Cõi Người Ta
Số phận lạ lùng của Phật giáo. _ Philippe Cornu
Vào  khoảng năm 525 trước Jésus, Đức Phật đã tiên đoán trước:"Hai ngàn năm  trăm năm sau, tuy Phật giáo có khoảng 700 triệu tín đồ trên toàn thế  giới, nhưng lại biến mất trên đất nước Ấn Độ, nơi mà trước đó Phật giáo  từng là một trào lưu tình thần chính yếu, suốt cho đến thế kỷ thứ X. Tại  sao lại xảy ra như thế ?
Sau đây là lời giải đáp của Ông Philippe Cornu.
Lời giới thiệu của người dịch :
Ông  Philippe Cornu là đương kim Chủ tịch Đại Học Phật Giáo Âu châu, Giảng  sư tại Viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Đông phương (Inalco) của Pháp.  Ông cũng là một học giả uyên bác về Phật giáo, dịch nhiều kinh sách từ  các tiếng Tây tạng, Trung hoa..., đồng thời ông cũng trước tác, viết báo  và giảng dạy về Phật giáo. Một trong những công trình đáng kể của ông  là quyển Tự điển bách khoa Phật giáo.
Sau đây là một bài báo ngắn  do nữ ký giả Cathérine Golliau phỏng vấn ông, đăng trên một tờ tạp chí  lớn của nước Pháp là Le Point (số ngoại lệ với chuyên đề về nên Văn minh  Ấn độ, số 3 tháng 7 và 8, năm 2008). (Hoang Phong)
Báo Le Point : Phải định nghĩa Phật giáo như thế nào ?
P.  Cornu : Đó là con đường tâm linh nhắm mục đích tự giải thoát khỏi vô  minh và lầm lẫn, nguồn gốc đưa đến khổ đau, và giúp đạt được Giác ngộ,  tức một thể dạng lột trần được mọi ảo giác, và từ thể dạng đó sự thực  tối thượng sẽ hiển hiện. Người ta thường xem Phật giáo là một tôn giáo,  trong chiều hướng Phật giáo chủ trương một con đường đạo đức, một luận  thuyết triết học, đề nghị những nghi lễ và cách thức tu tập tinh thần  trong mục đích giải phóng con người : vì thế cần phải đặt lòng tin nơi  Đức Phật để bước vào con đường ấy. Tuy nhiên Đức Phật không phải là một  vị trời, và Đạo Phật, còn gọi là Bouddha-darma (Đạo Pháp của Đức Phật)  không phải là một tôn giáo thờ trời, theo ý nghĩa một vị trời sáng tạo.
Báo Le Point : Có phải đấy là một phản ứng chống lại Đạo Bà-la-môn hay không ?
P.  Cornu : Đức Phật xuất hiện vào một thời điểm mà các bản kinh Vệ-đà của  Đạo Bà-la-môn bị chỉ trích là chỉ biết chú trọng đến nghi lễ, một số  người không chấp nhận khía cạnh ấy của Đạo Bà-la-môn đứng ra soạn thảo  các kinh điển mới gọi là Upanisad, các kinh này quan tâm nhiều hơn đến  sự giải thoát cá nhân. Con đường của Đức Phật nằm trong bối cảnh diễn  tiến đó của kinh điển Upanisad, tuy nhiên tính cách đặc thù trong luận  lý và kinh nghiệm của Đức Phật khác hẳn các hình thức cải tiến của Đạo  Bà-la-môn qua các kinh điển Upanisad như vừa kể.
Báo Le Point : Đâu là những khác biệt chính yếu cho thấy những điểm trái ngược giữa hai trào lưu đó?
P.  Cornu : Trọng tâm trong những lời giáo huấn của Đức Phật là tính cách  vô thường của tất cả mọi sự vật, sự kiện không hề có một "cái ngã"  trường tồn, và những gì mà thông thường người ta gọi là sự tương liên  hay là sự tương tạo dựa vào nhiều điều kiện, nguyên tắc ấy cho thấy mọi  hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên đới với nhau, những hiện  tựng này làm điều kiện giúp cho những hiện tượng khác hiện hữu. 
Tham  vọng muốn kiểm soát mọi vật thể và lòng ước mong chận đứng, bằng bất cứ  giá nào, những chuyển động của vô thường, sẽ làm phát sinh những hiểu  biết sai lầm về thế giới này và do đó chỉ đem đến khổ đau mà thôi. 
Tại sao lại như thế ?
Bởi  vì tất cả những hành vi của chúng ta đều nhắm vào ý đồ kiểm soát thế  giới này và mọi sự hiện hữu, và sự căng thẳng đó nhất thiết sẽ tạo ra  một hố sâu khổng lồ ngắn cách một bên là những gì chúng ta mong muốn  được nhìn thấy và tin rằng những thứ ấy là hiện thực, và bên kia là bản  thể đích thực của hiện thực. 
Báo Le Point : Tuy thế Phật giáo và Ấn độ giáo đôi khi lại sử dụng một số ngôn từ giống nhau...
P.  Cornu : Đúng thế, nhưng ý nghĩa thì lại khác nhau. Hãy lấy thí dụ chữ  "karma" (nghiệp) (1). Trong Đạo Bà-la-môn thuộc hệ thống kinh điển  Vệ-đà, karma tượng trưng cho một hành vi mang tính cách nghi lễ giúp hội  nhập với thế giới thiêng liêng. Đối với Đạo Bà-la-môn cải tiến trong hệ  thống kinh điển Upanisad, thì chữ karma lại mang ý nghĩa về luân lý :  tùy theo hành vi mang phẩm tính thiện hay ác, sẽ tạo ra một loại khả  năng tiềm tàng, và chính khả năng ấy sẽ chín muồi khi tái sinh trong một  kiếp sống thuận lợi hay bất thuộn lợi về sau. 
Ngoài ra, Ấn độ  giáo lại chủ trương một hình thức định mệnh : chẳng hạn khi rơi vào một  giai cấp nào thì phải tùy thuộc vào giai cấp ấy và không thể nào thoát  ra được, bởi vì karma đã quyết định như thế. 
Trong khi đó đối  với Phật giáo, karma là một hành vi, và trước hết là một ý đồ trong tâm  thức. Phật giáo phân biệt rõ rệt karma nguyên thủy làm nguồn gốc và hậu  quả phát sinh sau đó từ karma, đấy là hai thứ khác nhau không thể lầm  lẫn được. Sự phát sinh của hậu quả không thể tránh khỏi, nếu ta không  làm gì cả để hoá giải nó, và hơn thế nữa ta còn có thể tinh khiết hoá cả  karma trước khi nó chín muồi. 
Mặt khác, karma không ép buộc con  người phải sống một cách thụ động trong một cấu trúc xã hội đã quy định  sẳn : mỗi cá nhân phải tự nắm lấy vận mệnh của mình để tự giải thoát  cho chính mình ra khỏi karma, vì đó là một thứ động cơ thúc đẩy gây ra  khổ đau, cần phải được khắc phục. Người ta cũng có thể tìm hiểu theo  phương cách tương tợ đối với chữ "samsara" (luân hồi). Chữ samsara mang  một ý nghĩa giống nhau trong cả hai nền triết học Bà-la-môn và Phật  giáo, tức có nghĩa là sự hiện hữu dựa vào nhiều điều kiện. 
Nhưng  đối với Ấn độ giáo, con người chỉ có thể thoát ra khỏi samsara khi nào  linh hồn hay "cái ngã" (atman) được giải thoát để hội nhập với thể dạng  Nhất Nguyên Vĩ Đại. 
Trong khi đó đối với Phật giáo, samsara  trước hết là một sự quán nhận, phát sinh từ nhiều điều kiện, về một sự  hiện hữu do karma và dục vọng của chính mình tạo tác, vì thế mỗi cá nhân  phải tự giải thoát chính mình ra khỏi cảnh giới luân hồi. Vì vậy, cần  phải định nghĩa trở lại các ngôn từ trong từng trường hợp một.
Báo Le Poìnt : Phật giáo có thu nạp các vị trời (2) của Ấn giáo hay không ?
P.  Cornu : Có. Toàn bộ hậu cảnh huyền thoại của Ấn giáo đã được thu nạp  vào Phật giáo. Nhưng ở đây cũng phải nhắc lại thêm một lần nữa, tuy Phật  giáo đã thu nạp nhưng thu nạp với ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. 
Thật  vậy, theo Phật giáo các vị trời đều được xem là thuộc vào cảnh giới  samsara (luân hồi). Vi chính các vị trời vẫn còn vướng mắc trong sự lầm  lẫn ! Dù cho họ có một đời sống lâu dài đi nữa, nhưng khi karma đã cạn,  họ sẽ rơi vào một cảnh giới khác của samsara. Họ không thể thoát khỏi  bản chất có tính cách toàn diện của khổ đau.
Báo Le Point : Nhưng tại sao nền triết học ấy chủ trương tìm kiếm sự giải thoát, lại còn cần đến các vị trời?
P.  Cornu : Đức Phật không hề tìm cách bài bác bất cứ một thứ gì. Ngài chỉ  đơn giản đặt mọi sự vật vào đúng vị trí của chúng. Các vị trời không  phải là mục đích cũng không phải là những nhu cầu của Ngài, và đương  nhiên không hề là một đối tượng cho sự nương tựa.
Trong Phật giáo  người ta nương tựa vào nguyên tắc của Giác ngộ, vào những lời giáo huấn  đưa đến Giác ngộ, và vào tập thể những người đã chọn những lời giáo  huấn ấy. Đấy là những gì mà người ta gọi là Tam Bảo : Đức Phật, Dharma  (Đạo Pháp) và Sangha (Tăng đoàn). 
Đức Phật là nguyên tắc của  Giác ngộ, vì thế Ngài là một vị hướng dẫn ; Dharma là những lời giáo  huấn và cách thức tu tập mà Đức Phật đã khuyên bảo để giúp đưa đến Giác  ngộ ; Sangha là tập thể Tăng đoàn, nhất thiết họ là những tu sĩ, những  vị hiền nhân.
Các vị trời được xem như những gì mang tính cách  truyền thống lâu đời : người ta kính trọng các vị ấy như những người  láng giềng và xem họ là những biểu hiện mang tính cách dân gian, những  vị ấy rồi sẽ tự xoá mờ, dần dần từng chút một, trước một mục đích cao  rộng hơn. Chính sự bao dung đó đã giải thích sự thành công của Phật  giáo. Đó là một nền triết học thật mềm dẽo đủ sức để thích ứng với tất  cả mọi nền văn hoá.
Báo Le Point : Phật giáo không chấp nhận giai  cấp trong xã hội. Vậy có phải Phật giáo chống lại trật tự xã hội của  Đạo Bà-la-môn hay chăng ?
P. Cornu : Từ nguyên thủy, chủ đích của  Đức Phật không phải là thay đổi trật tự xã hội. Nhưng chỉ để thiết lập  một dòng tu sĩ, nhưng vì vị thế tự đứng ra bên ngoài thế giới này, nên  dòng tu sĩ ấy đã mở cửa đón nhận tất cả mọi cá nhân, thuộc tất cả mọi  nguồn gốc và giai cấp, đúng hơn phải nói là Đức Phật đã tạo ra một sự  dứt bỏ.
Báo Le Point : Phật giáo sau đó đã phát triển thật mạnh  mẽ trong đế quốc của vua A-Dục. Tại sao Phật giáo đã chủ trương niềm tin  về "vô ngã" lại có thể phù hợp được với sức mạnh của uy quyền ?
P.  Cornu : Nền triết học đó không hề tìm cách thay đổi một xã hội, nhưng  chỉ chủ trương sự biến cải cá nhân trong lòng của mỗi cá nhân : nhưng  nếu vì thế mà xã hội có thay đổi đi nữa, thì đó chính là nhờ từng cá  nhân đã tu tập để tự biến cải tận đáy lòng của chính họ.
A-Dục là  một vị đế vương xuất thân từ dòng dõi võ bị ; triều đại khởi sự bằng  chém giết : và chính vào thời điểm đó ông ta đã ý thức được khổ đau là  gì và đã quy y.
Nhưng chúng ta cũng không nên lầm lẫn : quả thật  có một huyền thoại mạ vàng về sự kiện vua A-Dục quy y làm một Phật tử,  và đã đem đến thanh bình và hạnh phúc cho toàn cõi đế quốc của ông.  Trong đó có một phần sự thật, vì thực tế không hoàn toàn chỉ có màu  hồng, dù sao đi nữa vua A-Dục cũng là một vị vua độc đoán...
Báo  Le Point : Làm thế nào để giải thích Phật giáo đã chinh phục được cả Á  châu lại biến mất ở Ấn độ, trong khi Ấn giáo gần như không bành trướng  ra khỏi Ấn độ nhưng vẫn tiếp tục sinh động trên bán lục địa này ? 
P.  Cornu : Phật giáo đối đầu với Ấn giáo, giống như là một hình thức cải  tiến của Đạo Bà-la-môn khi Phật giáo tiếp xúc với Đạo này, Phật giáo ăn  sâu vào các cấu trúc xã hội và được chính quyền nâng đỡ. Nhưng về sau đã  bị các đạo quân Hồi giáo tiêu diệt khi xâm chiếm lãnh thổ Ấn độ.
Phật  giáo chủ trương thiết lập những Đại học to lớn, chẳng hạn như  Na-lan-đà, gồm hàng ngàn tu sĩ, đấy là nhưng nơi tập trung đông đảo về  nhân sự nên dễ bị tiêu diệt. Ấn giáo dựa vào cấu trúc gia đình vì thế  khó bị hủy diệt hơn (3). 
Cũng nên thẳng thắn mà nói : chính  những đạo quân Hồi giáo đã làm cho Phật giáo biến mất ở Ấn độ giữa buổi  bình minh của thế kỷ XIII.
Hoang Phong lược dịch, 
GHI CHÚ THÊM CỦA NGƯỜI DỊCH
1-  Karma : tức là nghiệp. Kinh sách Tây phương không dịch mà thường dùng  thẳng một số ngôn từ có tính cách đặc thù của Phật giáo dưới hình thức  chữ Phạn. Chẳng hạn như các chữ Dharma, samsara, nirvana, atman v.v...  Kinh sách tiếng Việt quen dùng các từ dịch từ tiếng Hán, và người đọc  cũng đã quen với ý nghĩa của các từ ấy. Tuy nhiên người dịch xin giữ lại  các từ tiếng Phạn đúng như trong nguyên bản của bài viết này, chỉ thêm  từ tương đương gốc tiếng Hán giữa hai dấu ngoặc.
2- Các vị trời ở đây  có nghĩa là các thánh nhân, thiên nhân, thần linh, các đấng thiêng  liêng, v.v... được tôn thờ trong Đại thừa Phật giáo. Một số có nguồn gốc  Ấn giáo, một số phát xuất từ các nên văn hoá địa phương tùy theo quốc  gia nơi Phật giáo phát triển.
3- Thật ra Phật giáo đã bắt đầu suy  thoái trước đó. Người Hung nô hết sức thù nghịch với Phật giáo, và vào  thế kỷ thứ V, các đạo quân của họ xâm chiếm Tây bắc Ấn độ, đã tàn phá  tất cả các trung tâm Phật giáo trong vùng này. Chính quyền trung ương Ấn  độ cũng bị tan rã, Hoàng triều Gupta xụp đổ. Phật giáo di chuyển dần về  các vùng trung tâm trên lãnh thổ Ấn. Các vương quốc phía Nam tuy không  thù nghịch hẳn với Phật giáo, nhưng cũng không hổ trợ Phật giáo như các  vua chúa của vùng Bắc Ấn.
Sau người Hung nô, các đạo quân Hồi giáo  phát xuất từ Àghanistan lại xâm chiếm nước Ấn, họ tàn phá trung tâm Đại  học Na-lan-đà vào năm 1199, thiêu hủy thư viện khổng lồ của Na-lan-đà và  giết hết các tu sĩ.
Biến cố đó đánh dấu sự chấm dứt cuối cùng của một trang lịch sử vô cùng rực rỡ của Phật giáo kéo dài mười bảy thế kỷ trên đất Ấn
(Hoang Phong)
Mời click vào link xem thêm:
http://www.vietfreefun.com/forum/showthread.php?165663-S%E1%BB%91-ph%E1%BA%ADn-l%E1%BA%A1-l%C3%B9ng-c%E1%BB%A7a-Ph%E1%BA%ADt-gi%C3%A1o
Trương Kim Anh chuyển
Số phận lạ lùng của Phật giáo. _ Philippe Cornu
Vào  khoảng năm 525 trước Jésus, Đức Phật đã tiên đoán trước:"Hai ngàn năm  trăm năm sau, tuy Phật giáo có khoảng 700 triệu tín đồ trên toàn thế  giới, nhưng lại biến mất trên đất nước Ấn Độ, nơi mà trước đó Phật giáo  từng là một trào lưu tình thần chính yếu, suốt cho đến thế kỷ thứ X. Tại  sao lại xảy ra như thế ?
Sau đây là lời giải đáp của Ông Philippe Cornu.
Lời giới thiệu của người dịch :
Ông  Philippe Cornu là đương kim Chủ tịch Đại Học Phật Giáo Âu châu, Giảng  sư tại Viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Đông phương (Inalco) của Pháp.  Ông cũng là một học giả uyên bác về Phật giáo, dịch nhiều kinh sách từ  các tiếng Tây tạng, Trung hoa..., đồng thời ông cũng trước tác, viết báo  và giảng dạy về Phật giáo. Một trong những công trình đáng kể của ông  là quyển Tự điển bách khoa Phật giáo.
Sau đây là một bài báo ngắn  do nữ ký giả Cathérine Golliau phỏng vấn ông, đăng trên một tờ tạp chí  lớn của nước Pháp là Le Point (số ngoại lệ với chuyên đề về nên Văn minh  Ấn độ, số 3 tháng 7 và 8, năm 2008). (Hoang Phong)
Báo Le Point : Phải định nghĩa Phật giáo như thế nào ?
P.  Cornu : Đó là con đường tâm linh nhắm mục đích tự giải thoát khỏi vô  minh và lầm lẫn, nguồn gốc đưa đến khổ đau, và giúp đạt được Giác ngộ,  tức một thể dạng lột trần được mọi ảo giác, và từ thể dạng đó sự thực  tối thượng sẽ hiển hiện. Người ta thường xem Phật giáo là một tôn giáo,  trong chiều hướng Phật giáo chủ trương một con đường đạo đức, một luận  thuyết triết học, đề nghị những nghi lễ và cách thức tu tập tinh thần  trong mục đích giải phóng con người : vì thế cần phải đặt lòng tin nơi  Đức Phật để bước vào con đường ấy. Tuy nhiên Đức Phật không phải là một  vị trời, và Đạo Phật, còn gọi là Bouddha-darma (Đạo Pháp của Đức Phật)  không phải là một tôn giáo thờ trời, theo ý nghĩa một vị trời sáng tạo.
Báo Le Point : Có phải đấy là một phản ứng chống lại Đạo Bà-la-môn hay không ?
P.  Cornu : Đức Phật xuất hiện vào một thời điểm mà các bản kinh Vệ-đà của  Đạo Bà-la-môn bị chỉ trích là chỉ biết chú trọng đến nghi lễ, một số  người không chấp nhận khía cạnh ấy của Đạo Bà-la-môn đứng ra soạn thảo  các kinh điển mới gọi là Upanisad, các kinh này quan tâm nhiều hơn đến  sự giải thoát cá nhân. Con đường của Đức Phật nằm trong bối cảnh diễn  tiến đó của kinh điển Upanisad, tuy nhiên tính cách đặc thù trong luận  lý và kinh nghiệm của Đức Phật khác hẳn các hình thức cải tiến của Đạo  Bà-la-môn qua các kinh điển Upanisad như vừa kể.
Báo Le Point : Đâu là những khác biệt chính yếu cho thấy những điểm trái ngược giữa hai trào lưu đó?
P.  Cornu : Trọng tâm trong những lời giáo huấn của Đức Phật là tính cách  vô thường của tất cả mọi sự vật, sự kiện không hề có một "cái ngã"  trường tồn, và những gì mà thông thường người ta gọi là sự tương liên  hay là sự tương tạo dựa vào nhiều điều kiện, nguyên tắc ấy cho thấy mọi  hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên đới với nhau, những hiện  tựng này làm điều kiện giúp cho những hiện tượng khác hiện hữu. 
Tham  vọng muốn kiểm soát mọi vật thể và lòng ước mong chận đứng, bằng bất cứ  giá nào, những chuyển động của vô thường, sẽ làm phát sinh những hiểu  biết sai lầm về thế giới này và do đó chỉ đem đến khổ đau mà thôi. 
Tại sao lại như thế ?
Bởi  vì tất cả những hành vi của chúng ta đều nhắm vào ý đồ kiểm soát thế  giới này và mọi sự hiện hữu, và sự căng thẳng đó nhất thiết sẽ tạo ra  một hố sâu khổng lồ ngắn cách một bên là những gì chúng ta mong muốn  được nhìn thấy và tin rằng những thứ ấy là hiện thực, và bên kia là bản  thể đích thực của hiện thực. 
Báo Le Point : Tuy thế Phật giáo và Ấn độ giáo đôi khi lại sử dụng một số ngôn từ giống nhau...
P.  Cornu : Đúng thế, nhưng ý nghĩa thì lại khác nhau. Hãy lấy thí dụ chữ  "karma" (nghiệp) (1). Trong Đạo Bà-la-môn thuộc hệ thống kinh điển  Vệ-đà, karma tượng trưng cho một hành vi mang tính cách nghi lễ giúp hội  nhập với thế giới thiêng liêng. Đối với Đạo Bà-la-môn cải tiến trong hệ  thống kinh điển Upanisad, thì chữ karma lại mang ý nghĩa về luân lý :  tùy theo hành vi mang phẩm tính thiện hay ác, sẽ tạo ra một loại khả  năng tiềm tàng, và chính khả năng ấy sẽ chín muồi khi tái sinh trong một  kiếp sống thuận lợi hay bất thuộn lợi về sau. 
Ngoài ra, Ấn độ  giáo lại chủ trương một hình thức định mệnh : chẳng hạn khi rơi vào một  giai cấp nào thì phải tùy thuộc vào giai cấp ấy và không thể nào thoát  ra được, bởi vì karma đã quyết định như thế. 
Trong khi đó đối  với Phật giáo, karma là một hành vi, và trước hết là một ý đồ trong tâm  thức. Phật giáo phân biệt rõ rệt karma nguyên thủy làm nguồn gốc và hậu  quả phát sinh sau đó từ karma, đấy là hai thứ khác nhau không thể lầm  lẫn được. Sự phát sinh của hậu quả không thể tránh khỏi, nếu ta không  làm gì cả để hoá giải nó, và hơn thế nữa ta còn có thể tinh khiết hoá cả  karma trước khi nó chín muồi. 
Mặt khác, karma không ép buộc con  người phải sống một cách thụ động trong một cấu trúc xã hội đã quy định  sẳn : mỗi cá nhân phải tự nắm lấy vận mệnh của mình để tự giải thoát  cho chính mình ra khỏi karma, vì đó là một thứ động cơ thúc đẩy gây ra  khổ đau, cần phải được khắc phục. Người ta cũng có thể tìm hiểu theo  phương cách tương tợ đối với chữ "samsara" (luân hồi). Chữ samsara mang  một ý nghĩa giống nhau trong cả hai nền triết học Bà-la-môn và Phật  giáo, tức có nghĩa là sự hiện hữu dựa vào nhiều điều kiện. 
Nhưng  đối với Ấn độ giáo, con người chỉ có thể thoát ra khỏi samsara khi nào  linh hồn hay "cái ngã" (atman) được giải thoát để hội nhập với thể dạng  Nhất Nguyên Vĩ Đại. 
Trong khi đó đối với Phật giáo, samsara  trước hết là một sự quán nhận, phát sinh từ nhiều điều kiện, về một sự  hiện hữu do karma và dục vọng của chính mình tạo tác, vì thế mỗi cá nhân  phải tự giải thoát chính mình ra khỏi cảnh giới luân hồi. Vì vậy, cần  phải định nghĩa trở lại các ngôn từ trong từng trường hợp một.
Báo Le Poìnt : Phật giáo có thu nạp các vị trời (2) của Ấn giáo hay không ?
P.  Cornu : Có. Toàn bộ hậu cảnh huyền thoại của Ấn giáo đã được thu nạp  vào Phật giáo. Nhưng ở đây cũng phải nhắc lại thêm một lần nữa, tuy Phật  giáo đã thu nạp nhưng thu nạp với ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. 
Thật  vậy, theo Phật giáo các vị trời đều được xem là thuộc vào cảnh giới  samsara (luân hồi). Vi chính các vị trời vẫn còn vướng mắc trong sự lầm  lẫn ! Dù cho họ có một đời sống lâu dài đi nữa, nhưng khi karma đã cạn,  họ sẽ rơi vào một cảnh giới khác của samsara. Họ không thể thoát khỏi  bản chất có tính cách toàn diện của khổ đau.
Báo Le Point : Nhưng tại sao nền triết học ấy chủ trương tìm kiếm sự giải thoát, lại còn cần đến các vị trời?
P.  Cornu : Đức Phật không hề tìm cách bài bác bất cứ một thứ gì. Ngài chỉ  đơn giản đặt mọi sự vật vào đúng vị trí của chúng. Các vị trời không  phải là mục đích cũng không phải là những nhu cầu của Ngài, và đương  nhiên không hề là một đối tượng cho sự nương tựa.
Trong Phật giáo  người ta nương tựa vào nguyên tắc của Giác ngộ, vào những lời giáo huấn  đưa đến Giác ngộ, và vào tập thể những người đã chọn những lời giáo  huấn ấy. Đấy là những gì mà người ta gọi là Tam Bảo : Đức Phật, Dharma  (Đạo Pháp) và Sangha (Tăng đoàn). 
Đức Phật là nguyên tắc của  Giác ngộ, vì thế Ngài là một vị hướng dẫn ; Dharma là những lời giáo  huấn và cách thức tu tập mà Đức Phật đã khuyên bảo để giúp đưa đến Giác  ngộ ; Sangha là tập thể Tăng đoàn, nhất thiết họ là những tu sĩ, những  vị hiền nhân.
Các vị trời được xem như những gì mang tính cách  truyền thống lâu đời : người ta kính trọng các vị ấy như những người  láng giềng và xem họ là những biểu hiện mang tính cách dân gian, những  vị ấy rồi sẽ tự xoá mờ, dần dần từng chút một, trước một mục đích cao  rộng hơn. Chính sự bao dung đó đã giải thích sự thành công của Phật  giáo. Đó là một nền triết học thật mềm dẽo đủ sức để thích ứng với tất  cả mọi nền văn hoá.
Báo Le Point : Phật giáo không chấp nhận giai  cấp trong xã hội. Vậy có phải Phật giáo chống lại trật tự xã hội của  Đạo Bà-la-môn hay chăng ?
P. Cornu : Từ nguyên thủy, chủ đích của  Đức Phật không phải là thay đổi trật tự xã hội. Nhưng chỉ để thiết lập  một dòng tu sĩ, nhưng vì vị thế tự đứng ra bên ngoài thế giới này, nên  dòng tu sĩ ấy đã mở cửa đón nhận tất cả mọi cá nhân, thuộc tất cả mọi  nguồn gốc và giai cấp, đúng hơn phải nói là Đức Phật đã tạo ra một sự  dứt bỏ.
Báo Le Point : Phật giáo sau đó đã phát triển thật mạnh  mẽ trong đế quốc của vua A-Dục. Tại sao Phật giáo đã chủ trương niềm tin  về "vô ngã" lại có thể phù hợp được với sức mạnh của uy quyền ?
P.  Cornu : Nền triết học đó không hề tìm cách thay đổi một xã hội, nhưng  chỉ chủ trương sự biến cải cá nhân trong lòng của mỗi cá nhân : nhưng  nếu vì thế mà xã hội có thay đổi đi nữa, thì đó chính là nhờ từng cá  nhân đã tu tập để tự biến cải tận đáy lòng của chính họ.
A-Dục là  một vị đế vương xuất thân từ dòng dõi võ bị ; triều đại khởi sự bằng  chém giết : và chính vào thời điểm đó ông ta đã ý thức được khổ đau là  gì và đã quy y.
Nhưng chúng ta cũng không nên lầm lẫn : quả thật  có một huyền thoại mạ vàng về sự kiện vua A-Dục quy y làm một Phật tử,  và đã đem đến thanh bình và hạnh phúc cho toàn cõi đế quốc của ông.  Trong đó có một phần sự thật, vì thực tế không hoàn toàn chỉ có màu  hồng, dù sao đi nữa vua A-Dục cũng là một vị vua độc đoán...
Báo  Le Point : Làm thế nào để giải thích Phật giáo đã chinh phục được cả Á  châu lại biến mất ở Ấn độ, trong khi Ấn giáo gần như không bành trướng  ra khỏi Ấn độ nhưng vẫn tiếp tục sinh động trên bán lục địa này ? 
P.  Cornu : Phật giáo đối đầu với Ấn giáo, giống như là một hình thức cải  tiến của Đạo Bà-la-môn khi Phật giáo tiếp xúc với Đạo này, Phật giáo ăn  sâu vào các cấu trúc xã hội và được chính quyền nâng đỡ. Nhưng về sau đã  bị các đạo quân Hồi giáo tiêu diệt khi xâm chiếm lãnh thổ Ấn độ.
Phật  giáo chủ trương thiết lập những Đại học to lớn, chẳng hạn như  Na-lan-đà, gồm hàng ngàn tu sĩ, đấy là nhưng nơi tập trung đông đảo về  nhân sự nên dễ bị tiêu diệt. Ấn giáo dựa vào cấu trúc gia đình vì thế  khó bị hủy diệt hơn (3). 
Cũng nên thẳng thắn mà nói : chính  những đạo quân Hồi giáo đã làm cho Phật giáo biến mất ở Ấn độ giữa buổi  bình minh của thế kỷ XIII.
Hoang Phong lược dịch, 
GHI CHÚ THÊM CỦA NGƯỜI DỊCH
1-  Karma : tức là nghiệp. Kinh sách Tây phương không dịch mà thường dùng  thẳng một số ngôn từ có tính cách đặc thù của Phật giáo dưới hình thức  chữ Phạn. Chẳng hạn như các chữ Dharma, samsara, nirvana, atman v.v...  Kinh sách tiếng Việt quen dùng các từ dịch từ tiếng Hán, và người đọc  cũng đã quen với ý nghĩa của các từ ấy. Tuy nhiên người dịch xin giữ lại  các từ tiếng Phạn đúng như trong nguyên bản của bài viết này, chỉ thêm  từ tương đương gốc tiếng Hán giữa hai dấu ngoặc.
2- Các vị trời ở đây  có nghĩa là các thánh nhân, thiên nhân, thần linh, các đấng thiêng  liêng, v.v... được tôn thờ trong Đại thừa Phật giáo. Một số có nguồn gốc  Ấn giáo, một số phát xuất từ các nên văn hoá địa phương tùy theo quốc  gia nơi Phật giáo phát triển.
3- Thật ra Phật giáo đã bắt đầu suy  thoái trước đó. Người Hung nô hết sức thù nghịch với Phật giáo, và vào  thế kỷ thứ V, các đạo quân của họ xâm chiếm Tây bắc Ấn độ, đã tàn phá  tất cả các trung tâm Phật giáo trong vùng này. Chính quyền trung ương Ấn  độ cũng bị tan rã, Hoàng triều Gupta xụp đổ. Phật giáo di chuyển dần về  các vùng trung tâm trên lãnh thổ Ấn. Các vương quốc phía Nam tuy không  thù nghịch hẳn với Phật giáo, nhưng cũng không hổ trợ Phật giáo như các  vua chúa của vùng Bắc Ấn.
Sau người Hung nô, các đạo quân Hồi giáo  phát xuất từ Àghanistan lại xâm chiếm nước Ấn, họ tàn phá trung tâm Đại  học Na-lan-đà vào năm 1199, thiêu hủy thư viện khổng lồ của Na-lan-đà và  giết hết các tu sĩ.
Biến cố đó đánh dấu sự chấm dứt cuối cùng của một trang lịch sử vô cùng rực rỡ của Phật giáo kéo dài mười bảy thế kỷ trên đất Ấn
(Hoang Phong)
Mời click vào link xem thêm:
http://www.vietfreefun.com/forum/showthread.php?165663-S%E1%BB%91-ph%E1%BA%ADn-l%E1%BA%A1-l%C3%B9ng-c%E1%BB%A7a-Ph%E1%BA%ADt-gi%C3%A1o
Trương Kim Anh chuyển
       
















