Nhân Vật
Reagan: “Ông Gorbachev, hãy giật sập bức tường này!”
Bài diễn văn của Tổng Thống Ronald Reagan với người dân Tây Berlin (1987) chứa đựng một trong những dòng phát biểu bất hũ nhất trong thời gian ông
Reagan: “Ông Gorbachev, hãy giật sập bức tường này!”
Dịch giả: Phạm Hồng Quyên, Đọt Chuối Non
Giới thiệu
Bài
diễn văn của Tổng Thống Ronald Reagan với người dân Tây Berlin (1987)
chứa đựng một trong những dòng phát biểu bất hũ nhất trong thời gian ông
ở vị trí tổng thống Hoa Kỳ. Bức tường Berlin, là từ mà Tổng Thống sử
dụng để ám chỉ bức tường được người Cộng sản xây dựng vào Tháng 8 Năm
1961 để ngăn chặn không cho người Đức đào thoát từ Đông Berlin do Cộng
Sản quản lý đến chế độ Dân Chủ ở Tây Berlin. Bức tường bê tông cao 12
feet kéo dài hàng trăm dặm, bao quanh Tây Berlin, và có cả hàng rào điện
và những đồn canh. Bức tường sừng sững đứng đó là biểu tượng trơ trụi
đại diện cho hàng thập niên Chiến Tranh Lạnh cũ giữa Hoa Kỳ và Liên Bang
Nga-Sô Viết, cái thời kỳ mà hai thế lực chính trị đối nghịch sử dụng
hết sức mạnh phi thường của mình liên tục tấn công đối phương để chiếm
thế thống trị, và chỉ dừng lại ở một khoảng cách ngắn ngủi với một cuộc
chiến thực sự.
Bài diễn văn
Chancellor
Kohl, Governing Mayor Diepgen, ladies and gentlemen: Twenty-four years
ago, President John F. Kennedy visited Berlin, speaking to the people of
this city and the world at the City Hall. Well, since then two other
presidents have come, each in his turn, to Berlin. And today I, myself,
make my second visit to your city.
Ngài
Thủ Tướng Kohl, Thị Trưởng Diepgen, và quý vị thân mến: Cách đây 24
năm, Tổng Thống John F. Kennedy đã đến thăm Berlin, nói chuyện với người
dân thành phố này và cả thế giới tại Toà Thị Chính. Và kể từ đó, hai vị
Tổng Thống khác đã đến, từng người một trong nhiệm kỳ của họ, đã đến
Berlin. Và hôm nay, tôi, chính tôi, đã đến đây lần thứ hai để thăm viếng
thành phố này.
We
come to Berlin, we American presidents, because it’s our duty to speak,
in this place, of freedom. But I must confess, we’re drawn here by
other things as well: by the feeling of history in this city, more than
500 years older than our own nation; by the beauty of the Grunewald and
the Tiergarten; most of all, by your courage and determination. Perhaps
the composer Paul Lincke understood something about American presidents.
You see, like so many presidents before me, I come here today because
wherever I go, whatever I do: Ich hab noch einen Koffer in Berlin. [I
still have a suitcase in Berlin.]
Chúng
tôi đến Berlin, chúng tôi những người Tổng Thống Hoa Kỳ, bởi vì trách
nhiệm của chúng tôi là phải nói, tại nơi này, về tự do. Nhưng tôi phải
thú nhận rằng chúng tôi bị thu hút về nơi này bằng những thứ khác nữa:
bởi cảm giác về lịch sử của thành phố này, hơn hẳn đất nước chúng tôi
những 500 năm tuổi; bởi vẻ đẹp của Grunewald và Tiergarten ; và trên tất
cả bởi lòng dũng cảm và sự quyết tâm của các bạn. Có lẽ nhà soạn nhạc
Paul Lincke đã hiểu đôi điều về các vị Tổng Thống Mỹ. Các bạn thấy đó,
giống như rất nhiều vị Tổng Thống tiền nhiệm trước tôi, tôi đến đây hôm
nay bởi vì cho dù tôi đi đâu, cho dù tôi làm gì: Ich hab noch einen
Koffer in Berlin. [Tôi vẫn còn để hành lý của mình ở Berlin]
Our
gathering today is being broadcast throughout Western Europe and North
America. I understand that it is being seen and heard as well in the
East. To those listening throughout Eastern Europe, a special word:
Although I cannot be with you, I address my remarks to you just as
surely as to those standing here before me. For I join you, as I join
your fellow countrymen in the West, in this firm, this unalterable
belief: Es gibt nur ein Berlin. [There is only one Berlin.]
Sự
kiện chúng ta đứng cùng nhau ở đây hôm nay sẽ được truyền thông khắp
Tây Âu và Bắc Mỹ. Tôi biết nó cũng sẽ được thấy và nghe ở phía Đông. Xin
gửi tới những người đang lắng nghe phát thanh này ở khắp Đông Âu, một
lời đặc biệt: Mặc dù chúng tôi không thể ở cùng với các bạn, tôi xem
trọng các bạn ở nơi đó cũng như mọi người đang đứng đây, trước tôi. Vì
tôi ở cùng với các bạn, khi tôi ở cùng với những người đồng hương của
các bạn ở phía Tây trong một niềm tin mãnh liệt không dời đổi: Es gibt
nu rein Berlin [Chỉ có một Berlin duy nhất]
Behind
me stands a wall that encircles the free sectors of this city, part of a
vast system of barriers that divides the entire continent of Europe.
From the Baltic, south, those barriers cut across Germany in a gash of
barbed wire, concrete, dog runs, and guard towers. Farther south, there
may be no visible, no obvious wall. But there remain armed guards and
checkpoints all the same–still a restriction on the right to travel,
still an instrument to impose upon ordinary men and women the will of a
totalitarian state. Yet it is here in Berlin where the wall emerges most
clearly; here, cutting across your city, where the news photo and the
television screen have imprinted this brutal division of a continent
upon the mind of the world. Standing before the Brandenburg Gate, every
man is a German, separated from his fellow men. Every man is a Berliner,
forced to look upon a scar.
Đằng
sau lưng tôi đứng sừng sững bức tường bao quanh khu vực tự do của thành
phố này, một phần rất lớn của bức tường ngăn đôi toàn thể lục địa của
châu Âu. Từ biển Baltic, ở phía nam, bức tường này băng ngang qua nước
Đức thành một vết cắt rất sâu với kẽm gai, bê tông, chó bảo vệ và các
đồn canh. Đi xa hơn nữa về phía nam, không nhìn thấy một bức tường cụ
thể nào ngay trước mắt. Nhưng những đồn kiểm tra và lính gác trang bị vũ
khí quân sự ở đó cũng tương tự vậy thôi – vẫn là sự hạn chế quyền tự do
đi lại, vẫn là phương tiện để bắt buộc những người dân bình thường hứng
chịu một tình trạng chuyên chế. Nhưng chính là ở đây, Berlin, là nơi
bức tường đứng sờ sờ ra đó rõ ràng nhất; ở đây, nó cắt ngang qua thành
phố của các bạn mà tất cả các hình ảnh trên báo chí và ti vi đều chìa ra
cho cả thế giới thấy sự chia cắt lục địa một cách nghiệt ngã. Đứng
trước Cổng Brandenburg, tất cả mọi người Đức đều bị chia cắt bởi những
người anh em cùng tổ quốc với mình. Tất cả mọi người Berlin đều bị ép
buộc phải ngước nhìn lên một vết cắt.
President
von Weizsacker has said, “The German question is open as long as the
Brandenburg Gate is closed.” Today I say: As long as the gate is closed,
as long as this scar of a wall is permitted to stand, it is not the
German question alone that remains open, but the question of freedom for
all mankind. Yet I do not come here to lament. For I find in Berlin a
message of hope, even in the shadow of this wall, a message of triumph.
Tổng
Thống von Weizsacker từng nói, “Chừng nào Cổng Brandenburg còn đóng,
khi đó vấn đề của người Đức vẫn còn để ngỏ”. Hôm nay tôi nói rằng: Ngày
nào cánh cửa này còn đóng chặt, ngày đó vết cắt – bức tường – vẫn còn
được phép ở đó, không phải chỉ là vấn đề của người Đức vẫn cứ còn để mở
ngỏ mà là cả câu hỏi về quyền tự do của nhân loại còn chưa được giải
đáp. Nhưng tôi không phải đến đây để than van và rên rỉ. Vì tôi tìm thấy
ở nơi đây, Berlin, ngay cả dưới bóng mờ của bức tường này, thông điệp
của hy vọng, thông điệp của vinh quang và chiến thắng.
In
this season of spring in 1945, the people of Berlin emerged from their
air-raid shelters to find devastation. Thousands of miles away, the
people of the United States reached out to help. And in 1947 Secretary
of State–as you’ve been told–George Marshall announced the creation of
what would become known as the Marshall Plan. Speaking precisely 40
years ago this month, he said: “Our policy is directed not against any
country or doctrine, but against hunger, poverty, desperation, and
chaos.”
Cũng
mùa xuân này năm 1945, người dân Berlin đã vùng dậy từ những hầm trú ẩn
tránh bom để nhin thấy cảnh hoang tàn đổ nát. Và từ hàng ngàn dặm xa,
người dân Hoa Kỳ đã vươn đến để trợ giúp. Rồi năm 1947, Ngoại Trưởng Hoa
Kỳ – như quý vị và các bạn đã được nghe – George Marshall đã tuyên bố
sáng lập dự án được mọi người biết đến với tên gọi “Dự Án Marshall”.
Chính xác mà nói, vào tháng này, cách đây 40 năm, ông đã tuyên bố:
“Chính sách của chúng tôi không hướng đến chống lại bất cứ đất nước nào,
chế độ nào mà chỉ chống lại đói, nghèo, tuyệt vọng, và mất trật tự”.
In
the Reichstag a few moments ago, I saw a display commemorating this
40th anniversary of the Marshall Plan. I was struck by the sign on a
burnt-out, gutted structure that was being rebuilt. I understand that
Berliners of my own generation can remember seeing signs like it dotted
throughout the western sectors of the city. The sign read simply: “The
Marshall Plan is helping here to strengthen the free world.” A strong,
free world in the West, that dream became real. Japan rose from ruin to
become an economic giant. Italy, France, Belgium–virtually every nation
in Western Europe saw political and economic rebirth; the European
Community was founded.
Chỉ
mới cách đây vài khoảnh khắc trong ngôi nhà Reichstag, tôi đã thấy một
trang trí tưởng niệm 40 năm “Dự Án Marshall”. Tôi đã rất ấn tượng bởi
tấm bảng treo trên một kiến trúc đã bị cháy rụi và phá hủy đang được xây
dựng lại. Tôi biết rằng người Berlin ở thế hệ của tôi có thể nhớ những
tấm bảng như thế xuất hiện ở rất nhiều nơi ở phần phía Tây của thành
phố. Trên đó đơn giản ghi: “Dự Án Marshall đang giúp đỡ nơi này nhằm mục
tiêu củng cố sức mạnh cho thế giới tự do”. Một thế giới mạnh mẽ và tự
do ở phương Tây, giấc mơ đã trở thành sự thật. Nhật Bản vươn lên từ đổ
nát để trở thành một người khổng lồ về kinh tế. Ý, Pháp, Bỉ – rõ ràng
mọi quốc gia Tây Âu đều đã nhìn thấy sự tái sinh về kinh tế và chính
trị; Hội Đồng Chung Châu Âu đã được thành lập.
In
West Germany and here in Berlin, there took place an economic miracle,
the Wirtschaftswunder. Adenauer, Erhard, Reuter, and other leaders
understood the practical importance of liberty–that just as truth can
flourish only when the journalist is given freedom of speech, so
prosperity can come about only when the farmer and businessman enjoy
economic freedom. The German leaders reduced tariffs, expanded free
trade, lowered taxes. From 1950 to 1960 alone, the standard of living in
West Germany and Berlin doubled.
Ở
Tây Đức và ở đây, Berlin, đã có những biến đổi kinh tế kỳ diệu như phép
mầu, các nhà truyền thông hàng đầu như Wirtschaftswunder. Adenauer,
Erhard, Reuter đã hiểu tầm quan trọng thực tiễn của tự do – nó cũng
giống như sự thật chỉ nở rộ khi người làm báo được trao quyền tự do ngôn
luận, cũng như thịnh vượng chỉ đến khi người nông dân và doanh nhân
được hưởng tự do làm kinh tế. Những nhà lãnh đạo nước Đức đã giảm thuế
xuất nhập khẩu, tăng cường mậu dịch tự do, giảm thuế trong nước. Chỉ từ
năm 1950 đến 1960 thôi, tiêu chuẩn sống ở Tây Đức và Berlin đã tăng gấp
đôi.
Where
four decades ago there was rubble, today in West Berlin there is the
greatest industrial output of any city in Germany–busy office blocks,
fine homes and apartments, proud avenues, and the spreading lawns of
parkland. Where a city’s culture seemed to have been destroyed, today
there are two great universities, orchestras and an opera, countless
theaters, and museums. Where there was want, today there’s
abundance–food, clothing, automobiles–the wonderful goods of the
Ku’damm. From devastation, from utter ruin, you Berliners have, in
freedom, rebuilt a city that once again ranks as one of the greatest on
earth. The Soviets may have had other plans. But my friends, there were a
few things the Soviets didn’t count on–Berliner Herz, Berliner Humor,
ja, und Berliner Schnauze. [Berliner heart, Berliner humor, yes, and a
Berliner Schnauze.]
Ở
nơi mà 4 thập niên trước đây chỉ là những hoang tàn đổ nát, ngày nay ở
Tây Berlin đã xuất hiện các cơ sở dành cho công nghiệp lớn nhất đối với
bất cứ thành phố nào trên nước Đức – các khu văn phòng bận rộn, những
khu nhà và căn hộ đẹp đẽ, những đại lộ tràn đầy tự hào, và những bãi cỏ
công viên trải dài tít tắp. Nơi mà văn hóa thành phố dường như đã bị phá
hủy, ngày nay ở đó có 02 đại học lớn, các phòng hòa nhạc và nhà hát
opera, không biết bao nhiêu rạp hát, và bảo tàng. Nơi mà ngày nào chỉ
toàn là thiếu thốn, ngày nay đầy ắp mọi thứ – thực phẩm, quần áo, xe cộ –
đầy những hàng hóa tuyệt vời ở Ku’damm . Từ tuyệt vọng, từ đổ nát hoàn
toàn, các bạn – những con dân Berlin – trong tự do – đã xây dựng lại
thành phố đã từng được và nay lại một lần nữa được xếp hạng trong số
những thành phố vĩ đại nhất trên trái đất. Người Sô Viết có thể có những
hoạch định khác. Nhưng các bạn của tôi ơi, có những thứ mà người Sô
Viết không kể đến – Berliner Herz, Berliner Humor, ja, und Berliner
Schnauze. [Tâm của người Berlin, sự hài hước của người Berlin, và vâng,
Berlin Schnauze ].
In
the 1950s, Khrushchev predicted: “We will bury you.” But in the West
today, we see a free world that has achieved a level of prosperity and
well-being unprecedented in all human history. In the Communist world,
we see failure, technological backwardness, declining standards of
health, even want of the most basic kind–too little food. Even today,
the Soviet Union still cannot feed itself. After these four decades,
then, there stands before the entire world one great and inescapable
conclusion: Freedom leads to prosperity. Freedom replaces the ancient
hatreds among the nations with comity and peace. Freedom is the victor.
Những
năm 1950, Khrushchev tiên đoán: “Chúng tôi sẽ chôn vùi mấy người”.
Nhưng ở Tây Đức ngày nay, chúng ta nhìn thấy một thế giới tự do đã đạt
được một mức độ thịnh vượng và hạnh phúc nhất định chưa từng thấy trong
lịch sử nhân loại. Trong thế giới Cộng Sản, chúng ta nhìn thấy tình
trạng khánh kiệt, lạc hậu về công nghệ, tiêu chuẩn y tế giảm sút, thậm
chí thiếu thốn cả nhu cầu cơ bản nhất – có quá ít thực phẩm. Ngay cả đến
giờ này, Liên Bang Sô Viết vẫn không có đủ thức ăn cho chính họ. Sau
bốn thập niên vừa qua, có thể thấy trước toàn thể thế giới một kết luận
hết sức rõ ràng và không thể chối bỏ: Có tự do mới dẫn đến thịnh vượng.
Tự do sẽ giúp mang đến sự thân thiện và hòa bình giữa các quốc gia thay
cho lòng thù hận truyền kỳ. Tự do là chiến thắng.
And
now the Soviets themselves may, in a limited way, be coming to
understand the importance of freedom. We hear much from Moscow about a
new policy of reform and openness. Some political prisoners have been
released. Certain foreign news broadcasts are no longer being jammed.
Some economic enterprises have been permitted to operate with greater
freedom from state control.
Và
bây giờ, chính người Sô Viết, theo một cách rất hạn chế, vẫn có thể đã
hiểu hơn tầm quan trọng của tự do. Chúng ta đã nghe rất nhiều từ
Matx-cơ-va về một chính sách mới về đổi mới và mở cửa.. Một số tù nhân
chính trị đã được trả tự do. Một số báo đài tin tức nước ngoài không còn
bị giấu nhẹm. Một vài công ty và cơ sở kinh tế đã được cho phép hoạt
động tự do ngoài tầm kiểm soát của nhà nước hơn.
Are
these the beginnings of profound changes in the Soviet state? Or are
they token gestures, intended to raise false hopes in the West, or to
strengthen the Soviet system without changing it? We welcome change and
openness; for we believe that freedom and security go together, that the
advance of human liberty can only strengthen the cause of world peace.
There is one sign the Soviets can make that would be unmistakable, that
would advance dramatically the cause of freedom and peace.
Đấy
có phải là bước khởi đầu cho những thay đổi lớn lao ở Liên Bang Sô
Viết? Hay là đó chỉ là những động tác giả tạo, với ý định nâng cao hy
vọng giả tạo ở phương Tây, hay là để củng cố sức mạnh của hệ thống Sô
Viết mà không cần tiến hành một sự thay đổi nào? Chúng ta chào đón thay
đổi và cởi mở; vì chúng tôi tin rằng tự do và an ninh đi cùng với nhau,
rằng tự do của con người càng cao chỉ có thể làm tăng động lực cho hòa
bình thế giới. Đó chính là dấu hiệu mà người Sô Viết có thể làm mà không
thể nhầm lẫn vào đâu được, nó sẽ giúp đẩy mạnh một cách đáng kể động
lực cho tự do và hòa bình.
General
Secretary Gorbachev, if you seek peace, if you seek prosperity for the
Soviet Union and Eastern Europe, if you seek liberalization: Come here
to this gate! Mr. Gorbachev, open this gate! Mr. Gorbachev, tear down
this wall!
Tổng
Thư Ký Gorbachev, nếu ông đi tìm hòa bình, nếu ông tđi tìm sự thịnh
vượng cho Liên Bang Sô Viết và Đông Âu, nếu ông đi tìm sự giải phóng:
Hãy đến cánh cổng này! Ông Gorbachev, hãy mở cánh cổng này! Ông
Gorbachev, hãy giật sập bức tường này!
I
understand the fear of war and the pain of division that afflict this
continent– and I pledge to you my country’s efforts to help overcome
these burdens. To be sure, we in the West must resist Soviet expansion.
So we must maintain defenses of unassailable strength. Yet we seek
peace; so we must strive to reduce arms on both sides.
Tôi
hiểu sự sợ hãi chiến tranh và nỗi đau ngăn cách đã làm khổ sở phần lục
địa này – và tôi cam kết với các bạn những nỗ lực của đất nước tôi để
giúp các bạn vượt qua những khổ đau nặng nề này. Để chắc chắn, chúng ta ở
phía Tây phải nhất định kháng cự sự bành trướng của Sô Viết. Vì vậy
chúng ta phải duy trì phòng vệ với sức mạnh không cho phép bất cứ sự tấn
công nào. Nhưng chúng ta đi tìm hòa bình; vì vậy chúng ta phải đấu
tranh để giảm bớt vũ trang ở cả 2 bên.
Beginning
10 years ago, the Soviets challenged the Western alliance with a grave
new threat, hundreds of new and more deadly SS-20 nuclear missiles,
capable of striking every capital in Europe. The Western alliance
responded by committing itself to a counter-deployment unless the
Soviets agreed to negotiate a better solution; namely, the elimination
of such weapons on both sides. For many months, the Soviets refused to
bargain in earnestness. As the alliance, in turn, prepared to go forward
with its counter-deployment, there were difficult days–days of protests
like those during my 1982 visit to this city–and the Soviets later
walked away from the table.
Bắt
đầu từ cách đây 10 năm, người Sô Viết đã thách thức các đồng minh
phương Tây với lời đe dọa khủng khiếp mới, hàng trăm tên lửa hạt nhân
SS-20 và khả năng sát thương cao hơn, có đủ khả năng tấn công mọi thủ đô
ở Châu Âu. Các đồng minh phương Tây phản ứng bằng cách cố tìm mọi cách
để triển khai quân sự chống lại nếu như người Sô Viết không chịu đàm
phán một giải pháp tốt hơn; thẳng ra, là kêu gọi loại bỏ những vũ khí
kiểu như thế ở cả 2 phía. Nhưng nhiều tháng trôi qua, người Sô Viết vẫn
từ chối thương lượng thật lòng. Và ngược lại, khi phe đồng minh chuẩn bị
để tiến tới triển khai quân sự đối phó, đó quả là những ngày tháng khó
khăn – ngày tháng của biểu tình kháng nghị ví dụ như năm 1982 khi tôi
đến thăm thành phố này – và người Sô Viết sau đó bỏ bàn đàm phán ra đi.
But
through it all, the alliance held firm. And I invite those who
protested then– I invite those who protest today–to mark this fact:
Because we remained strong, the Soviets came back to the table. And
because we remained strong, today we have within reach the possibility,
not merely of limiting the growth of arms, but of eliminating, for the
first time, an entire class of nuclear weapons from the face of the
earth.
Nhưng
dù thế nào đi nữa, phe đồng minh vẫn giữ vững lập trường. Và tôi mời
những người đã từng biểu tình kháng nghị lúc đó – Tôi mời những người
biểu tình ngày hôm nay – hãy đánh dấu sự thật rằng: Vì chúng ta giữ vững
lập trường một cách mạnh mẽ, người Sô Viết đã quay trở lại bàn đàm
phán. Và bởi vì chúng ta giữ vững lập trường một cách mạnh mẽ, hôm nay
chúng ta mới đến gần khả năng, không chỉ đơn thuần hạn chế vũ khí phát
triển, mà còn lần đầu tiên loại bỏ được toàn bộ một lớp vũ khí hạt nhân
ra khỏi bề mặt trái đất.
As
I speak, NATO ministers are meeting in Iceland to review the progress
of our proposals for eliminating these weapons. At the talks in Geneva,
we have also proposed deep cuts in strategic offensive weapons. And the
Western allies have likewise made far-reaching proposals to reduce the
danger of conventional war and to place a total ban on chemical weapons.
Khi
tôi đang phát biểu ở nơi này, các đại diện các quốc gia ở NATO đang
tiến hành cuộc họp ở Iceland để xem xét tiến trình bảng kiến nghị của
chúng ta về việc loại bỏ những vũ khí này. Tại bàn đàm phán ở Geneva,
chúng ta cũng đã đề xuất cắt giảm rất nhiều đối với các vũ khí tấn công
chiến lược. Và các nước đồng minh phương Tây cũng tương tự đã đề xuất
những mục tiêu rất cao để cắt giảm mối nguy xảy ra chiến tranh đánh trận
truyền thống và áp đặt một lệnh cấm hoàn toàn đối với vũ khí hóa học.
While
we pursue these arms reductions, I pledge to you that we will maintain
the capacity to deter Soviet aggression at any level at which it might
occur. And in cooperation with many of our allies, the United States is
pursuing the Strategic Defense Initiative–research to base deterrence
not on the threat of offensive retaliation, but on defenses that truly
defend; on systems, in short, that will not target populations, but
shield them. By these means we seek to increase the safety of Europe and
all the world. But we must remember a crucial fact: East and West do
not mistrust each other because we are armed; we are armed because we
mistrust each other. And our differences are not about weapons but about
liberty. When President Kennedy spoke at the City Hall those 24 years
ago, freedom was encircled, Berlin was under siege. And today, despite
all the pressures upon this city, Berlin stands secure in its liberty.
And freedom itself is transforming the globe.
Trong
khi chúng ta đang theo đuổi những đề xuất cắt giảm vũ khí vừa nêu, tôi
cam kết với các bạn rằng chúng ta vẫn sẽ tiếp tục duy trì khả năng phát
hiện sự tấn công của phía Sô Viết ở bất kỳ mức độ nào. Và khi hợp tác
với rất nhiều đồng minh của chúng tôi, nước Mỹ đang theo đuổi Sáng Kiến
Phòng Thủ Chiến Lược – một nghiên cứu ngăn chặn không dựa vào tấn công
những đe dọa trả đũa mà vào phòng thủ thực sự; nói đơn giản, sẽ là những
hệ thống không nhắm vào con người mà che chở cho con người. Với những
phương tiện này chúng tôi mong muốn gia tăng an ninh ở châu Âu và cả thế
giới. Nhưng chúng ta phải nhớ một sự thật quan trọng là: Đông và Tây
không tin tưởng lẫn nhau vì chúng ta đều có trang bị vũ trang; mà chúng
ta trang bị vũ trang vì chúng ta không tin tưởng nhau. Và sự khác biệt
của chúng ta [với phe phía Đông] không phải là vũ khí mà chính là sự tự
do. Khi Tổng Thống Kennedy phát biểu tại Tòa Thị Chính cách đây 24 năm,
tự do đã bị bao vây, Berlin đã bị vây hãm. Và ngày hôm nay, bất chấp tất
cả áp lực đè lên thành phố này, Berlin đứng an toàn trong sự độc lập
của mình. Và chính sự tự do đang làm chuyển đổi thế giới.
In
the Philippines, in South and Central America, democracy has been given
a rebirth. Throughout the Pacific, free markets are working miracle
after miracle of economic growth. In the industrialized nations, a
technological revolution is taking place–a revolution marked by rapid,
dramatic advances in computers and telecommunications.
Ở
Philippines, ở Nam và Trung Mỹ, dân chủ đã được tái sinh. Khắp Thái
Bình Dương, thị trường tự do đang là phép màu nhiệm sau phép màu phát
triển kinh tế. Ở các nước công nghiệp, cuộc cách mạng công nghệ đang
diễn ra – một cuộc cách mạng được đánh dấu bởi những phát triển nhanh và
đầy kịch tính trong công nghệ computer và viễn thông.
In
Europe, only one nation and those it controls refuse to join the
community of freedom. Yet in this age of redoubled economic growth, of
information and innovation, the Soviet Union faces a choice: It must
make fundamental changes, or it will become obsolete.
Ở
Châu Âu, chỉ có một quốc gia và những nước mà quốc gia đó kiểm soát từ
chối gia nhập cộng đồng tự do. Nhưng trong thời đại phát triển kinh tế
mạnh mẽ, thời đại của đổi mới và thông tin, Liên Bang Sô Viết đối diện
với 1 lựa chọn: họ phải tiến hành một sự thay đổi cơ bản, hoặc là họ sẽ
trở nên lỗi thời.
Today
thus represents a moment of hope. We in the West stand ready to
cooperate with the East to promote true openness, to break down barriers
that separate people, to create a safe, freer world. And surely there
is no better place than Berlin, the meeting place of East and West, to
make a start. Free people of Berlin: Today, as in the past, the United
States stands for the strict observance and full implementation of all
parts of the Four Power Agreement of 1971. Let us use this occasion, the
750th anniversary of this city, to usher in a new era, to seek a still
fuller, richer life for the Berlin of the future. Together, let us
maintain and develop the ties between the Federal Republic and the
Western sectors of Berlin, which is permitted by the 1971 agreement.
Do
đó ngày hôm nay đại diện cho khoảnh khắc của hy vọng. Chúng ta ở phương
Tây đứng lên sẵn sàng hợp tác với phương Đông để đi đến một sự cởi mở
chân thành, để phá vỡ những hàng rào ngăn cách đã chia cách con người
với con người, để tạo nên một thế giới an toàn hơn và tự do hơn. Và chắc
chắn rằng không có nơi nào tốt đẹp hơn Berlin, nơi phương Tây gặp gỡ
phương Đông, để khởi đầu cho sự hợp tác đó. Hỡi những con người tự do
của Berlin: Hôm nay, cũng như hôm qua, Nước Mỹ sẽ tuân thủ chặt chẽ và
đảm bảo thực hiện hoàn toàn tất cả các phần của Bản Hiệp Ước Bốn Bên năm
1971. Hãy cho phép chúng tôi nhân dịp này, kỷ niệm thành phố 750 tuổi,
để mở ra một kỷ nguyên mới, để tìm đến một đời sống mới toàn hảo hơn và
thịnh vượng hơn cho Berlin trong tương lai. Cùng với nhau, chúng ta hãy
duy trì và phát triển mối quan hệ bền chặt giữa Cộng Hòa Liên Bang và
Tây Berlin đã được Bản Hiệp Ước 1971 cho phép.
And
I invite Mr. Gorbachev: Let us work to bring the Eastern and Western
parts of the city closer together, so that all the inhabitants of all
Berlin can enjoy the benefits that come with life in one of the great
cities of the world.
Và
tôi gọi mời Tổng Thống Gorbachev: Hãy để chúng tôi mang hai phía Đông
Tây của thành phố này đến gần hơn với nhau, để tất cả cư dân của toàn
Berlin có thể tận hưởng những lợi ích đi kèm với đời sống của một trong
những thành phố lớn và tuyệt vời trên thế giới.
To
open Berlin still further to all Europe, East and West, let us expand
the vital air access to this city, finding ways of making commercial air
service to Berlin more convenient, more comfortable, and more
economical. We look to the day when West Berlin can become one of the
chief aviation hubs in all central Europe.
Để
mở cửa Berlin xa hơn đến toàn Châu Âu, Đông và Tây, chúng ta hãy mở
rộng đường bay cần thiết đến thành phố này, tìm cách để dịch vụ hàng
không thương mại của Berlin tiện lợi hơn, thoải mái hơn, và giá thấp
hơn. Chúng tôi mong được có một ngày khi Tây Berlin có thể trở thành một
trong những trạm vận chuyển hàng không trung tâm nhất trong khu vực
trung tâm của Châu Âu.
With
our French and British partners, the United States is prepared to help
bring international meetings to Berlin. It would be only fitting for
Berlin to serve as the site of United Nations meetings, or world
conferences on human rights and arms control or other issues that call
for international cooperation.
Cùng
với các đồng minh Anh và Pháp của chúng tôi, nước Mỹ đang chuẩn bị giúp
mang các cuộc họp quốc tế đến Berlin. Chỉ có Berlin là nơi phù hợp nhất
để tổ chức các cuộc họp của Liên Hiệp Quốc, hoặc các hội nghị toàn cầu
về nhân quyền và kiểm soát vũ trang hoặc các vấn đề kêu gọi hợp tác quốc
tế.
There
is no better way to establish hope for the future than to enlighten
young minds, and we would be honored to sponsor summer youth exchanges,
cultural events, and other programs for young Berliners from the East.
Our French and British friends, I’m certain, will do the same. And it’s
my hope that an authority can be found in East Berlin to sponsor visits
from young people of the Western sectors.
Không
có cách nào tạo ra niềm hy vọng cho tương lai tốt hơn là mở rộng và
phát triển đầu óc cũa giới trẻ và chúng tôi rất hân hạnh tài trợ cho
những chương trình trao đổi thanh thiếu niên trong mùa hè, các sự kiện
văn hóa cũng như những chương trình khác cho các thanh thiếu niên Berlin
ở Đông Berlin. Các bạn Anh và Pháp của chúng ta, tôi chắc chắn sẽ cũng
làm những điều tương tự. Và tôi hy vọng rằng sẽ có một chính quyền phía
Đông Berlin cũng tài trợ để cho phép các cuộc viếng thăm của các thanh
thiếu niên ở phía Tây Berlin.
One
final proposal, one close to my heart: Sport represents a source of
enjoyment and ennoblement, and you may have noted that the Republic of
Korea–South Korea–has offered to permit certain events of the 1988
Olympics to take place in the North. International sports competitions
of all kinds could take place in both parts of this city. And what
better way to demonstrate to the world the openness of this city than to
offer in some future year to hold the Olympic games here in Berlin,
East and West? In these four decades, as I have said, you Berliners have
built a great city. You’ve done so in spite of threats–the Soviet
attempts to impose the East-mark, the blockade. Today the city thrives
in spite of the challenges implicit in the very presence of this wall.
What keeps you here? Certainly there’s a great deal to be said for your
fortitude, for your defiant courage. But I believe there’s something
deeper, something that involves Berlin’s whole look and feel and way of
life–not mere sentiment. No one could live long in Berlin without being
completely disabused of illusions. Something instead, that has seen the
difficulties of life in Berlin but chose to accept them, that continues
to build this good and proud city in contrast to a surrounding
totalitarian presence that refuses to release human energies or
aspirations. Something that speaks with a powerful voice of affirmation,
that says yes to this city, yes to the future, yes to freedom. In a
word, I would submit that what keeps you in Berlin is love–love both
profound and abiding.
Lời
đề nghị cuối cùng, lời đề nghị rất gần với trái tim tôi: Thể thao là
nguồn vui và nguồn sinh lực sảng khoái, và các bạn chắc cũng đã chú ý
rằng Cộng Hòa Triều Tiên – Nam Hàn – đã đưa ra đề nghị cho phép một số
sự kiện nhất định trong Olympic 1988 được diễn ra ở phía Bắc. Các cuộc
thi thể thao quốc tế đủ thể loại có thể diễn ra ở cả 2 phần của thành
phố. Và cách nào tốt hơn để minh họa sự cởi mở của thành phố này với cả
thế giới hơn là đề nghị tổ chức, trong vài năm tới, một Thế Vận Hội
Olympic ở tại đây, Berlin, cả Đông và Tây?
Trong
4 thập niên vừa qua, như tôi đã nói, các bạn những người Berlin đã xây
dựng một thành phố tuyệt vời. Các bạn đã làm được bất chấp những đe dọa –
Sô Viết đã cố gắng để tác động mạnh lên các bạn với những dấu vết của
phía Đông, sự bao vây và phong tỏa. Ngày nay thành phố vươn lên thịnh
vượng bất chấp những thách thức tiềm tàng trong sự hiện diện của bức
tường này. Điều gì đã giữ các bạn ở đây giờ này? Chắc chắn có rất nhiều
điều để nói về sự mạnh mẽ và sự gan dạ không chùng của các bạn. Nhưng
tôi tin rằng còn có thứ khác sâu thẳm hơn, thứ mà có mối liên hệ với cái
nhìn và cảm xúc và đời sống của một Berlin toàn thể – không hoàn toàn
chỉ là cảm tính. Không ai có thể sống lâu lại Berlin mà không hoàn toàn
tỉnh thức. Thay vào cho những ảo tưởng là những điều nào đó ở các bạn,
cái đã chứng kiến được những khó khăn trong đời sống ở Berlin nhưng chọn
chấp nhận chúng, và tiếp tục giúp xây dựng một thành phố tốt đẹp và tự
hào ngược lại với sự hiện diện của chế độ chuyên chế ở xung quanh từ
chối thả tự do cho năng lượng hay khát vọng của con người. Một điều gì
đó vang lên bằng một giọng khẳng định mạnh mẽ, trả lời có với thành phố
này, có với tương lai, có với tự do. Chỉ 1 từ thôi, tôi dám nói đó là
những gì giữ các bạn ở lại với Berlin, đó là tình yêu – một tình yêu sâu
thẳm và không đổi dời.
Perhaps
this gets to the root of the matter, to the most fundamental
distinction of all between East and West. The totalitarian world
produces backwardness because it does such violence to the spirit,
thwarting the human impulse to create, to enjoy, to worship. The
totalitarian world finds even symbols of love and of worship an affront.
Years ago, before the East Germans began rebuilding their churches,
they erected a secular structure: the television tower at Alexander
Platz. Virtually ever since, the authorities have been working to
correct what they view as the tower’s one major flaw, treating the glass
sphere at the top with paints and chemicals of every kind. Yet even
today when the sun strikes that sphere–that sphere that towers over all
Berlin–the light makes the sign of the cross. There in Berlin, like the
city itself, symbols of love, symbols of worship, cannot be suppressed.
Có
lẽ điều này sẽ chạm đến gốc rễ của vấn đề, đến cái nền tảng riêng biệt
cơ bản nhất của tất cả những gì giữa Đông và Tây. Thế giới chuyên chế
tạo ra sự thụt lùi bởi vì nó cưỡng bức tinh thần, ngăn trở nhiệt huyết
của con người không cho họ sáng tạo, hưởng thụ hay thờ phượng. Thế giới
chuyên chế cho rằng ngay cả biểu tượng của tình yêu và sự tôn kính tôn
giáo là sỉ nhục. Cách đây nhiều năm, trước khi người Đông Đức xây dựng
lại các nhà thờ, họ đã dựng một kiến trúc vĩnh cửu: tháp ti vi tại Quãng
trường Alexander Platz. Gần như kể từ ngày đó, các nhà cầm quyền đã cố
gắng chỉnh sửa cái họ xem như 1 lỗi quan trọng của cái tháp, họ tìm mọi
cách sơn và sử dụng đủ loại hóa chất lên quả cầu kính trên đỉnh. Nhưng
ngay cả hôm nay, khi mặt trời rọi vào quả cầu – quả cầu vượt cao lên hẳn
khắp Berlin – tạo ra tia sáng mang hình thập tự. Đó chính là Berlin,
giống như chính thành phố, những biểu tượng của tình yêu, biểu tượng của
tôn kính tôn giáo không thể bị đàn áp.
As
I looked out a moment ago from the Reichstag, that embodiment of German
unity, I noticed words crudely spray-painted upon the wall, perhaps by a
young Berliner: “This wall will fall. Beliefs become reality.” Yes,
across Europe, this wall will fall. For it cannot withstand faith; it
cannot withstand truth. The wall cannot withstand freedom.
Khi
tôi ngắm vài khoảnh khắc trước đây từ Reichstag, hiện thân của một nước
Đức thống nhất, tôi chú ý những chữ được phun xịt bằng sơn nguệch ngoạc
trên bức tường, có lẽ bởi một bạn trẻ người Berlin: “Bước tường này sẽ
sụp đổ. Niềm tin trở nên hiện thực”. Vâng, xuyên qua Châu Âu, bức tường
này sẽ sụp đổ. Vì nó không thể kháng cự lại đức tin; nó không thể kháng
cự lại sự thật. Bức tường không thể kháng cự được tự do.
And
I would like, before I close, to say one word. I have read, and I have
been questioned since I’ve been here about certain demonstrations
against my coming. And I would like to say just one thing, and to those
who demonstrate so. I wonder if they have ever asked themselves that if
they should have the kind of government they apparently seek, no one
would ever be able to do what they’re doing again.
Và
tôi muốn, trước khi tôi kết thúc, phát biểu một thứ. Tôi đã đọc và tôi
đã thắc mắc từ khi tôi đến đây về các cuộc biểu tình chống đối cuộc đến
thăm của tôi ở Berlin. Và tôi chỉ muốn nói chỉ một thứ, và gửi đến những
người biểu tình. Tôi tự hỏi nếu họ có bao giờ thử hỏi lại chính họ rằng
nếu họ có được loại chính quyền mà họ đang mong muốn, liệu có ai có thể
làm cái điều mà họ đang làm thêm lần nữa không.
Thank you and God bless you all.
Trân trọng cám ơn và cầu mong Thượng Đế chúc phúc cho tất cả các bạn.
President Ronald Reagan – June 12, 1987
Tổng Thống Ronal Reagan – 12 Tháng 6 Năm 1987
Post-note:
Two years later, in November 1989, East Germans issued a decree for the
wall to be opened, allowing people to travel freely into West Berlin.
In some cases, families that had been separated for decades were finally
reunited. The wall was torn down altogether by the end of 1990 upon the
collapse of Communism in Eastern Europe and in Soviet Russia itself,
marking the end of the Cold War era.
Ghi chú thêm:
02 năm sau, Tháng 11 Năm 1989, người Đông Đức ban ra một nghị định mở
cửa bức tường, cho phép người dân đi lại tự do sang Tây Đức. Trong một
số trường hợp, các gia đình đã bị ly tán nhiều thập kỹ cuối cùng đã được
sum họp. Bức tường được giật sập hoàn toàn vào cuối năm 1990 theo sau
sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu và ngay tại Nga Sô Viết, đánh
dấu kết thúc thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Reagan: “Ông Gorbachev, hãy giật sập bức tường này!”
Bài diễn văn của Tổng Thống Ronald Reagan với người dân Tây Berlin (1987) chứa đựng một trong những dòng phát biểu bất hũ nhất trong thời gian ông
Reagan: “Ông Gorbachev, hãy giật sập bức tường này!”
Dịch giả: Phạm Hồng Quyên, Đọt Chuối Non
Giới thiệu
Bài
diễn văn của Tổng Thống Ronald Reagan với người dân Tây Berlin (1987)
chứa đựng một trong những dòng phát biểu bất hũ nhất trong thời gian ông
ở vị trí tổng thống Hoa Kỳ. Bức tường Berlin, là từ mà Tổng Thống sử
dụng để ám chỉ bức tường được người Cộng sản xây dựng vào Tháng 8 Năm
1961 để ngăn chặn không cho người Đức đào thoát từ Đông Berlin do Cộng
Sản quản lý đến chế độ Dân Chủ ở Tây Berlin. Bức tường bê tông cao 12
feet kéo dài hàng trăm dặm, bao quanh Tây Berlin, và có cả hàng rào điện
và những đồn canh. Bức tường sừng sững đứng đó là biểu tượng trơ trụi
đại diện cho hàng thập niên Chiến Tranh Lạnh cũ giữa Hoa Kỳ và Liên Bang
Nga-Sô Viết, cái thời kỳ mà hai thế lực chính trị đối nghịch sử dụng
hết sức mạnh phi thường của mình liên tục tấn công đối phương để chiếm
thế thống trị, và chỉ dừng lại ở một khoảng cách ngắn ngủi với một cuộc
chiến thực sự.
Bài diễn văn
Chancellor
Kohl, Governing Mayor Diepgen, ladies and gentlemen: Twenty-four years
ago, President John F. Kennedy visited Berlin, speaking to the people of
this city and the world at the City Hall. Well, since then two other
presidents have come, each in his turn, to Berlin. And today I, myself,
make my second visit to your city.
Ngài
Thủ Tướng Kohl, Thị Trưởng Diepgen, và quý vị thân mến: Cách đây 24
năm, Tổng Thống John F. Kennedy đã đến thăm Berlin, nói chuyện với người
dân thành phố này và cả thế giới tại Toà Thị Chính. Và kể từ đó, hai vị
Tổng Thống khác đã đến, từng người một trong nhiệm kỳ của họ, đã đến
Berlin. Và hôm nay, tôi, chính tôi, đã đến đây lần thứ hai để thăm viếng
thành phố này.
We
come to Berlin, we American presidents, because it’s our duty to speak,
in this place, of freedom. But I must confess, we’re drawn here by
other things as well: by the feeling of history in this city, more than
500 years older than our own nation; by the beauty of the Grunewald and
the Tiergarten; most of all, by your courage and determination. Perhaps
the composer Paul Lincke understood something about American presidents.
You see, like so many presidents before me, I come here today because
wherever I go, whatever I do: Ich hab noch einen Koffer in Berlin. [I
still have a suitcase in Berlin.]
Chúng
tôi đến Berlin, chúng tôi những người Tổng Thống Hoa Kỳ, bởi vì trách
nhiệm của chúng tôi là phải nói, tại nơi này, về tự do. Nhưng tôi phải
thú nhận rằng chúng tôi bị thu hút về nơi này bằng những thứ khác nữa:
bởi cảm giác về lịch sử của thành phố này, hơn hẳn đất nước chúng tôi
những 500 năm tuổi; bởi vẻ đẹp của Grunewald và Tiergarten ; và trên tất
cả bởi lòng dũng cảm và sự quyết tâm của các bạn. Có lẽ nhà soạn nhạc
Paul Lincke đã hiểu đôi điều về các vị Tổng Thống Mỹ. Các bạn thấy đó,
giống như rất nhiều vị Tổng Thống tiền nhiệm trước tôi, tôi đến đây hôm
nay bởi vì cho dù tôi đi đâu, cho dù tôi làm gì: Ich hab noch einen
Koffer in Berlin. [Tôi vẫn còn để hành lý của mình ở Berlin]
Our
gathering today is being broadcast throughout Western Europe and North
America. I understand that it is being seen and heard as well in the
East. To those listening throughout Eastern Europe, a special word:
Although I cannot be with you, I address my remarks to you just as
surely as to those standing here before me. For I join you, as I join
your fellow countrymen in the West, in this firm, this unalterable
belief: Es gibt nur ein Berlin. [There is only one Berlin.]
Sự
kiện chúng ta đứng cùng nhau ở đây hôm nay sẽ được truyền thông khắp
Tây Âu và Bắc Mỹ. Tôi biết nó cũng sẽ được thấy và nghe ở phía Đông. Xin
gửi tới những người đang lắng nghe phát thanh này ở khắp Đông Âu, một
lời đặc biệt: Mặc dù chúng tôi không thể ở cùng với các bạn, tôi xem
trọng các bạn ở nơi đó cũng như mọi người đang đứng đây, trước tôi. Vì
tôi ở cùng với các bạn, khi tôi ở cùng với những người đồng hương của
các bạn ở phía Tây trong một niềm tin mãnh liệt không dời đổi: Es gibt
nu rein Berlin [Chỉ có một Berlin duy nhất]
Behind
me stands a wall that encircles the free sectors of this city, part of a
vast system of barriers that divides the entire continent of Europe.
From the Baltic, south, those barriers cut across Germany in a gash of
barbed wire, concrete, dog runs, and guard towers. Farther south, there
may be no visible, no obvious wall. But there remain armed guards and
checkpoints all the same–still a restriction on the right to travel,
still an instrument to impose upon ordinary men and women the will of a
totalitarian state. Yet it is here in Berlin where the wall emerges most
clearly; here, cutting across your city, where the news photo and the
television screen have imprinted this brutal division of a continent
upon the mind of the world. Standing before the Brandenburg Gate, every
man is a German, separated from his fellow men. Every man is a Berliner,
forced to look upon a scar.
Đằng
sau lưng tôi đứng sừng sững bức tường bao quanh khu vực tự do của thành
phố này, một phần rất lớn của bức tường ngăn đôi toàn thể lục địa của
châu Âu. Từ biển Baltic, ở phía nam, bức tường này băng ngang qua nước
Đức thành một vết cắt rất sâu với kẽm gai, bê tông, chó bảo vệ và các
đồn canh. Đi xa hơn nữa về phía nam, không nhìn thấy một bức tường cụ
thể nào ngay trước mắt. Nhưng những đồn kiểm tra và lính gác trang bị vũ
khí quân sự ở đó cũng tương tự vậy thôi – vẫn là sự hạn chế quyền tự do
đi lại, vẫn là phương tiện để bắt buộc những người dân bình thường hứng
chịu một tình trạng chuyên chế. Nhưng chính là ở đây, Berlin, là nơi
bức tường đứng sờ sờ ra đó rõ ràng nhất; ở đây, nó cắt ngang qua thành
phố của các bạn mà tất cả các hình ảnh trên báo chí và ti vi đều chìa ra
cho cả thế giới thấy sự chia cắt lục địa một cách nghiệt ngã. Đứng
trước Cổng Brandenburg, tất cả mọi người Đức đều bị chia cắt bởi những
người anh em cùng tổ quốc với mình. Tất cả mọi người Berlin đều bị ép
buộc phải ngước nhìn lên một vết cắt.
President
von Weizsacker has said, “The German question is open as long as the
Brandenburg Gate is closed.” Today I say: As long as the gate is closed,
as long as this scar of a wall is permitted to stand, it is not the
German question alone that remains open, but the question of freedom for
all mankind. Yet I do not come here to lament. For I find in Berlin a
message of hope, even in the shadow of this wall, a message of triumph.
Tổng
Thống von Weizsacker từng nói, “Chừng nào Cổng Brandenburg còn đóng,
khi đó vấn đề của người Đức vẫn còn để ngỏ”. Hôm nay tôi nói rằng: Ngày
nào cánh cửa này còn đóng chặt, ngày đó vết cắt – bức tường – vẫn còn
được phép ở đó, không phải chỉ là vấn đề của người Đức vẫn cứ còn để mở
ngỏ mà là cả câu hỏi về quyền tự do của nhân loại còn chưa được giải
đáp. Nhưng tôi không phải đến đây để than van và rên rỉ. Vì tôi tìm thấy
ở nơi đây, Berlin, ngay cả dưới bóng mờ của bức tường này, thông điệp
của hy vọng, thông điệp của vinh quang và chiến thắng.
In
this season of spring in 1945, the people of Berlin emerged from their
air-raid shelters to find devastation. Thousands of miles away, the
people of the United States reached out to help. And in 1947 Secretary
of State–as you’ve been told–George Marshall announced the creation of
what would become known as the Marshall Plan. Speaking precisely 40
years ago this month, he said: “Our policy is directed not against any
country or doctrine, but against hunger, poverty, desperation, and
chaos.”
Cũng
mùa xuân này năm 1945, người dân Berlin đã vùng dậy từ những hầm trú ẩn
tránh bom để nhin thấy cảnh hoang tàn đổ nát. Và từ hàng ngàn dặm xa,
người dân Hoa Kỳ đã vươn đến để trợ giúp. Rồi năm 1947, Ngoại Trưởng Hoa
Kỳ – như quý vị và các bạn đã được nghe – George Marshall đã tuyên bố
sáng lập dự án được mọi người biết đến với tên gọi “Dự Án Marshall”.
Chính xác mà nói, vào tháng này, cách đây 40 năm, ông đã tuyên bố:
“Chính sách của chúng tôi không hướng đến chống lại bất cứ đất nước nào,
chế độ nào mà chỉ chống lại đói, nghèo, tuyệt vọng, và mất trật tự”.
In
the Reichstag a few moments ago, I saw a display commemorating this
40th anniversary of the Marshall Plan. I was struck by the sign on a
burnt-out, gutted structure that was being rebuilt. I understand that
Berliners of my own generation can remember seeing signs like it dotted
throughout the western sectors of the city. The sign read simply: “The
Marshall Plan is helping here to strengthen the free world.” A strong,
free world in the West, that dream became real. Japan rose from ruin to
become an economic giant. Italy, France, Belgium–virtually every nation
in Western Europe saw political and economic rebirth; the European
Community was founded.
Chỉ
mới cách đây vài khoảnh khắc trong ngôi nhà Reichstag, tôi đã thấy một
trang trí tưởng niệm 40 năm “Dự Án Marshall”. Tôi đã rất ấn tượng bởi
tấm bảng treo trên một kiến trúc đã bị cháy rụi và phá hủy đang được xây
dựng lại. Tôi biết rằng người Berlin ở thế hệ của tôi có thể nhớ những
tấm bảng như thế xuất hiện ở rất nhiều nơi ở phần phía Tây của thành
phố. Trên đó đơn giản ghi: “Dự Án Marshall đang giúp đỡ nơi này nhằm mục
tiêu củng cố sức mạnh cho thế giới tự do”. Một thế giới mạnh mẽ và tự
do ở phương Tây, giấc mơ đã trở thành sự thật. Nhật Bản vươn lên từ đổ
nát để trở thành một người khổng lồ về kinh tế. Ý, Pháp, Bỉ – rõ ràng
mọi quốc gia Tây Âu đều đã nhìn thấy sự tái sinh về kinh tế và chính
trị; Hội Đồng Chung Châu Âu đã được thành lập.
In
West Germany and here in Berlin, there took place an economic miracle,
the Wirtschaftswunder. Adenauer, Erhard, Reuter, and other leaders
understood the practical importance of liberty–that just as truth can
flourish only when the journalist is given freedom of speech, so
prosperity can come about only when the farmer and businessman enjoy
economic freedom. The German leaders reduced tariffs, expanded free
trade, lowered taxes. From 1950 to 1960 alone, the standard of living in
West Germany and Berlin doubled.
Ở
Tây Đức và ở đây, Berlin, đã có những biến đổi kinh tế kỳ diệu như phép
mầu, các nhà truyền thông hàng đầu như Wirtschaftswunder. Adenauer,
Erhard, Reuter đã hiểu tầm quan trọng thực tiễn của tự do – nó cũng
giống như sự thật chỉ nở rộ khi người làm báo được trao quyền tự do ngôn
luận, cũng như thịnh vượng chỉ đến khi người nông dân và doanh nhân
được hưởng tự do làm kinh tế. Những nhà lãnh đạo nước Đức đã giảm thuế
xuất nhập khẩu, tăng cường mậu dịch tự do, giảm thuế trong nước. Chỉ từ
năm 1950 đến 1960 thôi, tiêu chuẩn sống ở Tây Đức và Berlin đã tăng gấp
đôi.
Where
four decades ago there was rubble, today in West Berlin there is the
greatest industrial output of any city in Germany–busy office blocks,
fine homes and apartments, proud avenues, and the spreading lawns of
parkland. Where a city’s culture seemed to have been destroyed, today
there are two great universities, orchestras and an opera, countless
theaters, and museums. Where there was want, today there’s
abundance–food, clothing, automobiles–the wonderful goods of the
Ku’damm. From devastation, from utter ruin, you Berliners have, in
freedom, rebuilt a city that once again ranks as one of the greatest on
earth. The Soviets may have had other plans. But my friends, there were a
few things the Soviets didn’t count on–Berliner Herz, Berliner Humor,
ja, und Berliner Schnauze. [Berliner heart, Berliner humor, yes, and a
Berliner Schnauze.]
Ở
nơi mà 4 thập niên trước đây chỉ là những hoang tàn đổ nát, ngày nay ở
Tây Berlin đã xuất hiện các cơ sở dành cho công nghiệp lớn nhất đối với
bất cứ thành phố nào trên nước Đức – các khu văn phòng bận rộn, những
khu nhà và căn hộ đẹp đẽ, những đại lộ tràn đầy tự hào, và những bãi cỏ
công viên trải dài tít tắp. Nơi mà văn hóa thành phố dường như đã bị phá
hủy, ngày nay ở đó có 02 đại học lớn, các phòng hòa nhạc và nhà hát
opera, không biết bao nhiêu rạp hát, và bảo tàng. Nơi mà ngày nào chỉ
toàn là thiếu thốn, ngày nay đầy ắp mọi thứ – thực phẩm, quần áo, xe cộ –
đầy những hàng hóa tuyệt vời ở Ku’damm . Từ tuyệt vọng, từ đổ nát hoàn
toàn, các bạn – những con dân Berlin – trong tự do – đã xây dựng lại
thành phố đã từng được và nay lại một lần nữa được xếp hạng trong số
những thành phố vĩ đại nhất trên trái đất. Người Sô Viết có thể có những
hoạch định khác. Nhưng các bạn của tôi ơi, có những thứ mà người Sô
Viết không kể đến – Berliner Herz, Berliner Humor, ja, und Berliner
Schnauze. [Tâm của người Berlin, sự hài hước của người Berlin, và vâng,
Berlin Schnauze ].
In
the 1950s, Khrushchev predicted: “We will bury you.” But in the West
today, we see a free world that has achieved a level of prosperity and
well-being unprecedented in all human history. In the Communist world,
we see failure, technological backwardness, declining standards of
health, even want of the most basic kind–too little food. Even today,
the Soviet Union still cannot feed itself. After these four decades,
then, there stands before the entire world one great and inescapable
conclusion: Freedom leads to prosperity. Freedom replaces the ancient
hatreds among the nations with comity and peace. Freedom is the victor.
Những
năm 1950, Khrushchev tiên đoán: “Chúng tôi sẽ chôn vùi mấy người”.
Nhưng ở Tây Đức ngày nay, chúng ta nhìn thấy một thế giới tự do đã đạt
được một mức độ thịnh vượng và hạnh phúc nhất định chưa từng thấy trong
lịch sử nhân loại. Trong thế giới Cộng Sản, chúng ta nhìn thấy tình
trạng khánh kiệt, lạc hậu về công nghệ, tiêu chuẩn y tế giảm sút, thậm
chí thiếu thốn cả nhu cầu cơ bản nhất – có quá ít thực phẩm. Ngay cả đến
giờ này, Liên Bang Sô Viết vẫn không có đủ thức ăn cho chính họ. Sau
bốn thập niên vừa qua, có thể thấy trước toàn thể thế giới một kết luận
hết sức rõ ràng và không thể chối bỏ: Có tự do mới dẫn đến thịnh vượng.
Tự do sẽ giúp mang đến sự thân thiện và hòa bình giữa các quốc gia thay
cho lòng thù hận truyền kỳ. Tự do là chiến thắng.
And
now the Soviets themselves may, in a limited way, be coming to
understand the importance of freedom. We hear much from Moscow about a
new policy of reform and openness. Some political prisoners have been
released. Certain foreign news broadcasts are no longer being jammed.
Some economic enterprises have been permitted to operate with greater
freedom from state control.
Và
bây giờ, chính người Sô Viết, theo một cách rất hạn chế, vẫn có thể đã
hiểu hơn tầm quan trọng của tự do. Chúng ta đã nghe rất nhiều từ
Matx-cơ-va về một chính sách mới về đổi mới và mở cửa.. Một số tù nhân
chính trị đã được trả tự do. Một số báo đài tin tức nước ngoài không còn
bị giấu nhẹm. Một vài công ty và cơ sở kinh tế đã được cho phép hoạt
động tự do ngoài tầm kiểm soát của nhà nước hơn.
Are
these the beginnings of profound changes in the Soviet state? Or are
they token gestures, intended to raise false hopes in the West, or to
strengthen the Soviet system without changing it? We welcome change and
openness; for we believe that freedom and security go together, that the
advance of human liberty can only strengthen the cause of world peace.
There is one sign the Soviets can make that would be unmistakable, that
would advance dramatically the cause of freedom and peace.
Đấy
có phải là bước khởi đầu cho những thay đổi lớn lao ở Liên Bang Sô
Viết? Hay là đó chỉ là những động tác giả tạo, với ý định nâng cao hy
vọng giả tạo ở phương Tây, hay là để củng cố sức mạnh của hệ thống Sô
Viết mà không cần tiến hành một sự thay đổi nào? Chúng ta chào đón thay
đổi và cởi mở; vì chúng tôi tin rằng tự do và an ninh đi cùng với nhau,
rằng tự do của con người càng cao chỉ có thể làm tăng động lực cho hòa
bình thế giới. Đó chính là dấu hiệu mà người Sô Viết có thể làm mà không
thể nhầm lẫn vào đâu được, nó sẽ giúp đẩy mạnh một cách đáng kể động
lực cho tự do và hòa bình.
General
Secretary Gorbachev, if you seek peace, if you seek prosperity for the
Soviet Union and Eastern Europe, if you seek liberalization: Come here
to this gate! Mr. Gorbachev, open this gate! Mr. Gorbachev, tear down
this wall!
Tổng
Thư Ký Gorbachev, nếu ông đi tìm hòa bình, nếu ông tđi tìm sự thịnh
vượng cho Liên Bang Sô Viết và Đông Âu, nếu ông đi tìm sự giải phóng:
Hãy đến cánh cổng này! Ông Gorbachev, hãy mở cánh cổng này! Ông
Gorbachev, hãy giật sập bức tường này!
I
understand the fear of war and the pain of division that afflict this
continent– and I pledge to you my country’s efforts to help overcome
these burdens. To be sure, we in the West must resist Soviet expansion.
So we must maintain defenses of unassailable strength. Yet we seek
peace; so we must strive to reduce arms on both sides.
Tôi
hiểu sự sợ hãi chiến tranh và nỗi đau ngăn cách đã làm khổ sở phần lục
địa này – và tôi cam kết với các bạn những nỗ lực của đất nước tôi để
giúp các bạn vượt qua những khổ đau nặng nề này. Để chắc chắn, chúng ta ở
phía Tây phải nhất định kháng cự sự bành trướng của Sô Viết. Vì vậy
chúng ta phải duy trì phòng vệ với sức mạnh không cho phép bất cứ sự tấn
công nào. Nhưng chúng ta đi tìm hòa bình; vì vậy chúng ta phải đấu
tranh để giảm bớt vũ trang ở cả 2 bên.
Beginning
10 years ago, the Soviets challenged the Western alliance with a grave
new threat, hundreds of new and more deadly SS-20 nuclear missiles,
capable of striking every capital in Europe. The Western alliance
responded by committing itself to a counter-deployment unless the
Soviets agreed to negotiate a better solution; namely, the elimination
of such weapons on both sides. For many months, the Soviets refused to
bargain in earnestness. As the alliance, in turn, prepared to go forward
with its counter-deployment, there were difficult days–days of protests
like those during my 1982 visit to this city–and the Soviets later
walked away from the table.
Bắt
đầu từ cách đây 10 năm, người Sô Viết đã thách thức các đồng minh
phương Tây với lời đe dọa khủng khiếp mới, hàng trăm tên lửa hạt nhân
SS-20 và khả năng sát thương cao hơn, có đủ khả năng tấn công mọi thủ đô
ở Châu Âu. Các đồng minh phương Tây phản ứng bằng cách cố tìm mọi cách
để triển khai quân sự chống lại nếu như người Sô Viết không chịu đàm
phán một giải pháp tốt hơn; thẳng ra, là kêu gọi loại bỏ những vũ khí
kiểu như thế ở cả 2 phía. Nhưng nhiều tháng trôi qua, người Sô Viết vẫn
từ chối thương lượng thật lòng. Và ngược lại, khi phe đồng minh chuẩn bị
để tiến tới triển khai quân sự đối phó, đó quả là những ngày tháng khó
khăn – ngày tháng của biểu tình kháng nghị ví dụ như năm 1982 khi tôi
đến thăm thành phố này – và người Sô Viết sau đó bỏ bàn đàm phán ra đi.
But
through it all, the alliance held firm. And I invite those who
protested then– I invite those who protest today–to mark this fact:
Because we remained strong, the Soviets came back to the table. And
because we remained strong, today we have within reach the possibility,
not merely of limiting the growth of arms, but of eliminating, for the
first time, an entire class of nuclear weapons from the face of the
earth.
Nhưng
dù thế nào đi nữa, phe đồng minh vẫn giữ vững lập trường. Và tôi mời
những người đã từng biểu tình kháng nghị lúc đó – Tôi mời những người
biểu tình ngày hôm nay – hãy đánh dấu sự thật rằng: Vì chúng ta giữ vững
lập trường một cách mạnh mẽ, người Sô Viết đã quay trở lại bàn đàm
phán. Và bởi vì chúng ta giữ vững lập trường một cách mạnh mẽ, hôm nay
chúng ta mới đến gần khả năng, không chỉ đơn thuần hạn chế vũ khí phát
triển, mà còn lần đầu tiên loại bỏ được toàn bộ một lớp vũ khí hạt nhân
ra khỏi bề mặt trái đất.
As
I speak, NATO ministers are meeting in Iceland to review the progress
of our proposals for eliminating these weapons. At the talks in Geneva,
we have also proposed deep cuts in strategic offensive weapons. And the
Western allies have likewise made far-reaching proposals to reduce the
danger of conventional war and to place a total ban on chemical weapons.
Khi
tôi đang phát biểu ở nơi này, các đại diện các quốc gia ở NATO đang
tiến hành cuộc họp ở Iceland để xem xét tiến trình bảng kiến nghị của
chúng ta về việc loại bỏ những vũ khí này. Tại bàn đàm phán ở Geneva,
chúng ta cũng đã đề xuất cắt giảm rất nhiều đối với các vũ khí tấn công
chiến lược. Và các nước đồng minh phương Tây cũng tương tự đã đề xuất
những mục tiêu rất cao để cắt giảm mối nguy xảy ra chiến tranh đánh trận
truyền thống và áp đặt một lệnh cấm hoàn toàn đối với vũ khí hóa học.
While
we pursue these arms reductions, I pledge to you that we will maintain
the capacity to deter Soviet aggression at any level at which it might
occur. And in cooperation with many of our allies, the United States is
pursuing the Strategic Defense Initiative–research to base deterrence
not on the threat of offensive retaliation, but on defenses that truly
defend; on systems, in short, that will not target populations, but
shield them. By these means we seek to increase the safety of Europe and
all the world. But we must remember a crucial fact: East and West do
not mistrust each other because we are armed; we are armed because we
mistrust each other. And our differences are not about weapons but about
liberty. When President Kennedy spoke at the City Hall those 24 years
ago, freedom was encircled, Berlin was under siege. And today, despite
all the pressures upon this city, Berlin stands secure in its liberty.
And freedom itself is transforming the globe.
Trong
khi chúng ta đang theo đuổi những đề xuất cắt giảm vũ khí vừa nêu, tôi
cam kết với các bạn rằng chúng ta vẫn sẽ tiếp tục duy trì khả năng phát
hiện sự tấn công của phía Sô Viết ở bất kỳ mức độ nào. Và khi hợp tác
với rất nhiều đồng minh của chúng tôi, nước Mỹ đang theo đuổi Sáng Kiến
Phòng Thủ Chiến Lược – một nghiên cứu ngăn chặn không dựa vào tấn công
những đe dọa trả đũa mà vào phòng thủ thực sự; nói đơn giản, sẽ là những
hệ thống không nhắm vào con người mà che chở cho con người. Với những
phương tiện này chúng tôi mong muốn gia tăng an ninh ở châu Âu và cả thế
giới. Nhưng chúng ta phải nhớ một sự thật quan trọng là: Đông và Tây
không tin tưởng lẫn nhau vì chúng ta đều có trang bị vũ trang; mà chúng
ta trang bị vũ trang vì chúng ta không tin tưởng nhau. Và sự khác biệt
của chúng ta [với phe phía Đông] không phải là vũ khí mà chính là sự tự
do. Khi Tổng Thống Kennedy phát biểu tại Tòa Thị Chính cách đây 24 năm,
tự do đã bị bao vây, Berlin đã bị vây hãm. Và ngày hôm nay, bất chấp tất
cả áp lực đè lên thành phố này, Berlin đứng an toàn trong sự độc lập
của mình. Và chính sự tự do đang làm chuyển đổi thế giới.
In
the Philippines, in South and Central America, democracy has been given
a rebirth. Throughout the Pacific, free markets are working miracle
after miracle of economic growth. In the industrialized nations, a
technological revolution is taking place–a revolution marked by rapid,
dramatic advances in computers and telecommunications.
Ở
Philippines, ở Nam và Trung Mỹ, dân chủ đã được tái sinh. Khắp Thái
Bình Dương, thị trường tự do đang là phép màu nhiệm sau phép màu phát
triển kinh tế. Ở các nước công nghiệp, cuộc cách mạng công nghệ đang
diễn ra – một cuộc cách mạng được đánh dấu bởi những phát triển nhanh và
đầy kịch tính trong công nghệ computer và viễn thông.
In
Europe, only one nation and those it controls refuse to join the
community of freedom. Yet in this age of redoubled economic growth, of
information and innovation, the Soviet Union faces a choice: It must
make fundamental changes, or it will become obsolete.
Ở
Châu Âu, chỉ có một quốc gia và những nước mà quốc gia đó kiểm soát từ
chối gia nhập cộng đồng tự do. Nhưng trong thời đại phát triển kinh tế
mạnh mẽ, thời đại của đổi mới và thông tin, Liên Bang Sô Viết đối diện
với 1 lựa chọn: họ phải tiến hành một sự thay đổi cơ bản, hoặc là họ sẽ
trở nên lỗi thời.
Today
thus represents a moment of hope. We in the West stand ready to
cooperate with the East to promote true openness, to break down barriers
that separate people, to create a safe, freer world. And surely there
is no better place than Berlin, the meeting place of East and West, to
make a start. Free people of Berlin: Today, as in the past, the United
States stands for the strict observance and full implementation of all
parts of the Four Power Agreement of 1971. Let us use this occasion, the
750th anniversary of this city, to usher in a new era, to seek a still
fuller, richer life for the Berlin of the future. Together, let us
maintain and develop the ties between the Federal Republic and the
Western sectors of Berlin, which is permitted by the 1971 agreement.
Do
đó ngày hôm nay đại diện cho khoảnh khắc của hy vọng. Chúng ta ở phương
Tây đứng lên sẵn sàng hợp tác với phương Đông để đi đến một sự cởi mở
chân thành, để phá vỡ những hàng rào ngăn cách đã chia cách con người
với con người, để tạo nên một thế giới an toàn hơn và tự do hơn. Và chắc
chắn rằng không có nơi nào tốt đẹp hơn Berlin, nơi phương Tây gặp gỡ
phương Đông, để khởi đầu cho sự hợp tác đó. Hỡi những con người tự do
của Berlin: Hôm nay, cũng như hôm qua, Nước Mỹ sẽ tuân thủ chặt chẽ và
đảm bảo thực hiện hoàn toàn tất cả các phần của Bản Hiệp Ước Bốn Bên năm
1971. Hãy cho phép chúng tôi nhân dịp này, kỷ niệm thành phố 750 tuổi,
để mở ra một kỷ nguyên mới, để tìm đến một đời sống mới toàn hảo hơn và
thịnh vượng hơn cho Berlin trong tương lai. Cùng với nhau, chúng ta hãy
duy trì và phát triển mối quan hệ bền chặt giữa Cộng Hòa Liên Bang và
Tây Berlin đã được Bản Hiệp Ước 1971 cho phép.
And
I invite Mr. Gorbachev: Let us work to bring the Eastern and Western
parts of the city closer together, so that all the inhabitants of all
Berlin can enjoy the benefits that come with life in one of the great
cities of the world.
Và
tôi gọi mời Tổng Thống Gorbachev: Hãy để chúng tôi mang hai phía Đông
Tây của thành phố này đến gần hơn với nhau, để tất cả cư dân của toàn
Berlin có thể tận hưởng những lợi ích đi kèm với đời sống của một trong
những thành phố lớn và tuyệt vời trên thế giới.
To
open Berlin still further to all Europe, East and West, let us expand
the vital air access to this city, finding ways of making commercial air
service to Berlin more convenient, more comfortable, and more
economical. We look to the day when West Berlin can become one of the
chief aviation hubs in all central Europe.
Để
mở cửa Berlin xa hơn đến toàn Châu Âu, Đông và Tây, chúng ta hãy mở
rộng đường bay cần thiết đến thành phố này, tìm cách để dịch vụ hàng
không thương mại của Berlin tiện lợi hơn, thoải mái hơn, và giá thấp
hơn. Chúng tôi mong được có một ngày khi Tây Berlin có thể trở thành một
trong những trạm vận chuyển hàng không trung tâm nhất trong khu vực
trung tâm của Châu Âu.
With
our French and British partners, the United States is prepared to help
bring international meetings to Berlin. It would be only fitting for
Berlin to serve as the site of United Nations meetings, or world
conferences on human rights and arms control or other issues that call
for international cooperation.
Cùng
với các đồng minh Anh và Pháp của chúng tôi, nước Mỹ đang chuẩn bị giúp
mang các cuộc họp quốc tế đến Berlin. Chỉ có Berlin là nơi phù hợp nhất
để tổ chức các cuộc họp của Liên Hiệp Quốc, hoặc các hội nghị toàn cầu
về nhân quyền và kiểm soát vũ trang hoặc các vấn đề kêu gọi hợp tác quốc
tế.
There
is no better way to establish hope for the future than to enlighten
young minds, and we would be honored to sponsor summer youth exchanges,
cultural events, and other programs for young Berliners from the East.
Our French and British friends, I’m certain, will do the same. And it’s
my hope that an authority can be found in East Berlin to sponsor visits
from young people of the Western sectors.
Không
có cách nào tạo ra niềm hy vọng cho tương lai tốt hơn là mở rộng và
phát triển đầu óc cũa giới trẻ và chúng tôi rất hân hạnh tài trợ cho
những chương trình trao đổi thanh thiếu niên trong mùa hè, các sự kiện
văn hóa cũng như những chương trình khác cho các thanh thiếu niên Berlin
ở Đông Berlin. Các bạn Anh và Pháp của chúng ta, tôi chắc chắn sẽ cũng
làm những điều tương tự. Và tôi hy vọng rằng sẽ có một chính quyền phía
Đông Berlin cũng tài trợ để cho phép các cuộc viếng thăm của các thanh
thiếu niên ở phía Tây Berlin.
One
final proposal, one close to my heart: Sport represents a source of
enjoyment and ennoblement, and you may have noted that the Republic of
Korea–South Korea–has offered to permit certain events of the 1988
Olympics to take place in the North. International sports competitions
of all kinds could take place in both parts of this city. And what
better way to demonstrate to the world the openness of this city than to
offer in some future year to hold the Olympic games here in Berlin,
East and West? In these four decades, as I have said, you Berliners have
built a great city. You’ve done so in spite of threats–the Soviet
attempts to impose the East-mark, the blockade. Today the city thrives
in spite of the challenges implicit in the very presence of this wall.
What keeps you here? Certainly there’s a great deal to be said for your
fortitude, for your defiant courage. But I believe there’s something
deeper, something that involves Berlin’s whole look and feel and way of
life–not mere sentiment. No one could live long in Berlin without being
completely disabused of illusions. Something instead, that has seen the
difficulties of life in Berlin but chose to accept them, that continues
to build this good and proud city in contrast to a surrounding
totalitarian presence that refuses to release human energies or
aspirations. Something that speaks with a powerful voice of affirmation,
that says yes to this city, yes to the future, yes to freedom. In a
word, I would submit that what keeps you in Berlin is love–love both
profound and abiding.
Lời
đề nghị cuối cùng, lời đề nghị rất gần với trái tim tôi: Thể thao là
nguồn vui và nguồn sinh lực sảng khoái, và các bạn chắc cũng đã chú ý
rằng Cộng Hòa Triều Tiên – Nam Hàn – đã đưa ra đề nghị cho phép một số
sự kiện nhất định trong Olympic 1988 được diễn ra ở phía Bắc. Các cuộc
thi thể thao quốc tế đủ thể loại có thể diễn ra ở cả 2 phần của thành
phố. Và cách nào tốt hơn để minh họa sự cởi mở của thành phố này với cả
thế giới hơn là đề nghị tổ chức, trong vài năm tới, một Thế Vận Hội
Olympic ở tại đây, Berlin, cả Đông và Tây?
Trong
4 thập niên vừa qua, như tôi đã nói, các bạn những người Berlin đã xây
dựng một thành phố tuyệt vời. Các bạn đã làm được bất chấp những đe dọa –
Sô Viết đã cố gắng để tác động mạnh lên các bạn với những dấu vết của
phía Đông, sự bao vây và phong tỏa. Ngày nay thành phố vươn lên thịnh
vượng bất chấp những thách thức tiềm tàng trong sự hiện diện của bức
tường này. Điều gì đã giữ các bạn ở đây giờ này? Chắc chắn có rất nhiều
điều để nói về sự mạnh mẽ và sự gan dạ không chùng của các bạn. Nhưng
tôi tin rằng còn có thứ khác sâu thẳm hơn, thứ mà có mối liên hệ với cái
nhìn và cảm xúc và đời sống của một Berlin toàn thể – không hoàn toàn
chỉ là cảm tính. Không ai có thể sống lâu lại Berlin mà không hoàn toàn
tỉnh thức. Thay vào cho những ảo tưởng là những điều nào đó ở các bạn,
cái đã chứng kiến được những khó khăn trong đời sống ở Berlin nhưng chọn
chấp nhận chúng, và tiếp tục giúp xây dựng một thành phố tốt đẹp và tự
hào ngược lại với sự hiện diện của chế độ chuyên chế ở xung quanh từ
chối thả tự do cho năng lượng hay khát vọng của con người. Một điều gì
đó vang lên bằng một giọng khẳng định mạnh mẽ, trả lời có với thành phố
này, có với tương lai, có với tự do. Chỉ 1 từ thôi, tôi dám nói đó là
những gì giữ các bạn ở lại với Berlin, đó là tình yêu – một tình yêu sâu
thẳm và không đổi dời.
Perhaps
this gets to the root of the matter, to the most fundamental
distinction of all between East and West. The totalitarian world
produces backwardness because it does such violence to the spirit,
thwarting the human impulse to create, to enjoy, to worship. The
totalitarian world finds even symbols of love and of worship an affront.
Years ago, before the East Germans began rebuilding their churches,
they erected a secular structure: the television tower at Alexander
Platz. Virtually ever since, the authorities have been working to
correct what they view as the tower’s one major flaw, treating the glass
sphere at the top with paints and chemicals of every kind. Yet even
today when the sun strikes that sphere–that sphere that towers over all
Berlin–the light makes the sign of the cross. There in Berlin, like the
city itself, symbols of love, symbols of worship, cannot be suppressed.
Có
lẽ điều này sẽ chạm đến gốc rễ của vấn đề, đến cái nền tảng riêng biệt
cơ bản nhất của tất cả những gì giữa Đông và Tây. Thế giới chuyên chế
tạo ra sự thụt lùi bởi vì nó cưỡng bức tinh thần, ngăn trở nhiệt huyết
của con người không cho họ sáng tạo, hưởng thụ hay thờ phượng. Thế giới
chuyên chế cho rằng ngay cả biểu tượng của tình yêu và sự tôn kính tôn
giáo là sỉ nhục. Cách đây nhiều năm, trước khi người Đông Đức xây dựng
lại các nhà thờ, họ đã dựng một kiến trúc vĩnh cửu: tháp ti vi tại Quãng
trường Alexander Platz. Gần như kể từ ngày đó, các nhà cầm quyền đã cố
gắng chỉnh sửa cái họ xem như 1 lỗi quan trọng của cái tháp, họ tìm mọi
cách sơn và sử dụng đủ loại hóa chất lên quả cầu kính trên đỉnh. Nhưng
ngay cả hôm nay, khi mặt trời rọi vào quả cầu – quả cầu vượt cao lên hẳn
khắp Berlin – tạo ra tia sáng mang hình thập tự. Đó chính là Berlin,
giống như chính thành phố, những biểu tượng của tình yêu, biểu tượng của
tôn kính tôn giáo không thể bị đàn áp.
As
I looked out a moment ago from the Reichstag, that embodiment of German
unity, I noticed words crudely spray-painted upon the wall, perhaps by a
young Berliner: “This wall will fall. Beliefs become reality.” Yes,
across Europe, this wall will fall. For it cannot withstand faith; it
cannot withstand truth. The wall cannot withstand freedom.
Khi
tôi ngắm vài khoảnh khắc trước đây từ Reichstag, hiện thân của một nước
Đức thống nhất, tôi chú ý những chữ được phun xịt bằng sơn nguệch ngoạc
trên bức tường, có lẽ bởi một bạn trẻ người Berlin: “Bước tường này sẽ
sụp đổ. Niềm tin trở nên hiện thực”. Vâng, xuyên qua Châu Âu, bức tường
này sẽ sụp đổ. Vì nó không thể kháng cự lại đức tin; nó không thể kháng
cự lại sự thật. Bức tường không thể kháng cự được tự do.
And
I would like, before I close, to say one word. I have read, and I have
been questioned since I’ve been here about certain demonstrations
against my coming. And I would like to say just one thing, and to those
who demonstrate so. I wonder if they have ever asked themselves that if
they should have the kind of government they apparently seek, no one
would ever be able to do what they’re doing again.
Và
tôi muốn, trước khi tôi kết thúc, phát biểu một thứ. Tôi đã đọc và tôi
đã thắc mắc từ khi tôi đến đây về các cuộc biểu tình chống đối cuộc đến
thăm của tôi ở Berlin. Và tôi chỉ muốn nói chỉ một thứ, và gửi đến những
người biểu tình. Tôi tự hỏi nếu họ có bao giờ thử hỏi lại chính họ rằng
nếu họ có được loại chính quyền mà họ đang mong muốn, liệu có ai có thể
làm cái điều mà họ đang làm thêm lần nữa không.
Thank you and God bless you all.
Trân trọng cám ơn và cầu mong Thượng Đế chúc phúc cho tất cả các bạn.
President Ronald Reagan – June 12, 1987
Tổng Thống Ronal Reagan – 12 Tháng 6 Năm 1987
Post-note:
Two years later, in November 1989, East Germans issued a decree for the
wall to be opened, allowing people to travel freely into West Berlin.
In some cases, families that had been separated for decades were finally
reunited. The wall was torn down altogether by the end of 1990 upon the
collapse of Communism in Eastern Europe and in Soviet Russia itself,
marking the end of the Cold War era.
Ghi chú thêm:
02 năm sau, Tháng 11 Năm 1989, người Đông Đức ban ra một nghị định mở
cửa bức tường, cho phép người dân đi lại tự do sang Tây Đức. Trong một
số trường hợp, các gia đình đã bị ly tán nhiều thập kỹ cuối cùng đã được
sum họp. Bức tường được giật sập hoàn toàn vào cuối năm 1990 theo sau
sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu và ngay tại Nga Sô Viết, đánh
dấu kết thúc thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.