tộc cùng chung sống trong một vùng đất, là phương tiện viễn thông ngôn ngữ trong lịch sử hội nhập miền Nam - đã “chết” và đã trở thành dĩ vãng!
Phan Tấn Tài
|