Văn Học & Nghệ Thuật
THI PHẨM "NGÀY THÁNG LƯU VONG" THƠ HỒ CÔNG TÂM: TIẾNG LÒNG TÔI!
Bài viết của nhà văn Xuân Vũ
Thơ chiến đấu cần phải được nuôi dưỡng mạnh mẽ hơn lúc nhân tình thế thái đang rời rã dễ làm mảnh đất cho những việc vô luân. Thơ là tinh hoa của tiếng nói và chữ viết. Thơ hay được nhớ trong trí như ghi khắc.
Tôi đọc thơ Hồ Công Tâm, thấy nó là tiếng lòng của tôi. Nhưng, tôi nghĩ, không chỉ là của tôi mà còn là của độc giả khắp nơi. Bởi nó thể hiện ước vọng của những người vong quốc mong phục quốc. Nó là những lời phóng thẳng vào mặt kẻ thù “đỉnh cao trí tuệ”. Nói rõ ra, nó là những nhát chém vào thân hình kẻ thù đang rã rột.
Đối với tôi, viết bài này là một lời cám ơn Hồ Công Tâm đã gảy đúng tiếng lòng của tôi với cây đàn nhiều phím.
Gươm phục quốc đêm ngày đeo bên nách
Ta thấy ta đeo nhục ở bên mình
Ta thấy ta lì lợm thật đáng khinh
Và, ta thấy chiều nay ta buồn bã
Ôi chí lớn ngang tàng trong thiên hạ
Đựng chưa đầy đôi mắt của giai nhân!
(Lời Phạm Thái, NTLV, trang 33)
Thơ Hồ Công Tâm ai oán, đắng cay nhưng không làm cho người đọc rũ xuống , mất ý chí chiến đấu. Cũng sầu vong quốc, nhưng không phải thứ rượu ma quái, không phải thứ sầu ủy mị.
Ngoảnh lại mười lăm năm biệt xứ
Ai cười ai khóc lúc chia ly
Ngày xưa Câu Tiễn sầu vong quốc
Có giống đời nay lũ Thiệu-Kỳ
Gái đẹp rượu ngon vùi sự nghiệp
Lâu đài nhung lụa cột đôi chân
Ngựa xe bóng lộng tàn thân thế
Quốc sử còn ghi đứa đội quần!
(Sầu Vong Quốc, NTLV tr. 7)
Ôi chí lớn ngang tàng trong thiên hạ
Đựng chưa đầy đôi mắt của giai nhân!
Chủ quán đâu? Ta ghé bước phong trần
Mau đem rượu năm vò thơm hảo hạng!
Ha! Ha! Rượu! Rượu cho quên ngày tháng
Quên đau thương ta nán đợi chữ “thời”!
Nhắc làm chi chuyện non nước đầy vơi
Kiếm trong vỏ đã lâu ngày hoen rỉ
Ta chợt tiếc đường gươm xưa tuyệt kỹ
Ôi Tiêu Sơn Tráng Sĩ buổi chiều nay
Rượu năm vò sao chưa thỏa cơn say
Năm vò nữa! Rượu đâu? Ta uống nữa!
(Lời Phạm Thái, NTLV tr.32)
Hãy đọc những câu thơ rướm máu của thi sĩ, một cảm xúc lạ lùng nhưng rất hiện thực:
Rồi mái tóc cũng ngả màu sương khói
Hận lưu vong đè trĩu nặng đôi vai
Nghe tan tác những vàng son chói lọi
Những thương tích năm xưa còn lở lói
Những nghẹn ngào đau nhói nỗi chia ly
Những nỉ non thề thốt lúc ra đi
Những hăm hở hẹn nhau ngày trở lại
Nơi viễn xứ ôm mối sầu tê tái
Những ngày xanh theo năm tháng úa vàng
Mây trắng về sông núi phủ màu tang
Ai chết đó mà linh hồn quằn quại
Gởi búi tóc và trái tim bất hoại
Qua ngàn trùng sóng nước đến quê hương
Tóc thả trôi cho gió cuốn bên đường
Bay vất vưởng như ma Hời cổ đại
Tim một thuở sầu chưa nguôi quằn quại
Máu còn tươi như trái chín trên cành
Hãy táng treo trên ngọn cổ thụ xanh
Cho chim chóc muôn phương về rỉa rói
Trái tim ấy bao năm còn đỏ lói
Máu còn tươi như tiết đọng, mặt trời
Trái Khổ Đau, hãy nuốt vội chim ơi
Tim ta đó, ôi trái sầu vời vợi!
(Trái Tim Vong Quốc, NTLV tr. 5)
Bi tráng, hào hùng và tươi sáng:
Rồi anh sẽ theo em lên trường quận
Nghe muôn tà áo trắng phất phơ bay
Ơ rượu không uống mà long anh say
Em khúc khích cười rung rinh vành nón
Rồi cô giáo hân hoan niềm vui lớn
Lên giảng bài Lịch Sử Việt hôm nay
Đất nước ta ơi rực rỡ từ đây
Nam Trung Bắc sạch bóng thù Cộng Sản!
(Rồi Một Ngày, NTLV tr. 8)
Nhân đây tôi xin nhắc lại một kỷ niệm của thời “thơ ấu ham học thơ và chép thơ của tôi”. Rủi thay, tôi gặp thơ Tố Hữu. Anh chàng này tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản bằng những bài thơ xã hội rất xã hội: Cô lái đò sông Hương, Mồ côi, Lão đày tớ. Tôi mê lắm. Hơn 50 năm qua tôi vẫn còn nhớ có thể chép nguyên ra. Xin chỉ ghi ra một bài:
…
Trên nẻo đường sương lạnh
Đi về đâu em ơi
Phơi thân tàn cô quạnh
Em sưởi trong bàn tay
Cho lòng băng giá ấm
Lìa cành lá bay bay
Như mảnh đời u thảm
Lá đọng khóc tràn trề
Chao ơi buồn không nói
Em ơi biết đâu về?
Con chim non không tổ
Trẻ mồ côi không nhà
Hai đứa cùng đau khổ
Cùng ngất ngưởng bê tha
Rồi ngày mai rã cánh
Rụi chết bên đường đi
Thờ ơ đôi mắt lạnh
Nhìn chúng có hề chi!
(Mồ Côi Xà Lim Huế 1929)
Tên “nhà thơ bịp” mô tả cảnh mồ côi hay lắm. Và kêu gọi theo Cộng Sản để tiêu diệt những cảnh đời bất hạnh đó. Mỉa mai thay Cộng Sản đã cai trị Việt Nam trên 50 năm mà trẻ con còn bất hạnh hơn nhiều. Hãy đọc Hồ Công Tâm mô tả em bé miền Nam Việt Nam khi Cộng Sản tới:
Bé gái mười hai tuổi
Lang thang trên hè đường
Vì sao mà Bé khóc
Sao Bé không đến trường?
Áo quần sao tơi tả
Dáng vóc sao gầy nhom?
Chân tay như que củi
Bên thùng rác lom khom…
Bé kiếm tìm chi đấy?
Nhà cửa Bé nơi đâu?
Bố mẹ sao không thấy?
Sao không nón đội đầu?
Sao chân không mang dép?
Bé đói lắm phải không?
Ôi một mẩu khoai sùng
Đã thiu trong thùng rác
Người ta liệng tối qua
Lam nham rang chuột gặm
Chó cũng chẳng thèm tha
Người… làm sao ăn được?!
Cháu đói lắm, trời ơi
Bố cháu đi cải tạo
Tuốt miền Bắc xa xôi
Lúc Sài Gòn giải phóng!
Nhà cửa cháu đâu còn
Bị đi kinh tế mới
Làm sao mà sống nổi
Giữa một vùng núi non?!
Gom góp được chút tiền
Mẹ dắt cháu vượt biên
Chẳng may Mẹ bị bắt
Ba năm rồi bặt tin!
Cháu bị đuổi khỏi nhà
Cháu bị ra khỏi lớp
Phải sống trên vỉa hè
Kiếm ny-lông giấy vụn…
Mưa, mưa rơi tí tách
Đêm nay dưới chân cầu
Co ro manh chiếu rách
Biết đi đâu? Về đâu?
(Bể Khổ, NTLV tr 37-38)
Xin đừng nói về sự tượng trưng. Hãy nhìn thực tế:
Dăm chiếc quần áo rách
Nhét vào bịch ny-lông
Để một bên giỏ xách
Lững thững ra Lăng Ông
Lên xe lam Bình Triệu
Trời vẫn còn tối thui
Đèn đường mờ mờ chiếu
Mắt mở mà như đui!
Trông mặt người chẳng tỏ
Quơ tay kiểm hành trang
Đây hai lon gạo đỏ
Với dăm củ khoai lang
Dành ăn đường khi đói!
Đây nửa gói Hoa Mai
Với xị rượu Cây Lý
Gặp bạn uống cho oai
Bảy năm xa vời vợi
Đứa tù cải tạo về
Đứa đi kinh tế mới
Gặp lại nhau mừng ghê!
Bằng hữu ngày xưa ấy
Nay mỗi đứa mỗi nơi
Xa nhau buồn biết mấy
Thôi nâng ly mày ơi!
À Khải mù, Vượng điếc…
Có gặp chúng đâu không?
Nghe nói Kính lùn chết
Ở Trại Hà Sơn Bình!
Còn cái thằng Đại hói
Vượt biên thua, ở tù
Vợ nhà theo nón cối
Bụng phình như cái lu!
Tháng trước đi thủy lợi
Tình cờ gặp Đức hèm
Trông dạo này hom hem
Y như con ma đói!
Lên thăm mày ít bữa
Phụ trồng dăm luống khoai
Mốt, tao về thành phố
Bạn cũ đâu còn ai?
Xuân vàng phai trước ngõ
Mặt trời ngó về Tây
Trên con đường bụi đỏ
Cây cối khẳng khiu gầy
(Thăm Bạn Ở Kinh Tế Mới, tr. 39-40)
Sự tàn bạo:
Rừng tràm xơ xác, sao khưya lạnh
Trăng khuyết, hồn oan vật vã đau
Con nước mênh mông đồng Mộc Hóa
Mộ tù sóng ngập lút bờ lau
Đêm đêm gió hú hồn rên rỉ
Vợ dại con thơ lạc thuở giờ
Sống đã đọa đày không thiết sống
Chết làm ma đói vẫn bơ vơ
Thuở ấy vùi nông manh chiếu rách
Hương tàn khói lạnh vắng người thăm
Ngờ đâu dâu biển trong gang tấc
Riêng mối u hoài đến vạn năm
Tù chết đã đành không sống lại
Hận thù chưa dễ chóng nguôi ngoai
Bạn tù năm cũ giờ trôi giạt
Còn nhớ hay quên một kiếp người!
(Mộ Tù Hoang Lạnh, tr. 10)
Sự láo khoét và tàn bạo:
…
Làm thì láo, báo cáo thì tuyệt hảo
Cướp chuyên nghề, ngươi tráo trở gian tham
Và giờ đây bàn tay đã nhúng chàm
Ngươi lì lợm như không tim, không óc
Hỡi bạo chúa, ngươi vô luân, vô học
Ngươi kéo lùi lịch sử mấy chục năm
Đi đến đâu cũng gieo rắc hờn căm
Ngươi cai trị ra sao, ngươi tự vấn
Mà dân chạy, bỏ nhà đi tị nạn
Sợ ngươi hơn sợ ác thú rừng xanh
Mở mắt nhìn ra thế giới chung quanh
Thấy các nước đều văn minh tiến bộ
Ngưoi ngoan cố vẫn ngăn song cấm chợ
Hỏi làm sao mà nước mạnh dân giàu
Ngươi tin dung lũ mặt ngựa đầu trâu
Mỗi khu vực có công an kềm kẹp
Người tài giỏi bị các ngươi chèn ép
Khó cất đầu lên khỏi mặt hố sâu…
(Nói Với Bạo Quyền CS tr. 59)
Sau đây là một bức tranh hiện thực mô tả sự “đẹp đẽ” của chủ nghĩa cộng sản rút nhỏ trong một buổi nhậu, một bức tranh tuyệt tác, một thần bút của Hồ Công Tâm:
Nhá nhem dơi lượn quanh chòi vắng
Con nước ròng trơ mấy gốc bần
Lờ lững lục bình trôi chậm chậm
Muộn màng khói bếp dáng phân vân
Quán chợ lên đèn, bên lít rượu
Dăm con khô mực nướng vừa thơm
Công an thuế vụ cười hô hố
Một chén đưa cay cổ hạ đờm!
Đù má Bác Hồ thương hết biết
Tao vừa vô mánh đẹp hồi hôm
Tiệc này để đó tao bao hết
Cứ nhậu thả dàn, nhậu thiệt xôm!
Lít nữa! Rượu ngon nghen chủ quán
Đem thêm dĩa gỏi, nướng thêm tôm
Mấy thằng con Ngụy kia ê cút!
Cách Mạng đang ăn cấm ngó mồm!
Đêm đã về khuya, mưa rả rích
Đìu hiu chợ huyện, phố thưa người
Con ai co quắp ngoài hiên lạnh
Quán nhậu còn nghe vọng tiếng cười…
(Quán Nhậu Chợ Huyện, tr. 41)
Đọc bài này thích quá, tôi đọc đi đọc lại cả chục lần. Nó vừa mang tính chất nghệ thuật vừa mang tư tưởng của tác giả. Tôi thấy lũ chúng nó ăn nhậu khoái trá, miệng nhai nhồm nhoàm: Đó là bọn chủ tịch ủy ban Huyện, Công an, Thuế vụ tỉnh, trung ương. Chúng có một đức tính Mác Lê phó cho là “ăn”. Ăn bất cứ cái gì, cả xương thịt người chết và cả xương thịt Mác Lê của nhau. Chúng nó ngồi ghếch chân lên ghế, đập bàn, vỗ ghế, kêu thét gọi thêm đồ nhậu. Hồ C6ng Tâm làm cho tôi nhớ câu ca dao thành Hồ:
Công an, thuế vụ, kiểm llâm
Ba thằng giặc đó, phải đâm thằng nào?
Công an, thuế vụ, kiểm lâm
Ở xa thì bắn, lại gần thì đâm.
Mâm nhậu của chúng không phải là khô mực, tôm nướng. Rượu chúng nốc không phải là rượu thường. Đó là xương máu của dân tộc. Chứ không ư? Chúng làm sao có 70 tỷ đô la đút vào nhà băng hải ngoại? No phè. Đồng chí Mác được chia bao nhiêu, giá đồng chí là đảng viên Cộng Sản Việt Nam thì đồng chí chưa chết sớm thế. Các đồng chí Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Đỗ Mười xuất sắc hơn tổ tiên chúng nhiều. Mấy tên này vẫn là vô sản nguyên xi và vẫn kêu gọi “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” Hãy nhìn đây những tên “vô sản” ăn nhậu và cấm vô sản ngó mồm:
- Cách Mạng đang ăn cấm ngó mồm!
- Mấy thằng con Ngụy kia, ê cút!
- Đù má Bác Hồ thương hết biết!
Nếu tôi là họa sĩ thì tôi sẽ vẽ thành tranh bài thơ này. Tôi đọc, cười bò càn ra. Đây là bài thơ rất hay, hay tuyệt, nhưng nó lại rất đơn sơ mộc mạc, không õng ẹo làm dáng. Thơ Hồ Công Tâm không làm dáng nhưng gây cảm xúc mạnh, ấn tượng sâu. Cộng Sản không phải là một lý tưởng, mà là một trò bịp khoa học. Bởi vậy có cả chục triệu người mắc lừa. Và cũng có cả chục triệu người đã sáng mắt ra. Nay mai ở Việt Nam sẽ chỉ còn lại một Đỗ Mười. Nhưng một Đỗ Mười chết khô và không được ướp muối.
Cộng Sản là người không có tài gì ngoài tài bịp, không có gì đáng kính, mà cũng không có gì đáng yêu. Đó chỉ là những kẻ đáng cho toàn dân căm thù. Mà sự kiện nóng bỏng gần gũi nhất là cuộc nổi dậy của nhân dân tỉnh Thái Bình. Đọc phần đầu của Thơ Hồ Công Tâm, độc giả sẽ có cảm tưởng như tôi vậy.
Tôi không đề cập đến kỹ thuật của Hồ Công Tâm. Tôi chỉ nói đến tính chất chiến đấu của thơ ông. Nghệ thuật nào xúc động được lòng người đọc thì đó là nghệ thuật cao.
- Lẽ đâu dân tộc Việt Nam
Mang gông cùm Đảng, đành cam nghèo hèn?!
- Đù má Bác Hồ thương hết biết!!
Thương Bác Hồ quá sá đến nỗi phải “đù má Bác” mới đã thì quả là một thứ tình thương đặc biệt không thấy ở đâu. Nếu vậy từ đó ta có thể kéo ra một “công thức tình thương” khác như theorem réciproque trong toán học vậy. Đối với Mác Lê-nin thì các nhậu sĩ cấp huyện này cũng có thể “Đù má Mác Lê thương biết mấy!”, phải không?
Cái tiếng chửi đổng là ngôn ngữ hiếm, tục tằn nhưng đen nó vô thơ mà không thấy nó tục, ngược lại thấy nó khoái khẩu cái mồm, thế mới là hay, và cái mồm đó không phải cái mồm trong bức tranh sau đây:
Cách Mạng đang ăn cấm ngó mồm!
Tôi đọc câu này tôi lại cười bò ra. Chữ “ăn” ở đây thật là tuyệt. Tôi đó ai analyser nó cho hết ý. “Cách mạng” là gì? “Ăn” là gì?
Nam Cao mô tả Chí Phèo tuyệt: Hắn vừa đi vừa chửi, chửi người rồi lại chửi đời. Đời là tất cả, nhưng lại chẳng là ai. Thế nên không ai trả lời.
Trở lại Hồ Công Tâm, “Cách mạng là tất cả cái mảng đỏ đỏ, đen đen, mốc mốc, xám xám pha tạp đó nhưng lại chẳng là ai. Nó là người lẫn vật, hai chân lẫn bốn
chân, mặt vuông, mặt tròn nhưng không thiếu cái miệng để nói láo và để ăn, ăn xong lại nói láo, hoặc vừa nói láo vừa ăn cho ngon, hoặc vừa ăn vừa nói láo cho trơn cuống họng. Đời là tất cả, nhưng lại chẳng là ai. Thì Cách mạng là Bác Hồ, là Tổng bí thư, là Bộ Chính Trị, là chủ tịch, là thủ tướng… ai cũng có thể là “cách mạng” được cả.
Nói láo những gì, nói những gì gọi là nói láo. Nói:
- “Cách mạng thành công, ta sẽ xây dựng đất nước đẹp gấp mười lần xưa!”
- “Tủ lạnh, ti-vi nhân dân ta dư có.”
- “Xã hội chủ nghĩa thiên đàng thế gian!”
Đó là nói, còn “ăn?”, ăn gì? – Ăn tất cả chẳng chừa thứ chi, đồng chì, thau thiếc. – Ăn tiết canh, mỏ vịt, ruột chó quay chảo, luộc, ninh nhừ. Ăn đầu bò, đầu heo, bao tử cá tra, đầu gà và đầu… ngụy!
Nói chuyện Cách mạng ăn thì không cùng. Đô la cũng nuốt, bạc dỏm cũng xơi. Vợ ngụy cũng không tha, đế quốc tư bản cũng kèm tái luôn. Cách mạng ăn luôn nhà, thánh thất, chùa Phật, miếu mạo tổ tiên, thịt xương tiền bối. Ăn không hết, cách mạng đem về nhà cho vợ con Cách mạng ăn, đem bán rẻ cho đồng chí an hem, cho tư bản phản động. Giá nào cũng bán, cho luôn khỏi lấy tiền. Đó là cá choạng ăn. Từ cái sự ăn đó nó quá mỹ thuật nên khi “Cách mạng” ăn thì: “Cấm ngó mồm”!
Hồ Công Tâm viết câu này tuyệt bút. Một câu đủ thành thi sĩ rồi! Ôi cái mồm của cách mạng nó “đẹp” làm sao! Vì thế cấm ngó! Cũng như khẩu hiệu “Cấm đái” ở góc tường, ở chân tượng Lê-nin.
Thằng ngụy nào dám nói Cách mạng ăn (?) (Phải nói Cách mạng xơi, Cách mạng xực!) đi cải tạo Trảng Lớn Bù Gia Mập… 5 năm!
Thằng ngụy nào dám ngó mồm cách mạng: đi cải tạo Hoàng Liên Sơn!
Thằng cán nào khen mồm cách mạng đẹp như cờ đỏ sao vàng: thăng ba cấp, vô Bộ Chính Trị, con cháu đi học Mỹ thả dàn không xét lý lịch.
Chỉ một tiếng “ăn”, cách mạng hiện nguyên hình “thanh lịch”. Xác ướp cũng ăn như Hồ Chủ Tịch. Hồ Chủ Tịch ăn chứ không à. Mỗi năm 3 triệu đô la. Không mồ hôi nước mắt bần cố nông là gì?
Tôi chỉ đi đến cái “quán nhậu chợ huyện” thì dừng chân. Không đi xa hơn nữa. Thấy rõ Cách mạng rồi thì còn tìm cái gì hơn? Tôi nghe tiếng cười vọng ra. Không nhìn, không dám nhìn. Nhắm mắt cũng thấy “Cách mạng đang ăn…”! Đủ rồi!
San Antonio, tháng 12 năm 1997
Xuân Vũ
Bàn ra tán vào (0)
THI PHẨM "NGÀY THÁNG LƯU VONG" THƠ HỒ CÔNG TÂM: TIẾNG LÒNG TÔI!
Bài viết của nhà văn Xuân Vũ
Thơ chiến đấu cần phải được nuôi dưỡng mạnh mẽ hơn lúc nhân tình thế thái đang rời rã dễ làm mảnh đất cho những việc vô luân. Thơ là tinh hoa của tiếng nói và chữ viết. Thơ hay được nhớ trong trí như ghi khắc.
Tôi đọc thơ Hồ Công Tâm, thấy nó là tiếng lòng của tôi. Nhưng, tôi nghĩ, không chỉ là của tôi mà còn là của độc giả khắp nơi. Bởi nó thể hiện ước vọng của những người vong quốc mong phục quốc. Nó là những lời phóng thẳng vào mặt kẻ thù “đỉnh cao trí tuệ”. Nói rõ ra, nó là những nhát chém vào thân hình kẻ thù đang rã rột.
Đối với tôi, viết bài này là một lời cám ơn Hồ Công Tâm đã gảy đúng tiếng lòng của tôi với cây đàn nhiều phím.
Gươm phục quốc đêm ngày đeo bên nách
Ta thấy ta đeo nhục ở bên mình
Ta thấy ta lì lợm thật đáng khinh
Và, ta thấy chiều nay ta buồn bã
Ôi chí lớn ngang tàng trong thiên hạ
Đựng chưa đầy đôi mắt của giai nhân!
(Lời Phạm Thái, NTLV, trang 33)
Thơ Hồ Công Tâm ai oán, đắng cay nhưng không làm cho người đọc rũ xuống , mất ý chí chiến đấu. Cũng sầu vong quốc, nhưng không phải thứ rượu ma quái, không phải thứ sầu ủy mị.
Ngoảnh lại mười lăm năm biệt xứ
Ai cười ai khóc lúc chia ly
Ngày xưa Câu Tiễn sầu vong quốc
Có giống đời nay lũ Thiệu-Kỳ
Gái đẹp rượu ngon vùi sự nghiệp
Lâu đài nhung lụa cột đôi chân
Ngựa xe bóng lộng tàn thân thế
Quốc sử còn ghi đứa đội quần!
(Sầu Vong Quốc, NTLV tr. 7)
Ôi chí lớn ngang tàng trong thiên hạ
Đựng chưa đầy đôi mắt của giai nhân!
Chủ quán đâu? Ta ghé bước phong trần
Mau đem rượu năm vò thơm hảo hạng!
Ha! Ha! Rượu! Rượu cho quên ngày tháng
Quên đau thương ta nán đợi chữ “thời”!
Nhắc làm chi chuyện non nước đầy vơi
Kiếm trong vỏ đã lâu ngày hoen rỉ
Ta chợt tiếc đường gươm xưa tuyệt kỹ
Ôi Tiêu Sơn Tráng Sĩ buổi chiều nay
Rượu năm vò sao chưa thỏa cơn say
Năm vò nữa! Rượu đâu? Ta uống nữa!
(Lời Phạm Thái, NTLV tr.32)
Hãy đọc những câu thơ rướm máu của thi sĩ, một cảm xúc lạ lùng nhưng rất hiện thực:
Rồi mái tóc cũng ngả màu sương khói
Hận lưu vong đè trĩu nặng đôi vai
Nghe tan tác những vàng son chói lọi
Những thương tích năm xưa còn lở lói
Những nghẹn ngào đau nhói nỗi chia ly
Những nỉ non thề thốt lúc ra đi
Những hăm hở hẹn nhau ngày trở lại
Nơi viễn xứ ôm mối sầu tê tái
Những ngày xanh theo năm tháng úa vàng
Mây trắng về sông núi phủ màu tang
Ai chết đó mà linh hồn quằn quại
Gởi búi tóc và trái tim bất hoại
Qua ngàn trùng sóng nước đến quê hương
Tóc thả trôi cho gió cuốn bên đường
Bay vất vưởng như ma Hời cổ đại
Tim một thuở sầu chưa nguôi quằn quại
Máu còn tươi như trái chín trên cành
Hãy táng treo trên ngọn cổ thụ xanh
Cho chim chóc muôn phương về rỉa rói
Trái tim ấy bao năm còn đỏ lói
Máu còn tươi như tiết đọng, mặt trời
Trái Khổ Đau, hãy nuốt vội chim ơi
Tim ta đó, ôi trái sầu vời vợi!
(Trái Tim Vong Quốc, NTLV tr. 5)
Bi tráng, hào hùng và tươi sáng:
Rồi anh sẽ theo em lên trường quận
Nghe muôn tà áo trắng phất phơ bay
Ơ rượu không uống mà long anh say
Em khúc khích cười rung rinh vành nón
Rồi cô giáo hân hoan niềm vui lớn
Lên giảng bài Lịch Sử Việt hôm nay
Đất nước ta ơi rực rỡ từ đây
Nam Trung Bắc sạch bóng thù Cộng Sản!
(Rồi Một Ngày, NTLV tr. 8)
Nhân đây tôi xin nhắc lại một kỷ niệm của thời “thơ ấu ham học thơ và chép thơ của tôi”. Rủi thay, tôi gặp thơ Tố Hữu. Anh chàng này tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản bằng những bài thơ xã hội rất xã hội: Cô lái đò sông Hương, Mồ côi, Lão đày tớ. Tôi mê lắm. Hơn 50 năm qua tôi vẫn còn nhớ có thể chép nguyên ra. Xin chỉ ghi ra một bài:
…
Trên nẻo đường sương lạnh
Đi về đâu em ơi
Phơi thân tàn cô quạnh
Em sưởi trong bàn tay
Cho lòng băng giá ấm
Lìa cành lá bay bay
Như mảnh đời u thảm
Lá đọng khóc tràn trề
Chao ơi buồn không nói
Em ơi biết đâu về?
Con chim non không tổ
Trẻ mồ côi không nhà
Hai đứa cùng đau khổ
Cùng ngất ngưởng bê tha
Rồi ngày mai rã cánh
Rụi chết bên đường đi
Thờ ơ đôi mắt lạnh
Nhìn chúng có hề chi!
(Mồ Côi Xà Lim Huế 1929)
Tên “nhà thơ bịp” mô tả cảnh mồ côi hay lắm. Và kêu gọi theo Cộng Sản để tiêu diệt những cảnh đời bất hạnh đó. Mỉa mai thay Cộng Sản đã cai trị Việt Nam trên 50 năm mà trẻ con còn bất hạnh hơn nhiều. Hãy đọc Hồ Công Tâm mô tả em bé miền Nam Việt Nam khi Cộng Sản tới:
Bé gái mười hai tuổi
Lang thang trên hè đường
Vì sao mà Bé khóc
Sao Bé không đến trường?
Áo quần sao tơi tả
Dáng vóc sao gầy nhom?
Chân tay như que củi
Bên thùng rác lom khom…
Bé kiếm tìm chi đấy?
Nhà cửa Bé nơi đâu?
Bố mẹ sao không thấy?
Sao không nón đội đầu?
Sao chân không mang dép?
Bé đói lắm phải không?
Ôi một mẩu khoai sùng
Đã thiu trong thùng rác
Người ta liệng tối qua
Lam nham rang chuột gặm
Chó cũng chẳng thèm tha
Người… làm sao ăn được?!
Cháu đói lắm, trời ơi
Bố cháu đi cải tạo
Tuốt miền Bắc xa xôi
Lúc Sài Gòn giải phóng!
Nhà cửa cháu đâu còn
Bị đi kinh tế mới
Làm sao mà sống nổi
Giữa một vùng núi non?!
Gom góp được chút tiền
Mẹ dắt cháu vượt biên
Chẳng may Mẹ bị bắt
Ba năm rồi bặt tin!
Cháu bị đuổi khỏi nhà
Cháu bị ra khỏi lớp
Phải sống trên vỉa hè
Kiếm ny-lông giấy vụn…
Mưa, mưa rơi tí tách
Đêm nay dưới chân cầu
Co ro manh chiếu rách
Biết đi đâu? Về đâu?
(Bể Khổ, NTLV tr 37-38)
Xin đừng nói về sự tượng trưng. Hãy nhìn thực tế:
Dăm chiếc quần áo rách
Nhét vào bịch ny-lông
Để một bên giỏ xách
Lững thững ra Lăng Ông
Lên xe lam Bình Triệu
Trời vẫn còn tối thui
Đèn đường mờ mờ chiếu
Mắt mở mà như đui!
Trông mặt người chẳng tỏ
Quơ tay kiểm hành trang
Đây hai lon gạo đỏ
Với dăm củ khoai lang
Dành ăn đường khi đói!
Đây nửa gói Hoa Mai
Với xị rượu Cây Lý
Gặp bạn uống cho oai
Bảy năm xa vời vợi
Đứa tù cải tạo về
Đứa đi kinh tế mới
Gặp lại nhau mừng ghê!
Bằng hữu ngày xưa ấy
Nay mỗi đứa mỗi nơi
Xa nhau buồn biết mấy
Thôi nâng ly mày ơi!
À Khải mù, Vượng điếc…
Có gặp chúng đâu không?
Nghe nói Kính lùn chết
Ở Trại Hà Sơn Bình!
Còn cái thằng Đại hói
Vượt biên thua, ở tù
Vợ nhà theo nón cối
Bụng phình như cái lu!
Tháng trước đi thủy lợi
Tình cờ gặp Đức hèm
Trông dạo này hom hem
Y như con ma đói!
Lên thăm mày ít bữa
Phụ trồng dăm luống khoai
Mốt, tao về thành phố
Bạn cũ đâu còn ai?
Xuân vàng phai trước ngõ
Mặt trời ngó về Tây
Trên con đường bụi đỏ
Cây cối khẳng khiu gầy
(Thăm Bạn Ở Kinh Tế Mới, tr. 39-40)
Sự tàn bạo:
Rừng tràm xơ xác, sao khưya lạnh
Trăng khuyết, hồn oan vật vã đau
Con nước mênh mông đồng Mộc Hóa
Mộ tù sóng ngập lút bờ lau
Đêm đêm gió hú hồn rên rỉ
Vợ dại con thơ lạc thuở giờ
Sống đã đọa đày không thiết sống
Chết làm ma đói vẫn bơ vơ
Thuở ấy vùi nông manh chiếu rách
Hương tàn khói lạnh vắng người thăm
Ngờ đâu dâu biển trong gang tấc
Riêng mối u hoài đến vạn năm
Tù chết đã đành không sống lại
Hận thù chưa dễ chóng nguôi ngoai
Bạn tù năm cũ giờ trôi giạt
Còn nhớ hay quên một kiếp người!
(Mộ Tù Hoang Lạnh, tr. 10)
Sự láo khoét và tàn bạo:
…
Làm thì láo, báo cáo thì tuyệt hảo
Cướp chuyên nghề, ngươi tráo trở gian tham
Và giờ đây bàn tay đã nhúng chàm
Ngươi lì lợm như không tim, không óc
Hỡi bạo chúa, ngươi vô luân, vô học
Ngươi kéo lùi lịch sử mấy chục năm
Đi đến đâu cũng gieo rắc hờn căm
Ngươi cai trị ra sao, ngươi tự vấn
Mà dân chạy, bỏ nhà đi tị nạn
Sợ ngươi hơn sợ ác thú rừng xanh
Mở mắt nhìn ra thế giới chung quanh
Thấy các nước đều văn minh tiến bộ
Ngưoi ngoan cố vẫn ngăn song cấm chợ
Hỏi làm sao mà nước mạnh dân giàu
Ngươi tin dung lũ mặt ngựa đầu trâu
Mỗi khu vực có công an kềm kẹp
Người tài giỏi bị các ngươi chèn ép
Khó cất đầu lên khỏi mặt hố sâu…
(Nói Với Bạo Quyền CS tr. 59)
Sau đây là một bức tranh hiện thực mô tả sự “đẹp đẽ” của chủ nghĩa cộng sản rút nhỏ trong một buổi nhậu, một bức tranh tuyệt tác, một thần bút của Hồ Công Tâm:
Nhá nhem dơi lượn quanh chòi vắng
Con nước ròng trơ mấy gốc bần
Lờ lững lục bình trôi chậm chậm
Muộn màng khói bếp dáng phân vân
Quán chợ lên đèn, bên lít rượu
Dăm con khô mực nướng vừa thơm
Công an thuế vụ cười hô hố
Một chén đưa cay cổ hạ đờm!
Đù má Bác Hồ thương hết biết
Tao vừa vô mánh đẹp hồi hôm
Tiệc này để đó tao bao hết
Cứ nhậu thả dàn, nhậu thiệt xôm!
Lít nữa! Rượu ngon nghen chủ quán
Đem thêm dĩa gỏi, nướng thêm tôm
Mấy thằng con Ngụy kia ê cút!
Cách Mạng đang ăn cấm ngó mồm!
Đêm đã về khuya, mưa rả rích
Đìu hiu chợ huyện, phố thưa người
Con ai co quắp ngoài hiên lạnh
Quán nhậu còn nghe vọng tiếng cười…
(Quán Nhậu Chợ Huyện, tr. 41)
Đọc bài này thích quá, tôi đọc đi đọc lại cả chục lần. Nó vừa mang tính chất nghệ thuật vừa mang tư tưởng của tác giả. Tôi thấy lũ chúng nó ăn nhậu khoái trá, miệng nhai nhồm nhoàm: Đó là bọn chủ tịch ủy ban Huyện, Công an, Thuế vụ tỉnh, trung ương. Chúng có một đức tính Mác Lê phó cho là “ăn”. Ăn bất cứ cái gì, cả xương thịt người chết và cả xương thịt Mác Lê của nhau. Chúng nó ngồi ghếch chân lên ghế, đập bàn, vỗ ghế, kêu thét gọi thêm đồ nhậu. Hồ C6ng Tâm làm cho tôi nhớ câu ca dao thành Hồ:
Công an, thuế vụ, kiểm llâm
Ba thằng giặc đó, phải đâm thằng nào?
Công an, thuế vụ, kiểm lâm
Ở xa thì bắn, lại gần thì đâm.
Mâm nhậu của chúng không phải là khô mực, tôm nướng. Rượu chúng nốc không phải là rượu thường. Đó là xương máu của dân tộc. Chứ không ư? Chúng làm sao có 70 tỷ đô la đút vào nhà băng hải ngoại? No phè. Đồng chí Mác được chia bao nhiêu, giá đồng chí là đảng viên Cộng Sản Việt Nam thì đồng chí chưa chết sớm thế. Các đồng chí Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Đỗ Mười xuất sắc hơn tổ tiên chúng nhiều. Mấy tên này vẫn là vô sản nguyên xi và vẫn kêu gọi “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” Hãy nhìn đây những tên “vô sản” ăn nhậu và cấm vô sản ngó mồm:
- Cách Mạng đang ăn cấm ngó mồm!
- Mấy thằng con Ngụy kia, ê cút!
- Đù má Bác Hồ thương hết biết!
Nếu tôi là họa sĩ thì tôi sẽ vẽ thành tranh bài thơ này. Tôi đọc, cười bò càn ra. Đây là bài thơ rất hay, hay tuyệt, nhưng nó lại rất đơn sơ mộc mạc, không õng ẹo làm dáng. Thơ Hồ Công Tâm không làm dáng nhưng gây cảm xúc mạnh, ấn tượng sâu. Cộng Sản không phải là một lý tưởng, mà là một trò bịp khoa học. Bởi vậy có cả chục triệu người mắc lừa. Và cũng có cả chục triệu người đã sáng mắt ra. Nay mai ở Việt Nam sẽ chỉ còn lại một Đỗ Mười. Nhưng một Đỗ Mười chết khô và không được ướp muối.
Cộng Sản là người không có tài gì ngoài tài bịp, không có gì đáng kính, mà cũng không có gì đáng yêu. Đó chỉ là những kẻ đáng cho toàn dân căm thù. Mà sự kiện nóng bỏng gần gũi nhất là cuộc nổi dậy của nhân dân tỉnh Thái Bình. Đọc phần đầu của Thơ Hồ Công Tâm, độc giả sẽ có cảm tưởng như tôi vậy.
Tôi không đề cập đến kỹ thuật của Hồ Công Tâm. Tôi chỉ nói đến tính chất chiến đấu của thơ ông. Nghệ thuật nào xúc động được lòng người đọc thì đó là nghệ thuật cao.
- Lẽ đâu dân tộc Việt Nam
Mang gông cùm Đảng, đành cam nghèo hèn?!
- Đù má Bác Hồ thương hết biết!!
Thương Bác Hồ quá sá đến nỗi phải “đù má Bác” mới đã thì quả là một thứ tình thương đặc biệt không thấy ở đâu. Nếu vậy từ đó ta có thể kéo ra một “công thức tình thương” khác như theorem réciproque trong toán học vậy. Đối với Mác Lê-nin thì các nhậu sĩ cấp huyện này cũng có thể “Đù má Mác Lê thương biết mấy!”, phải không?
Cái tiếng chửi đổng là ngôn ngữ hiếm, tục tằn nhưng đen nó vô thơ mà không thấy nó tục, ngược lại thấy nó khoái khẩu cái mồm, thế mới là hay, và cái mồm đó không phải cái mồm trong bức tranh sau đây:
Cách Mạng đang ăn cấm ngó mồm!
Tôi đọc câu này tôi lại cười bò ra. Chữ “ăn” ở đây thật là tuyệt. Tôi đó ai analyser nó cho hết ý. “Cách mạng” là gì? “Ăn” là gì?
Nam Cao mô tả Chí Phèo tuyệt: Hắn vừa đi vừa chửi, chửi người rồi lại chửi đời. Đời là tất cả, nhưng lại chẳng là ai. Thế nên không ai trả lời.
Trở lại Hồ Công Tâm, “Cách mạng là tất cả cái mảng đỏ đỏ, đen đen, mốc mốc, xám xám pha tạp đó nhưng lại chẳng là ai. Nó là người lẫn vật, hai chân lẫn bốn
chân, mặt vuông, mặt tròn nhưng không thiếu cái miệng để nói láo và để ăn, ăn xong lại nói láo, hoặc vừa nói láo vừa ăn cho ngon, hoặc vừa ăn vừa nói láo cho trơn cuống họng. Đời là tất cả, nhưng lại chẳng là ai. Thì Cách mạng là Bác Hồ, là Tổng bí thư, là Bộ Chính Trị, là chủ tịch, là thủ tướng… ai cũng có thể là “cách mạng” được cả.
Nói láo những gì, nói những gì gọi là nói láo. Nói:
- “Cách mạng thành công, ta sẽ xây dựng đất nước đẹp gấp mười lần xưa!”
- “Tủ lạnh, ti-vi nhân dân ta dư có.”
- “Xã hội chủ nghĩa thiên đàng thế gian!”
Đó là nói, còn “ăn?”, ăn gì? – Ăn tất cả chẳng chừa thứ chi, đồng chì, thau thiếc. – Ăn tiết canh, mỏ vịt, ruột chó quay chảo, luộc, ninh nhừ. Ăn đầu bò, đầu heo, bao tử cá tra, đầu gà và đầu… ngụy!
Nói chuyện Cách mạng ăn thì không cùng. Đô la cũng nuốt, bạc dỏm cũng xơi. Vợ ngụy cũng không tha, đế quốc tư bản cũng kèm tái luôn. Cách mạng ăn luôn nhà, thánh thất, chùa Phật, miếu mạo tổ tiên, thịt xương tiền bối. Ăn không hết, cách mạng đem về nhà cho vợ con Cách mạng ăn, đem bán rẻ cho đồng chí an hem, cho tư bản phản động. Giá nào cũng bán, cho luôn khỏi lấy tiền. Đó là cá choạng ăn. Từ cái sự ăn đó nó quá mỹ thuật nên khi “Cách mạng” ăn thì: “Cấm ngó mồm”!
Hồ Công Tâm viết câu này tuyệt bút. Một câu đủ thành thi sĩ rồi! Ôi cái mồm của cách mạng nó “đẹp” làm sao! Vì thế cấm ngó! Cũng như khẩu hiệu “Cấm đái” ở góc tường, ở chân tượng Lê-nin.
Thằng ngụy nào dám nói Cách mạng ăn (?) (Phải nói Cách mạng xơi, Cách mạng xực!) đi cải tạo Trảng Lớn Bù Gia Mập… 5 năm!
Thằng ngụy nào dám ngó mồm cách mạng: đi cải tạo Hoàng Liên Sơn!
Thằng cán nào khen mồm cách mạng đẹp như cờ đỏ sao vàng: thăng ba cấp, vô Bộ Chính Trị, con cháu đi học Mỹ thả dàn không xét lý lịch.
Chỉ một tiếng “ăn”, cách mạng hiện nguyên hình “thanh lịch”. Xác ướp cũng ăn như Hồ Chủ Tịch. Hồ Chủ Tịch ăn chứ không à. Mỗi năm 3 triệu đô la. Không mồ hôi nước mắt bần cố nông là gì?
Tôi chỉ đi đến cái “quán nhậu chợ huyện” thì dừng chân. Không đi xa hơn nữa. Thấy rõ Cách mạng rồi thì còn tìm cái gì hơn? Tôi nghe tiếng cười vọng ra. Không nhìn, không dám nhìn. Nhắm mắt cũng thấy “Cách mạng đang ăn…”! Đủ rồi!
San Antonio, tháng 12 năm 1997
Xuân Vũ