Hãy trả lại cho em Quê Hương ngày cũ, ngày nào còn lũ giặc đỏ, còn hai chữ “Phản Quốc” trên cổ các người ngã ngựa thì ngày đó em còn xa lìa Quê Hương.

Mười hai năm rồi em không gặp anh và sẽ không bao giờ gặp được anh nữa vì anh đã bỏ mình trong trại cải tạo đã sáu năm qua.
Sáng
nay nhận được thơ bạn anh từ Quê Hương gởi sang, nói đã làm xong nhiệm
vụ em nhờ, đã đưa được hài cốt của anh từ Vĩnh Phú về Huế, nơi anh đã
sinh ra, đã lớn lên, nơi chúng mình đã gặp nhau và thề nguyền sẽ yêu
nhau mãi mãi, em buồn vui lẫn lộn.
Anh
ơi, em vui vì biết anh đã về lại được Quê Hương nhưng em xót xa khi
đọc đến đoạn bạn anh viết về những gian nan phải vượt qua khi đi tìm mộ
anh, vì tất cả chỉ là núi rừng hoang dại, mổi người tù chết đi chỉ được
vùi sơ với miếng đá nhỏ ghi tên họ và ngày lìa đời cắm trên nấm mộ
thấp. Đau đớn nhất cho em là khi đọc đến đoạn bạn anh kể xác thân đã rã
mục của anh vẫn còn được bao trong chiếc áo len em tặng anh ngày xưa,
chiếc mền dù bao phủ thân anh vẩn còn nguyên nhưng nơi xương cổ anh có
mang thêm sợi xích nhỏ với tầm thẻ bài bằng nhôm ghi rõ tên họ và lý
do bị quản thúc là “phản quốc”!
Anh ơi, đã chết rồi mà thân thể còn mang nặng nhục nhằn. Có chế độ nào dã man
hơn chế độ Việt Nam ngày nay?
Vậy
mà ngày xưa anh đã hãnh diện biết bao về Quê Hương, Tổ Quốc của mình.
Thật ra thì Quê Hương vẫn còn đó, hai tiếng Việt Nam vẩn sống trong tim
cả triệu người Việt xa xứ, nhưng với người ở lại, người đang trả nợ máu,
người đã chết vùi thây trong núi rừng thì hai tiếng Việt Nam đè nặng
tâm hồn.
Hôm
nay đọc thơ bạn anh, nhớ lại đoạn đường đã qua của mình, sao lòng em
thật nhiều đau xót. Năm nay mùa Xuân đến chậm vì mùa Đông không muốn đi,
đã tháng ba tháng tư mà khí hậu vẩn còn lạnh, nhưng cái lạnh ngoài trời
có thấm chi với cái lạnh, cái buồn của người Việt ly hương, mổi năm
khi tháng tư về?
Sáng
nay em nhớ anh,em nhớ anh thật nhiều. Tháng tư làm em mất anh, giờ
tháng tư lại trở về, trên tay em cầm tấm thẻ bài có ghi tên họ và lý do
hai đứa mình xa nhau. Đau đớn quá anh nhỉ, hai tiếng “Phản Quốc” như
muôn ngàn lưởi dao đâm vào tim em.
Em
nhớ ngày nào, mổi lần đi hành quân về, anh đến thăm em, mắt môi rạng
rỡ. Mổi lần được huy chương là một ngày vui của hai đứa mình. Anh đến
khoe với em và hai đứa lại ra Đập Đá nhìn trăng, nghe tiếng sáo diều lơ
lửng trên không, anh mỉm cười hãnh diện vì sự thanh bình của Quê Hương,
cái thanh bình mà anh đã đem mạng sống ra để bảo vệ. Các huy chương đó
ngày nay lại là bản án tử hình của các anh.
Tháng
tư là mùa Xuân phải không anh? Mùa Xuân ở đây cũng như mùa Xuân của
Huế xưa. Nhà nào cũng có một vài khóm hồng đang e ấp nở, nhà em lại có
thêm cây anh đào đang rực đỏ với nằng Xuân. Quê Hương người đẹp quá,
nhưng sao lòng em vẩn thấy mất mát ngậm ngùi.
Em
đang ngồi yên với tấm thẻ bài nhục nhã đau thương đã ôm ấp thân xác
anh trong sáu năm qua dưới lòng huyệt lạnh, và em đang thả hồn về ngày
hai đứa mình còn nhau. Tiếng đàn réo rắt ma quái, quyến rũ dị thường của
người nhạc sĩ vô danh trong “Ru khúc mộng thường” đưa em về lại những
ngày xưa cũ, những êm đềm của một mùa trăng xưa.
Ở
đây không có tiếng sáo diều lơ lững trên không, cũng không có những nữ
sinh áo trắng mổi sáng từ Vĩ Dạ đi ngang qua Đập Đá để đến trường nhưng
tiếng đàn của người nghệ sĩ tài hoa kia đã đưa em về lại Quê Hương, có
trăng sáng, có trời xanh, có mộng ước bình thường. Không hiểu sao sáng
nay tiếng đàn ma quái đó ám ảnh em, phải chi tất cả mọi người trên trái
đất này đều yêu thơ, yêu nhạc thì ngày nay mình đâu có mất nhau, anh
chết sáu năm đâu phải mang thêm tấm thẻ bài nhục nhã.
Với
tiếng Tây ban cầm độc tấu cô đơn nhưng đầy ắp tâm sự, em chắc người
nhạc sĩ có cái tên cũng lạ như tiếng đàn phải có một nội tâm thật đẹp,
một tâm sự thật buồn. Tên ông ta là “Vô Thường”. Phải rồi anh nhỉ, tất
cả chỉ là hư vô, tất cả chỉ là bình thường, chỉ có tình người, tình Quê
Hương là vĩnh cửu.
Nếu
tiếng đàn của người Tây ban Nha mang âm điệu hoang dại của một dân tộc
nồng nàn ham sống, thì tiếng tây ban cầm của Vô Thường mang âm giai của
một người lạc lõng, một kẻ du mục, một kẻ đang đi tìm miền đất hứa.
Tiếng đàn khi thổn thức, khi vỗ về, khi chia xẻ thương đau, tiếng đàn
mang dư âm của tiếc thương nhung nhớ, của tình yêu đã có và đã bay xa,
của Quê Hương hiện hữu nhưng quá tầm tay với, của những mộng ước bình
thường nhưng đã vời vợi xa bay.
Anh
ơi, tiếng đàn ray rứt của người nhạc sĩ vô danh kia đã cho em ý thức
được sự mất mát lớn lao của đời em, tấm thẻ bài nhục nhã trong tay em đã
nói lên sự uất hận ngàn đời của người dân Việt phải xa lìa tổ quốc thân
yêu.
Quê
Hương vẫn còn đó nhưng đã nhuộm màu, thành phố Huế của chúng mình còn
đó nhưng đã đổ nát quạnh hiu. Nếu biết không có ngày trở lại, thì ngày
xưa em đã rủ anh đi khắp hang
cùng ngõ hẻm, đã yêu thương tâm sự với anh nhiều hơn. Quê Hương người
tuy đẹp tuy giàu nhưng vẩn thiếu cái đậm đà giữa những người cùng huyết
thống, thiếu khói lam chiều trên mái tranh xa, thiếu tiếng sáo diều lơ
lửng đêm trăng, thiếu tiếng hò mái đẩy, thiếu tiếng rao hàng trên sông
vắng mổi đêm khi khuya về sáng. Giờ chỉ còn lại đây tấm thẻ bài nhục
nhằn của anh, của những người ngày xưa đã lấy “Tổ Quốc” làm lẽ sống và
giờ đã chết vùi thây khắp các núi rừng gần trại tập trung với hai
chữ “Phản Quốc” đè nặng linh hồn.
Quê
Hương! Quê Hương! Em đang nhớ nhung hay đang thù hận đây ? Xưa em hãnh
diện về Quê Hương gấm vóc bao nhiêu thì giờ nhìn tấm thẻ bài khốn khổ
với hai chữ "Phản Quốc" em lại thù ghét Quê Hương bấy nhiêu.
Hãy
trả lại cho em Quê Hương ngày cũ, ngày nào còn lũ giặc đỏ, còn hai chữ
“Phản Quốc” trên cổ các người ngã ngựa thì ngày đó em còn xa lìa Quê
Hương.
Lạy
trời cho con giấc mộng bình thường, cho còn tìm lại được quê xưa, ngày
còn lá me bay, còn sân cỏ mướt chứ không phải như bây giờ, sân cỏ làm
nông trường, sức người thay máy móc, nhiên liệu, trâu bò.
Em
sẽ thay anh mang tấm thẻ bài vào cổ, em sẽ mang nó với niềm hãnh diện
vô biên của một người đã có người yêu suốt đời hy sinh cho lý tưởng, em
cũng mang nó để nhắc nhở những người xa xứ hãy hướng về Quê Hương ngục
tù khốn khổ mà làm một cái gì để thắp sáng ngày về.
Thật
ra thì đã mười hai năm qua, lòng người đã có phần nào thay đổi. Tháng
Tư vẫn mang đến ngậm ngùi, thương tiếc nhưng rồi cuộc sống chạy theo
đồng hồ, những nhu cầu cấp bách hàng ngày đã làm tâm hồn nhụt dần chí
khí. Phải chi những tấm thẻ bài có ghi hai chữ “Phản Quốc” của các anh
hùng đã hy sinh cho đất nước được gởi qua cho mổi người xa xứ thì ngày
về của kẻ ly hương chắc sẽ gần hơn.
Trong
tận cùng linh hồn, em chắc người dân nào khi xa quê cũng hoài vọng một
ngày về, và dù có mất gốc đến đâu thì cũng có một giờ phút trong đời
mơ ước về lại quê xưa, thăm lại ngôi nhà cũ.
Anh
ơi, giờ em mới hiểu nỗi xúc động tận cùng của bà giáo sư người Pháp dạy
em năm em học lớp sáu. Bà đã khóc khi hát cho chúng em nghe một bài
nói về thành phố nơi bà đã sinh ra, bài hát lời lẽ thật đơn sơ mộc mạc
nhưng sao người nghe thấy ngậm ngùi thổn thức. Bài hát chỉ có thế này:
Quand tout renaît à l’espérance
Et que l’hiver fut loin de nous
Quand la nature est reverdie
Quand l’hirondelle est de retour
J’aime à revoir ma Normandie
C’est le pays qui m’a donné le jour
Em tạm dịch là :
Khi nào hy vọng trở về
Và khi mùa Đông đã đi xa
Khi thiên nhiên trở lại xanh thẳm
Khi chim én trở về cùng ta
Tôi mơ ước nhìn lại Normandie
Là nơi tôi đã chào đời.
Anh
ơi, tình hoài hương bàng bạc trong lòng mọi dân tộc. Em cũng đã khóc
khi hát lại bài này. Em không mơ ước nhìn lại Normandie của bà giáo sư
người Pháp nhưng em mơ ước nhìn lại xứ Huế nghèo nàn, thơ mộng của em
ngày xưa. Em mơ ước nhìn lại một Việt Nam tự do đầy tình người, một Việt
Nam mà em sẽ hãnh diện mang tấm thẻ bài có ghi hai chử "Phản Quốc" của
anh để trở về đi trong lá me bay, trong giòng người cùng huyết thống,
cùng lý tưởng, vì anh ơi, dù muôn vàn thay đổi, em muôn đởi vẫn là con
bé Việt Nam thích lang thang khắp phố phường cho tóc bay, cho hồn mơ
mộng và cho lá rơi đầy trên vai trên áo. Còn ở đây, cuộc sống sao quá
vội vàng, bon chen, lừa lọc. Người ta yêu nhau cũng vội, ghét nhau còn
vội vàng hơn.
Mùa
Xuân quê người, nhưng cũng là mùa Đông của người xa xứ đang mất mát như
em. Tiếng đàn tức tưởi cô đơn của người nhạc sĩ vô danh cũng là tiếng
khóc nghẹn ngào của người đã mất hết niềm tin, chỉ còn lại Tấm Thẻ bài
ghi lại một thời Hạnh Phúc Xưa và đánh dấu một sự nhục nhằn khốn khổ của
người ở lại ngày nay.
Cầm
tấm thẻ bài bằng nhôm bóng loáng trên tay, em liên tưởng đến trăm ngàn
cái khác đang bị vùi sâu dưới lòng đất mẹ cùng những người con yêu của
Tổ Quốc. Em chợt nhớ đến hai câu hát mở đầu trong bài Rêveries của
Shumann:
“Ce soir dans le jardin du ciel
Les étoiles ont fleuri comme un bouquet d’argent”...
Em
hình dung ra một ngày gần đây, trăm ngàn tấm thẻ bài bằng nhôm đó sẽ
trở thành những bó hoa bằng bạc nở trên bầu trời để soi sáng và chỉ
đường cho những người con xa xứ trở về giải phóng Quê Hương.
Tháng 4 năm 1987
(Thương gởi hương hồn anh tôi đã chết ở trại cải tạo Vĩnh Phú, Bắc Việt tháng 11 năm 1983)
Thanh Vân
(Hồ Công Tâm chuyển)