Khoa Học Thực Nghiệm & Tâm Linh
Quẻ Dịch Cách Lập Và Giải Đoán - Nguyên Lạc
Nguyên Lạc
Quẻ Dịch
Cách Lập
Và Giải Đoán
(Bài 1)
Cẩn báo: Cụ Nguyễn Hiến Lê có nói: "Muốn học điều gì thì hãy viết về điều đó". Theo tinh
thần đó, chúng tôi đang học về Kinh Dịch, nên xin viết ra đây những gì mình đã học được từ người xưa, từ các bậc tiền bối... Xin hiểu cho, đây chỉ là những ghi chép vụn vặt trong quá trình học hỏi, nên chắc nó sẽ có rất nhiều thiếu sót, mong các bậc cao minh bỏ quá cho! Nếu các bạn tìm thấy có ít nhiều điều hữu ích thì tốt, còn nếu không, coi như " Mua vui cũng được một vài trống can
Ở đời muôn sự của chung
Hơn nhau ở chỗ biết dùng hay không!
Dẫn nhập: Bói Dịch không phải là mê tín, nó là khoa học. Có thể gọi là khoa học huyền bí. Vì vậy, Tiến sĩ Phân tâm học C.G. Jung ( ông cùng với S. Freud là một trong những thủy tổ của khoa Phân Tâm Học, nghiên cứu về tiềm thức của loài người) năm 1949 đã dùng bói Dịch để biết việc quảng bá và giới thiệu Dịch (I Ching) từ tiếng Đức sang tiếng Anh có đuoc thuận lợi hay không?. Bói được rất tốt, ông tiến hành và Dịch đã trở thành kinh điển cho các học giả và các trường đại học Tây Phương học hỏi!
Có 2 lý do để tôi viết bài này:
1/ Chúng ta chỉ sợ những gì mình không hiểu. Thí dụ như sợ Ma, vì chúng ta không biết rõ Ma là gì?. Nếu biết thì sẽ không sợ. Cũng vậy, chúng ta sợ chết, vì không biết chết ra sao, sau khi chết như thế nào?. Nếu chúng ta biết rõ thì chắc chúng ta cũng sẽ không sợ. Đó là lý do Phật giáo khuyên
chúng ta nên tìm hiểu về sự chết (Tử)
Tôi viết bài này mong độc giả tìm hiểu rõ về Bói Dịch, không sợ nó nữa, để các ông thầy Bói toán, Phong thủy (giả), vì tư lợi, không còn
"hù" ta được nữa. Bói Dịch mà vì tư lợi sẽ không bao giờ linh ứng
2/ Kinh Dịch là 1 trong 5 Kinh
chính của triết lý Đông Phương.
Các nhà trí thức (nho gia) xưa phải lào thông nó
mới có thể đi thi. Điều đó chứng tỏ nó rất quan trọng. Bói Dịch rất khó hiểu đối với các người trẻ, người mới bắt đầu. Ngay cả sách được cho là kinh điển của cụ Ngô Tất Tố, phần giải thích về bói cũng rất khó hiểu. Tôi mong làm
nó đơn giản, dễ hiểu hơn, giúp cho các bạn trẻ , ai muốn tìm hiểu, sẽ dễ dàng hơn, hầu mong giữ gìn những quý giá của ông cha
không bị mai một!
Lại nữa, ý của Dịch cho rằng con người tự mình vẫn có thể sửa đổi được số mạng của mình một phần nào. Thế thì tại sao chúng ta
không tự tìm hiểu, tự bói quẻ tìm phương thức đối ứng, mà phải nhờ người khác làm cho mình? Có biết chắc họ thật sự là bậc Thức giả không? Ở đời, biết đâu hư biết đâu thực, biết đâu chân biết đâu giả!
(Nguyên Lạc)
NHẬP MÔN KINH DỊCH
ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẺ DỊCH
Kinh Dịch
Kinh Dịch là một trong ba bộ kinh cổ nhất của Trung quốc, sau Kinh Thi và
Kinh Thư, nhưng nguồn gốc của nó (tức bát quái) thì có
thể sớm hơn, vào cuối đời Ân, khoảng 1.200 năm trước
Tây Lịch.
Nó không do một người viết, mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán.
Điều kỳ dị nhất của Dịch là nó chỉ dựng trên thuyết âm dương, trên một vạch liền ____
tượng trưng cho dương, một vạch đứt __ __ tượng trưng cho âm. Hai vạch đó chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới: Lục thập tứ quái.
Dùng sáu mươi bốn hình này, người
ta diễn được tất cả các quan niệm về vũ trụ, nhân sinh. Từ những hiện tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên cho tới những công việc thường ngày như
trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi, ăn uống, xử thế...
-- Mới đầu chỉ có lưỡng nghi:
dương (vạch liền:
___ ) và âm (vạch đứt: _ _ )
-- Bên dương, nếu lấy dương chồng lên dương, rồi lấy âm chồng lên dương, chúng ta sẽ được hai hình tượng:
- (vạch dương/ vạch dương): thái dương
- (vạch âm/ vạch dương): thiếu dương
Bên âm cũng vậy, nếu lấy âm chồng lên âm, rồi lấy dương chồng lên âm, chúng ta
sẽ được hai hình tượng nữa:
- (vạch âm/ vạch âm): thái âm
- (vạch dương/ vạch âm): thiếu âm
Như vậy được bốn hình tượng, gọi là tứ tượng.
Tứ tượng có tên: Thái dương, thiếu dương, thái âm,
thiếu âm
-- Sau cùng, lấy dương lần lượt chồng lên cả bốn hình trên, chúng ta sẽ được 4 hình:
Ly (Li) , Càn (Kiền) , Tốn , Cấn.
Rồi lấy âm lần lượt chồng lên cũng cả bốn hình đó, chúng ta sẽ được thêm 4 hình nữa:
Chấn , Ðoài (Đoái) , Khảm , Khôn.
Hình 1: Sự hình thành bát quái
Như vậy được hết thảy 8 hình gọi là bát quái (tám quẻ). Mỗi quẻ có 3 vạch (gọi là 3 hào), xuất hiện lần lần từ dưới lên
trên. Cho nên khi gọi tên hào, khi đóan
quẻ, phải đếm và xét từ dưới lên
trên: Hào dưới (cũng là hào 1), rồi lên hào 2, hào 3...
Bát quái:
Ý nghĩa của Bát quái... : Số của Bát quái - Hành
☰ : Càn (hay Kiền) vi thiên là trời có đức cứng mạnh, là đàn ông: 1 - Kim
☷ : Khôn vi địa là đất, có đức nhu thuận, là đàn bà : 8 - Thổ
☲ : Ly vi hỏa là lửa, sáng: 3 - Hoả
☵ : Khảm vi thủy là nước, hiểm trở: 6 - Thuỷ
☶ : Cấn vi sơn là núi, yên tĩnh: 7 - Thổ
☱ : Đoái (hay Đoài) vi trạch là chầm (đầm), vui vẻ: 2 - Kim
☴ : Tốn vi phong là gió, vào: 5 - Mộc
☳ : Chấn vi lôi là sấm, động: 4 - Mộc
Các bạn phải thuộc rõ 8 hình trên, trông thấy hình nào, thì phải gọi được tên của nó. Ngược lại hể nghe thấy nói tên quẻ nào, thì phải vẽ ngay được hình nó.
Bạn có thể theo cách
này:
Trước hết chúng ta bỏ qua quẻ Càn và quẻ Khôn đi, vì ai cũng cũng nhớ ngay rồi, còn lại 6 quẻ:
- 3 quẻ có 1 hào âm (một vạch đứt): quẻ Ly, quẻ Đòai, quẻ Tốn.
- 3 quẻ còn lại Khảm, Cấn, Chấn đều có một hào dương (một vạch liền).
Chúng ta chỉ cần nhớ vị trí ba vạch đứt trong 3 quẻ có 1 hào âm thôi:
- Quẻ Ly là lửa thì vạch đứt ở giữa: Như hình miệng lò.
- Quẻ Đòai là chầm (đầm) thì vạch đứt ở trên cùng: Như chỗ trũng trên mặt đất.
- Quẻ Tốn là gió thì vạch đứt tất phải ở dưới cùng: Vạch đứt (âm) đó tượng trưng
sự mềm mại, dịu dàng của gió.
Nhớ như vậy rồi thì vẽ được ba quẻ đó, vì hai
hào kia của mỗi quẻ là vạch liền (dương).
Vẽ được 3 quẻ đó rồi thì vẽ được ba quẻ trái với chúng về ý nghĩa cũng như về các vạch:
- Khảm (nước) trái với Ly (lửa), thì gồm một vạch liền (dương) ở giữa còn lại hai vạch kia đứt
- Cấn (núi) trái với Đòai (đầm): núi nổi lên trên mặt đất, đầm trũng xuống, thì gồm một vạch liền (dương) ở trên cùng, còn lại hai vạch kia đứt (âm).
- Chấn (sấm): trái với Tốn (gió): Chấn (sấm) động mạnh, còn Tốn (gió) thổi nhẹ thì gồm vạch liền (dương) ở dưới cùng, còn lại hai vạch kia đứt (âm).
Trùng quái:
Chúng ta biết lưỡng nghi chồng lên nhau một lần thành tứ tượng, chồng lên một lần nữa là bát quái. Chỉ có 8 quẻ với 24 hào thì không thể diễn được nhiều hiện tượng, sự việc... nên lại phải chồng lên thêm một lần nữa. Lần này không lấy 1 vạch âm haydương như lần thứ nhì, mà lấy trọn một quẻ chồng lên tất cả 8 quẻ. Chẳng hạn, lấy quẻ Càn chồng lên Càn và 7 quẻ kia, lấy quẻ Ly chồng lên Ly và cả 7 quẻ kia. Như vậy mỗi quẻ thành ra 8 quẻ mới, tám quẻ thành 64 quẻ mới. Mỗi quẻ mới gồm 6 hào, cộng là 64 x 6: 384
hào, tạm đủ để diễn được khá nhiều hiện tượng, sự việc rồi.
Sáu mươi bốn quẻ mới này gọi là trùng quái (quẻ trùng) để phân biệt với tám quẻ nguyên
thủy gọi là đơn quái (quẻ đơn).
Chu Dịch (Dịch nhà Chu) hòan
tòan xây dựng trên quan niệm âm dương. Sáu mươi bốn quẻ chỉ do hai vạch âm và dương (đứt và liền) chồng lên nhau, thay đổi cho nhau mà
thành.
Nghĩa hai chữ dương và âm
Theo một số nhà ngữ nguyên học Trung Hoa thì mới đầu hai chữ dương, âm có hình
thức như sau:
Chữ dương (陽) gồm hai phần: bên trái
là sườn núi hoặc bức tường; bên phải, trên có mặt trời lên khỏi chân trời, dưới là những tia sáng mặt trời chiếu xuống.
Do đó, dương trỏ phía có ánh
sáng, phía sáng.
Chữ âm (陰) gồm hai phần: bên trái cũng là sườn núi, bên phải, trên có
nóc nhà, dưới có đám mây.Do đó, âm trỏ phía mặt trời bị che khuất,không có ánh nắng, phía tối.
Phía có ánh nắng thì ấm áp, cây cối tươi tốt, phía
không có ánh nắng thì lạnh lẽo, cây cối không phát triển. Do đó âm dương từ cái nghĩa tối/ sáng chuyển qua nghĩa lạnh/ nóng, đêm/ ngày, mùa đông/ mùa hè, mặt trăng/ mặt trời, chết/ sống, yếu/mạnh, giống cái/ giống đực, suy/thịnh, xấu/tốt, hư/thực, tiểu nhân/ quân
tử, đóng/ mở, đục/ trong...
Trong âm có dương,
trong dương có âm. Âm thịnh thì dương suy, dương thịnh thì âm suy.
Kinh Dịch tượng trưng
âm dương bằng hai vạch: Vạch liền (dương): ___ và
vạch đứt (âm): _ _ .
Liền thì gọi là thực (đặc), đứt gọi là hư (rỗng).
Thái cực
Từ khi có quan
niệm Thái cực, người
Trung Hoa tượng trưng âm dương bằng hình đen và hình trắng, vì mới đầu, âm có nghĩa
là phía không có ánh mặt trời, ở trong bóng tối, dương có nghĩa là phía có ánh mặt trời, sáng sủa.
Hình
2: Thái cực
Chúng ta nhận thấy vòng tròn
Thái cực gồm hai hình
âm dương đó, và hai hình này tuy cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau, mà lại ôm lấy nhau, xoắn lấy nhau.
Lại thêm chỗ hình đen phồng ra có một điểm trắng, chỗ hình trắng phồng ra có một điểm đen; chỗ hình đen phồng ra là chỗ hình trắng thót lại, ngược lại chỗ hình trắng phồng ra là chỗ hình đen thót lại. Như vậy để diễn cái ý :" âm thịnh lần thì dương
suy lần, ngược lại dương thịnh lần thì âm cũng
suy lần. Khi âm cực thịnh đã có một mầm dương (điểm trắng) xuất hiện rồi, khi dương cực thịnh đã có một mầm đen (điểm đen) xuất hiện rồi".
Vậy chẳng những âm dương
xoắn lấy nhau mà
trong âm còn có dương, trong dương còn có âm nữa!
Thành rồi hủy
Luật trong dương
có âm, trong âm có dương có nghĩa là hiện tượng nào cũng chứa sẵn
mầm tự hủy của nó. Trong
sự thịnh có mầm của sự suy, trong sự trị có mầm của sự loạn, trong sự sống có mầm của sự chết. Cho nên có người bảo một đứa trẻ sinh ra là bắt đầu tiến tới sự chết, mà chết là bắt đầu sống lại một cuộc sống khác, là tái sinh dưới hình thức này hay
hình thức khác.
Không thể có dương mà
không có âm, có sống mà không có chết, có thịnh mà không có suy, có trị mà không có
loạn. Phải có đủ cả hai thì mới thành một hiện tượng được,
mới thành vũ
trụ được, cũng như
bất kỳ vật nào cũng
có mặt phải và mặt trái, xã hội nào cũng
có thiện và ác.
Mọi sự biến trong vũ
trụ chỉ là một tiến trình
thành rồi hủy, hủy rồi thành.
Sự thành của dương là sự hủy của âm và ngược
lại, sự thành của âm là sự hủy của dương.
Tóm lại âm dương
tuy tính chất tương phản nhưng cũng tương ứng, tương cầu (tìm nhau), tương giao (gặp nhau) có tương
giao mới tương thôi
(xô đẩy nhau), tương
ma (cọ xát
nhau), tương thể (thay thế, bổ túc nhau) để tương thành
(giúp nhau tự hoàn thành: có cái này thì mới có cái kia, có cái này thì cái kia mới làm tròn được
nhiệm vụ của nó trong vũ
trụ).
Quan trọng nhất là sự tương giao:
giống đực giống cái, cả trời đất nữa (vì trời đất cũng chỉ là âm dương)
có giao cảm với nhau rồi mới có vạn vật, vạn vật mới sinh nở biến hóa được.
- Âm dương đều động: Muốn giao nhau thì cả dương lẫn âm đều phải động.
- Rồi biến hóa: Âm dương có động thì mới giao nhau, mới biến mà sinh sinh hóa hóa.
Chữ dịch ở đây là biến dịch, tức đạo biến hóa trongvũ
trụ. Mọi sự biến hóa đều từ Càn Khôn mà ra; không còn Càn Khôn tức âm dương
thì không còn sự biến hóa.
Mà nếu không có sự biến hóa, nghĩa
là nếu âm dương
không tác động lẫn nhau, không gặp nhau, thì “cô dương” không thể sinh, “độc âm” không thể thành; trong trường hợp đó âm dương
sẽ bị tiêu diệt.
Tóm lại, Dịch cho rằng có số mạng, nhưng con
người vẫn có thể sửa đổi số mạng được phần nào!
(còn tiếp)
Nguyên Lạc
....................
Tham Khảo: Nguyễn Hiến Lê, Ngô Tất Tố, Wu Wei, Richard Wilhelm, Kiều Xuân Dũng,
Đông A Sáng, Internet, Facebook...
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Sinh thái học dưới góc nhìn của Tam giáo" - Gs Thái Công Tụng / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Chuyện Ukraine : Mặt trận không tiếng súng Cyberwar (Chiến tranh mạng) – Trần Lý ( TVQ chuyển )
- Tàu thăm dò Perseverance hạ cánh sao Hỏa sau '7 phút kinh hoàng'
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
Quẻ Dịch Cách Lập Và Giải Đoán - Nguyên Lạc
Nguyên Lạc
Quẻ Dịch
Cách Lập
Và Giải Đoán
(Bài 1)
Cẩn báo: Cụ Nguyễn Hiến Lê có nói: "Muốn học điều gì thì hãy viết về điều đó". Theo tinh
thần đó, chúng tôi đang học về Kinh Dịch, nên xin viết ra đây những gì mình đã học được từ người xưa, từ các bậc tiền bối... Xin hiểu cho, đây chỉ là những ghi chép vụn vặt trong quá trình học hỏi, nên chắc nó sẽ có rất nhiều thiếu sót, mong các bậc cao minh bỏ quá cho! Nếu các bạn tìm thấy có ít nhiều điều hữu ích thì tốt, còn nếu không, coi như " Mua vui cũng được một vài trống can
Ở đời muôn sự của chung
Hơn nhau ở chỗ biết dùng hay không!
Dẫn nhập: Bói Dịch không phải là mê tín, nó là khoa học. Có thể gọi là khoa học huyền bí. Vì vậy, Tiến sĩ Phân tâm học C.G. Jung ( ông cùng với S. Freud là một trong những thủy tổ của khoa Phân Tâm Học, nghiên cứu về tiềm thức của loài người) năm 1949 đã dùng bói Dịch để biết việc quảng bá và giới thiệu Dịch (I Ching) từ tiếng Đức sang tiếng Anh có đuoc thuận lợi hay không?. Bói được rất tốt, ông tiến hành và Dịch đã trở thành kinh điển cho các học giả và các trường đại học Tây Phương học hỏi!
Có 2 lý do để tôi viết bài này:
1/ Chúng ta chỉ sợ những gì mình không hiểu. Thí dụ như sợ Ma, vì chúng ta không biết rõ Ma là gì?. Nếu biết thì sẽ không sợ. Cũng vậy, chúng ta sợ chết, vì không biết chết ra sao, sau khi chết như thế nào?. Nếu chúng ta biết rõ thì chắc chúng ta cũng sẽ không sợ. Đó là lý do Phật giáo khuyên
chúng ta nên tìm hiểu về sự chết (Tử)
Tôi viết bài này mong độc giả tìm hiểu rõ về Bói Dịch, không sợ nó nữa, để các ông thầy Bói toán, Phong thủy (giả), vì tư lợi, không còn
"hù" ta được nữa. Bói Dịch mà vì tư lợi sẽ không bao giờ linh ứng
2/ Kinh Dịch là 1 trong 5 Kinh
chính của triết lý Đông Phương.
Các nhà trí thức (nho gia) xưa phải lào thông nó
mới có thể đi thi. Điều đó chứng tỏ nó rất quan trọng. Bói Dịch rất khó hiểu đối với các người trẻ, người mới bắt đầu. Ngay cả sách được cho là kinh điển của cụ Ngô Tất Tố, phần giải thích về bói cũng rất khó hiểu. Tôi mong làm
nó đơn giản, dễ hiểu hơn, giúp cho các bạn trẻ , ai muốn tìm hiểu, sẽ dễ dàng hơn, hầu mong giữ gìn những quý giá của ông cha
không bị mai một!
Lại nữa, ý của Dịch cho rằng con người tự mình vẫn có thể sửa đổi được số mạng của mình một phần nào. Thế thì tại sao chúng ta
không tự tìm hiểu, tự bói quẻ tìm phương thức đối ứng, mà phải nhờ người khác làm cho mình? Có biết chắc họ thật sự là bậc Thức giả không? Ở đời, biết đâu hư biết đâu thực, biết đâu chân biết đâu giả!
(Nguyên Lạc)
NHẬP MÔN KINH DỊCH
ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẺ DỊCH
Kinh Dịch
Kinh Dịch là một trong ba bộ kinh cổ nhất của Trung quốc, sau Kinh Thi và
Kinh Thư, nhưng nguồn gốc của nó (tức bát quái) thì có
thể sớm hơn, vào cuối đời Ân, khoảng 1.200 năm trước
Tây Lịch.
Nó không do một người viết, mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán.
Điều kỳ dị nhất của Dịch là nó chỉ dựng trên thuyết âm dương, trên một vạch liền ____
tượng trưng cho dương, một vạch đứt __ __ tượng trưng cho âm. Hai vạch đó chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới: Lục thập tứ quái.
Dùng sáu mươi bốn hình này, người
ta diễn được tất cả các quan niệm về vũ trụ, nhân sinh. Từ những hiện tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên cho tới những công việc thường ngày như
trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi, ăn uống, xử thế...
-- Mới đầu chỉ có lưỡng nghi:
dương (vạch liền:
___ ) và âm (vạch đứt: _ _ )
-- Bên dương, nếu lấy dương chồng lên dương, rồi lấy âm chồng lên dương, chúng ta sẽ được hai hình tượng:
- (vạch dương/ vạch dương): thái dương
- (vạch âm/ vạch dương): thiếu dương
Bên âm cũng vậy, nếu lấy âm chồng lên âm, rồi lấy dương chồng lên âm, chúng ta
sẽ được hai hình tượng nữa:
- (vạch âm/ vạch âm): thái âm
- (vạch dương/ vạch âm): thiếu âm
Như vậy được bốn hình tượng, gọi là tứ tượng.
Tứ tượng có tên: Thái dương, thiếu dương, thái âm,
thiếu âm
-- Sau cùng, lấy dương lần lượt chồng lên cả bốn hình trên, chúng ta sẽ được 4 hình:
Ly (Li) , Càn (Kiền) , Tốn , Cấn.
Rồi lấy âm lần lượt chồng lên cũng cả bốn hình đó, chúng ta sẽ được thêm 4 hình nữa:
Chấn , Ðoài (Đoái) , Khảm , Khôn.
Hình 1: Sự hình thành bát quái
Như vậy được hết thảy 8 hình gọi là bát quái (tám quẻ). Mỗi quẻ có 3 vạch (gọi là 3 hào), xuất hiện lần lần từ dưới lên
trên. Cho nên khi gọi tên hào, khi đóan
quẻ, phải đếm và xét từ dưới lên
trên: Hào dưới (cũng là hào 1), rồi lên hào 2, hào 3...
Bát quái:
Ý nghĩa của Bát quái... : Số của Bát quái - Hành
☰ : Càn (hay Kiền) vi thiên là trời có đức cứng mạnh, là đàn ông: 1 - Kim
☷ : Khôn vi địa là đất, có đức nhu thuận, là đàn bà : 8 - Thổ
☲ : Ly vi hỏa là lửa, sáng: 3 - Hoả
☵ : Khảm vi thủy là nước, hiểm trở: 6 - Thuỷ
☶ : Cấn vi sơn là núi, yên tĩnh: 7 - Thổ
☱ : Đoái (hay Đoài) vi trạch là chầm (đầm), vui vẻ: 2 - Kim
☴ : Tốn vi phong là gió, vào: 5 - Mộc
☳ : Chấn vi lôi là sấm, động: 4 - Mộc
Các bạn phải thuộc rõ 8 hình trên, trông thấy hình nào, thì phải gọi được tên của nó. Ngược lại hể nghe thấy nói tên quẻ nào, thì phải vẽ ngay được hình nó.
Bạn có thể theo cách
này:
Trước hết chúng ta bỏ qua quẻ Càn và quẻ Khôn đi, vì ai cũng cũng nhớ ngay rồi, còn lại 6 quẻ:
- 3 quẻ có 1 hào âm (một vạch đứt): quẻ Ly, quẻ Đòai, quẻ Tốn.
- 3 quẻ còn lại Khảm, Cấn, Chấn đều có một hào dương (một vạch liền).
Chúng ta chỉ cần nhớ vị trí ba vạch đứt trong 3 quẻ có 1 hào âm thôi:
- Quẻ Ly là lửa thì vạch đứt ở giữa: Như hình miệng lò.
- Quẻ Đòai là chầm (đầm) thì vạch đứt ở trên cùng: Như chỗ trũng trên mặt đất.
- Quẻ Tốn là gió thì vạch đứt tất phải ở dưới cùng: Vạch đứt (âm) đó tượng trưng
sự mềm mại, dịu dàng của gió.
Nhớ như vậy rồi thì vẽ được ba quẻ đó, vì hai
hào kia của mỗi quẻ là vạch liền (dương).
Vẽ được 3 quẻ đó rồi thì vẽ được ba quẻ trái với chúng về ý nghĩa cũng như về các vạch:
- Khảm (nước) trái với Ly (lửa), thì gồm một vạch liền (dương) ở giữa còn lại hai vạch kia đứt
- Cấn (núi) trái với Đòai (đầm): núi nổi lên trên mặt đất, đầm trũng xuống, thì gồm một vạch liền (dương) ở trên cùng, còn lại hai vạch kia đứt (âm).
- Chấn (sấm): trái với Tốn (gió): Chấn (sấm) động mạnh, còn Tốn (gió) thổi nhẹ thì gồm vạch liền (dương) ở dưới cùng, còn lại hai vạch kia đứt (âm).
Trùng quái:
Chúng ta biết lưỡng nghi chồng lên nhau một lần thành tứ tượng, chồng lên một lần nữa là bát quái. Chỉ có 8 quẻ với 24 hào thì không thể diễn được nhiều hiện tượng, sự việc... nên lại phải chồng lên thêm một lần nữa. Lần này không lấy 1 vạch âm haydương như lần thứ nhì, mà lấy trọn một quẻ chồng lên tất cả 8 quẻ. Chẳng hạn, lấy quẻ Càn chồng lên Càn và 7 quẻ kia, lấy quẻ Ly chồng lên Ly và cả 7 quẻ kia. Như vậy mỗi quẻ thành ra 8 quẻ mới, tám quẻ thành 64 quẻ mới. Mỗi quẻ mới gồm 6 hào, cộng là 64 x 6: 384
hào, tạm đủ để diễn được khá nhiều hiện tượng, sự việc rồi.
Sáu mươi bốn quẻ mới này gọi là trùng quái (quẻ trùng) để phân biệt với tám quẻ nguyên
thủy gọi là đơn quái (quẻ đơn).
Chu Dịch (Dịch nhà Chu) hòan
tòan xây dựng trên quan niệm âm dương. Sáu mươi bốn quẻ chỉ do hai vạch âm và dương (đứt và liền) chồng lên nhau, thay đổi cho nhau mà
thành.
Nghĩa hai chữ dương và âm
Theo một số nhà ngữ nguyên học Trung Hoa thì mới đầu hai chữ dương, âm có hình
thức như sau:
Chữ dương (陽) gồm hai phần: bên trái
là sườn núi hoặc bức tường; bên phải, trên có mặt trời lên khỏi chân trời, dưới là những tia sáng mặt trời chiếu xuống.
Do đó, dương trỏ phía có ánh
sáng, phía sáng.
Chữ âm (陰) gồm hai phần: bên trái cũng là sườn núi, bên phải, trên có
nóc nhà, dưới có đám mây.Do đó, âm trỏ phía mặt trời bị che khuất,không có ánh nắng, phía tối.
Phía có ánh nắng thì ấm áp, cây cối tươi tốt, phía
không có ánh nắng thì lạnh lẽo, cây cối không phát triển. Do đó âm dương từ cái nghĩa tối/ sáng chuyển qua nghĩa lạnh/ nóng, đêm/ ngày, mùa đông/ mùa hè, mặt trăng/ mặt trời, chết/ sống, yếu/mạnh, giống cái/ giống đực, suy/thịnh, xấu/tốt, hư/thực, tiểu nhân/ quân
tử, đóng/ mở, đục/ trong...
Trong âm có dương,
trong dương có âm. Âm thịnh thì dương suy, dương thịnh thì âm suy.
Kinh Dịch tượng trưng
âm dương bằng hai vạch: Vạch liền (dương): ___ và
vạch đứt (âm): _ _ .
Liền thì gọi là thực (đặc), đứt gọi là hư (rỗng).
Thái cực
Từ khi có quan
niệm Thái cực, người
Trung Hoa tượng trưng âm dương bằng hình đen và hình trắng, vì mới đầu, âm có nghĩa
là phía không có ánh mặt trời, ở trong bóng tối, dương có nghĩa là phía có ánh mặt trời, sáng sủa.
Hình
2: Thái cực
Chúng ta nhận thấy vòng tròn
Thái cực gồm hai hình
âm dương đó, và hai hình này tuy cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau, mà lại ôm lấy nhau, xoắn lấy nhau.
Lại thêm chỗ hình đen phồng ra có một điểm trắng, chỗ hình trắng phồng ra có một điểm đen; chỗ hình đen phồng ra là chỗ hình trắng thót lại, ngược lại chỗ hình trắng phồng ra là chỗ hình đen thót lại. Như vậy để diễn cái ý :" âm thịnh lần thì dương
suy lần, ngược lại dương thịnh lần thì âm cũng
suy lần. Khi âm cực thịnh đã có một mầm dương (điểm trắng) xuất hiện rồi, khi dương cực thịnh đã có một mầm đen (điểm đen) xuất hiện rồi".
Vậy chẳng những âm dương
xoắn lấy nhau mà
trong âm còn có dương, trong dương còn có âm nữa!
Thành rồi hủy
Luật trong dương
có âm, trong âm có dương có nghĩa là hiện tượng nào cũng chứa sẵn
mầm tự hủy của nó. Trong
sự thịnh có mầm của sự suy, trong sự trị có mầm của sự loạn, trong sự sống có mầm của sự chết. Cho nên có người bảo một đứa trẻ sinh ra là bắt đầu tiến tới sự chết, mà chết là bắt đầu sống lại một cuộc sống khác, là tái sinh dưới hình thức này hay
hình thức khác.
Không thể có dương mà
không có âm, có sống mà không có chết, có thịnh mà không có suy, có trị mà không có
loạn. Phải có đủ cả hai thì mới thành một hiện tượng được,
mới thành vũ
trụ được, cũng như
bất kỳ vật nào cũng
có mặt phải và mặt trái, xã hội nào cũng
có thiện và ác.
Mọi sự biến trong vũ
trụ chỉ là một tiến trình
thành rồi hủy, hủy rồi thành.
Sự thành của dương là sự hủy của âm và ngược
lại, sự thành của âm là sự hủy của dương.
Tóm lại âm dương
tuy tính chất tương phản nhưng cũng tương ứng, tương cầu (tìm nhau), tương giao (gặp nhau) có tương
giao mới tương thôi
(xô đẩy nhau), tương
ma (cọ xát
nhau), tương thể (thay thế, bổ túc nhau) để tương thành
(giúp nhau tự hoàn thành: có cái này thì mới có cái kia, có cái này thì cái kia mới làm tròn được
nhiệm vụ của nó trong vũ
trụ).
Quan trọng nhất là sự tương giao:
giống đực giống cái, cả trời đất nữa (vì trời đất cũng chỉ là âm dương)
có giao cảm với nhau rồi mới có vạn vật, vạn vật mới sinh nở biến hóa được.
- Âm dương đều động: Muốn giao nhau thì cả dương lẫn âm đều phải động.
- Rồi biến hóa: Âm dương có động thì mới giao nhau, mới biến mà sinh sinh hóa hóa.
Chữ dịch ở đây là biến dịch, tức đạo biến hóa trongvũ
trụ. Mọi sự biến hóa đều từ Càn Khôn mà ra; không còn Càn Khôn tức âm dương
thì không còn sự biến hóa.
Mà nếu không có sự biến hóa, nghĩa
là nếu âm dương
không tác động lẫn nhau, không gặp nhau, thì “cô dương” không thể sinh, “độc âm” không thể thành; trong trường hợp đó âm dương
sẽ bị tiêu diệt.
Tóm lại, Dịch cho rằng có số mạng, nhưng con
người vẫn có thể sửa đổi số mạng được phần nào!
(còn tiếp)
Nguyên Lạc
....................
Tham Khảo: Nguyễn Hiến Lê, Ngô Tất Tố, Wu Wei, Richard Wilhelm, Kiều Xuân Dũng,
Đông A Sáng, Internet, Facebook...