Văn Học & Nghệ Thuật
Quỳnh Giao - Lòng ta ở với người
Quỳnh
Giao sinh tại Vỹ Dạ của cố đô Huế vào ngày 8 Tháng Mười Một năm 1946
với khuê danh là Nguyễn Phước Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang.
Nói theo lối cổ điển về thân thế, Quỳnh Giao thuộc “Hoàng phái” từ song thân là cụ Ưng Quả và danh ca Minh Trang.
|
Thân phụ là Nguyễn Phước Ưng Quả, hiệu Vân Hán (1905-1951), cháu
nội Tuy Lý Vương Miên Trinh, tự Khôn Chương, hiệu Tĩnh Phố, người con
thứ 11 của vua Minh Mạng và em vua Thiệu Trị. Nhà Giáo Ưng Quả là học
giả uyên bác được giới khảo cứu Việt học của Pháp kính trọng và là bậc
thầy của một thế hệ giáo sư, sau này có nhiều khoa trưởng của các đại
học thời độc lập. Học Giả Ưng Quả từng là Thái Tử Thiếu bảo khi dạy học
Thái Tử Bảo Long, Hiệu trưởng trường Quốc Học tại Huế, giám đốc Nha Học
Chánh Trung Phần thuộc Bộ Học của nước Việt Nam thời Pháp và tác giả của
nhiều công trình biên khảo về văn hóa và mỹ thuật Việt Nam, từng phiên
dịch văn chương Pháp qua Việt ngữ và văn học Việt Nam Pháp ngữ... Ngoài
ra, cụ còn là người thẩm âm sành nhạc và gẩy đàn nguyệt khi tiêu khiển.
Cụ Ưng Quả mất vào năm 1951 tại Bộ Học sau một cơn trụy tim, thọ 46 tuổi, khi Quỳnh Giao mới lên năm.
Thân
mẫu Quỳnh Giao, nghệ sỹ Minh Trang, có khuê danh là Nguyễn Thị Ngọc
Trâm, là con gái của Thượng Thư Nguyễn Hy. Bà là cháu ngoại của Công
Chúa Công Tằng Tôn Nữ Tốn Tùy, tức Mỹ Lương Công Chúa. Công Chúa Mỹ
Lương được người đương thời tôn xưng là “Ngài Chúa Nhất” vì là chị cả
của vua Thành Thái. Bà Ngọc Trâm sinh năm 1921, tốt nghiệp Tú Tài Pháp,
làm biên tập viên và xướng ngôn viên song ngữ Pháp-Việt trong lãnh vực
phát thanh từ thời Pháp. Bà lấy nghệ danh Minh Trang từ khi hát cho đài
Pháp Á vào buổi bình minh của nền tân nhạc Việt Nam.
Nghệ danh ấy
là sự kết hợp tên của con trai và con gái của bà là hai nghệ sỹ Bửu
Minh và Ðoan Trang. Bửu Minh là danh thủ violon, ngồi ghế concert master
của dàn nhạc hòa tấu Stuttgard Symphony ở Ðức. Danh ca Minh Trang đã tạ
thế vào Tháng Tám năm 2010 tại California Hoa Kỳ.
Ở tại Huế đến
khi lên bảy Quỳnh Giao mới vào Sài Gòn sống với thân mẫu và kế phụ là
Dương Thiệu Tước, một nghệ sĩ đã góp phần khai phá nền tân nhạc cải
cách, nhạc sư đàn Tây Ban Cầm và là cháu nội của danh sĩ, Thượng thư
Dương Khuê.
Do huyết thống và lại sống trong môi trường âm nhạc, Quỳnh Giao có năng khiếu về nhạc từ bé.
Khi
danh ca Minh Trang lập ban hát thiếu nhi đầu tiên là Thiếu Sinh Nhi
Ðồng thì Ðoan Trang đã cùng anh trai tham dự, với tiếng hát thiếu nhi
của Mai Hương, Bích Chiêu, Bạch Tuyết, Kim Chi, Quốc Thắng và Tuấn
Ngọc.... Sau năm 1953, khi hai kịch sĩ Kiều Hạnh và Phạm Ðình Sĩ (song
thân của Mai Hương) vào Nam thì Minh Trang nhường cặp nghệ sĩ này điều
hành ban hát Nhi Ðồng và đổi tên ra Ban Tuổi Xanh cho thích hợp với lứa
tuổi của ca sĩ thiếu nhi. Ðấy là lúc xuất hiện những tiếng hát như Hoàng
Oanh, Mai Hân, Phương Hoài Tâm, Xuân Thu....
Vừa cắp sách vào
lớp trung tiểu học, Quỳnh Giao vừa học nhạc tại trường Quốc Gia Âm Nhạc
(trường có thêm Ban Kịch Nghệ sau này) và được sự dìu dắt về dương cầm
của danh sư Ðỗ Thế Phiệt (dì Ngọc Thuyền trong gia đình) và về nhạc lý
từ nhạc sĩ Hùng Lân. Với Hùng Lân, Quỳnh Giao là một trong những học trò
giỏi nhất của ông. Sau bảy năm học nhạc, năm 1963, Quỳnh Giao tốt
nghiệp thủ khoa về dương cầm lẫn nhạc pháp, và sau này còn được sự dìu
dắt về thanh nhạc của một giáo sư Pháp, cứ được gọi là Madame Robin.
Là
dương cầm thủ xuất sắc, Quỳnh Giao đã trình tấu cùng nhiều danh cầm
Việt Nam và ngoại quốc trong Dàn Nhạc Giao Hưởng của trường Quốc Gia Âm
Nhạc dưới sự điều khiển của Nhạc Trưởng Ðỗ Thế Phiệt và nhiều lần xuất
hiện trong các chương trình hòa nhạc tại Ðông Nam Á.
Do Minh
Trang bị hen suyễn phải giải nghệ, ở tuổi 15, Quỳnh Giao chính thức hát
thay mẹ và một cách thường xuyên trong nhiều ban nhạc lớn tại các đài
phát thanh. Từ đó, với nghệ danh Quỳnh Giao do nhạc sĩ Hoàng Trọng đặt
cho, Quỳnh Giao vừa đi học vừa đi hát tại các đài phát thanh Sài Gòn,
Quân Ðội, Tiếng Nói Tự Do và đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt Nam sau này,
trong các ban nhạc của Vũ Thành, Hoàng Trọng, Hoàng Lang, Phạm Duy, Anh
Ngọc, v.v....
Trong hoàn cảnh thân mẫu về hưu, kế phụ làm công
chức, là một nhạc sĩ tài hoa có nhiều đam mê, Quỳnh Giao thực tế hỗ trợ
gia đình và được năm em bên dòng họ Dương vô cùng yêu quý. Từ năm 1968,
Quỳnh Giao còn dạy dương cầm tại gia về nhạc cổ điển Tây phương và lập
gia đình, được một con gái là Dzương Ngọc Bảo Cơ sau này tốt nghiệp cử
nhân về Giáo Dục tại Hoa Kỳ.
Trong lãnh vực phát thanh có đào
tạo chuyên nghiệp thời trước, các ca sĩ không được chọn ca khúc mà phải
trình bày những bản nhạc có hòa âm sẵn theo yêu cầu tại chỗ của nhạc
trưởng. Ngoài giọng ca, họ phải biết ký âm pháp, giỏi nhạc, một ngày ứng
khẩu hát nhiều bài khác nhau trước máy vi âm được phát thanh trực tiếp.
Quỳnh Giao là một trường hợp tiêu biểu cho các ca sĩ đài phát thanh.
Khi
biến cố 1975 bùng nổ, Quỳnh Giao cùng gia đình di tản vào Tháng Tư và
được anh ruột đón về miền Ðông Hoa Kỳ. Bào huynh của Quỳnh Giao là Giáo
Sư Nguyễn Phước Bửu Dương khi ấy dạy văn chương Pháp và Trung Hoa trong
đại học Hoa Kỳ. Ông là một trong những người Việt đầu tiên tốt nghiệp
tiến sĩ tại Ðại Học Harvard và nay sống tại miền Nam California với gia
đình Quỳnh Giao.
Tại miền Ðông, Quỳnh Giao mở lại lớp dương cầm tại gia và yểm trợ rồi đón nhận thân mẫu cũng các em vượt biên qua Mỹ.
Trong
thời gian này, Quỳnh Giao thực hiện lấy hai băng cassette có chủ đề
“Hát Cho Kỷ Niệm” vào các năm 1983 và 1988. Tự đệm lấy dương cầm với
phần phụ họa của Văn Phụng và vài nhạc sĩ, Quỳnh Giao trình bày lại
những ca khúc đẹp nhất của tân nhạc với lời giới thiệu của các nghệ sĩ
Vũ Thành, Phạm Duy, Phạm Ðình Chương, Cung Tiến, Thái Thanh, Kim Tước,
Châu Hà, Mai Thảo, Lê Văn, Duyên Anh, Bùi Bảo Trúc, Phạm Văn Kỳ Thanh,
v.v... Qua năm 1986, Quỳnh Giao cũng được nhà văn Duyên Anh mời trình
bày đĩa nhạc “Còn Thoáng Chiêm Bao.”
Cùng giai đoạn ấy, Quỳnh
Giao cộng tác và lưu diễn một số nơi với nhạc sĩ Phạm Ðình Chương, nhưng
cơ hội không nhiều vì sinh hoạt văn nghệ chưa phát triển rực rỡ như sau
này. Ðáng chú ý thì năm 1988 và 1989 đã cùng Kim Tước và Mai Hương
trình bày nhạc Cung Tiến với dàn nhạc thính phòng của nhạc công người Mỹ
tại miền Bắc, miền Nam California, Chicago và Minnesota.
Ðấy là
lúc khán giả biết đến những ca khúc mới và thuộc loại khó diễn tả nhất
của Cung Tiến, như 10 bài Vang Vang Trời Vào Xuân phổ thơ Thanh Tâm
Tuyền. Và nhất là tác phẩm Hoàng Hạc Lâu, phổ thơ Thôi Hiệu qua phần cảm
dịch của Vũ Hoàng Chương.
Sau khi tái giá với chuyên gia kinh
tế Nguyễn-Xuân Nghĩa - sau này là nhà bình luận hợp tác với các đài phát
thanh quốc tế và các tờ báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ, Quỳnh Giao qua
California sinh sống kể từ 1991. Trong môi trường sinh động và đông đảo
người Việt tại miền Tây Hoa Kỳ, Quỳnh Giao có cơ hội mở rộng hoạt động
tân nhạc.
Quỳnh Giao lần lượt thực hiện nhiều đĩa nhạc có giá trị
nghệ thuật, đa số với hòa âm của Duy Cường, như Khúc Nguyệt Quỳnh
(1992), Tiếng Chuông Chiều Thu (1996), Chiều Về Trên Sông (1997), Ngàn
Thu Áo Tím (1998), Hành Trình Phạm Duy (1999), Hình Ảnh Một Buổi Chiều
(2000), Tình Khúc Văn Phụng & Hoàng Trọng (2001), Thơ Tình Phổ Nhạc
(2002), Hoa Xuân (2003), Trở Về Thôn Cũ (2005) và Tình Khúc Phạm Duy
(2006).
Ngoài ra, Quỳnh Giao hợp tác với nhiều trung tâm để hoàn
thành đĩa Ðêm Tàn Bến Ngự - Tình Khúc Dương Thiệu Tước (1995) với tiếng
hát Kim Tước, đĩa Tình Khúc Văn Cao (1995) cùng tiếng hát Mai Hương và
có những ca khúc ghi âm riêng lẻ trong nhiều đĩa phát hành từ 1993 đến
2006.
Trong giai đoạn này, Quỳnh Giao còn có hai cống hiến khác cho tân nhạc.
Nhờ
sống gần Kim Tước và Mai Hương tại miền Nam California, ba chị em trình
diễn với nhau nhiều hơn và khi hợp ca thì tự động chia bè rất ăn khớp
với sự điêu luyện độc đáo. Từ đó, Ban tam ca Tiếng Tơ Ðồng Hải Ngoại ra
đời để nhắc về ban nhạc Tiếng Tơ Ðồng nổi tiếng trước 75 của nhạc sĩ
Hoàng Trọng khi ấy còn ở trong nước.
Ðáng kể hơn, là năm 1997
Quỳnh Giao thực hiện cho ban Việt ngữ đài BBC chương trình Suối Nguồn
Tân Nhạc Việt Nam. Ðược phát thanh hàng tuần qua 20 buổi, chương trình
thuộc loại “nhạc sử” vì nói về 60 năm tân nhạc cải cách Việt Nam từ thời
phôi thai năm 1938 đến sau này.
Quỳnh Giao phân đoạn theo thời
gian, theo thể tài và đọc lời giới thiệu với phần minh diễn của các ca
sĩ và phần phát biểu của nhiều nhạc sĩ. Nhờ nội dung phong phú và nhạc
hiệu là bản Bến Xuân của Văn Cao do chính Quỳnh Giao diễn tả, Suối Nguồn
Tân Nhạc được thính giả yêu thích nên là một trường hợp hiếm hoi được
BBC cho phát lại lần thứ hai.
Nguyên nhân sâu xa nữa sẽ được hiểu
ra sau này là Quỳnh Giao có ký ức rất sâu, đã sống với tân nhạc từ bé,
gần gũi với các nhạc sĩ và ca sĩ như trong một đại gia đình nên nắm vững
hoàn cảnh ra đời của từng ca khúc.
Người ta thấy được điều này khi đọc Quỳnh Giao.
Các
môn sinh của thầy Ưng Quả trong trường Quốc Học thì không ngạc nhiên
khi thấy Quỳnh Giao cầm bút. Sinh thời, nhà giáo ngày xưa là người lịch
lãm tài hoa với ngón đàn nguyệt mà cũng là một cây bút sắc xảo. Quỳnh
Giao tiếp nhận được huyết thống ấy, mà có lẽ khi còn thiếu thời đã không
tự biết.
Năm 1986, nhân dịp mừng sinh nhật thứ 65 của nhạc sĩ
Phạm Duy, từ miền Ðông, Quỳnh Giao đã có bài viết được đăng trên tờ Văn
Học xuất bản tại California. Sau đó là một bài về nhạc sĩ Vũ Thành vừa
tạ thế vào năm 1987. Ðược sự khuyến khích của nhà văn Nguyễn Mộng Giác
khi ấy phụ trách tờ Văn Học, Quỳnh Giao đã viết nhiều hơn từ tùy bút đến
truyện ngắn cho Văn Học và các tờ báo định kỳ khác, kể cả Thế Kỷ 21.
Khởi đầu là đề tài âm nhạc, gần như một loại tự truyện về thế giới tân
nhạc Việt Nam, sau này, Quỳnh Giao mở tầm viết và gây thích thú cho
người đọc...
Quỳnh Giao viết về nhạc thì cũng như kể chuyện về
các nghệ sĩ bằng hữu của thân mẫu. Nhưng kiến thức sâu sắc về nhạc và về
kỹ thuật trình bày còn giúp người đọc nhớ lại và có sự thưởng ngoạn cao
hơn với từng tác phẩm, từng tác giả hay người trình diễn. Nhờ vậy, độc
giả cảm nhận được giá trị đích thực của các ca khúc.
Khi mở ra
loại đề tài như điện ảnh, văn chương hay mỹ thuật, Quỳnh Giao còn cho
thấy sự am hiểu rộng lớn và thấu đáo. Với văn phong nhẹ nhàng, cái nhìn
tinh tế và cách nói khiêm nhường dí dỏm về mình, Quỳnh Giao lôi cuốn bạn
đọc và dần dần có một thành phần bạn đọc riêng.
Những điều ấy
trở thành rõ rệt khi Quỳnh Giao cộng tác với giai phẩm Xuân của Việt Báo
và nhật báo Người Việt trong mục “Tạp Ghi” với những bài định kỳ mỗi
tuần. Tạp Ghi Quỳnh Giao là mục ăn khách trên Người Việt kể từ năm 2005.
Cho đến nay thì đã có gần 500 bài.
Không chỉ đọc Quỳnh Giao,
người ta còn nghe thấy tiếng nói thanh quý rất ăn micro của người nghệ
sĩ. Những ai còn nhớ tới Quỳnh Giao trong chương trình Suối Nguồn Tân
Nhạc năm xưa của BBC tìm lại được tiếng nói đó qua mục Vòng Chân Trời
Văn Học Nghệ Thuật với nhà báo Lê Ðình Ðiểu của đài phát thanh VNCR. Sau
này, khi Người Việt TV thành hình từ Người Việt Online, Quỳnh Giao xuất
hiện trên màn ảnh trong chương trình “Câu Chuyện Văn Nghệ” cùng Nam
Phương hay Lê Hồng Quang. Ðấy là lúc khán giả thấy ra “cây bút Quỳnh
Giao” bằng xương thịt, với lối ứng khẩu tự nhiên và nhu mì để nói về đủ
loại đề tài hấp dẫn.
Trong khi đó, ở nhà, Quỳnh Giao tiếp tục việc dạy đàn và mở lớp luyện giọng.
Tháng
10, năm 2011, tờ Người Việt cho xuất bản Tạp Ghi Quỳnh Giao, một cuốn
sách thuộc loại ăn khách với 67 bài trên hơn 400 trang. Qua năm 2012,
Quỳnh Giao chuẩn bị hoàn thành cuốn thứ hai thì ngã trong vườn và bị
thương nặng. Sau một cuộc giải phẫu công phu vào Tháng Năm, việc sử dụng
tay trái đã bị trở ngại. Lớp dạy đàn mở ra từ mấy chục năm trước coi
như chấm dứt.
Mùa Xuân 2014, Quỳnh Giao tưởng mình ho vì bị cảm
lạnh. Nhưng sau một tháng chữa trị bình thường mà bệnh không dứt. Vào
một đêm của đầu Tháng Ba khi bị mất giọng, Quỳnh Giao mới được xe cấp
cứu đưa nhà thương và hôm sau thì như bị sét đánh. Ung thư phổi. Ðiều
này là bất ngờ vì trước đó không hề có triệu chứng gì, kể từ khi chiếu
điện vì gãy cánh tay mặt.
Sau hơn bốn tháng giải quyết bằng hóa
trị rồi xạ trị, Quỳnh Giao suy yếu dần về thể lực mà thần trí vẫn minh
mẫn lạc quan. Cho tới khi phải thường xuyên dùng ống dưỡng khí và đối
phó với nhiều biến chứng thì tình hình trở thành nguy kịch. Ðêm Thứ Ba
rạng ngày Thứ Tư 23 Tháng Bảy, Quỳnh Giao lặng lẽ gỡ ống dưỡng khí và ra
đi thanh thản trong giấc ngủ trước sự bàng hoàng ngơ ngác của chồng
con.
Quỳnh Giao làm đẹp cho đời bằng tiếng hát tuyệt vời và
những bài viết về nghệ thuật về mỹ thuật. Người ta thấy yêu đời và yêu
người hơn khi nghe hay đọc Quỳnh Giao.
“Lòng Ta Ở Với Người” là
tên một ca khúc của Trần Dạ Từ mới được Quỳnh Giao ghi âm mà chưa phổ
biến. Có lẽ đấy cũng là lời ca rất đúng về tấm lòng của người nghệ sĩ
vừa ra đi...
Bàn ra tán vào (0)
Quỳnh Giao - Lòng ta ở với người
Quỳnh
Giao sinh tại Vỹ Dạ của cố đô Huế vào ngày 8 Tháng Mười Một năm 1946
với khuê danh là Nguyễn Phước Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang.
Nói theo lối cổ điển về thân thế, Quỳnh Giao thuộc “Hoàng phái” từ song thân là cụ Ưng Quả và danh ca Minh Trang.
|
Thân phụ là Nguyễn Phước Ưng Quả, hiệu Vân Hán (1905-1951), cháu
nội Tuy Lý Vương Miên Trinh, tự Khôn Chương, hiệu Tĩnh Phố, người con
thứ 11 của vua Minh Mạng và em vua Thiệu Trị. Nhà Giáo Ưng Quả là học
giả uyên bác được giới khảo cứu Việt học của Pháp kính trọng và là bậc
thầy của một thế hệ giáo sư, sau này có nhiều khoa trưởng của các đại
học thời độc lập. Học Giả Ưng Quả từng là Thái Tử Thiếu bảo khi dạy học
Thái Tử Bảo Long, Hiệu trưởng trường Quốc Học tại Huế, giám đốc Nha Học
Chánh Trung Phần thuộc Bộ Học của nước Việt Nam thời Pháp và tác giả của
nhiều công trình biên khảo về văn hóa và mỹ thuật Việt Nam, từng phiên
dịch văn chương Pháp qua Việt ngữ và văn học Việt Nam Pháp ngữ... Ngoài
ra, cụ còn là người thẩm âm sành nhạc và gẩy đàn nguyệt khi tiêu khiển.
Cụ Ưng Quả mất vào năm 1951 tại Bộ Học sau một cơn trụy tim, thọ 46 tuổi, khi Quỳnh Giao mới lên năm.
Thân
mẫu Quỳnh Giao, nghệ sỹ Minh Trang, có khuê danh là Nguyễn Thị Ngọc
Trâm, là con gái của Thượng Thư Nguyễn Hy. Bà là cháu ngoại của Công
Chúa Công Tằng Tôn Nữ Tốn Tùy, tức Mỹ Lương Công Chúa. Công Chúa Mỹ
Lương được người đương thời tôn xưng là “Ngài Chúa Nhất” vì là chị cả
của vua Thành Thái. Bà Ngọc Trâm sinh năm 1921, tốt nghiệp Tú Tài Pháp,
làm biên tập viên và xướng ngôn viên song ngữ Pháp-Việt trong lãnh vực
phát thanh từ thời Pháp. Bà lấy nghệ danh Minh Trang từ khi hát cho đài
Pháp Á vào buổi bình minh của nền tân nhạc Việt Nam.
Nghệ danh ấy
là sự kết hợp tên của con trai và con gái của bà là hai nghệ sỹ Bửu
Minh và Ðoan Trang. Bửu Minh là danh thủ violon, ngồi ghế concert master
của dàn nhạc hòa tấu Stuttgard Symphony ở Ðức. Danh ca Minh Trang đã tạ
thế vào Tháng Tám năm 2010 tại California Hoa Kỳ.
Ở tại Huế đến
khi lên bảy Quỳnh Giao mới vào Sài Gòn sống với thân mẫu và kế phụ là
Dương Thiệu Tước, một nghệ sĩ đã góp phần khai phá nền tân nhạc cải
cách, nhạc sư đàn Tây Ban Cầm và là cháu nội của danh sĩ, Thượng thư
Dương Khuê.
Do huyết thống và lại sống trong môi trường âm nhạc, Quỳnh Giao có năng khiếu về nhạc từ bé.
Khi
danh ca Minh Trang lập ban hát thiếu nhi đầu tiên là Thiếu Sinh Nhi
Ðồng thì Ðoan Trang đã cùng anh trai tham dự, với tiếng hát thiếu nhi
của Mai Hương, Bích Chiêu, Bạch Tuyết, Kim Chi, Quốc Thắng và Tuấn
Ngọc.... Sau năm 1953, khi hai kịch sĩ Kiều Hạnh và Phạm Ðình Sĩ (song
thân của Mai Hương) vào Nam thì Minh Trang nhường cặp nghệ sĩ này điều
hành ban hát Nhi Ðồng và đổi tên ra Ban Tuổi Xanh cho thích hợp với lứa
tuổi của ca sĩ thiếu nhi. Ðấy là lúc xuất hiện những tiếng hát như Hoàng
Oanh, Mai Hân, Phương Hoài Tâm, Xuân Thu....
Vừa cắp sách vào
lớp trung tiểu học, Quỳnh Giao vừa học nhạc tại trường Quốc Gia Âm Nhạc
(trường có thêm Ban Kịch Nghệ sau này) và được sự dìu dắt về dương cầm
của danh sư Ðỗ Thế Phiệt (dì Ngọc Thuyền trong gia đình) và về nhạc lý
từ nhạc sĩ Hùng Lân. Với Hùng Lân, Quỳnh Giao là một trong những học trò
giỏi nhất của ông. Sau bảy năm học nhạc, năm 1963, Quỳnh Giao tốt
nghiệp thủ khoa về dương cầm lẫn nhạc pháp, và sau này còn được sự dìu
dắt về thanh nhạc của một giáo sư Pháp, cứ được gọi là Madame Robin.
Là
dương cầm thủ xuất sắc, Quỳnh Giao đã trình tấu cùng nhiều danh cầm
Việt Nam và ngoại quốc trong Dàn Nhạc Giao Hưởng của trường Quốc Gia Âm
Nhạc dưới sự điều khiển của Nhạc Trưởng Ðỗ Thế Phiệt và nhiều lần xuất
hiện trong các chương trình hòa nhạc tại Ðông Nam Á.
Do Minh
Trang bị hen suyễn phải giải nghệ, ở tuổi 15, Quỳnh Giao chính thức hát
thay mẹ và một cách thường xuyên trong nhiều ban nhạc lớn tại các đài
phát thanh. Từ đó, với nghệ danh Quỳnh Giao do nhạc sĩ Hoàng Trọng đặt
cho, Quỳnh Giao vừa đi học vừa đi hát tại các đài phát thanh Sài Gòn,
Quân Ðội, Tiếng Nói Tự Do và đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt Nam sau này,
trong các ban nhạc của Vũ Thành, Hoàng Trọng, Hoàng Lang, Phạm Duy, Anh
Ngọc, v.v....
Trong hoàn cảnh thân mẫu về hưu, kế phụ làm công
chức, là một nhạc sĩ tài hoa có nhiều đam mê, Quỳnh Giao thực tế hỗ trợ
gia đình và được năm em bên dòng họ Dương vô cùng yêu quý. Từ năm 1968,
Quỳnh Giao còn dạy dương cầm tại gia về nhạc cổ điển Tây phương và lập
gia đình, được một con gái là Dzương Ngọc Bảo Cơ sau này tốt nghiệp cử
nhân về Giáo Dục tại Hoa Kỳ.
Trong lãnh vực phát thanh có đào
tạo chuyên nghiệp thời trước, các ca sĩ không được chọn ca khúc mà phải
trình bày những bản nhạc có hòa âm sẵn theo yêu cầu tại chỗ của nhạc
trưởng. Ngoài giọng ca, họ phải biết ký âm pháp, giỏi nhạc, một ngày ứng
khẩu hát nhiều bài khác nhau trước máy vi âm được phát thanh trực tiếp.
Quỳnh Giao là một trường hợp tiêu biểu cho các ca sĩ đài phát thanh.
Khi
biến cố 1975 bùng nổ, Quỳnh Giao cùng gia đình di tản vào Tháng Tư và
được anh ruột đón về miền Ðông Hoa Kỳ. Bào huynh của Quỳnh Giao là Giáo
Sư Nguyễn Phước Bửu Dương khi ấy dạy văn chương Pháp và Trung Hoa trong
đại học Hoa Kỳ. Ông là một trong những người Việt đầu tiên tốt nghiệp
tiến sĩ tại Ðại Học Harvard và nay sống tại miền Nam California với gia
đình Quỳnh Giao.
Tại miền Ðông, Quỳnh Giao mở lại lớp dương cầm tại gia và yểm trợ rồi đón nhận thân mẫu cũng các em vượt biên qua Mỹ.
Trong
thời gian này, Quỳnh Giao thực hiện lấy hai băng cassette có chủ đề
“Hát Cho Kỷ Niệm” vào các năm 1983 và 1988. Tự đệm lấy dương cầm với
phần phụ họa của Văn Phụng và vài nhạc sĩ, Quỳnh Giao trình bày lại
những ca khúc đẹp nhất của tân nhạc với lời giới thiệu của các nghệ sĩ
Vũ Thành, Phạm Duy, Phạm Ðình Chương, Cung Tiến, Thái Thanh, Kim Tước,
Châu Hà, Mai Thảo, Lê Văn, Duyên Anh, Bùi Bảo Trúc, Phạm Văn Kỳ Thanh,
v.v... Qua năm 1986, Quỳnh Giao cũng được nhà văn Duyên Anh mời trình
bày đĩa nhạc “Còn Thoáng Chiêm Bao.”
Cùng giai đoạn ấy, Quỳnh
Giao cộng tác và lưu diễn một số nơi với nhạc sĩ Phạm Ðình Chương, nhưng
cơ hội không nhiều vì sinh hoạt văn nghệ chưa phát triển rực rỡ như sau
này. Ðáng chú ý thì năm 1988 và 1989 đã cùng Kim Tước và Mai Hương
trình bày nhạc Cung Tiến với dàn nhạc thính phòng của nhạc công người Mỹ
tại miền Bắc, miền Nam California, Chicago và Minnesota.
Ðấy là
lúc khán giả biết đến những ca khúc mới và thuộc loại khó diễn tả nhất
của Cung Tiến, như 10 bài Vang Vang Trời Vào Xuân phổ thơ Thanh Tâm
Tuyền. Và nhất là tác phẩm Hoàng Hạc Lâu, phổ thơ Thôi Hiệu qua phần cảm
dịch của Vũ Hoàng Chương.
Sau khi tái giá với chuyên gia kinh
tế Nguyễn-Xuân Nghĩa - sau này là nhà bình luận hợp tác với các đài phát
thanh quốc tế và các tờ báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ, Quỳnh Giao qua
California sinh sống kể từ 1991. Trong môi trường sinh động và đông đảo
người Việt tại miền Tây Hoa Kỳ, Quỳnh Giao có cơ hội mở rộng hoạt động
tân nhạc.
Quỳnh Giao lần lượt thực hiện nhiều đĩa nhạc có giá trị
nghệ thuật, đa số với hòa âm của Duy Cường, như Khúc Nguyệt Quỳnh
(1992), Tiếng Chuông Chiều Thu (1996), Chiều Về Trên Sông (1997), Ngàn
Thu Áo Tím (1998), Hành Trình Phạm Duy (1999), Hình Ảnh Một Buổi Chiều
(2000), Tình Khúc Văn Phụng & Hoàng Trọng (2001), Thơ Tình Phổ Nhạc
(2002), Hoa Xuân (2003), Trở Về Thôn Cũ (2005) và Tình Khúc Phạm Duy
(2006).
Ngoài ra, Quỳnh Giao hợp tác với nhiều trung tâm để hoàn
thành đĩa Ðêm Tàn Bến Ngự - Tình Khúc Dương Thiệu Tước (1995) với tiếng
hát Kim Tước, đĩa Tình Khúc Văn Cao (1995) cùng tiếng hát Mai Hương và
có những ca khúc ghi âm riêng lẻ trong nhiều đĩa phát hành từ 1993 đến
2006.
Trong giai đoạn này, Quỳnh Giao còn có hai cống hiến khác cho tân nhạc.
Nhờ
sống gần Kim Tước và Mai Hương tại miền Nam California, ba chị em trình
diễn với nhau nhiều hơn và khi hợp ca thì tự động chia bè rất ăn khớp
với sự điêu luyện độc đáo. Từ đó, Ban tam ca Tiếng Tơ Ðồng Hải Ngoại ra
đời để nhắc về ban nhạc Tiếng Tơ Ðồng nổi tiếng trước 75 của nhạc sĩ
Hoàng Trọng khi ấy còn ở trong nước.
Ðáng kể hơn, là năm 1997
Quỳnh Giao thực hiện cho ban Việt ngữ đài BBC chương trình Suối Nguồn
Tân Nhạc Việt Nam. Ðược phát thanh hàng tuần qua 20 buổi, chương trình
thuộc loại “nhạc sử” vì nói về 60 năm tân nhạc cải cách Việt Nam từ thời
phôi thai năm 1938 đến sau này.
Quỳnh Giao phân đoạn theo thời
gian, theo thể tài và đọc lời giới thiệu với phần minh diễn của các ca
sĩ và phần phát biểu của nhiều nhạc sĩ. Nhờ nội dung phong phú và nhạc
hiệu là bản Bến Xuân của Văn Cao do chính Quỳnh Giao diễn tả, Suối Nguồn
Tân Nhạc được thính giả yêu thích nên là một trường hợp hiếm hoi được
BBC cho phát lại lần thứ hai.
Nguyên nhân sâu xa nữa sẽ được hiểu
ra sau này là Quỳnh Giao có ký ức rất sâu, đã sống với tân nhạc từ bé,
gần gũi với các nhạc sĩ và ca sĩ như trong một đại gia đình nên nắm vững
hoàn cảnh ra đời của từng ca khúc.
Người ta thấy được điều này khi đọc Quỳnh Giao.
Các
môn sinh của thầy Ưng Quả trong trường Quốc Học thì không ngạc nhiên
khi thấy Quỳnh Giao cầm bút. Sinh thời, nhà giáo ngày xưa là người lịch
lãm tài hoa với ngón đàn nguyệt mà cũng là một cây bút sắc xảo. Quỳnh
Giao tiếp nhận được huyết thống ấy, mà có lẽ khi còn thiếu thời đã không
tự biết.
Năm 1986, nhân dịp mừng sinh nhật thứ 65 của nhạc sĩ
Phạm Duy, từ miền Ðông, Quỳnh Giao đã có bài viết được đăng trên tờ Văn
Học xuất bản tại California. Sau đó là một bài về nhạc sĩ Vũ Thành vừa
tạ thế vào năm 1987. Ðược sự khuyến khích của nhà văn Nguyễn Mộng Giác
khi ấy phụ trách tờ Văn Học, Quỳnh Giao đã viết nhiều hơn từ tùy bút đến
truyện ngắn cho Văn Học và các tờ báo định kỳ khác, kể cả Thế Kỷ 21.
Khởi đầu là đề tài âm nhạc, gần như một loại tự truyện về thế giới tân
nhạc Việt Nam, sau này, Quỳnh Giao mở tầm viết và gây thích thú cho
người đọc...
Quỳnh Giao viết về nhạc thì cũng như kể chuyện về
các nghệ sĩ bằng hữu của thân mẫu. Nhưng kiến thức sâu sắc về nhạc và về
kỹ thuật trình bày còn giúp người đọc nhớ lại và có sự thưởng ngoạn cao
hơn với từng tác phẩm, từng tác giả hay người trình diễn. Nhờ vậy, độc
giả cảm nhận được giá trị đích thực của các ca khúc.
Khi mở ra
loại đề tài như điện ảnh, văn chương hay mỹ thuật, Quỳnh Giao còn cho
thấy sự am hiểu rộng lớn và thấu đáo. Với văn phong nhẹ nhàng, cái nhìn
tinh tế và cách nói khiêm nhường dí dỏm về mình, Quỳnh Giao lôi cuốn bạn
đọc và dần dần có một thành phần bạn đọc riêng.
Những điều ấy
trở thành rõ rệt khi Quỳnh Giao cộng tác với giai phẩm Xuân của Việt Báo
và nhật báo Người Việt trong mục “Tạp Ghi” với những bài định kỳ mỗi
tuần. Tạp Ghi Quỳnh Giao là mục ăn khách trên Người Việt kể từ năm 2005.
Cho đến nay thì đã có gần 500 bài.
Không chỉ đọc Quỳnh Giao,
người ta còn nghe thấy tiếng nói thanh quý rất ăn micro của người nghệ
sĩ. Những ai còn nhớ tới Quỳnh Giao trong chương trình Suối Nguồn Tân
Nhạc năm xưa của BBC tìm lại được tiếng nói đó qua mục Vòng Chân Trời
Văn Học Nghệ Thuật với nhà báo Lê Ðình Ðiểu của đài phát thanh VNCR. Sau
này, khi Người Việt TV thành hình từ Người Việt Online, Quỳnh Giao xuất
hiện trên màn ảnh trong chương trình “Câu Chuyện Văn Nghệ” cùng Nam
Phương hay Lê Hồng Quang. Ðấy là lúc khán giả thấy ra “cây bút Quỳnh
Giao” bằng xương thịt, với lối ứng khẩu tự nhiên và nhu mì để nói về đủ
loại đề tài hấp dẫn.
Trong khi đó, ở nhà, Quỳnh Giao tiếp tục việc dạy đàn và mở lớp luyện giọng.
Tháng
10, năm 2011, tờ Người Việt cho xuất bản Tạp Ghi Quỳnh Giao, một cuốn
sách thuộc loại ăn khách với 67 bài trên hơn 400 trang. Qua năm 2012,
Quỳnh Giao chuẩn bị hoàn thành cuốn thứ hai thì ngã trong vườn và bị
thương nặng. Sau một cuộc giải phẫu công phu vào Tháng Năm, việc sử dụng
tay trái đã bị trở ngại. Lớp dạy đàn mở ra từ mấy chục năm trước coi
như chấm dứt.
Mùa Xuân 2014, Quỳnh Giao tưởng mình ho vì bị cảm
lạnh. Nhưng sau một tháng chữa trị bình thường mà bệnh không dứt. Vào
một đêm của đầu Tháng Ba khi bị mất giọng, Quỳnh Giao mới được xe cấp
cứu đưa nhà thương và hôm sau thì như bị sét đánh. Ung thư phổi. Ðiều
này là bất ngờ vì trước đó không hề có triệu chứng gì, kể từ khi chiếu
điện vì gãy cánh tay mặt.
Sau hơn bốn tháng giải quyết bằng hóa
trị rồi xạ trị, Quỳnh Giao suy yếu dần về thể lực mà thần trí vẫn minh
mẫn lạc quan. Cho tới khi phải thường xuyên dùng ống dưỡng khí và đối
phó với nhiều biến chứng thì tình hình trở thành nguy kịch. Ðêm Thứ Ba
rạng ngày Thứ Tư 23 Tháng Bảy, Quỳnh Giao lặng lẽ gỡ ống dưỡng khí và ra
đi thanh thản trong giấc ngủ trước sự bàng hoàng ngơ ngác của chồng
con.
Quỳnh Giao làm đẹp cho đời bằng tiếng hát tuyệt vời và
những bài viết về nghệ thuật về mỹ thuật. Người ta thấy yêu đời và yêu
người hơn khi nghe hay đọc Quỳnh Giao.
“Lòng Ta Ở Với Người” là
tên một ca khúc của Trần Dạ Từ mới được Quỳnh Giao ghi âm mà chưa phổ
biến. Có lẽ đấy cũng là lời ca rất đúng về tấm lòng của người nghệ sĩ
vừa ra đi...