Phiếm Đàm, Đàm Chuyện...
THÁNG TƯ ĐEN - Việt Nhân
(HNPĐ) Lần duyệt binh lần cuối nay đã hơn 40 năm, hình ảnh những đoàn hùng binh trong ngày QL 19-06-73 lần ấy trên đại lộ Trần Hưng Đạo là những tài liệu hào hùng mà người ta còn giữ được về một Quân Lực đã 21 năm cầm súng an dân cho người dân miền Nam. Đó là hình ảnh, còn chuyện về họ, người ta viết lại rất nhiều, chuyện những người lính bị bức tử vì mưu đồ chính trị của các nước lớn, mà sau này, cộng sản trong cái ảo tưởng chiến thắng lại thêm ra sức bôi bẩn họ để mong tạo cho chúng một chính danh.
Vì sao họ tan hàng, những gì đã đến với họ, cho cả kẻ còn sống hay người đã hy sinh, cho những ai tha phương lưu lạc xứ người, hay phải vất vưỡng sống nốt đời mình dưới cái xéo xắc của bên thắng cuộc, mà xưa kia chúng đã từng một thời là giặc. Kể từ 30 tháng Tư Sàigòn mất tên! Có người nói nó đồng nghĩa chuyện nước VNCH với một quân lực anh dũng, mãi mãi bị chôn vùi sâu dưới ba thước đất, không ai sẽ còn nhớ cho một nhà nước, một thể chế tự do mà người dân miền Nam đã đổ bao xương máu cho sự sống còn của nó.
Những gì còn lại trong ký ức những người lính, những người sống sót qua cuộc chiến, qua tù đày cộng sản, thì những năm cuối sau Hiệp Định Paris 1973, đối với họ mới là vết hằn đậm nét nhất, những ngày tháng đó không thể nào quên. QL.VNCH phải đương đầu tình thế vô cùng khó khăn trong chiến đấu vì thiếu thốn, đã có người ái ngại mà nói rằng người lính miền Nam lúc đó “chiến đấu chống cộng theo kiểu con nhà nghèo, tiết kiệm từng viên đạn, từng lít xăng!” Không còn đồng minh giúp đở, những người lính Quốc Gia vẫn chiến đấu cho sự sống còn của chính mình, tuy đơn độc nhưng lại dũng cảm kiên cường hơn bao giờ hết, trong những năm 1973, 1974, và vào những giờ phút cuối 1975.
Trong cuốn “Black April” xuất bản năm 2012 nhân ngày 30 tháng Tư, tác giả là George J.Veith đã nhận định về sự thất bại trong tháng Tư năm 1975 của người lính QL.VNCH như sau: “Đó là không phải do sự lúng túng của chính quyền VNCH, và càng không phải do sự yếu kém trên chiến trường của chiến sĩ QL.VNCH. Lần lượt trong ba năm từ 1973-1974-1975, miền Nam đã bị cắt giảm viện trợ xuống dần chỉ còn 1/3 - Nguyên nhân gốc rễ đưa đến thất bại của miền Nam Việt Nam chính là từ chuyện Quốc hội Hoa Kỳ đã cắt giảm viện trợ”.
Sự thiếu hụt nhiên liệu máy bay và phụ tùng, đã đưa đến thất lợi cho phía VNCH, không cho phép không quân chuyển vận binh sĩ, để giữ vững phòng tuyến biên giới phía Tây dài gần 1500 km. Do đó CSBV được tự do tập trung, để tung ra các cuộc tấn công lớn, áp đảo vào các thị xã thành phố chính yếu, mà miền Nam không thể ném bom CSBV ngay cả khi biết nơi chúng tập trung. Vì vậy sau này báo chí lẫn truyền thông khi nói đến chuyện tháng Tư, họ đã dùng hai chữ trói tay QL.VNCH để bức tử miền Nam thật là chính xác, nhất là chuyện Quốc hội Hoa Kỳ lại dùng một nghị quyết đã được thông qua năm 1973 là “War Power Act” để buộc Tổng thống Gerald Ford không được hành động khi CSBV trắng trợn xé bỏ Hiệp định Paris.
Đó là những gì Hoa Kỳ, người đồng minh phản bội đã gây cho người lính VNCH! Vì thực tế phải thấy rằng VNCH chỉ có thể đương đầu với cả khối CS, khi có sự hỗ trợ của Mỹ và Đồng Minh, và một khi sự liên minh chống cộng này không còn, thì người dân miền Nam không thể một mình chống lại quân Bắc Việt với sự hỗ trợ của cả cộng sản Nga lẫnTầu. Đã 39 năm qua, từ nhiều phía kể cả trong chúng ta cũng đã có lời chê trách về những người lính QL.VNCH - Trên dư luận chúng tôi thiết nghĩ, một lời nói như của George J.Veith, một người đứng ngoài sẽ có giá trị khách quan nhiều lần hơn, và dĩ nhiên giá trị bằng trăm ngàn lần lời huênh hoang dối trá của bọn cộng sản.
Những người lính thất trận miền Nam này, sau đó ngay cả cái tên cũng bị cộng sản gọi xách mé là Ngụy, thói thường cái chính danh, chính nghĩa kẻ thắng sẽ vơ về phần chúng, cộng sản tuyên bố là nhân dân miền Nam đã vùng lên làm cách mạng thành công lật đổ nhà nước VNCH. Trong Black April Ông Veith viết “việc cộng sản Bắc Việt giết hại những người không cầm súng ở Huế năm 1968 và dọc Quốc lộ 1 năm 1972 khiến người dân phát hoảng và họ đã tràn ra các ngả đường khi quân miền Nam rút đi.” Vậy sự thật về cái cách mạng nhân dân của CSBV nó nằm ở đâu, khi ngày 19/04 lúc 9.00 giờ đêm, các đơn vị Dù thuộc LĐ1ND rút khỏi phòng tuyến Xuân Lộc vừa ra tới QL1, tất cả dân làng các xóm Bảo Định, Bảo Tồn và Bảo Hoà đã chờ sẵn hai bên đường để được theo chân lính Dù di tản?
Bên cạnh một George J.Veith với “Black April”, có cái nhìn về người lính VNCH bị bức tử, còn có Pierre Asselin, phó giáo sư lịch sử ở Đại học Hawaii Pacific tác giả cuốn “A Bitter Peace” (Washington, Hanoi, and the Making of the Paris Agreement - North Carolina, 2002) nhận định về hành động Hà Nội xé bỏ hiệp định Paris và cái kết quả của sự vi phạm này:
“Hà Nội chiến thắng cuộc chiến Việt Nam, đó là điều chắc chắn, tuy nhiên họ cũng không thắng dựa trên các điều khoản của mình, là thắng một cách vô điều kiện - Việc vi phạm Hiệp định Paris, điều mà phía Mỹ ít nhất đã cố gắng tôn trọng ở mức độ không đưa quân trở lại miền Nam, đã phá vỡ hình ảnh nạn nhân của chiến tranh chỉ muốn độc lập và hòa bình mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã dựng lên hơn một thập kỷ qua. Điều đó, cùng với những tình huống khác, đã làm giảm sự đáng tin của Hà Nội trong mắt thế giới, và một phần nào đó giải thích tại sao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lại bị quốc tế bỏ rơi hồi năm 1980. Hiệp định Paris không phải là một “thắng lợi vĩ đại” của Hà Nội; nó là một sự hòa bình cay đắng và cần thiết để tạo những điều kiện dẫn đến chiến thắng nhanh chóng nhưng đầy rắc rối năm 1975”.
Về phần những ai, vì lý do nào đó vẫn cứ cố trách cứ hết người này đến người nọ, xin hãy nghe lấy những ý kiến khách quan như đã đưa ra ở phần trên, cùng nhìn lại các sự kiện:
-Ngày 08/05/1972, TT Nixon tuyên bố tiến hành một bước leo thang mới mở rộng quy mô đánh phá miền Bắc kể cả bằng lực lượng không quân chiến lược, thả mìn cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, lạch, trên vùng biển phong toả miền Bắc Việt Nam.
-Ngày 20/06/1972 Kissinger gặp Chu Ân Lai, và Kissinger nói “Chúng tôi tin rằng tương lai quan hệ của chúng tôi với Bắc Kinh quan trọng vô biên cho tương lai của Á Châu hơn là những gì xảy ra tại Hà Nội hoặc Sài gòn.”
-Ngày 13/07/1972, Mỹ chấp nhận tái đàm phán Hội nghị toàn thể bốn bên tại Paris, đã bị ngưng kể từ ngày 24/03/1972.
- Ngày 13/12/1972 Hoa Kỳ tuyên bố ngưng đàm phán.
-Ngày 18/12 đến 29/12/1975 Hoa Kỳ cho B52 thả bom Hà Nội, Hải Phòng (12 ngày đêm).
-Ngày 27/01/1973 ký Hiệp định Paris.
Chuyện Trung cộng chiếm lấy Hoàng Sa 19/01/1974, Hoa Kỳ đã đứng ngoài, xoay lưng lại với đồng minh VNCH, như thể hiện sự giữ lời hứa của họ cùng TQ, tức thời sau đó Hà Nội liên tục đẩy mạnh các hoạt động quân sự, và cuối cùng là đơn phương xé bỏ hiệp định Paris - Hoa Kỳ đã dọn đường rút cho mình, và lẫn cho cái chiến thắng của cộng sản Hà Nội, bằng những bước đi đêm sắp đặt ngầm giữa Hoa Kỳ cùng Trung cộng.
Hẳn nhiên nay ai cũng đã biết được thực sự cái biến cố
30-04-1975 nó đã đến như thế nào, và tác giả “Black April” George J.Veith cũng
đã gọi tháng tư này là Tháng Tư Đen như chúng ta!
Việt Nhân (HNPĐ)
THÁNG TƯ ĐEN - Việt Nhân
(HNPĐ) Lần duyệt binh lần cuối nay đã hơn 40 năm, hình ảnh những đoàn hùng binh trong ngày QL 19-06-73 lần ấy trên đại lộ Trần Hưng Đạo là những tài liệu hào hùng mà người ta còn giữ được về một Quân Lực đã 21 năm cầm súng an dân cho người dân miền Nam. Đó là hình ảnh, còn chuyện về họ, người ta viết lại rất nhiều, chuyện những người lính bị bức tử vì mưu đồ chính trị của các nước lớn, mà sau này, cộng sản trong cái ảo tưởng chiến thắng lại thêm ra sức bôi bẩn họ để mong tạo cho chúng một chính danh.
Vì sao họ tan hàng, những gì đã đến với họ, cho cả kẻ còn sống hay người đã hy sinh, cho những ai tha phương lưu lạc xứ người, hay phải vất vưỡng sống nốt đời mình dưới cái xéo xắc của bên thắng cuộc, mà xưa kia chúng đã từng một thời là giặc. Kể từ 30 tháng Tư Sàigòn mất tên! Có người nói nó đồng nghĩa chuyện nước VNCH với một quân lực anh dũng, mãi mãi bị chôn vùi sâu dưới ba thước đất, không ai sẽ còn nhớ cho một nhà nước, một thể chế tự do mà người dân miền Nam đã đổ bao xương máu cho sự sống còn của nó.
Những gì còn lại trong ký ức những người lính, những người sống sót qua cuộc chiến, qua tù đày cộng sản, thì những năm cuối sau Hiệp Định Paris 1973, đối với họ mới là vết hằn đậm nét nhất, những ngày tháng đó không thể nào quên. QL.VNCH phải đương đầu tình thế vô cùng khó khăn trong chiến đấu vì thiếu thốn, đã có người ái ngại mà nói rằng người lính miền Nam lúc đó “chiến đấu chống cộng theo kiểu con nhà nghèo, tiết kiệm từng viên đạn, từng lít xăng!” Không còn đồng minh giúp đở, những người lính Quốc Gia vẫn chiến đấu cho sự sống còn của chính mình, tuy đơn độc nhưng lại dũng cảm kiên cường hơn bao giờ hết, trong những năm 1973, 1974, và vào những giờ phút cuối 1975.
Trong cuốn “Black April” xuất bản năm 2012 nhân ngày 30 tháng Tư, tác giả là George J.Veith đã nhận định về sự thất bại trong tháng Tư năm 1975 của người lính QL.VNCH như sau: “Đó là không phải do sự lúng túng của chính quyền VNCH, và càng không phải do sự yếu kém trên chiến trường của chiến sĩ QL.VNCH. Lần lượt trong ba năm từ 1973-1974-1975, miền Nam đã bị cắt giảm viện trợ xuống dần chỉ còn 1/3 - Nguyên nhân gốc rễ đưa đến thất bại của miền Nam Việt Nam chính là từ chuyện Quốc hội Hoa Kỳ đã cắt giảm viện trợ”.
Sự thiếu hụt nhiên liệu máy bay và phụ tùng, đã đưa đến thất lợi cho phía VNCH, không cho phép không quân chuyển vận binh sĩ, để giữ vững phòng tuyến biên giới phía Tây dài gần 1500 km. Do đó CSBV được tự do tập trung, để tung ra các cuộc tấn công lớn, áp đảo vào các thị xã thành phố chính yếu, mà miền Nam không thể ném bom CSBV ngay cả khi biết nơi chúng tập trung. Vì vậy sau này báo chí lẫn truyền thông khi nói đến chuyện tháng Tư, họ đã dùng hai chữ trói tay QL.VNCH để bức tử miền Nam thật là chính xác, nhất là chuyện Quốc hội Hoa Kỳ lại dùng một nghị quyết đã được thông qua năm 1973 là “War Power Act” để buộc Tổng thống Gerald Ford không được hành động khi CSBV trắng trợn xé bỏ Hiệp định Paris.
Đó là những gì Hoa Kỳ, người đồng minh phản bội đã gây cho người lính VNCH! Vì thực tế phải thấy rằng VNCH chỉ có thể đương đầu với cả khối CS, khi có sự hỗ trợ của Mỹ và Đồng Minh, và một khi sự liên minh chống cộng này không còn, thì người dân miền Nam không thể một mình chống lại quân Bắc Việt với sự hỗ trợ của cả cộng sản Nga lẫnTầu. Đã 39 năm qua, từ nhiều phía kể cả trong chúng ta cũng đã có lời chê trách về những người lính QL.VNCH - Trên dư luận chúng tôi thiết nghĩ, một lời nói như của George J.Veith, một người đứng ngoài sẽ có giá trị khách quan nhiều lần hơn, và dĩ nhiên giá trị bằng trăm ngàn lần lời huênh hoang dối trá của bọn cộng sản.
Những người lính thất trận miền Nam này, sau đó ngay cả cái tên cũng bị cộng sản gọi xách mé là Ngụy, thói thường cái chính danh, chính nghĩa kẻ thắng sẽ vơ về phần chúng, cộng sản tuyên bố là nhân dân miền Nam đã vùng lên làm cách mạng thành công lật đổ nhà nước VNCH. Trong Black April Ông Veith viết “việc cộng sản Bắc Việt giết hại những người không cầm súng ở Huế năm 1968 và dọc Quốc lộ 1 năm 1972 khiến người dân phát hoảng và họ đã tràn ra các ngả đường khi quân miền Nam rút đi.” Vậy sự thật về cái cách mạng nhân dân của CSBV nó nằm ở đâu, khi ngày 19/04 lúc 9.00 giờ đêm, các đơn vị Dù thuộc LĐ1ND rút khỏi phòng tuyến Xuân Lộc vừa ra tới QL1, tất cả dân làng các xóm Bảo Định, Bảo Tồn và Bảo Hoà đã chờ sẵn hai bên đường để được theo chân lính Dù di tản?
Bên cạnh một George J.Veith với “Black April”, có cái nhìn về người lính VNCH bị bức tử, còn có Pierre Asselin, phó giáo sư lịch sử ở Đại học Hawaii Pacific tác giả cuốn “A Bitter Peace” (Washington, Hanoi, and the Making of the Paris Agreement - North Carolina, 2002) nhận định về hành động Hà Nội xé bỏ hiệp định Paris và cái kết quả của sự vi phạm này:
“Hà Nội chiến thắng cuộc chiến Việt Nam, đó là điều chắc chắn, tuy nhiên họ cũng không thắng dựa trên các điều khoản của mình, là thắng một cách vô điều kiện - Việc vi phạm Hiệp định Paris, điều mà phía Mỹ ít nhất đã cố gắng tôn trọng ở mức độ không đưa quân trở lại miền Nam, đã phá vỡ hình ảnh nạn nhân của chiến tranh chỉ muốn độc lập và hòa bình mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã dựng lên hơn một thập kỷ qua. Điều đó, cùng với những tình huống khác, đã làm giảm sự đáng tin của Hà Nội trong mắt thế giới, và một phần nào đó giải thích tại sao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lại bị quốc tế bỏ rơi hồi năm 1980. Hiệp định Paris không phải là một “thắng lợi vĩ đại” của Hà Nội; nó là một sự hòa bình cay đắng và cần thiết để tạo những điều kiện dẫn đến chiến thắng nhanh chóng nhưng đầy rắc rối năm 1975”.
Về phần những ai, vì lý do nào đó vẫn cứ cố trách cứ hết người này đến người nọ, xin hãy nghe lấy những ý kiến khách quan như đã đưa ra ở phần trên, cùng nhìn lại các sự kiện:
-Ngày 08/05/1972, TT Nixon tuyên bố tiến hành một bước leo thang mới mở rộng quy mô đánh phá miền Bắc kể cả bằng lực lượng không quân chiến lược, thả mìn cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, lạch, trên vùng biển phong toả miền Bắc Việt Nam.
-Ngày 20/06/1972 Kissinger gặp Chu Ân Lai, và Kissinger nói “Chúng tôi tin rằng tương lai quan hệ của chúng tôi với Bắc Kinh quan trọng vô biên cho tương lai của Á Châu hơn là những gì xảy ra tại Hà Nội hoặc Sài gòn.”
-Ngày 13/07/1972, Mỹ chấp nhận tái đàm phán Hội nghị toàn thể bốn bên tại Paris, đã bị ngưng kể từ ngày 24/03/1972.
- Ngày 13/12/1972 Hoa Kỳ tuyên bố ngưng đàm phán.
-Ngày 18/12 đến 29/12/1975 Hoa Kỳ cho B52 thả bom Hà Nội, Hải Phòng (12 ngày đêm).
-Ngày 27/01/1973 ký Hiệp định Paris.
Chuyện Trung cộng chiếm lấy Hoàng Sa 19/01/1974, Hoa Kỳ đã đứng ngoài, xoay lưng lại với đồng minh VNCH, như thể hiện sự giữ lời hứa của họ cùng TQ, tức thời sau đó Hà Nội liên tục đẩy mạnh các hoạt động quân sự, và cuối cùng là đơn phương xé bỏ hiệp định Paris - Hoa Kỳ đã dọn đường rút cho mình, và lẫn cho cái chiến thắng của cộng sản Hà Nội, bằng những bước đi đêm sắp đặt ngầm giữa Hoa Kỳ cùng Trung cộng.
Hẳn nhiên nay ai cũng đã biết được thực sự cái biến cố
30-04-1975 nó đã đến như thế nào, và tác giả “Black April” George J.Veith cũng
đã gọi tháng tư này là Tháng Tư Đen như chúng ta!
Việt Nhân (HNPĐ)