Đoạn Đường Chiến Binh
THEO LỚP MÂY ĐƯA
Kha Lăng Đa
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi, ngẩn ngơ nỗi nhà.
(Chinh phụ ngâm)
Thật đúng là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ nên nguyệt lão khiến
xui tôi từ Phi Đoàn 114 ở Nha Trang đổi ra Phi Đoàn Thiên Phong 110 (Đà
Nẵng) mà Quảng Ngãi, quê của người yêu tôi là biệt đội của đơn vị nầy.
Rồi đây lửa gần rơm chắc thế nào cũng bén!
Đến đơn vị mới được vài tuần, tôi nhận sự vụ lệnh đi biệt phái ra miền
sông Hương, núi Ngự rồi đến Đông Hà – Quảng Trị. Lúc nầy chiến trường
đang ngút lửa ở phía Tây của Cố Đô Huế, trong dãy Trường Sơn và vùng hỏa
tuyến Gio Linh – Bến Hải. Cộng quân ngày đêm pháo kích những căn cứ Mỹ
gần cầu Hiền Lương và quận Đông Hà, cái quận nghèo nàn đường sá đầy bụi
bậm, cây cối xác xơ. Khí hậu ở đây rất nghiệt ngã, ngày nắng như thiêu
đốt, đêm lạnh thấu xương. Dân vùng nầy sống rất khổ: chiến tranh, thời
tiết, việc mưu sinh. Họ cam chịu mọi bất hạnh mà trời đã dành cho họ,
một sự cam chịu đến lì lợm, phó mặc cho định mệnh.
Những đêm trời lạnh sắt se, có khi khoảng 6 độ bách phân, biệt đội chúng
tôi dùng cái thùng phuy đặt giữa nhà làm cái lò sưởi mà chất đốt là ván
gỗ thông lấy từ những thùng đựng rốc-kết. Đêm nào chúng tôi cũng ngồi
quây quần bên lò sưởi, ăn bánh khoái, uống lai rai rượu Rum-Đê-Ô-Đa cho
ấm lòng… chiến sĩ, kể chuyện tiếu lâm, chuyện các nàng cho tới khuya mới
đi ngủ. Có hôm lạnh quá sau một ngày làm việc, chúng tôi phải bay về
đáp ở phi trường Tây Lộc trong thành nội Huế để trú lạnh, sáng sớm hôm
sau lại bay trở ra Đông Hà.
Những lần ra biệt đội Huế, bay yểm trợ cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh thì rất vui
vì có nhiều tiết mục hấp dẫn nào là ngồi quán Lộ Thiên, quán cà phê
Dung, điểm tâm bún bò giò heo ở cửa Thượng Tứ, qua cồn Hến ăn cơm hến,
ngủ đêm trên đò cắm sào giữa sông Hương trong cảnh gió mát, trăng thanh.
Biệt đội chúng tôi ăn cơm trưa và chiều ở quán cơm Đập Đá, bên kia cầu
Trường Tiền. Thỉnh thoảng cả băng rủ nhau đi ăn bánh bèo ở thôn Vĩ Dạ.
Có lần chúng tôi đi chơi tận ngoài cửa Thuận An.
Lần đầu tôi đi biệt phái Huế thì anh Nhơn ‘Nước’ làm biệt đội
trưởng. Anh nầy là một cao thủ binh sập sám luyện được tuyệt chiêu đánh
đâu thắng đó. Tôi và tiểu đệ Hồ Quang Bá không thuộc môn phái nầy nhưng
thường đi ‘ếch-cọt’ anh ta trong những trận giao đấu với các cao thủ Bộ Binh. Đi biệt phái với Nhơn ‘Nước’ thì thật là… huy hoàng vì anh ta thường làm lễ khao quân khi thắng trận. Sở dĩ được mang biệt danh Nhơn ‘Nước’ vì anh ta ‘nhẩm sà’ như rồng lấy nước và uống liền liền cho nên Nhơn ‘Nước’, mập nước. Tôi với anh ta rất là tâm đắc vì cả hai rặc ri Nam cờ, thích ca 6 câu vọng cổ.
Từ Vùng II Chiến Thuật, tôi theo những lớp mây trời trôi nổi ra Vùng I
Chiến Thuật, đi chào sân ở Huế, bung ra tới Vĩ Tuyến 17, lộn ngược ra
Quảng Nam, Tam Kỳ rồi mới biệt phái cho Sư Đoàn 2 Bộ Binh mà bộ chỉ huy
nằm ở trại Hoa Lư, trong tỉnh Quảng Ngãi, nơi người yêu của tôi đang
sống với cha mẹ nuôi. Lần nào về núi Thiên Ấn, sông Trà Khúc nầy tôi
cũng bén mùi chim mía và rượu bách nhựt của Cẩm Thành (và bén mùi… người
yêu nữa chớ!) Tôi xin biệt phái dài hạn, một hai tháng mới chịu trở về
đơn vị. Nghe theo lời dụ dỗ của… con tim, tôi quyết định cưới vợ. Đám
cưới của tôi do anh Mạnh, Phi Đoàn Trưởng (Biệt danh là Captain Le Fort)
làm chủ hôn. Một số bạn bè ở Đà Nẵng và ở biệt đội Quảng Ngãi đến chia
vui. Trong tiệc cưới có nhạc sống nổi tưng bừng. Đã biết cưới vợ là bế
mạc cuộc sống độc thân bay nhảy như chim mà tôi vẫn tỉnh bơ như con sáo
sành đứng hót trước đường nhắm đúng của một tay thiện xạ ná dây thun.
Rồi đây tôi sẽ phải khổ vì mang trách nhiệm làm chồng, làm cha, nặng nề
mà còn làm người bạn trăm năm phải khổ lây theo tôi.
Trong thời chiến tranh nầy, những người chinh phụ như vợ tôi thật đáng
thương. Mỗi sáng thức dậy đi bay, tôi đã đọc được nỗi lo âu trong đôi
mắt vợ tôi. Chiều nào về hơi trễ cũng thấy nàng đứng trước cửa nhà, ngó
mong vì đã có nhiều người bạn của tôi ra đi không trở lại. Phi Đoàn 110
có cái huông rất kỳ lạ như bị lời chúc dữ linh thiêng. Khi xảy ra
một tai nạn thì sẽ có thêm một tai nạn thứ hai sau đó không lâu và có
một phi hành đoàn mất tích thì sẽ kéo theo một phi hành đoàn nữa. Bởi
vậy khi đơn vị có tin buồn thì các phu nhân của nhân viên phi hành thắc
thỏm lo âu, không biết phu quân của mình có rơi vào cái huông ác
nghiệt ấy chăng! Cái khổ còn lây qua cho những đứa con của tôi. Cư xá
tôi nằm ở gần phi đạo. Đêm đêm, con tôi ngủ không yên giấc. Chúng thường
bị giật mình khóc thét lên vì phi cơ phản lực cất cánh gây tiếng động
ầm ầm như sấm sét, xé tan màn đêm tĩnh mịch. Đã vậy mà Việt Cộng nhiều
lần dùng hỏa tiễn 122 li pháo kích phi trường. Còi báo động hú lên inh
ỏi. Vợ chồng tôi phải vội vã bồng con chui vào hầm trú ẩn trong phòng
ngủ. May mắn là tôi được làm lính thành phố, còn những anh em ở những
đơn vị Bộ Binh hay những đơn vị tác chiến khác phải chịu gian khổ hơn
tôi nhiều. Có khi họ đem cả vợ con theo ở trong đồn bót, căn cứ. Tôi nhớ
mãi chuyêän Việt Cộng tấn công một đồn của Địa Phương Quân giữa đêm
khuya. Anh Thượng sĩ thủ súng đại liên bị trọng thương. Vợ của anh ta
thay thế chồng, quyết tử chiến với quân thù. Chị đã đẩy lui được địch
kịp lúc trời rạng đông. Đúng là giặc đến nhà đàn bà phải đánh.
Riêng những người chinh phụ, vợ của nhân viên phi hành thì khi chiều hôm
nhạt nắng, nàng đứng tựa cửa nhìn mây bay theo gió mà trông chờ cánh
chim ở chốn xa xăm bay về tổ ấm. Tôi đã khóc trước cảnh tử biệt đau
thương của những người bạn thân gãy cánh nửa chừng xuân, thi hài không
nguyên vẹn, nhưng sau đó tôi lại lao vào vòng khói lửa mà lòng không nao
núng. Những người đã nằm xuống cho lý tưởng Bảo Quốc Trấn Không luôn
được kẻ còn lại tiếc thương,ca tụng, nhắc nhở và noi gương.
Nghiệp bay ở miền Trung gắn liền với sự nguy hiểm khôn lường vì núi cao,
mây mù. Năm nào cũng có phi cơ bị mất tích vì thời tiết xấu. Những trận
mưa dai dẳng kéo dài đến mươi ngày, nửa tháng. Mây xám ôm ấp dãy Trường
Sơn. Mùa nầy tôi thường được ở nhà gần gũi vợ con. Dân bay Đà Nẵng đã
đặt một câu tục ngữ về thời tiết rất đúng: Mây phủ Sơn Chà, về nhà đánh bạc.
Ở Phi Đoàn 110 được hơn một năm thì tôi lại được chọn qua Toán SF (Special Force) biệt phái cho trại Lực Lượng Đặc Biệt B15 ở gần bờ sông Dakpla – Kontum. Toán nầy do Đại úy Trần Văn Vinh chỉ huy, gồm có 3 phi hành đoàn và 2 cơ khí viên, dùng loại phi cơ Cessna U17 để thi hành phi vụ. Nhiệm vụ của chúng tôi là chở những anh Mỹ trưởng toán biệt kích, bay đến vùng biên giới Lào để quan sát, xác định tọa độ của một bãi đáp chánh và một bãi đáp phụ cho phi cơ trực thăng H34 của Phi Đoàn 219 thả những team biệt kích xuống dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Mỗi team của họ chỉ có 6 người, đa số là lính Thượng. Thường khi đi nhảy toán, họ trang bị súng AK và cải trang như Việt Cộng. Chúng tôi được Mỹ trả lương tính theo phi vụ vượt biên giới đã thực hiện được, nửa tháng trả tiền một lần và dĩ nhiên chúng tôi vẫn được lãnh lương mình ở đơn vị. Bay những phi vụ đặc biệt nầy là đối diện với tử thần. Biệt đội của chúng tôi có 2 phi hành đoàn bị mất tích. Biệt đội trực thăng H34 của Phi Đoàn 219 có mấy chiếc bị địch bắn rớt và bị mất tích. Vùng hoạt động của chúng tôi nằm dọc theo biên giới Lào, nhứt là vùng Benhet – Dakto.
Tôi đi cặp với Trung úy Đoàn Cao Đoán vừa mới cưới vợ. Cặp bài trùng của chúng tôi đã hai lần thoát chết, một lần nôn nóng về gặp bà xã đã bay lọt vào mây CB, loại mây tạo thành cơn giông, phi cơ bị gió đánh tưởng đâu gãy lìa đôi cánh. Một lần suýt bị Pháo Đài Bay B52 thả bom trên… lưng. Chúng tôi vừa bay ra khỏi vùng oanh kích tự do thì một trận mưa bom GP750 trút đổ xuống, khiến chiếc Cessna bị chao đảo như cánh bướm trước cơn gió lốc.
Bộ chỉ huy phối hợp Việt – Mỹ của trại B15, trong đó có Thiếu tá Rỉnh, Đại úy Thụ, Đại úy Bích rất yêu mến Không Quân, nhứt là anh em trực thăng vì đã có mấy toán biệt kích bị lâm nguy được các phi hành đoàn của biệt đội H34 cảm tử lao vào vùng địch bốc họ về trại. Những toán nầy thường vào câu lạc bộ đãi mọi người uống bia mệt nghỉ. Bên trong câu lạc bộ có treo một cái chuông. Theo qui định ai đi vào mà không giở nón sẽ bị phạt trả tiền cho tất cả ẩm khách đang uống rượu trong câu lạc bộ. Người nào thấy được kẻ phạm lỗi không giỡ nón khi vào câu lạc bộ thì đến giựt chuông báo phạt. Ngoài cửa câu lạc bộ có một phòng nhỏ cho một cô gái Việt Nam bán bia thùng và thuốc lá cây. Cô nầy đẹp nhưng rất là … quỉ quái. Cô ta mặc áo dài kín đáo nhưng nói chuyện thì rất sex khiến người đối diện tưởng cô ta đang… thoát y. Lần nào sắp về đơn vị, tôi cũng đến mua một thùng bia và một cây thuốc lá để đãi bạn bè. Lần nào tôi cũng nghe người con gái bạo mồm, bạo miệng nầy nói những lời khêu tình khiến tôi phải… đỏ mặt, tía tai (Con gái gì mà chì quá trời, quá đất!).
Vì đã ngán thức ăn Mẽo trong trại nên Đoán và tôi chiều nào cũng ra phố Kontum ăn cơm Việt Nam mà hai món chánh là canh chua, cá kho. Tôi tìm đến nhà một người con gái có tài thổi… tiêu mà tôi đã quen từ ba năm trước lúc tôi còn ở Phi Đoàn 114, thì nàng đã vắng dạng xa hình. Nhà nàng cửa đóng kín bít. Tôi nhìn qua khe hở của vách ván, thấy trong nhà tơ nhện phủ giăng. Tiếng mọt gỗ vọng ra như tiếng võng sầu đưa kẽo kẹt. Thềm nhà xanh sắc rêu, xác lá vàng nằm chồng chất ngập sân. Nhớ đêm gặp gỡ đầu tiên, nàng đã thổi tiêu cho tôi nghe (Con gái mà thích thổi mới ngộ chớ!) Không biết bây giờ em trôi dạt về đâu. Tôi thẩn thờ trở gót, nghe như tiếng tiêu buồn còn văng vẳng đâu đây.
Sau 15 ngày biệt phái cho B15 trở về đơn vị, chúng tôi đi bay phi vụ
đặc biệt cho trại biệt kích ở Sơn Chà hay trại biệt kích ở phi trường
Phú Bài, phía Nam cố đô Huế mà vùng hoạt động là biên giới phía Tây
Ashau, A Lưới. Những anh biệt kích Mỹ gọi vùng nầy là Oméga vì nó có một
nhánh sông Mékong uốn khúc thành hình móng ngựa. Con đường mòn Hồ Chí
Minh nơi đây có nhiều ngả rẽ vào núi rừng phía Đông. Có một hôm chúng
tôi khám phá được một đoàn xe Motolova của Cộng Sản Bắc Việt đang di
chuyển về phía Nam. Anh Mỹ được chúng tôi chở đi quan sát bãi đáp trực
thăng để sẽ nhảy toán bèn báo cáo về Bộ Chỉ Huy. Khoảng hai mươi phút
sau, 2 chiếc F100 bay đến oanh kích đoàn xe của địch tan tành.
Một lần bay ở vùng Lao Bảo – Khe Sanh, chúng tôi lọt qua phía Bắc Vĩ
Tuyến 17, sát biên giới Lào nhìn thấy Đồng Hới xa xa. Vùng nầy núi non
hùng vĩ, vách đá thẳng đứng cheo leo. Có những quả núi hình dạng kỳ quái
như con khủng long đang nằm ngủ. Chúng tôi đang tìm bãi đáp trực thăng
cho anh biệt kích Mỹ thì bỗng từ xa phía dưới thung lũng, một chiếc phi
cơ phản lực sơn màu đen bay lên ngang cao độ và ngược chiều với phi cơ
của chúng tôi. Chúng tôi đang hoảng hốt vì sợ gặp phải phi cơ MIG21 của
Bắc Việt và chưa kịp có phản ứng gì thì nó đã đến gần. Nhìn lại thì nó
là chiếc F100 của Mỹ. Chắc nó cũng đang thi hành phi vụ đặc biệt nên bay
rất thấp, lượn lách trong hẻm núi. (Hú hồn, hú vía! Rủi ro mà gặp MIG21
trên vùng đất địch thì chắc chúng tôi sẽ đi không ai tìm xác rơi).
Khi tôi còn ở Phi Đoàn 114 Nha Trang thì Đại úy Trần Trọng Khương làm
Phi Đoàn Phó, Thiếu Tá Đặng Văn Hậu làm Phi Đoàn Trưởng. Lúc tôi ra Đà
Nẵng được hơn một năm thì anh Khương cũng đổi ra Phi Đoàn 110 và cũng
giữ chức vụ Phi Đoàn Phó. Gần một năm sau do đà bành trướng của Không
Quân từ cấp Không Đoàn lên đến cấp Sư Đoàn, anh Khương được Bộ Tư Lệnh
cất nhắc lên làm Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 122 tân lập thuộc Sư Đoàn IV
Không Quân ở phi trường Trà Nóc – Cần Thơ. Từ lâu tôi đã mộng ước ấp ủ
về phục vụ ở miền Nam để được gần mẹ tôi tuổi đã già nua. Nhân cơ hội
nầy, tôi xin đầu quân vào Phi Đoàn 122 (Trước mang danh hiệu Thần Tiễn, sau đổi lại là Họa Mi).
Tôi đưa vợ con tôi về miền đất lành chim đậu. Tuy bước đầu phải gặp
nhiều khó khăn vì tôi chưa xin được cư xá nhưng tâm hồn tôi cảm thấy thư
thái, nhẹ nhàng, rộng mở khi nhìn những cánh đồng lúa xanh trải tận
chân trời. Miền Nam trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng nhân dân vẫn được
ấm no, hạnh phúc. Tôi được sống lại trong cái phong thổ thích hợp với
tôi. Vợ tôi tuy có bỡ ngỡ vì lạ cảnh, lạ quê nhưng rồi cũng hân hoan hội
nhập với xã hội miền Nam. Các con tôi không còn bị giựt mình vì tiếng
thét gầm của phi cơ phản lực cất cánh ban đêm nữa. Không còn chui vào
hầm trốn pháo kích nữa nhưng vợ tôi thì vẫn mang nặng nỗi lo âu khi sáng
sớm tôi đi bay và vẫn tựa cửa trông tôi về khi trời rũ bóng hoàng hôn.
Phi Đoàn 122 là nơi hội tụ nhiều tay hảo hán từ các phi đoàn khác đến
như Lý Tống, Trọng Khùng, Thám Tử Lê Phong, Vũ Hiếu Mưu (Biệt danh là
người Thượng Cổ), Kiệt Gà, Yến Fulro, Nguyễn Văn Sao, Phan Tấn Khải,
Hưng Râu, Nguyễn Văn Công, Hình Thại Thu, Phước Chảy, Bá Hiệp Sĩ Mù….
Hai tháng sau ngày thành lập, Phi Đoàn 122 mang tên nữ ca sĩ Họa Mi đã
sát cánh với Phi Đoàn bạn 116 (Danh hiệu Sơn Ca) bay yểm trợ cho biệt
khu 44 – Cao Lãnh, Sư Đoàn 7 và Sư Đoàn 9 Bộ Binh ở căn cứ Đồng Tâm – Mỹ
Tho, Tiểu Khu Vĩnh Bình, Vĩnh Long, Mộc Hóa, Châu Đốc, Vị Thanh, Kiên
Giang, căn cứ Hải Quân Năm Căn và Đặc Khu Phú Quốc. Tôi có dịp đến nhiều
tỉnh lỵ của miền Nam trái ngọt cây lành, được chiêm ngưỡng dung nhan
của những nàng con gái sông Tiền, sông Hậu xinh tươi trong chiếc áo bà
ba. Được các em nữ sinh dẫn vào vườn mận, vườn xoài ăn trái ngọt miền
Nam. Có những đêm sáng trăng tôi đã cùng người bạn Trương Văn Sang, chỉ
huy trưởng Lực Lượng Giang Cảnh ở bến phà Tân Tịch – Cao Lãnh xuôi tàu
trên sông Tiền Giang để cùng nhau đối ẩm, đờn ca cổ nhạc miền Nam. Chúng
tôi ngồi trên mui tàu, ăn cá linh nhúng giấm, cụng ly nhau, uống cạn
từng ly rượu đậm đà tình thân ái, nhìn ánh trăng lung linh trên mặt sông
phẳng lặng. Tôi đã bay xuống tận vùng trời cuối Việt và tại căn cứ Hải
Quân ở Năm Căn, tôi đã gặp lại người bạn học Ngô Văn Trì đang giữ chức
vụ Chỉ Huy Phó Tiền Doanh. Tôi đã xin phép Phi Đoàn Trưởng ở lại với anh
vài ngày để cùng nhau tâm sự. Anh đã đãi tôi ăn đặc sản tôm cua, cá
chẽm và thịt rừng của vùng Năm Căn. Tôi và Yến Fulro đã chở con kỳ đà
nặng gần 5 kí do Trì tặng, đem về Trà Nóc, nấu cà ri đãi anh em đồng
nghiệp nhậu say lúy túy, trong khi dân bay rất kỵ và sợ con kỳ đà cản
mũi sẽ gieo nhiều tai họa. Mấy hôm sau đi hướng dẫn khu trục oanh kích ở
gần Vị Thanh, phi cơ của tôi bị Việt Cộng bắn lủng cánh hai, ba lổ. Anh
em trong đơn vị đồn vang tôi bị xui xẻo vì đã dám chở con kỳ đà về ăn
thịt.
Mỗi lần đi biệt phái cho Đặc Khu Phú Quốc, tôi lên cân ít nhất là 3 kí
lô vì được Trung tá Thơ – Hải Quân thường đãi chúng tôi ăn hải vị thượng
hạng của đảo Phú Quốc. Chúng tôi thương kính Trung tá Thơ như một người
anh cả. Anh cũng rất mến chúng tôi. Anh là thành viên của Tổng Hội Săn
Bắn Dưới Biển. Tủ lạnh lớn của anh luôn chứa đầy những loại cá ngon mà
anh đã săn được trong sự chọn lựa. Chiều chiều, anh cùng Yến Fulro và
tôi làm món cá hấp hay cá nướng, đặt bàn nhậu trên bờ biển sau nhà anh
đang ở rồi chúng tôi nằm trên ghế bố nhậu lai rai chờ trăng lên. Khi đêm
đã vào khuya, gió biển thổi về thấm lạnh, chúng tôi dọn bàn vào nhà và
tiếp tục vui say. Bỗng anh phải giã từ chúng tôi đi làm Tùy Viên Quân Sự
ở Tây Đức. Những chiều cuối tuần ở hải đảo Phú Quốc, chiếc L19 của
chúng tôi biến thành chiếc tàu đò đi lại nhiều chuyến mới chở hết bạn bè
trong Đặc Khu, cất cánh tại phi trường An Thới bay lên Dương Đông đá gà
nòi. Sau những độ kê chiến kịch liệt, cả băng kéo nhau đi nhậu đến
hoàng hôn mới trở lại An Thới. Có khi về trễ phải gọi người lái xe ra
đầu phi đạo pha đèn cho chiếc L19 mảnh khảnh mà ráng chở tới 3 người vào
đáp gió ngang, gió giật. Yến Fulro là một hảo hán không chê những sân
bay chật hẹp. Lần nào đi Phú Quốc về phi cơ của chúng tôi cũng chở đầy
quà tặng của thân hữu, toàn là khô cá thiều và nước mắm hảo hạng của
hãng Nam Phong, Hồng Đại. Có lần chúng tôi chở về đơn vị một giỏ cần xé
ghẹ biển chất đầy chiếc Cessna, phân phát cho cả đại gia đình Họa Mi ăn…
lấy thảo.
Để đáp lại lòng thương mến của anh em ở hải đảo, nhân chuyến đi thăm
biệt đội vào ngày đầu Xuân, tôi và Yến Fulro đã mua 6 con rùa ở Cần Thơ
đem ra Phú Quốc để làm món rùa rang muối đãi thân hữu. Đại úy Phước
‘Chảy’, Trưởng Phòng Hành Quân đòi đi theo chúng tôi ra đảo nhưng khi
nhìn thấy cái bao cát đựng 6 con rùa trên chiếc Cessna U17B của tôi và
Yến sắp đi du xuân thì ông ta lắc đầu, le lưỡi và vội vàng rút lui vì sợ
những cái mu rùa nhẵn nhụi sẽ mang đến vận đen cho ông (Vậy thì bớt đi
người phá mồi nhậu, càng tốt!).
Bỗng Việt kiều ở Kampuchia bị Miên ‘cáp dùl’, tôi đã nhận lệnh
bay hộ tống cho chiếc HQ5 của Hải Quân ta đang chở đồng bào lâm nạn về
nước theo thủy lộ sông Cửu Long. Nhìn họ ngồi xúm xít trên boong tàu sau
khi thoát khỏi cảnh chết chóc đau thương, tôi nghe lòng căm hận bọn
người dã man, tàn bạo. Biết bao cảnh vợ chồng chia lìa, trẻ thơ vô tội
phải chịu mồ côi cha mẹ, sống vất vưởng lang thang. Nếu được phép trừng
trị bọn người hiếu sát kia thì tôi nhứt định đánh thẳng tay để trả thù
cho đồng bào ruột thịt đã bị họ giết hại.
Về miền đồng bằng, chúng tôi cảm thấy đường bay rộng mở thênh thang,
không bị cản trở bởi núi non trùng điệp khi mây xuống thấp. Mục tiêu
cũng dễ thanh toán hơn miền Trung. Chiến trường ở Vùng IV Chiến Thuật
đang nóng bỏng ở nhiều nơi như khu vực Tháp Mười, Tân Thành, Cái Cái,
Sầm Giang, Long Toàn, U Minh Thượng, và khu vực Thất Sơn. Phi vụ mà tôi
khó quên là phi vụ hướng dẫn một phi tuần A37 trang bị bom CBU55, oanh
kích đỉnh núi Tròn nằm trong Thất Sơn, tiêu diệt địch quân chiếm cứ đỉnh
quân sự nầy đã lâu ngày mà lực lượng Biệt Động Quân ta không hạ chúng
được – Mỗi lần quân ta leo lên tới sườn núi, chúng thả ‘Bêta’ có dù bộc,
bay lơ lửng và nổ chụp xuống khiến Biệt Động Quân thiệt hại nặng nề về
nhân mạng. – Bị thả bom đặc biệt (mà Bắc Việt đã gọi nó là bom nguyên tử
cỡ nhỏ) Việt Cộng chết nằm la liệt, xác nào cũng chảy máu miệng, máu lỗ
tai, lỗ mũi. Quân ta tiến chiếm lại đỉnh núi Tròn.
Lúc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tiến qua Kampuchia để triệt hạ sào
huyệt của Việt Cộng là lúc tôi được cấp cư xá trong phi trường Trà Nóc –
Cần Thơ. Vợ chồng tôi hớn hở dọn về nhà mới. Các con tôi có sân chơi
trước nhà để nô đùa thỏa thích và đi học lớp mẫu giáo ở trường tiểu học
ngoài cổng phi trường do Sư Đoàn IV Không Quân xây cất. Rời xa cảnh gạo
chợ nước sông, vợ tôi đỡ bớt nhọc nhằn trong công việc nội trợ hằng ngày
nhờ cư xá có điện, nước xài tự do. Tôi thấy an tâm trên đường chinh
chiến, đi biệt phái qua Phnom-Pênh để yểm trợ cho những cuộc hành quân
của quân ta, quét sạch cứ điểm địch trên đất Miên. Ngoài những cuộc hành
quân ở Kompong Trapek, Kompong Rou, Svayriêng ở gần biên giới, tôi và
anh em đồng đội còn bay bao vùng hành quân ở trên lãnh thổ của xứ Chùa
Tháp như Banam, Preyveng, Kompong Cham, Kompong Trach, Snoul và đồn điền
Chup.
Khi ấy chính phủ Lonol dùng nhà hàng Thái San để chiêu đãi Không Quân
Việt Nam và một số chuyên viên kỹ thuật, tiếp vận, kiến tạo của ta sang
giúp họ. Chúng tôi ở trong phi trường Phnom-Pênh, chiều chiều lái xe ra
phố ăn cơm rồi đến chợ Mới, chợ Cũ gặp những cô Việt kiều ở những gian
hàng bán trái cây để tán gẫu hoặc đi dạo phố, mua quà kỷ niệm cho người
thân. Đêm nào cảm thấy ngứa chân thì cả biệt đội xuống vũ trường nổi La
Lune trên sông Cửu Long gần Hoàng Cung để nhảy đầm. Có đêm chúng tôi rủ
nhau vào Snack Bar để uống bia, nghe nhạc kích động Kampuchia. Các nàng
Khờ Me đến bao quanh chúng tôi, miệng nói xí xô xí xào. Chúng tôi có dẫn
theo một anh phu xe xích lô người Miên biết nói tiếng Việt Nam làm
thông dịch viên. Tôi hỏi anh ta:
– Mấy cô gái nói gì vậy anh?
Bằng giọng nói Giao Chỉ cứng ngắc như không có bỏ dấu, anh ta trả lời:
– Mấy cô nói mặt mấy ông… tốt lắm. (Đẹp lắm chớ không phải tốt đâu ông nội ơi !)
Sông Cửu Long lúc đó tàu Panama tấp nập ra vào Phnom-Pênh. Một đơn vị
Cộng quân đã đóng chốt ở phía Bắc Hồng Ngự, sát bờ sông đã bắn chìm một
tàu kéo theo sau một sà lan dài khoảng 30 thước. Cả khối lượng lớn đạn
dược được chất trên sà lan cũng bị bắn nổ tung. Khói lửa bốc lên ngút
trời. Tôi đã hướng dẫn Khu Trục phản lực A37 dội bom ngay trên vị trí
địch quân đặt súng. Sau đó, trực thăng HU1 đã thả một lực lượng Bộ Binh
của Sư Đoàn 7 xuống chiếm mục tiêu. Theo lời báo cáo kết quả của quân
bạn thì họ thu được 1 đại bác 75 li không giật, 1 đại liên Đông Đức, 5
giàn hỏa tiễn AT3, 14 súng AK và 23 Cộng quân bị tử thương.
Hôm nọ, anh Khương gọi tôi vào phòng trình diện. Anh vui vẻ nói:
– Kỳ nầy tôi đề nghị anh dự tuyển chiến sĩ xuất sắc của Sư Đoàn IV Không Quân. Anh nghĩ sao?
Tôi thản nhiên trả lời:
– Thưa Trung tá, xin Trung tá hãy đề nghị anh em trẻ tuổi của phi đoàn để khích lệ tinh thần chiến đấu của họ.
Anh Khương thân mật vỗ vai tôi:
– Tại sao phần vinh quang của anh mà anh lại nhường cho người khác. Nếu
được hưởng cái phần thưởng quí giá nầy, họ có chịu nhường cho anh không?
Tôi đã xét kỹ rồi, chỉ có anh mới có thể dự tranh cuộc tuyển lựa chiến
sĩ xuất sắc nầy vì phải được 2 huy chương Anh Dũng Bội Tinh ở chiến
trường Kampuchia. Anh thì chắc đủ hay thừa điều kiện. Vậy anh hãy lên
phòng Tổng Quản Trị lục và sao 2 bản quyết định ân thưởng Anh Dũng Bội
Tinh rồi đem về đây gấp cho tôi. Nếu được 3 huy chương càng tốt.
Tôi cỡi xe Honda chạy về hướng Phòng Nhân Viên của Sư Đoàn, lòng miên
man suy nghĩ về việc tự mình đi lục huy chương để nâng mình lên đài danh
vọng, sao tôi thấy tự thẹn với sự bon chen của tôi quá. Tôi bỗng quay
xe về cư xá vui chơi với các con tôi trước nhà, việc kia thì hạ hồi phân
giải. Đến chiều tôi mới trở lên đơn vị để xem bảng phi lệnh cắt đặt phi
vụ cho ngày mai. Gặp lại anh Khương, tôi lúng túng chưa biết phải nói
sao thì anh đã tươi cười nói:
– Chờ anh đi lục huy chương lâu quá nên tôi đã sai Đại úy Hiệp, sĩ quan
văn thư đi lấy về rồi. Quả thật vậy, anh hội đủ điều kiện. Hồ sơ dự
tuyển tôi đã chuyển đi. Tôi chắc là anh sẽ được chọn.
– Cám ơn Trung tá.
Tôi nghe mừng vui lẫn xúc cảm trước sự ưu ái của anh Khương đối với tôi.
Tôi tự trách mình không chân thật với chính mình. Nếu như anh Khương
chấp nhận sự nhượng bộ của tôi để người khác trong đơn vị thay thế tôi,
chắc sau đó tôi sẽ vô cùng nuối tiếc vì cái vinh quang của mình để cho
tha nhân được hưởng. Tôi rút kinh nghiệm cho bản thân tôi phải có chừng
mực trong sự khiêm nhường, đừng để nó quá lố khiến mình thành kẻ yếu
hèn, an phận làm đà cho người khác dẫm lên lưng mình để được thăng tiến.
Tôi được chọn làm Chiến Sĩ Xuất Sắc của Sư Đoàn IV Không Quân cùng
với một vị Thiếu tá hoa tiêu A37, được đưa về Sài Gòn trước ngày Quân
Lực 19-6-73 mười ngày. Thoạt tiên, ban tổ chức chụp hình từng người, ghi
lý lịch và thành tích chiến đấu để đưa vào chương trình Ánh Sao Đơn Vị
của Đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt Nam. Sau đó, họ phân chia chỗ ở. Chiến
Sĩ Xuất Sắc của Không Quân và Pháo Binh được chỉ định ở khách sạn
Palace. Có tất cả 211 người thuộc các quân, binh chủng của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa được chọn về thủ đô trình diện Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
và được ân thưởng Ưu Dũng Bội Tinh. Đại tiệc đầu tiên do Phủ Tổng Thống
biệt đãi chúng tôi trong Dinh Độc Lập có chương trình văn nghệ giúp vui
rất đặc sắc. Những món ăn rất cầu kỳ, sang trọng toàn là sơn hào, hải
vị. Mỗi người chúng tôi đều được mang một băng vải có đề dòng chữ nổi
bật Chiến Sĩ Xuất Sắc choàng từ vai trái qua hông phải như các nàng hoa
hậu. Kế tiếp những ngày sau, Thượng Nghị Viện, Hạ Nghị Viện, Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị và nhiều cơ quan khác mở tiệc linh đình chiêu đãi
chúng tôi. Tiệm bánh bao Ông Cả Cần cũng có mời chúng tôi đến ăn sáng.
Chỗ nào họ cũng có tặng quà trong bửa tiệc. Đặc biệt hãng Hàng Không Dân
Sự Air Vietnam chiêu đãi riêng anh em Chiến Sĩ Xuất Sắc Không Quân. Tôi
lại được dịp ngắm nhìn thật gần các cô chiêu đãi viên hàng không đẹp
tha thướt trong những chiếc áo dài màu thiên thanh.
Sáng ngày 19-6-73, chúng tôi được ngồi trên khán đài danh dự để xem cuộc
diễn hành vĩ đại của các binh chủng thuộc QLVNCH biểu dương lực lượng
giữa thành đô rợp bóng cờ vàng và giữa tiếng hoan hô vang dội của nhân
dân. Tôi hãnh diện nhìn lên nền trời xanh khi các loại phi cơ của Không
Lực Việt Nam bay qua khán đài trong đội hình phi diễn đẹp mắt, thả khói
màu tạo thành hình cờ tổ quốc.
Tôi được ưu tiên xin thuyên chuyển về Bộ Tư Lệnh Không Quân. Nếu được
vậy, tôi sẽ làm việc ở các Phòng các Ban chớ không còn đi bay nữa. Tôi
sẽ đưa vợ con về cư xá sĩ quan trong phi trường Tân Sơn Nhứt hoặc ở nhà
mẹ ruột của vợ tôi nằm trên đường Trương Minh Giảng. Rồi tôi sẽ tạo một
mái ấm gia đình thuộc quyền sở hữu của vợ chồng tôi ở vùng ngoại ô Sài
Gòn hay ở Thủ Đức. Tôi sẽ tìm nghề tay trái thích hợp với sở năng để
nâng cao mức sống gia đình, cho các con tôi rộng đường ăn học.
Mộng ước tương lai khiến tôi mang nặng suy tư trong suốt chuyến phi cơ
trở về đơn vị. Rồi đây tôi sẽ rời Phi Đoàn Họa Mi 122, xa bạn bè thân
mến với bao kỷ niệm êm đẹp trong chuỗi ngày chiến đấu và vui sống bên
nhau. Tôi sẽ không còn cùng anh em đi biệt phái ở các tỉnh miền sông
Tiền, sông Hậu và hải đảo Phú Quốc nữa. Tôi sẽ giã biệt Tây Đô hiền hòa
trong cuộc đời hạnh phúc mà niềm tin yêu của người Cần Thơ lai láng như
cơn nước rong trên bến Ninh Kiều thơ mộng.
Về đơn vị, vào một buổi sáng tôi mời tất cả anh em trong Phi Đoàn đi
ăn điểm tâm và tường thuật lại những ngày vui vừa qua. Tôi có tiết lộ
cho anh Khương và bạn bè nghe việc tôi được ưu tiên đổi về Bộ Tư Lệnh.
Gương mặt anh Khương bỗng thoáng nét buồn khi biết được dự tính tương
lai của tôi. Anh ôn tồn nói:
– Không lẽ anh được hưởng vinh quang rồi lìa bỏ tôi và anh em sao?
Tôi bỗng nghe nỗi nghẹn ngào, xúc động dâng lên trong lòng. Chưa chia ly
mà sao tôi nghe bùi ngùi, bịn rịn. Tình cảm quyến luyến anh em trong
đơn vị khiến lòng tôi quặn thắt khi nghĩ đến dự tính của mình. Tôi phải
chọn con đường nào đây? Tôi cắn môi, nhìn lên bầu trời xanh qua khung
cửa sổ. Từng đám mây trắng trôi bồng bềnh về phương vô định giữa không
gian đẹp nắng mai. Hình như có một đàn chim vỗ cánh bay ngang, tôi run
run nói với anh Khương:
– Thưa Trung tá, tôi không về Bộ Tư Lệnh, tôi ở lại với anh em…
Kha Lăng Đa
Bàn ra tán vào (0)
THEO LỚP MÂY ĐƯA
Kha Lăng Đa
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi, ngẩn ngơ nỗi nhà.
(Chinh phụ ngâm)
Thật đúng là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ nên nguyệt lão khiến
xui tôi từ Phi Đoàn 114 ở Nha Trang đổi ra Phi Đoàn Thiên Phong 110 (Đà
Nẵng) mà Quảng Ngãi, quê của người yêu tôi là biệt đội của đơn vị nầy.
Rồi đây lửa gần rơm chắc thế nào cũng bén!
Đến đơn vị mới được vài tuần, tôi nhận sự vụ lệnh đi biệt phái ra miền
sông Hương, núi Ngự rồi đến Đông Hà – Quảng Trị. Lúc nầy chiến trường
đang ngút lửa ở phía Tây của Cố Đô Huế, trong dãy Trường Sơn và vùng hỏa
tuyến Gio Linh – Bến Hải. Cộng quân ngày đêm pháo kích những căn cứ Mỹ
gần cầu Hiền Lương và quận Đông Hà, cái quận nghèo nàn đường sá đầy bụi
bậm, cây cối xác xơ. Khí hậu ở đây rất nghiệt ngã, ngày nắng như thiêu
đốt, đêm lạnh thấu xương. Dân vùng nầy sống rất khổ: chiến tranh, thời
tiết, việc mưu sinh. Họ cam chịu mọi bất hạnh mà trời đã dành cho họ,
một sự cam chịu đến lì lợm, phó mặc cho định mệnh.
Những đêm trời lạnh sắt se, có khi khoảng 6 độ bách phân, biệt đội chúng
tôi dùng cái thùng phuy đặt giữa nhà làm cái lò sưởi mà chất đốt là ván
gỗ thông lấy từ những thùng đựng rốc-kết. Đêm nào chúng tôi cũng ngồi
quây quần bên lò sưởi, ăn bánh khoái, uống lai rai rượu Rum-Đê-Ô-Đa cho
ấm lòng… chiến sĩ, kể chuyện tiếu lâm, chuyện các nàng cho tới khuya mới
đi ngủ. Có hôm lạnh quá sau một ngày làm việc, chúng tôi phải bay về
đáp ở phi trường Tây Lộc trong thành nội Huế để trú lạnh, sáng sớm hôm
sau lại bay trở ra Đông Hà.
Những lần ra biệt đội Huế, bay yểm trợ cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh thì rất vui
vì có nhiều tiết mục hấp dẫn nào là ngồi quán Lộ Thiên, quán cà phê
Dung, điểm tâm bún bò giò heo ở cửa Thượng Tứ, qua cồn Hến ăn cơm hến,
ngủ đêm trên đò cắm sào giữa sông Hương trong cảnh gió mát, trăng thanh.
Biệt đội chúng tôi ăn cơm trưa và chiều ở quán cơm Đập Đá, bên kia cầu
Trường Tiền. Thỉnh thoảng cả băng rủ nhau đi ăn bánh bèo ở thôn Vĩ Dạ.
Có lần chúng tôi đi chơi tận ngoài cửa Thuận An.
Lần đầu tôi đi biệt phái Huế thì anh Nhơn ‘Nước’ làm biệt đội
trưởng. Anh nầy là một cao thủ binh sập sám luyện được tuyệt chiêu đánh
đâu thắng đó. Tôi và tiểu đệ Hồ Quang Bá không thuộc môn phái nầy nhưng
thường đi ‘ếch-cọt’ anh ta trong những trận giao đấu với các cao thủ Bộ Binh. Đi biệt phái với Nhơn ‘Nước’ thì thật là… huy hoàng vì anh ta thường làm lễ khao quân khi thắng trận. Sở dĩ được mang biệt danh Nhơn ‘Nước’ vì anh ta ‘nhẩm sà’ như rồng lấy nước và uống liền liền cho nên Nhơn ‘Nước’, mập nước. Tôi với anh ta rất là tâm đắc vì cả hai rặc ri Nam cờ, thích ca 6 câu vọng cổ.
Từ Vùng II Chiến Thuật, tôi theo những lớp mây trời trôi nổi ra Vùng I
Chiến Thuật, đi chào sân ở Huế, bung ra tới Vĩ Tuyến 17, lộn ngược ra
Quảng Nam, Tam Kỳ rồi mới biệt phái cho Sư Đoàn 2 Bộ Binh mà bộ chỉ huy
nằm ở trại Hoa Lư, trong tỉnh Quảng Ngãi, nơi người yêu của tôi đang
sống với cha mẹ nuôi. Lần nào về núi Thiên Ấn, sông Trà Khúc nầy tôi
cũng bén mùi chim mía và rượu bách nhựt của Cẩm Thành (và bén mùi… người
yêu nữa chớ!) Tôi xin biệt phái dài hạn, một hai tháng mới chịu trở về
đơn vị. Nghe theo lời dụ dỗ của… con tim, tôi quyết định cưới vợ. Đám
cưới của tôi do anh Mạnh, Phi Đoàn Trưởng (Biệt danh là Captain Le Fort)
làm chủ hôn. Một số bạn bè ở Đà Nẵng và ở biệt đội Quảng Ngãi đến chia
vui. Trong tiệc cưới có nhạc sống nổi tưng bừng. Đã biết cưới vợ là bế
mạc cuộc sống độc thân bay nhảy như chim mà tôi vẫn tỉnh bơ như con sáo
sành đứng hót trước đường nhắm đúng của một tay thiện xạ ná dây thun.
Rồi đây tôi sẽ phải khổ vì mang trách nhiệm làm chồng, làm cha, nặng nề
mà còn làm người bạn trăm năm phải khổ lây theo tôi.
Trong thời chiến tranh nầy, những người chinh phụ như vợ tôi thật đáng
thương. Mỗi sáng thức dậy đi bay, tôi đã đọc được nỗi lo âu trong đôi
mắt vợ tôi. Chiều nào về hơi trễ cũng thấy nàng đứng trước cửa nhà, ngó
mong vì đã có nhiều người bạn của tôi ra đi không trở lại. Phi Đoàn 110
có cái huông rất kỳ lạ như bị lời chúc dữ linh thiêng. Khi xảy ra
một tai nạn thì sẽ có thêm một tai nạn thứ hai sau đó không lâu và có
một phi hành đoàn mất tích thì sẽ kéo theo một phi hành đoàn nữa. Bởi
vậy khi đơn vị có tin buồn thì các phu nhân của nhân viên phi hành thắc
thỏm lo âu, không biết phu quân của mình có rơi vào cái huông ác
nghiệt ấy chăng! Cái khổ còn lây qua cho những đứa con của tôi. Cư xá
tôi nằm ở gần phi đạo. Đêm đêm, con tôi ngủ không yên giấc. Chúng thường
bị giật mình khóc thét lên vì phi cơ phản lực cất cánh gây tiếng động
ầm ầm như sấm sét, xé tan màn đêm tĩnh mịch. Đã vậy mà Việt Cộng nhiều
lần dùng hỏa tiễn 122 li pháo kích phi trường. Còi báo động hú lên inh
ỏi. Vợ chồng tôi phải vội vã bồng con chui vào hầm trú ẩn trong phòng
ngủ. May mắn là tôi được làm lính thành phố, còn những anh em ở những
đơn vị Bộ Binh hay những đơn vị tác chiến khác phải chịu gian khổ hơn
tôi nhiều. Có khi họ đem cả vợ con theo ở trong đồn bót, căn cứ. Tôi nhớ
mãi chuyêän Việt Cộng tấn công một đồn của Địa Phương Quân giữa đêm
khuya. Anh Thượng sĩ thủ súng đại liên bị trọng thương. Vợ của anh ta
thay thế chồng, quyết tử chiến với quân thù. Chị đã đẩy lui được địch
kịp lúc trời rạng đông. Đúng là giặc đến nhà đàn bà phải đánh.
Riêng những người chinh phụ, vợ của nhân viên phi hành thì khi chiều hôm
nhạt nắng, nàng đứng tựa cửa nhìn mây bay theo gió mà trông chờ cánh
chim ở chốn xa xăm bay về tổ ấm. Tôi đã khóc trước cảnh tử biệt đau
thương của những người bạn thân gãy cánh nửa chừng xuân, thi hài không
nguyên vẹn, nhưng sau đó tôi lại lao vào vòng khói lửa mà lòng không nao
núng. Những người đã nằm xuống cho lý tưởng Bảo Quốc Trấn Không luôn
được kẻ còn lại tiếc thương,ca tụng, nhắc nhở và noi gương.
Nghiệp bay ở miền Trung gắn liền với sự nguy hiểm khôn lường vì núi cao,
mây mù. Năm nào cũng có phi cơ bị mất tích vì thời tiết xấu. Những trận
mưa dai dẳng kéo dài đến mươi ngày, nửa tháng. Mây xám ôm ấp dãy Trường
Sơn. Mùa nầy tôi thường được ở nhà gần gũi vợ con. Dân bay Đà Nẵng đã
đặt một câu tục ngữ về thời tiết rất đúng: Mây phủ Sơn Chà, về nhà đánh bạc.
Ở Phi Đoàn 110 được hơn một năm thì tôi lại được chọn qua Toán SF (Special Force) biệt phái cho trại Lực Lượng Đặc Biệt B15 ở gần bờ sông Dakpla – Kontum. Toán nầy do Đại úy Trần Văn Vinh chỉ huy, gồm có 3 phi hành đoàn và 2 cơ khí viên, dùng loại phi cơ Cessna U17 để thi hành phi vụ. Nhiệm vụ của chúng tôi là chở những anh Mỹ trưởng toán biệt kích, bay đến vùng biên giới Lào để quan sát, xác định tọa độ của một bãi đáp chánh và một bãi đáp phụ cho phi cơ trực thăng H34 của Phi Đoàn 219 thả những team biệt kích xuống dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Mỗi team của họ chỉ có 6 người, đa số là lính Thượng. Thường khi đi nhảy toán, họ trang bị súng AK và cải trang như Việt Cộng. Chúng tôi được Mỹ trả lương tính theo phi vụ vượt biên giới đã thực hiện được, nửa tháng trả tiền một lần và dĩ nhiên chúng tôi vẫn được lãnh lương mình ở đơn vị. Bay những phi vụ đặc biệt nầy là đối diện với tử thần. Biệt đội của chúng tôi có 2 phi hành đoàn bị mất tích. Biệt đội trực thăng H34 của Phi Đoàn 219 có mấy chiếc bị địch bắn rớt và bị mất tích. Vùng hoạt động của chúng tôi nằm dọc theo biên giới Lào, nhứt là vùng Benhet – Dakto.
Tôi đi cặp với Trung úy Đoàn Cao Đoán vừa mới cưới vợ. Cặp bài trùng của chúng tôi đã hai lần thoát chết, một lần nôn nóng về gặp bà xã đã bay lọt vào mây CB, loại mây tạo thành cơn giông, phi cơ bị gió đánh tưởng đâu gãy lìa đôi cánh. Một lần suýt bị Pháo Đài Bay B52 thả bom trên… lưng. Chúng tôi vừa bay ra khỏi vùng oanh kích tự do thì một trận mưa bom GP750 trút đổ xuống, khiến chiếc Cessna bị chao đảo như cánh bướm trước cơn gió lốc.
Bộ chỉ huy phối hợp Việt – Mỹ của trại B15, trong đó có Thiếu tá Rỉnh, Đại úy Thụ, Đại úy Bích rất yêu mến Không Quân, nhứt là anh em trực thăng vì đã có mấy toán biệt kích bị lâm nguy được các phi hành đoàn của biệt đội H34 cảm tử lao vào vùng địch bốc họ về trại. Những toán nầy thường vào câu lạc bộ đãi mọi người uống bia mệt nghỉ. Bên trong câu lạc bộ có treo một cái chuông. Theo qui định ai đi vào mà không giở nón sẽ bị phạt trả tiền cho tất cả ẩm khách đang uống rượu trong câu lạc bộ. Người nào thấy được kẻ phạm lỗi không giỡ nón khi vào câu lạc bộ thì đến giựt chuông báo phạt. Ngoài cửa câu lạc bộ có một phòng nhỏ cho một cô gái Việt Nam bán bia thùng và thuốc lá cây. Cô nầy đẹp nhưng rất là … quỉ quái. Cô ta mặc áo dài kín đáo nhưng nói chuyện thì rất sex khiến người đối diện tưởng cô ta đang… thoát y. Lần nào sắp về đơn vị, tôi cũng đến mua một thùng bia và một cây thuốc lá để đãi bạn bè. Lần nào tôi cũng nghe người con gái bạo mồm, bạo miệng nầy nói những lời khêu tình khiến tôi phải… đỏ mặt, tía tai (Con gái gì mà chì quá trời, quá đất!).
Vì đã ngán thức ăn Mẽo trong trại nên Đoán và tôi chiều nào cũng ra phố Kontum ăn cơm Việt Nam mà hai món chánh là canh chua, cá kho. Tôi tìm đến nhà một người con gái có tài thổi… tiêu mà tôi đã quen từ ba năm trước lúc tôi còn ở Phi Đoàn 114, thì nàng đã vắng dạng xa hình. Nhà nàng cửa đóng kín bít. Tôi nhìn qua khe hở của vách ván, thấy trong nhà tơ nhện phủ giăng. Tiếng mọt gỗ vọng ra như tiếng võng sầu đưa kẽo kẹt. Thềm nhà xanh sắc rêu, xác lá vàng nằm chồng chất ngập sân. Nhớ đêm gặp gỡ đầu tiên, nàng đã thổi tiêu cho tôi nghe (Con gái mà thích thổi mới ngộ chớ!) Không biết bây giờ em trôi dạt về đâu. Tôi thẩn thờ trở gót, nghe như tiếng tiêu buồn còn văng vẳng đâu đây.
Sau 15 ngày biệt phái cho B15 trở về đơn vị, chúng tôi đi bay phi vụ
đặc biệt cho trại biệt kích ở Sơn Chà hay trại biệt kích ở phi trường
Phú Bài, phía Nam cố đô Huế mà vùng hoạt động là biên giới phía Tây
Ashau, A Lưới. Những anh biệt kích Mỹ gọi vùng nầy là Oméga vì nó có một
nhánh sông Mékong uốn khúc thành hình móng ngựa. Con đường mòn Hồ Chí
Minh nơi đây có nhiều ngả rẽ vào núi rừng phía Đông. Có một hôm chúng
tôi khám phá được một đoàn xe Motolova của Cộng Sản Bắc Việt đang di
chuyển về phía Nam. Anh Mỹ được chúng tôi chở đi quan sát bãi đáp trực
thăng để sẽ nhảy toán bèn báo cáo về Bộ Chỉ Huy. Khoảng hai mươi phút
sau, 2 chiếc F100 bay đến oanh kích đoàn xe của địch tan tành.
Một lần bay ở vùng Lao Bảo – Khe Sanh, chúng tôi lọt qua phía Bắc Vĩ
Tuyến 17, sát biên giới Lào nhìn thấy Đồng Hới xa xa. Vùng nầy núi non
hùng vĩ, vách đá thẳng đứng cheo leo. Có những quả núi hình dạng kỳ quái
như con khủng long đang nằm ngủ. Chúng tôi đang tìm bãi đáp trực thăng
cho anh biệt kích Mỹ thì bỗng từ xa phía dưới thung lũng, một chiếc phi
cơ phản lực sơn màu đen bay lên ngang cao độ và ngược chiều với phi cơ
của chúng tôi. Chúng tôi đang hoảng hốt vì sợ gặp phải phi cơ MIG21 của
Bắc Việt và chưa kịp có phản ứng gì thì nó đã đến gần. Nhìn lại thì nó
là chiếc F100 của Mỹ. Chắc nó cũng đang thi hành phi vụ đặc biệt nên bay
rất thấp, lượn lách trong hẻm núi. (Hú hồn, hú vía! Rủi ro mà gặp MIG21
trên vùng đất địch thì chắc chúng tôi sẽ đi không ai tìm xác rơi).
Khi tôi còn ở Phi Đoàn 114 Nha Trang thì Đại úy Trần Trọng Khương làm
Phi Đoàn Phó, Thiếu Tá Đặng Văn Hậu làm Phi Đoàn Trưởng. Lúc tôi ra Đà
Nẵng được hơn một năm thì anh Khương cũng đổi ra Phi Đoàn 110 và cũng
giữ chức vụ Phi Đoàn Phó. Gần một năm sau do đà bành trướng của Không
Quân từ cấp Không Đoàn lên đến cấp Sư Đoàn, anh Khương được Bộ Tư Lệnh
cất nhắc lên làm Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 122 tân lập thuộc Sư Đoàn IV
Không Quân ở phi trường Trà Nóc – Cần Thơ. Từ lâu tôi đã mộng ước ấp ủ
về phục vụ ở miền Nam để được gần mẹ tôi tuổi đã già nua. Nhân cơ hội
nầy, tôi xin đầu quân vào Phi Đoàn 122 (Trước mang danh hiệu Thần Tiễn, sau đổi lại là Họa Mi).
Tôi đưa vợ con tôi về miền đất lành chim đậu. Tuy bước đầu phải gặp
nhiều khó khăn vì tôi chưa xin được cư xá nhưng tâm hồn tôi cảm thấy thư
thái, nhẹ nhàng, rộng mở khi nhìn những cánh đồng lúa xanh trải tận
chân trời. Miền Nam trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng nhân dân vẫn được
ấm no, hạnh phúc. Tôi được sống lại trong cái phong thổ thích hợp với
tôi. Vợ tôi tuy có bỡ ngỡ vì lạ cảnh, lạ quê nhưng rồi cũng hân hoan hội
nhập với xã hội miền Nam. Các con tôi không còn bị giựt mình vì tiếng
thét gầm của phi cơ phản lực cất cánh ban đêm nữa. Không còn chui vào
hầm trốn pháo kích nữa nhưng vợ tôi thì vẫn mang nặng nỗi lo âu khi sáng
sớm tôi đi bay và vẫn tựa cửa trông tôi về khi trời rũ bóng hoàng hôn.
Phi Đoàn 122 là nơi hội tụ nhiều tay hảo hán từ các phi đoàn khác đến
như Lý Tống, Trọng Khùng, Thám Tử Lê Phong, Vũ Hiếu Mưu (Biệt danh là
người Thượng Cổ), Kiệt Gà, Yến Fulro, Nguyễn Văn Sao, Phan Tấn Khải,
Hưng Râu, Nguyễn Văn Công, Hình Thại Thu, Phước Chảy, Bá Hiệp Sĩ Mù….
Hai tháng sau ngày thành lập, Phi Đoàn 122 mang tên nữ ca sĩ Họa Mi đã
sát cánh với Phi Đoàn bạn 116 (Danh hiệu Sơn Ca) bay yểm trợ cho biệt
khu 44 – Cao Lãnh, Sư Đoàn 7 và Sư Đoàn 9 Bộ Binh ở căn cứ Đồng Tâm – Mỹ
Tho, Tiểu Khu Vĩnh Bình, Vĩnh Long, Mộc Hóa, Châu Đốc, Vị Thanh, Kiên
Giang, căn cứ Hải Quân Năm Căn và Đặc Khu Phú Quốc. Tôi có dịp đến nhiều
tỉnh lỵ của miền Nam trái ngọt cây lành, được chiêm ngưỡng dung nhan
của những nàng con gái sông Tiền, sông Hậu xinh tươi trong chiếc áo bà
ba. Được các em nữ sinh dẫn vào vườn mận, vườn xoài ăn trái ngọt miền
Nam. Có những đêm sáng trăng tôi đã cùng người bạn Trương Văn Sang, chỉ
huy trưởng Lực Lượng Giang Cảnh ở bến phà Tân Tịch – Cao Lãnh xuôi tàu
trên sông Tiền Giang để cùng nhau đối ẩm, đờn ca cổ nhạc miền Nam. Chúng
tôi ngồi trên mui tàu, ăn cá linh nhúng giấm, cụng ly nhau, uống cạn
từng ly rượu đậm đà tình thân ái, nhìn ánh trăng lung linh trên mặt sông
phẳng lặng. Tôi đã bay xuống tận vùng trời cuối Việt và tại căn cứ Hải
Quân ở Năm Căn, tôi đã gặp lại người bạn học Ngô Văn Trì đang giữ chức
vụ Chỉ Huy Phó Tiền Doanh. Tôi đã xin phép Phi Đoàn Trưởng ở lại với anh
vài ngày để cùng nhau tâm sự. Anh đã đãi tôi ăn đặc sản tôm cua, cá
chẽm và thịt rừng của vùng Năm Căn. Tôi và Yến Fulro đã chở con kỳ đà
nặng gần 5 kí do Trì tặng, đem về Trà Nóc, nấu cà ri đãi anh em đồng
nghiệp nhậu say lúy túy, trong khi dân bay rất kỵ và sợ con kỳ đà cản
mũi sẽ gieo nhiều tai họa. Mấy hôm sau đi hướng dẫn khu trục oanh kích ở
gần Vị Thanh, phi cơ của tôi bị Việt Cộng bắn lủng cánh hai, ba lổ. Anh
em trong đơn vị đồn vang tôi bị xui xẻo vì đã dám chở con kỳ đà về ăn
thịt.
Mỗi lần đi biệt phái cho Đặc Khu Phú Quốc, tôi lên cân ít nhất là 3 kí
lô vì được Trung tá Thơ – Hải Quân thường đãi chúng tôi ăn hải vị thượng
hạng của đảo Phú Quốc. Chúng tôi thương kính Trung tá Thơ như một người
anh cả. Anh cũng rất mến chúng tôi. Anh là thành viên của Tổng Hội Săn
Bắn Dưới Biển. Tủ lạnh lớn của anh luôn chứa đầy những loại cá ngon mà
anh đã săn được trong sự chọn lựa. Chiều chiều, anh cùng Yến Fulro và
tôi làm món cá hấp hay cá nướng, đặt bàn nhậu trên bờ biển sau nhà anh
đang ở rồi chúng tôi nằm trên ghế bố nhậu lai rai chờ trăng lên. Khi đêm
đã vào khuya, gió biển thổi về thấm lạnh, chúng tôi dọn bàn vào nhà và
tiếp tục vui say. Bỗng anh phải giã từ chúng tôi đi làm Tùy Viên Quân Sự
ở Tây Đức. Những chiều cuối tuần ở hải đảo Phú Quốc, chiếc L19 của
chúng tôi biến thành chiếc tàu đò đi lại nhiều chuyến mới chở hết bạn bè
trong Đặc Khu, cất cánh tại phi trường An Thới bay lên Dương Đông đá gà
nòi. Sau những độ kê chiến kịch liệt, cả băng kéo nhau đi nhậu đến
hoàng hôn mới trở lại An Thới. Có khi về trễ phải gọi người lái xe ra
đầu phi đạo pha đèn cho chiếc L19 mảnh khảnh mà ráng chở tới 3 người vào
đáp gió ngang, gió giật. Yến Fulro là một hảo hán không chê những sân
bay chật hẹp. Lần nào đi Phú Quốc về phi cơ của chúng tôi cũng chở đầy
quà tặng của thân hữu, toàn là khô cá thiều và nước mắm hảo hạng của
hãng Nam Phong, Hồng Đại. Có lần chúng tôi chở về đơn vị một giỏ cần xé
ghẹ biển chất đầy chiếc Cessna, phân phát cho cả đại gia đình Họa Mi ăn…
lấy thảo.
Để đáp lại lòng thương mến của anh em ở hải đảo, nhân chuyến đi thăm
biệt đội vào ngày đầu Xuân, tôi và Yến Fulro đã mua 6 con rùa ở Cần Thơ
đem ra Phú Quốc để làm món rùa rang muối đãi thân hữu. Đại úy Phước
‘Chảy’, Trưởng Phòng Hành Quân đòi đi theo chúng tôi ra đảo nhưng khi
nhìn thấy cái bao cát đựng 6 con rùa trên chiếc Cessna U17B của tôi và
Yến sắp đi du xuân thì ông ta lắc đầu, le lưỡi và vội vàng rút lui vì sợ
những cái mu rùa nhẵn nhụi sẽ mang đến vận đen cho ông (Vậy thì bớt đi
người phá mồi nhậu, càng tốt!).
Bỗng Việt kiều ở Kampuchia bị Miên ‘cáp dùl’, tôi đã nhận lệnh
bay hộ tống cho chiếc HQ5 của Hải Quân ta đang chở đồng bào lâm nạn về
nước theo thủy lộ sông Cửu Long. Nhìn họ ngồi xúm xít trên boong tàu sau
khi thoát khỏi cảnh chết chóc đau thương, tôi nghe lòng căm hận bọn
người dã man, tàn bạo. Biết bao cảnh vợ chồng chia lìa, trẻ thơ vô tội
phải chịu mồ côi cha mẹ, sống vất vưởng lang thang. Nếu được phép trừng
trị bọn người hiếu sát kia thì tôi nhứt định đánh thẳng tay để trả thù
cho đồng bào ruột thịt đã bị họ giết hại.
Về miền đồng bằng, chúng tôi cảm thấy đường bay rộng mở thênh thang,
không bị cản trở bởi núi non trùng điệp khi mây xuống thấp. Mục tiêu
cũng dễ thanh toán hơn miền Trung. Chiến trường ở Vùng IV Chiến Thuật
đang nóng bỏng ở nhiều nơi như khu vực Tháp Mười, Tân Thành, Cái Cái,
Sầm Giang, Long Toàn, U Minh Thượng, và khu vực Thất Sơn. Phi vụ mà tôi
khó quên là phi vụ hướng dẫn một phi tuần A37 trang bị bom CBU55, oanh
kích đỉnh núi Tròn nằm trong Thất Sơn, tiêu diệt địch quân chiếm cứ đỉnh
quân sự nầy đã lâu ngày mà lực lượng Biệt Động Quân ta không hạ chúng
được – Mỗi lần quân ta leo lên tới sườn núi, chúng thả ‘Bêta’ có dù bộc,
bay lơ lửng và nổ chụp xuống khiến Biệt Động Quân thiệt hại nặng nề về
nhân mạng. – Bị thả bom đặc biệt (mà Bắc Việt đã gọi nó là bom nguyên tử
cỡ nhỏ) Việt Cộng chết nằm la liệt, xác nào cũng chảy máu miệng, máu lỗ
tai, lỗ mũi. Quân ta tiến chiếm lại đỉnh núi Tròn.
Lúc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tiến qua Kampuchia để triệt hạ sào
huyệt của Việt Cộng là lúc tôi được cấp cư xá trong phi trường Trà Nóc –
Cần Thơ. Vợ chồng tôi hớn hở dọn về nhà mới. Các con tôi có sân chơi
trước nhà để nô đùa thỏa thích và đi học lớp mẫu giáo ở trường tiểu học
ngoài cổng phi trường do Sư Đoàn IV Không Quân xây cất. Rời xa cảnh gạo
chợ nước sông, vợ tôi đỡ bớt nhọc nhằn trong công việc nội trợ hằng ngày
nhờ cư xá có điện, nước xài tự do. Tôi thấy an tâm trên đường chinh
chiến, đi biệt phái qua Phnom-Pênh để yểm trợ cho những cuộc hành quân
của quân ta, quét sạch cứ điểm địch trên đất Miên. Ngoài những cuộc hành
quân ở Kompong Trapek, Kompong Rou, Svayriêng ở gần biên giới, tôi và
anh em đồng đội còn bay bao vùng hành quân ở trên lãnh thổ của xứ Chùa
Tháp như Banam, Preyveng, Kompong Cham, Kompong Trach, Snoul và đồn điền
Chup.
Khi ấy chính phủ Lonol dùng nhà hàng Thái San để chiêu đãi Không Quân
Việt Nam và một số chuyên viên kỹ thuật, tiếp vận, kiến tạo của ta sang
giúp họ. Chúng tôi ở trong phi trường Phnom-Pênh, chiều chiều lái xe ra
phố ăn cơm rồi đến chợ Mới, chợ Cũ gặp những cô Việt kiều ở những gian
hàng bán trái cây để tán gẫu hoặc đi dạo phố, mua quà kỷ niệm cho người
thân. Đêm nào cảm thấy ngứa chân thì cả biệt đội xuống vũ trường nổi La
Lune trên sông Cửu Long gần Hoàng Cung để nhảy đầm. Có đêm chúng tôi rủ
nhau vào Snack Bar để uống bia, nghe nhạc kích động Kampuchia. Các nàng
Khờ Me đến bao quanh chúng tôi, miệng nói xí xô xí xào. Chúng tôi có dẫn
theo một anh phu xe xích lô người Miên biết nói tiếng Việt Nam làm
thông dịch viên. Tôi hỏi anh ta:
– Mấy cô gái nói gì vậy anh?
Bằng giọng nói Giao Chỉ cứng ngắc như không có bỏ dấu, anh ta trả lời:
– Mấy cô nói mặt mấy ông… tốt lắm. (Đẹp lắm chớ không phải tốt đâu ông nội ơi !)
Sông Cửu Long lúc đó tàu Panama tấp nập ra vào Phnom-Pênh. Một đơn vị
Cộng quân đã đóng chốt ở phía Bắc Hồng Ngự, sát bờ sông đã bắn chìm một
tàu kéo theo sau một sà lan dài khoảng 30 thước. Cả khối lượng lớn đạn
dược được chất trên sà lan cũng bị bắn nổ tung. Khói lửa bốc lên ngút
trời. Tôi đã hướng dẫn Khu Trục phản lực A37 dội bom ngay trên vị trí
địch quân đặt súng. Sau đó, trực thăng HU1 đã thả một lực lượng Bộ Binh
của Sư Đoàn 7 xuống chiếm mục tiêu. Theo lời báo cáo kết quả của quân
bạn thì họ thu được 1 đại bác 75 li không giật, 1 đại liên Đông Đức, 5
giàn hỏa tiễn AT3, 14 súng AK và 23 Cộng quân bị tử thương.
Hôm nọ, anh Khương gọi tôi vào phòng trình diện. Anh vui vẻ nói:
– Kỳ nầy tôi đề nghị anh dự tuyển chiến sĩ xuất sắc của Sư Đoàn IV Không Quân. Anh nghĩ sao?
Tôi thản nhiên trả lời:
– Thưa Trung tá, xin Trung tá hãy đề nghị anh em trẻ tuổi của phi đoàn để khích lệ tinh thần chiến đấu của họ.
Anh Khương thân mật vỗ vai tôi:
– Tại sao phần vinh quang của anh mà anh lại nhường cho người khác. Nếu
được hưởng cái phần thưởng quí giá nầy, họ có chịu nhường cho anh không?
Tôi đã xét kỹ rồi, chỉ có anh mới có thể dự tranh cuộc tuyển lựa chiến
sĩ xuất sắc nầy vì phải được 2 huy chương Anh Dũng Bội Tinh ở chiến
trường Kampuchia. Anh thì chắc đủ hay thừa điều kiện. Vậy anh hãy lên
phòng Tổng Quản Trị lục và sao 2 bản quyết định ân thưởng Anh Dũng Bội
Tinh rồi đem về đây gấp cho tôi. Nếu được 3 huy chương càng tốt.
Tôi cỡi xe Honda chạy về hướng Phòng Nhân Viên của Sư Đoàn, lòng miên
man suy nghĩ về việc tự mình đi lục huy chương để nâng mình lên đài danh
vọng, sao tôi thấy tự thẹn với sự bon chen của tôi quá. Tôi bỗng quay
xe về cư xá vui chơi với các con tôi trước nhà, việc kia thì hạ hồi phân
giải. Đến chiều tôi mới trở lên đơn vị để xem bảng phi lệnh cắt đặt phi
vụ cho ngày mai. Gặp lại anh Khương, tôi lúng túng chưa biết phải nói
sao thì anh đã tươi cười nói:
– Chờ anh đi lục huy chương lâu quá nên tôi đã sai Đại úy Hiệp, sĩ quan
văn thư đi lấy về rồi. Quả thật vậy, anh hội đủ điều kiện. Hồ sơ dự
tuyển tôi đã chuyển đi. Tôi chắc là anh sẽ được chọn.
– Cám ơn Trung tá.
Tôi nghe mừng vui lẫn xúc cảm trước sự ưu ái của anh Khương đối với tôi.
Tôi tự trách mình không chân thật với chính mình. Nếu như anh Khương
chấp nhận sự nhượng bộ của tôi để người khác trong đơn vị thay thế tôi,
chắc sau đó tôi sẽ vô cùng nuối tiếc vì cái vinh quang của mình để cho
tha nhân được hưởng. Tôi rút kinh nghiệm cho bản thân tôi phải có chừng
mực trong sự khiêm nhường, đừng để nó quá lố khiến mình thành kẻ yếu
hèn, an phận làm đà cho người khác dẫm lên lưng mình để được thăng tiến.
Tôi được chọn làm Chiến Sĩ Xuất Sắc của Sư Đoàn IV Không Quân cùng
với một vị Thiếu tá hoa tiêu A37, được đưa về Sài Gòn trước ngày Quân
Lực 19-6-73 mười ngày. Thoạt tiên, ban tổ chức chụp hình từng người, ghi
lý lịch và thành tích chiến đấu để đưa vào chương trình Ánh Sao Đơn Vị
của Đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt Nam. Sau đó, họ phân chia chỗ ở. Chiến
Sĩ Xuất Sắc của Không Quân và Pháo Binh được chỉ định ở khách sạn
Palace. Có tất cả 211 người thuộc các quân, binh chủng của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa được chọn về thủ đô trình diện Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
và được ân thưởng Ưu Dũng Bội Tinh. Đại tiệc đầu tiên do Phủ Tổng Thống
biệt đãi chúng tôi trong Dinh Độc Lập có chương trình văn nghệ giúp vui
rất đặc sắc. Những món ăn rất cầu kỳ, sang trọng toàn là sơn hào, hải
vị. Mỗi người chúng tôi đều được mang một băng vải có đề dòng chữ nổi
bật Chiến Sĩ Xuất Sắc choàng từ vai trái qua hông phải như các nàng hoa
hậu. Kế tiếp những ngày sau, Thượng Nghị Viện, Hạ Nghị Viện, Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị và nhiều cơ quan khác mở tiệc linh đình chiêu đãi
chúng tôi. Tiệm bánh bao Ông Cả Cần cũng có mời chúng tôi đến ăn sáng.
Chỗ nào họ cũng có tặng quà trong bửa tiệc. Đặc biệt hãng Hàng Không Dân
Sự Air Vietnam chiêu đãi riêng anh em Chiến Sĩ Xuất Sắc Không Quân. Tôi
lại được dịp ngắm nhìn thật gần các cô chiêu đãi viên hàng không đẹp
tha thướt trong những chiếc áo dài màu thiên thanh.
Sáng ngày 19-6-73, chúng tôi được ngồi trên khán đài danh dự để xem cuộc
diễn hành vĩ đại của các binh chủng thuộc QLVNCH biểu dương lực lượng
giữa thành đô rợp bóng cờ vàng và giữa tiếng hoan hô vang dội của nhân
dân. Tôi hãnh diện nhìn lên nền trời xanh khi các loại phi cơ của Không
Lực Việt Nam bay qua khán đài trong đội hình phi diễn đẹp mắt, thả khói
màu tạo thành hình cờ tổ quốc.
Tôi được ưu tiên xin thuyên chuyển về Bộ Tư Lệnh Không Quân. Nếu được
vậy, tôi sẽ làm việc ở các Phòng các Ban chớ không còn đi bay nữa. Tôi
sẽ đưa vợ con về cư xá sĩ quan trong phi trường Tân Sơn Nhứt hoặc ở nhà
mẹ ruột của vợ tôi nằm trên đường Trương Minh Giảng. Rồi tôi sẽ tạo một
mái ấm gia đình thuộc quyền sở hữu của vợ chồng tôi ở vùng ngoại ô Sài
Gòn hay ở Thủ Đức. Tôi sẽ tìm nghề tay trái thích hợp với sở năng để
nâng cao mức sống gia đình, cho các con tôi rộng đường ăn học.
Mộng ước tương lai khiến tôi mang nặng suy tư trong suốt chuyến phi cơ
trở về đơn vị. Rồi đây tôi sẽ rời Phi Đoàn Họa Mi 122, xa bạn bè thân
mến với bao kỷ niệm êm đẹp trong chuỗi ngày chiến đấu và vui sống bên
nhau. Tôi sẽ không còn cùng anh em đi biệt phái ở các tỉnh miền sông
Tiền, sông Hậu và hải đảo Phú Quốc nữa. Tôi sẽ giã biệt Tây Đô hiền hòa
trong cuộc đời hạnh phúc mà niềm tin yêu của người Cần Thơ lai láng như
cơn nước rong trên bến Ninh Kiều thơ mộng.
Về đơn vị, vào một buổi sáng tôi mời tất cả anh em trong Phi Đoàn đi
ăn điểm tâm và tường thuật lại những ngày vui vừa qua. Tôi có tiết lộ
cho anh Khương và bạn bè nghe việc tôi được ưu tiên đổi về Bộ Tư Lệnh.
Gương mặt anh Khương bỗng thoáng nét buồn khi biết được dự tính tương
lai của tôi. Anh ôn tồn nói:
– Không lẽ anh được hưởng vinh quang rồi lìa bỏ tôi và anh em sao?
Tôi bỗng nghe nỗi nghẹn ngào, xúc động dâng lên trong lòng. Chưa chia ly
mà sao tôi nghe bùi ngùi, bịn rịn. Tình cảm quyến luyến anh em trong
đơn vị khiến lòng tôi quặn thắt khi nghĩ đến dự tính của mình. Tôi phải
chọn con đường nào đây? Tôi cắn môi, nhìn lên bầu trời xanh qua khung
cửa sổ. Từng đám mây trắng trôi bồng bềnh về phương vô định giữa không
gian đẹp nắng mai. Hình như có một đàn chim vỗ cánh bay ngang, tôi run
run nói với anh Khương:
– Thưa Trung tá, tôi không về Bộ Tư Lệnh, tôi ở lại với anh em…
Kha Lăng Đa