Thân Hữu Tiếp Tay...
TƯ BEO _ TRẦN ĐỨC PHỔ
xxx
Tiếng loa phóng thanh chốc chốc lại vang lên giọng của một người đàn ông khô khan và cộc cằn như ban lệnh:
Buổi
trưa mùa hạ ở cái xóm bãi ngang ven biển không có lấy một làn gió. Mấy
khóm tre uể oải rủ ngọn đứng im lìm. Trên nhánh cây sầu đông tiếng loa
rè rè hòa lẫn với tiếng ve rỉ rả tạo thành một bản hòa tấu hổ lốn, nhức
cả óc. Đang thiu thiu ngủ trưa người trong xóm 8 bỗng giật mình tỉnh
giấc. Trẻ con nằm trong võng ré lên. Có tiếng ru hời ngáy ngủ, rồi tiếng
khóc lại im bặt.
Dưới
gốc xoài, trước sân nhà Quấc, một người đàn ông cao to, tuổi trạc ba
mươi, mặc bộ đồ bà ba đen, trên vai khoác khẩu AK 47, đang đi đi lại
lại. Lưng áo ướt mồ hôi từng vạt. Mặt mũi hắn cau có, trên trán cũng mồ
hôi nhễ nhại. Miệng lầm bầm điều gì không rõ, hình như đang chửi thề
văng tục một thứ gì đó. Đang đi hắn chợt ngừng lại móc trong túi áo ra
bao thuốc lá Vàm Cỏ, lấy một điếu châm lửa, rít một hơi dài. Hắn đưa bàn
tay trái có cái vết chàm thâm sì chiếm gần hết cả mu bàn tay lên quẹt
mồ hôi trán. Một thanh niên từ trong nhà bước xuống bậc tam cấp, tay
xách khẩu CKC, cái báng gỗ lên nước bóng loáng, nổi bật những đường vân
đỏ au, vừa đi về phía hắn vừa cất tiếng hỏi:
- Chưa ai đến sao anh Tư?
-
Đ.M. Tụi nó chết đâu hết rồi, loa kêu từ nãy giờ mà chẳng thấy mặt mũi
đứa nào. – Hắn nói xong nhổ toẹt một bãi đờm dãi, xuống nền đất trước
mặt.
- Chắc tụi nó đang ngủ trưa nên chưa kịp đến đấy thôi. Ta chờ thêm một lát nữa.
-
Đ.M. Ban đêm làm cái con c*t gì mà ban ngày ngủ trưa? – Tư Beo nói xong
đến dựa vào gốc xoài, khẩu AK hạ xuống khỏi vai, đem dựng trước mặt.
Hai tay cầm lấy nòng súng như người già cầm cái gậy. Anh thanh niên vội
chạy vào nhà mang ra một cái băng ngựa gỗ (băng ghế dài) để dưới bóng
xoài và mời mọc.
- Anh ngồi đây!
Tư
Beo chễm chệ ngồi xuống băng ghế, nhả khói phì phèo. Chừng mười lăm
phút sau, từ ngoài cổng lục rục năm sáu thanh niên tiến vào. Trên vai
mỗi người đều mang súng tiểu liên AK 47 hoặc CKC, đầu mũi súng chúc
xuống đất, báng súng chổng lên trời. Đến dưới gốc xoài, trước mặt Tư
Beo, cả bọn cất tiếng chào đồng thanh:
- Chào xã đội trưởng!
Chào xong họ đứng vòng quanh Tư Beo. Một thanh niên cất giọng rụt rè, hỏi:
- Có chuyện gì dzậy anh Tư?
Tư
Beo liếc qua cả bọn một lượt, không thèm trả lời người vừa hỏi. Hắn
đứng lên, vênh mặt, chìa cái cằm lún phún râu, cất giọng nghiêm trang,
hô to:
- Tất cả xếp hàng một!
Mấy
anh thanh niên mới đến cùng với Quấc đứng xếp thành một hàng dọc trước
mặt Tư Beo. Chờ cho đám du kích dưới quyền đứng ngay ngắn, chỉnh tề, Tư
Beo nói giọng đầy vẻ trịnh trọng.
-
Các đồng chí du kích xóm 8 thân mến! Hôm nay đảng, nhà nước và nhân dân
giao phó cho các đồng chí một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và đặc biệt.
Các đồng chí có biết đó là nhiệm vụ gì không? – Hỏi xong hắn tằng hắng
mấy tiếng rồi nói tiếp, dường như cũng không cần nghe câu trả lời của
những anh du kích tuổi mới đôi mươi đang đứng im phăng phắc lắng nghe. –
Tui vừa nhận được báo cáo từ các chủ rạng mành sơn rằng là bọn thanh
niên từ đảo Lý Sơn vào vùng biển xóm ta cho nổ mìn đánh bắt cá bừa bãi,
gây mất trật tự an ninh và thiệt hại kinh tế cho đồng bào ta. Vì thế
nhiệm vụ của các đồng chí bữa nay là phải đuổi cổ bọn chúng đi để bảo vệ
yên bình cho các rặng san hô của chúng ta. Các đồng chí nghe rõ chưa?
Có tiếng đáp rân:
- Dạ, rõ!
Tư Beo nói tiếp:
-
Mấy lần trước các chủ ghe mành đã đuổi cổ bọn chúng đi. Nhưng bọn này
lì lợm, không chưà thói trộm cắp xấu xa nên vài hôm sau là quay trở lại.
Lần này các đồng chí phải mạnh tay. Nếu cần khi tôi ra lệnh nổ súng thì
các đồng chí phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh. Kẻ nào bất tuân sẽ xử
nghiêm theo quân pháp. Rõ chưa? – Nói đến đây nét mặt của Tư Beo đanh
lại. Mắt hắn long lên như đang đứng trước kẻ thù.
- Dạ, rõ, thưa đồng chí xã đội trưởng!
Tư Beo vừa ý lắm. Mặt y giãn ra. Hắn nhìn thẳng vào đám đồng chí của mình và ra lệnh:
- Tốt! Bây giờ các đồng chí hãy theo tôi đi làm nhiệm vụ. Xuất phát!
Tư
Beo nói xong tiến lại bên gốc xoài xách chiếc loa cầm tay sử dụng pin
nãy giờ đang để chỏng chơ cạnh mấy cái rễ xoài lồi lên trên mặt đất nên
không ai để ý. Hắn khoác súng lên vai, dẫn đầu đám du kích tiến ra ngõ.
Theo con đường chính trong xóm họ đi về phía biển.
Toán
du kích ra đến bãi biển. Tư Beo cho trưng dụng ngay một chiếc ghe mành,
hô hào cả bọn khẩn trương đẩy xuống nước. Đang là giữa trưa hè oi ả mà
được lội xuống biển, cảm giác dễ chịu hẳn lên, trông ai cũng tươi tỉnh.
Mùa này nước cạn. Từng con sóng nhỏ vỗ bờ lăn tăn. Đó đây có vài người
cào chang chang, chang chép. Ngoài khơi xa vài ba chiếc ghe nhỏ loanh
quanh chỗ cây chà mành sơn. Toán du kích đẩy chiếc ghe vừa tới chỗ nước
sâu thì nghe tiếng Tư Beo la toáng lên:
- Đ.M. tụi nó kéo neo bỏ chạy rồi! Nhanh lên! Nhanh lên tụi bây!
Đám
dân quân trẻ nín thở, gồng mình lấy sức mà đẩy, rồi vội vàng nhảy lên
ghe, chộp nhanh lấy những cây chèo đã gay sẵn, chèo cật lực. Chiếc ghe
rẽ sóng lướt đi vùn vụt, nhắm mấy con thuyền đang hối hả kéo neo mà lao
tới. Tư Beo cầm cái loa đưa lên kêu gọi.
-
A lô… A lô… chúng tôi là du kích xã Bằng An đang làm nhiệm vụ tuần tra.
Yêu cầu những chiếc ghe đang kéo neo hãy ngừng lại, đứng yên tại chỗ để
chúng tôi đến kiểm tra.
Giọng
của Tư Beo léo nhéo, tan loãng vào trời nước mênh mông. Chẳng biết
người trên những chiếc ghe nhỏ kia có nghe được hay không. Nhưng chắc họ
đã nhìn thấy toán du kích mang súng ống hăm hở tiến về phía họ nên vội
vã chặt dây neo, quay mũi ghe nhắm hướng bắc mà chèo. Ghe của những
người kia nhỏ lại không có lưới chài gì nên lướt đi trên mặt biển như
bay. Thấy vậy Tư Beo giơ loa về phía họ la lớn.
- Đứng lại! Đứng lại ngay lập tức!
Hai
chiếc ghe trước mặt vẫn rẽ sóng lướt đi như kình ngư, mặc xác cho tên
xã đội trưởng kêu gào. Không ghìm được cơn giận dữ Tư Beo chửi thề ong
óng:
- Đ.M. không đứng lại tao bắn!
Những
người trên hai chiếc ghe phía trước vẫn không ngừng tay chèo. Tư Beo ra
lệnh cho một anh du kích nãy giờ đang đứng kế bên, không phải chèo
chống gì.
- Quấc! mày bắn đi!
- Bắn thật sao anh Tư? – Quấc dớn dác hỏi lại.
- Đ.M. Chứ còn giả nữa à? Mau!
Quấc
đưa khẩu CKC lên nhắm người chèo sau lái của chiếc ghe đang chạy đằng
trước bóp cò. Đoàng! Đoàng! Hai phát đạn nổ chát chúa. Một tia lửa đỏ
lóe ra từ nơi nòng súng. Đàn hải âu kêu lên kinh hãi, vỗ cánh nhắm
phương nam mà bay đi. Trong bờ mấy người đàn ông đàn bà ngừng tay cào
ốc, đưa mắt ngó ra biển.
Bắn
xong hai phát súng, hồn vía của Quấc hình như cũng theo đầu đạn mà bay
đi đâu mất. Anh ta ngồi bệt xuống sàn ghe. Bên tai nghe Tư Beo cằn nhằn.
- Trật lất! Đ.M. Bắn dở như hạch.
Nghe
Tư Beo nói vậy trong bụng Quấc mừng rơn. Hắn nghĩ may mà ta chưa giết
người. Quấc là một thanh niên nhút nhát, con trai độc nhất trong một gia
đình có chín chị em. Vì thế từ nhỏ đến lớn hắn chỉ chơi bời lêu lổng
chớ chẳng thèm học hành hay làm lụng thứ chi. Bà mẹ hắn xem hắn như hủ
mắm treo đầu giàn, chưa bao giờ nói nặng lời với hắn. Sợ hắn bị bắt đi
nghĩa vụ quân sự trong thời buổi chiến tranh liên miên với Khơ-me, với
Tàu nên bà cho hắn tham gia du kích, một kiểu đi lính địa phương. Từ
trước đến nay Quấc chỉ toàn bắn đạn mã tử khi tập luyện chứ chưa hề bắn
đạn thật bao giờ. Hôm nay là lần đầu tiên hắn bắn đạn thật mà lại nhắm
bắn vào người nữa nên bắn xong hắn sợ muốn vãi đái.
Tư
Beo đưa cái loa cho Quấc cầm, chàng trai đỡ lấy như cái máy. Tên xã đội
trưởng chộp ngay khẩu CKC của Quấc nâng lên, hướng đầu ruồi ngắm vào
bắp đùi của người chèo chiếc ghe phía trước, rồi giục.
-Tụi bây chèo nhanh lên.
Bọn
du kích ra sức chèo. Tư Beo chờ cho chiếc ghe lao lên một quãng nữa cho
vừa tầm đạn. Hắn nín thở, bóp cò. Đoàng! Đoàng! Cùng lúc với tiếng
súng, toán du kích nghe có tiếng người rú lên thất thanh. Liền đó, người
chèo lái chiếc ghe phía trước gục ngay xuống như một cây chuối bị chặt
ngang. Nhưng chiếc ghe phía trước vẫn không ngừng lại. Một người khác
đưa tay cầm ngay lấy cây chèo lái, anh ta đứng vào chỗ người vừa trúng
đạn tiếp tục chèo. Tên xã đội trưởng lại đưa súng lên. Bọn du kích đồng
thanh la lớn.
- Thôi! Anh Tư, đừng bắn nữa! Chết một người rồi kìa!
Cả
bọn quát xong, buông lơi tay chèo. Chiếc ghe chạy chậm dần rồi dừng lại
giữa khoảng trời nước mênh mông. Tư Beo gương mặt đỏ gay. Đôi mắt long
lên sòng sọc. Trông hắn như một con dã thú đang say mùi máu tanh. Quấc
đứng dậy giằng lấy cây súng của hắn, và rên rĩ.
- Chết người rồi, làm sao bây giờ đây?
Tư
Beo vẻ mặt lầm lì không nói một lời. Chiếc ghe trước mặt đã chạy xa tít
tắp. Hắn khoát tay ra hiệu cho quay mũi ghe vào bờ. Toán du kích mặt
mày phờ phạc, thất thần như một toán quân thua trận. Quần áo ướt sũng mồ
hôi và nước mặn. Tư Beo ngồi phệt xuống sàn ghe. Cái vẻ hùng hổ, cuồng
ngạo của hắn tan biến đâu mất. Hắn cúi gục mặt, đôi mắt nhắm nghiền,
vầng trán nhắn tít như đang toan tính điều gì lung lắm trong đầu.
Tư
Beo ngồi tựa lưng vào chiếc ghế sa lông song làm bằng thứ gỗ hương lên
nước vàng óng. Miệng hắn phì phà điếu thuốc lá. Hai bàn chân to bè như
chân vịt gác lên cái bàn dài trước mặt. Hắn lim dim mắt nhưng không phải
để mơ mộng mà để nghĩ ngợi, suy tính. Thỉnh thoảng từ cái miệng rộng có
cặp môi dày và hàm răng vàng khè nhả ra những vòng khói thuốc chữ O
tròn trĩnh từ từ bay lên cao, lan rộng và tan loãng vào không khí. Hôm
nay, hắn thức dậy sớm nhưng cáo bệnh không xuống Ủy ban xã, vì suốt đêm
qua, hắn trằn trọc, suy nghĩ cách viết báo cáo cho vụ bắn người bữa nọ,
không hề chợp mắt được. Chiều hôm qua, hắn nhận được thông báo rằng
người thanh niên trúng đạn đã chết trên đường đến bệnh viện. Gia đình
anh ta đã làm đơn khởi kiện nhóm du kích xóm 8 lên tòa án tỉnh. Vì thế
hôm nay hắn quyết định ở nhà một ngày để tìm cách giải quyết. Vợ hắn đã
đi chợ, hai đứa con đến trường từ sớm, chỉ còn mình hắn ngồi nhà. Bầu
không khí thật tĩnh lặng thuận tiện cho viết lách, nhưng cả tiếng đồng
hồ trôi qua mà hắn vẫn chưa viết được chữ nào. Bởi lẽ, hắn không muốn
báo cáo sự thật. Hắn không muốn bị mất chức, hoặc bị tù tội, thậm chí là
bản án tử hình.
Tư
Beo chồm người dậy, đưa tay với lấy cái bình trà kiểu xưa, vòi và quai
cầm đều bịt đồng sáng bóng. Hắn mỉm cười, thoáng vẻ đắc chí khi ngắm
nghía món đồ yêu thích đó. Hắn nhớ lại bộ tách này hắn đã lấy ở một gia
đình cuối xóm hồi tháng trước, khi hắn ghé chơi. Nhà đó có đứa con trai
vượt biên nên thấy hắn như mèo thấy chuột. Tìm cách lủi đi nhưng không
được nên họ đành phải tiếp. Lúc họ mời nước trông thấy cái bình trà hắn
đã muốn lấy ngay, nhưng giả vờ hỏi xin. Chủ nhà nhỏ nhẹ khước từ khéo.
Hắn giận quắc mắt, chủi thề, rồi đứng dậy ra về, tiện tay cầm cái bình
trà đi thẳng ra ngõ. Chủ nhà ngó theo tiếc của mà không dám đòi.
Tư
Beo rót một tách trà, rồi bưng lên uống ực một hơi cạn sạch, vẻ mặt đầy
khoan khoái. Chung trà làm cho đầu óc tỉnh táo hẳn lên. Hắn lại ngả
người trên sa lông, nhưng lần này đôi mắt có nhiều lòng trắng mở to
ngước nhìn trần nhà. Ngắm giàn xuyên trính vuông vức bằng gỗ dầu lai lên
nước bóng loáng hắn gục gặc cái đầu tỏ ý rất đỗi hài lòng. Nhưng ô kìa,
phía trên lớp mè, rui mạng nhện giăng mắc ngang dọc, mái ngói lâu ngày
đen xỉn trông chả đẹp chút nào.. Hắn nghĩ bụng có lẽ chủ nhà trước đây
đã mua trúng thứ ngói rẻ tiền, nên thế. Hắn chặc lưỡi tự nói thầm như để
nhắc nhở mình: “Xong cái vụ giết người rắc rối này ta sẽ móc hầu bao
vài kẻ chạy chọt nghĩa vụ quân sự cho con cháu để kiếm ít cây vàng thay
lớp ngói cho ngôi nhà mới được .” Tính hắn xưa nay vẫn vậy thích lấy của
người khác về làm của nhà mình. Với cái chức vụ xã đội trưởng trong
thời buổi ngoài biên ải có giặc dữ, trong nước dân chúng bỏ quê hương ra
đi, hắn mặc sức mà hoành hành ở cái làng biển hẻo lánh này.
Chả
thế mà cả căn nhà hắn đang ở, kể luôn nội thất cũng đều là tài sản của
người bỏ trốn ra nước ngoài, và hắn đã tịch thu. Nhà này nguyên ủy là
của một gia đình giàu có, chủ tàu hành nghề lưới cảng đường dài. Hồi đầu
năm 1979 cả xóm 8 bỗng nhiên náo động vì qua một đêm sáng dậy nghe
người ta đồn ầm lên, toàn bộ gia đình ông Phú đã đi vượt biển. Người dân
trong xóm lúc đó bàn tán ì xèo. Ai cũng khen họ khéo ngụy trang giấu
giếm kế hoạch, và tổ chức chu đáo nên không bị lộ. Họ có biết đâu chính
hắn đã ăn rơ với chủ tịch, công an trưởng và bí thư xã bán bãi cho ông
Phú để lấy hàng trăm cây vàng đút túi. Phần gã lại viện cớ chưa có chỗ ở
nên làm đơn xin luôn căn nhà và mảnh vườn. Vì lúc ấy hắn vẫn còn là một
cán bộ vô sản, sống nương nhờ vào gia đình mẹ đẻ,. Thế nên Ủy ban cấp
luôn cho hắn làm phần thưởng cho công tác tịch biên. Cũng nhờ khôn khéo
và biết nịnh nọt cấp trên nên hắn dễ dàng đạt được mọi mục đích.
Tư
Beo có ngày nay là cũng nhờ vào cuộc đổi đời tháng Tư năm 1975. Hắn vốn
là con của một gia đình có công với cách mạng. Cha hắn đảng viên kỳ cựu
từ hồi Khởi nghĩa. Năm hắn lên hai tuổi, ông tập kết ra Bắc. Trước khi
đi ông nhờ một đồng chí của mình còn ở lại trông nôm giùm vợ con. Họ
tưởng đâu hai năm sau sẽ đoàn tụ. Dè đâu ông đi biệt từ đó. Chuyện gì
phải xảy ra ắt xảy ra. Trai chưa vợ, gái đã có chồng, nhưng lửa gần rơm
lâu ngày cũng cháy bùng khó lòng dập tắt. Thế là bà mẹ Tư Beo cùng ông
đồng chí của cha hắn góp gạo thổi cơm chung với nhau và sinh ra mấy cô
cậu nữa. Để tránh bị chính quyền thời ông Ngô Đình Diệm nghi ngờ, theo
dõi gia đình có người tập kết ra Bắc, bà mẹ cho Tư Beo lấy theo họ của
cha dượng. Cuối năm 1967 chiến tranh ở vùng này vô cùng khốc liệt, gia
đình Tư Beo di tản vào Sa Huỳnh. Nhưng ông cha dượng vẫn tiếp tục hoạt
động cho cộng sản. Ông thường xuyên theo ghe lưới quay về cửa Mỹ Á để
tiếp tế lương thực, thuốc men cho quân du kích. Đầu năm 1972, ông bị lực
lượng cảnh sát tuần duyên bắt vì tội kinh tài và vận chuyển nhu yếu
phẩm cho Việt Cộng. Cha dượng Tư Beo bị kết án ba năm tù giam, đày đi
côn đảo. Tư Beo lo sợ bị liên lụy nên nhảy theo ghe lưới trốn về quê cũ
tham gia đội du kích xã. Lúc này hắn đổi lại họ cha đẻ, khai ông tập kết
vào lý lịch để được hưởng quyền lợi đãi ngộ của Việt cộng địa phương.
Xét thấy hắn cũng là một hạt giống đỏ của cách mạng xã nhà nên cấp ủy xã
Bằng An gửi hắn lên đào tạo ở miền rừng núi phía tây huyện Đức Phổ. Tại
đây hắn được biên chế vào đội canh phòng và bảo vệ mấy lán trại của cơ
quan huyện uỷ. Vì tướng tá cao to, và bàn tay có vết chàm đầu báo, tính
tình lại hung hãn, cộc cằn nên mấy đồng chí du kích đặt cho hắn cái tên
rất rừng rú là Tư Beo để phân biệt với một người khác cũng tên Tư.
Từ năm
1972 đến cuối năm 1974, Sư đoàn 2 Bộ binh của quân lực Việt Nam Cộng
hòa làm cỏ vùng duyên hải Mộ Đức, Đức Phổ. Các cơ sở thân Việt cộng đều
bị đánh bật gốc. Sau nhiều trận săn lùng và tiêu diệt, du kích xã Bằng
An chết sạch, không còn ai sống sót. Đầu năm 1975, Huyện đội điều Tư Beo
về gây dựng lại đội du kích xã Bằng An. Thế là đêm đêm hắn cho người
đột nhập vào nhà thường dân hăm dọa, bắt bớ thiếu niên mười ba mười bốn
tuổi thoát ly gia đình tham gia vào đội. Dù hắn hết sức cố gắn nhưng cả
mấy tháng cũng chỉ gom được vẻn vẹn chừng một tiểu đội mười hai người.
Số phận quả thật rất ưu ái với Tư Beo. Gần cuối tháng ba năm 1975 thì
tỉnh Quảng Ngãi hoàn toàn giải phóng. Nhiều gia đình chạy nạn chiến
tranh từ Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn lần lượt về quê. Chớp lấy cơ hội ấy
Ủy ban nhân dân xã tuyên truyền, kêu gọi thanh niên tích cực tham gia
du kích bảo vệ quê hương. Với nhiệt tình và hăng hái của tuổi trẻ rất
đông thanh niên nam nữ đã đăng ký vào đội du kích thôn, du kích xã.
Thanh thế và địa vị của Tư Beo nổi lên từ đó, mặc dù hắn chưa hề tham
gia trận đánh nào từ khi được cầm súng, hoặc có thành tích gì. Rồi kế
đến khi biên giới phía Bắc bị quân Tàu tràn ngập thì phong trào du kích,
địa phương tự vệ được hô hào, cổ động mạnh, Tư Beo càng thấy vai trò
mình quan trọng càng trở nên hống hách và ngang ngược với dân lành.
Giờ
đây Tư Beo đang ngồi tư lự, hắn lo sợ bị bay mất cái chức xã đội trưởng
muốn gió có gió, muốn mưa có mưa ở cái xã toàn những người ngư dân dễ
bảo này. Đêm qua, hắn cũng đã từng suy nghĩ muốn nhờ cha ruột can thiệp,
nhưng mà ông ở tít ngoài Bắc. Nước xa không cứu được lửa gần. Sau năm
1975, người cha đi biền biệt suốt 22 năm trời lù lù quay về. Tưởng đâu
lúc gặp nhau cha mẹ hắn rất khó xử, nhưng không, họ coi nhau như bạn.
Ông đã có gia đình ngoài Bắc, bà thì đã ôm cầm thuyền khác. Thế là huề
cả làng. Hiện tại ông đang làm phó bí thư huyện ủy một huyện miền núi
thuộc vùng Tây bắc rất xa xôi nên chẳng dễ gì liên lạc được.
Tư
Beo đốt thêm điếu thuốc lá nữa, đứng lên đóng cửa, và đi xuống sân, dắt
chiếc xe đạp ra ngõ. Vừa qua khỏi ngõ nhà thì gặp vợ đang khệ nệ bưng
một thúng đầy ăm ắp từ chợ về. Hắn nói với vợ: “Tui đi xuống nhà thằng
Quấc có công chuyện chút!” Nói xong, không chờ nghe vợ trả lời, hắn đạp
xe đi thẳng. Lúc qua ngã ba chỗ trường tiểu học đúng vào giờ ra chơi, Tư
Beo suýt tông vào một đám học sinh đang bắn bi ngoài đường. Hắn ngừng
xe trợn mắt quát:
- Bọn bây hết chỗ chơi rồi à? Muốn chết sao chơi bắn bi ngoài đường?
Có mấy đứa sợ hãi bỏ chạy tán loạn, duy nhất một cậu bé gầy nhom còn đứng lại cãi.
- Bọn cháu chỉ chơi ven lề đường thôi, chú đi xe ẩu còn đổ thừa.
Tư Beo đỏ mặt tía tai, nạt.
- Còn cãi! Đ.M. Tránh ra không tao đá cho một cái bây giờ.
Tư Beo bước xuống xe, bặm môi, trợn mắt. Thằng nhỏ thấy thế co giò, cắm cổ chạy biến vào trong trường.
Đến ngõ nhà Quấc, Tư Beo đứng ngoài hàng rào, gọi:
- Quấc! … Quấc!
Có tiếng đáp từ trong nhà vọng ra:
- Ai đó?
- Anh Tư đây! Ra ngoài này nói chuyện chút.
Quấc lững thững đi ra. Tư Beo dựng xe đạp vào hàng rào cây ngũ sắc nở đầy hoa.
-
Trên huyện gửi giấy về đòi chúng ta tuần tới phải ra hầu tòa. – Tư Beo
nói xong móc túi đưa tờ giấy cho Quấc. Anh thanh niên xem xong, mặt mày
tái mét, hỏi Tư Beo.
- Làm sao bây giờ anh Tư?
Chờ cho chàng trai thấm đòn cân não, Tư Beo thủng thẳng nói:
- Chỉ còn cách là em nhận tội đã ngộ sát thôi.
Quấc giẫy nẫy:
- Anh bắn mà! Đâu phải em!
Tư Beo ôn tồn:
-
Đ.M. Nhưng súng và đạn là của em! Tòa án họ căn cứ vào bằng chứng. Hơn
nữa một người bị tù còn hơn cả bọn, đúng không nào? Mấy đứa khác đã
thống nhất khai như vậy rồi! Chỉ còn có mỗi mình em khai khác đi, tòa
cũng không tin đâu.
- Em phải ở tù bao lâu? – Giọng Quấc đầy rầu rĩ, tuyệt vọng.
-
Bọn thanh niên Lý Sơn đã sai trước, vì chúng xâm phạm, đánh mìn phá
hoại vùng biển của ta. Mình vì bảo vệ tài sản cho nhân dân mà ngộ sát
nên tòa chỉ phạt nhẹ thôi, chừng vài năm tù là cùng. Em yên chí, ở nhà
gia đình cha mẹ em có anh lo cho tất cả. – Tư Beo Trấn an Quấc. Rồi hắn
nói thêm. – Nhưng em phải nhận trách nhiệm là chỉ mình em nổ súng, cho
khớp với lời khai của mọi người. Rõ chưa?
Anh thanh niên khờ khạo, thiểu não gật gật đầu.
oOo
Phiên
tòa xét xử vụ nổ súng trên vùng biển xóm 8 kết thúc chóng vánh. Thẩm
phán tuyên án du kích Võ Quấc tội ngộ sát khi đương làm nhiệm vụ mười
năm tù giam. Những người khác trong toán cùng đi hôm ấy vô tội. Nghe
xong lời tuyên bố của tòa Tư Beo nở một nụ cười vừa sung sướng vừa thâm
hiểm trên đôi môi chì dày cộm như hai thỏi thịt trâu.
HẾT
10/4/2024
Trần Đức Phổ ( HNPD )
TƯ BEO _ TRẦN ĐỨC PHỔ
xxx
Tiếng loa phóng thanh chốc chốc lại vang lên giọng của một người đàn ông khô khan và cộc cằn như ban lệnh:
Buổi
trưa mùa hạ ở cái xóm bãi ngang ven biển không có lấy một làn gió. Mấy
khóm tre uể oải rủ ngọn đứng im lìm. Trên nhánh cây sầu đông tiếng loa
rè rè hòa lẫn với tiếng ve rỉ rả tạo thành một bản hòa tấu hổ lốn, nhức
cả óc. Đang thiu thiu ngủ trưa người trong xóm 8 bỗng giật mình tỉnh
giấc. Trẻ con nằm trong võng ré lên. Có tiếng ru hời ngáy ngủ, rồi tiếng
khóc lại im bặt.
Dưới
gốc xoài, trước sân nhà Quấc, một người đàn ông cao to, tuổi trạc ba
mươi, mặc bộ đồ bà ba đen, trên vai khoác khẩu AK 47, đang đi đi lại
lại. Lưng áo ướt mồ hôi từng vạt. Mặt mũi hắn cau có, trên trán cũng mồ
hôi nhễ nhại. Miệng lầm bầm điều gì không rõ, hình như đang chửi thề
văng tục một thứ gì đó. Đang đi hắn chợt ngừng lại móc trong túi áo ra
bao thuốc lá Vàm Cỏ, lấy một điếu châm lửa, rít một hơi dài. Hắn đưa bàn
tay trái có cái vết chàm thâm sì chiếm gần hết cả mu bàn tay lên quẹt
mồ hôi trán. Một thanh niên từ trong nhà bước xuống bậc tam cấp, tay
xách khẩu CKC, cái báng gỗ lên nước bóng loáng, nổi bật những đường vân
đỏ au, vừa đi về phía hắn vừa cất tiếng hỏi:
- Chưa ai đến sao anh Tư?
-
Đ.M. Tụi nó chết đâu hết rồi, loa kêu từ nãy giờ mà chẳng thấy mặt mũi
đứa nào. – Hắn nói xong nhổ toẹt một bãi đờm dãi, xuống nền đất trước
mặt.
- Chắc tụi nó đang ngủ trưa nên chưa kịp đến đấy thôi. Ta chờ thêm một lát nữa.
-
Đ.M. Ban đêm làm cái con c*t gì mà ban ngày ngủ trưa? – Tư Beo nói xong
đến dựa vào gốc xoài, khẩu AK hạ xuống khỏi vai, đem dựng trước mặt.
Hai tay cầm lấy nòng súng như người già cầm cái gậy. Anh thanh niên vội
chạy vào nhà mang ra một cái băng ngựa gỗ (băng ghế dài) để dưới bóng
xoài và mời mọc.
- Anh ngồi đây!
Tư
Beo chễm chệ ngồi xuống băng ghế, nhả khói phì phèo. Chừng mười lăm
phút sau, từ ngoài cổng lục rục năm sáu thanh niên tiến vào. Trên vai
mỗi người đều mang súng tiểu liên AK 47 hoặc CKC, đầu mũi súng chúc
xuống đất, báng súng chổng lên trời. Đến dưới gốc xoài, trước mặt Tư
Beo, cả bọn cất tiếng chào đồng thanh:
- Chào xã đội trưởng!
Chào xong họ đứng vòng quanh Tư Beo. Một thanh niên cất giọng rụt rè, hỏi:
- Có chuyện gì dzậy anh Tư?
Tư
Beo liếc qua cả bọn một lượt, không thèm trả lời người vừa hỏi. Hắn
đứng lên, vênh mặt, chìa cái cằm lún phún râu, cất giọng nghiêm trang,
hô to:
- Tất cả xếp hàng một!
Mấy
anh thanh niên mới đến cùng với Quấc đứng xếp thành một hàng dọc trước
mặt Tư Beo. Chờ cho đám du kích dưới quyền đứng ngay ngắn, chỉnh tề, Tư
Beo nói giọng đầy vẻ trịnh trọng.
-
Các đồng chí du kích xóm 8 thân mến! Hôm nay đảng, nhà nước và nhân dân
giao phó cho các đồng chí một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và đặc biệt.
Các đồng chí có biết đó là nhiệm vụ gì không? – Hỏi xong hắn tằng hắng
mấy tiếng rồi nói tiếp, dường như cũng không cần nghe câu trả lời của
những anh du kích tuổi mới đôi mươi đang đứng im phăng phắc lắng nghe. –
Tui vừa nhận được báo cáo từ các chủ rạng mành sơn rằng là bọn thanh
niên từ đảo Lý Sơn vào vùng biển xóm ta cho nổ mìn đánh bắt cá bừa bãi,
gây mất trật tự an ninh và thiệt hại kinh tế cho đồng bào ta. Vì thế
nhiệm vụ của các đồng chí bữa nay là phải đuổi cổ bọn chúng đi để bảo vệ
yên bình cho các rặng san hô của chúng ta. Các đồng chí nghe rõ chưa?
Có tiếng đáp rân:
- Dạ, rõ!
Tư Beo nói tiếp:
-
Mấy lần trước các chủ ghe mành đã đuổi cổ bọn chúng đi. Nhưng bọn này
lì lợm, không chưà thói trộm cắp xấu xa nên vài hôm sau là quay trở lại.
Lần này các đồng chí phải mạnh tay. Nếu cần khi tôi ra lệnh nổ súng thì
các đồng chí phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh. Kẻ nào bất tuân sẽ xử
nghiêm theo quân pháp. Rõ chưa? – Nói đến đây nét mặt của Tư Beo đanh
lại. Mắt hắn long lên như đang đứng trước kẻ thù.
- Dạ, rõ, thưa đồng chí xã đội trưởng!
Tư Beo vừa ý lắm. Mặt y giãn ra. Hắn nhìn thẳng vào đám đồng chí của mình và ra lệnh:
- Tốt! Bây giờ các đồng chí hãy theo tôi đi làm nhiệm vụ. Xuất phát!
Tư
Beo nói xong tiến lại bên gốc xoài xách chiếc loa cầm tay sử dụng pin
nãy giờ đang để chỏng chơ cạnh mấy cái rễ xoài lồi lên trên mặt đất nên
không ai để ý. Hắn khoác súng lên vai, dẫn đầu đám du kích tiến ra ngõ.
Theo con đường chính trong xóm họ đi về phía biển.
Toán
du kích ra đến bãi biển. Tư Beo cho trưng dụng ngay một chiếc ghe mành,
hô hào cả bọn khẩn trương đẩy xuống nước. Đang là giữa trưa hè oi ả mà
được lội xuống biển, cảm giác dễ chịu hẳn lên, trông ai cũng tươi tỉnh.
Mùa này nước cạn. Từng con sóng nhỏ vỗ bờ lăn tăn. Đó đây có vài người
cào chang chang, chang chép. Ngoài khơi xa vài ba chiếc ghe nhỏ loanh
quanh chỗ cây chà mành sơn. Toán du kích đẩy chiếc ghe vừa tới chỗ nước
sâu thì nghe tiếng Tư Beo la toáng lên:
- Đ.M. tụi nó kéo neo bỏ chạy rồi! Nhanh lên! Nhanh lên tụi bây!
Đám
dân quân trẻ nín thở, gồng mình lấy sức mà đẩy, rồi vội vàng nhảy lên
ghe, chộp nhanh lấy những cây chèo đã gay sẵn, chèo cật lực. Chiếc ghe
rẽ sóng lướt đi vùn vụt, nhắm mấy con thuyền đang hối hả kéo neo mà lao
tới. Tư Beo cầm cái loa đưa lên kêu gọi.
-
A lô… A lô… chúng tôi là du kích xã Bằng An đang làm nhiệm vụ tuần tra.
Yêu cầu những chiếc ghe đang kéo neo hãy ngừng lại, đứng yên tại chỗ để
chúng tôi đến kiểm tra.
Giọng
của Tư Beo léo nhéo, tan loãng vào trời nước mênh mông. Chẳng biết
người trên những chiếc ghe nhỏ kia có nghe được hay không. Nhưng chắc họ
đã nhìn thấy toán du kích mang súng ống hăm hở tiến về phía họ nên vội
vã chặt dây neo, quay mũi ghe nhắm hướng bắc mà chèo. Ghe của những
người kia nhỏ lại không có lưới chài gì nên lướt đi trên mặt biển như
bay. Thấy vậy Tư Beo giơ loa về phía họ la lớn.
- Đứng lại! Đứng lại ngay lập tức!
Hai
chiếc ghe trước mặt vẫn rẽ sóng lướt đi như kình ngư, mặc xác cho tên
xã đội trưởng kêu gào. Không ghìm được cơn giận dữ Tư Beo chửi thề ong
óng:
- Đ.M. không đứng lại tao bắn!
Những
người trên hai chiếc ghe phía trước vẫn không ngừng tay chèo. Tư Beo ra
lệnh cho một anh du kích nãy giờ đang đứng kế bên, không phải chèo
chống gì.
- Quấc! mày bắn đi!
- Bắn thật sao anh Tư? – Quấc dớn dác hỏi lại.
- Đ.M. Chứ còn giả nữa à? Mau!
Quấc
đưa khẩu CKC lên nhắm người chèo sau lái của chiếc ghe đang chạy đằng
trước bóp cò. Đoàng! Đoàng! Hai phát đạn nổ chát chúa. Một tia lửa đỏ
lóe ra từ nơi nòng súng. Đàn hải âu kêu lên kinh hãi, vỗ cánh nhắm
phương nam mà bay đi. Trong bờ mấy người đàn ông đàn bà ngừng tay cào
ốc, đưa mắt ngó ra biển.
Bắn
xong hai phát súng, hồn vía của Quấc hình như cũng theo đầu đạn mà bay
đi đâu mất. Anh ta ngồi bệt xuống sàn ghe. Bên tai nghe Tư Beo cằn nhằn.
- Trật lất! Đ.M. Bắn dở như hạch.
Nghe
Tư Beo nói vậy trong bụng Quấc mừng rơn. Hắn nghĩ may mà ta chưa giết
người. Quấc là một thanh niên nhút nhát, con trai độc nhất trong một gia
đình có chín chị em. Vì thế từ nhỏ đến lớn hắn chỉ chơi bời lêu lổng
chớ chẳng thèm học hành hay làm lụng thứ chi. Bà mẹ hắn xem hắn như hủ
mắm treo đầu giàn, chưa bao giờ nói nặng lời với hắn. Sợ hắn bị bắt đi
nghĩa vụ quân sự trong thời buổi chiến tranh liên miên với Khơ-me, với
Tàu nên bà cho hắn tham gia du kích, một kiểu đi lính địa phương. Từ
trước đến nay Quấc chỉ toàn bắn đạn mã tử khi tập luyện chứ chưa hề bắn
đạn thật bao giờ. Hôm nay là lần đầu tiên hắn bắn đạn thật mà lại nhắm
bắn vào người nữa nên bắn xong hắn sợ muốn vãi đái.
Tư
Beo đưa cái loa cho Quấc cầm, chàng trai đỡ lấy như cái máy. Tên xã đội
trưởng chộp ngay khẩu CKC của Quấc nâng lên, hướng đầu ruồi ngắm vào
bắp đùi của người chèo chiếc ghe phía trước, rồi giục.
-Tụi bây chèo nhanh lên.
Bọn
du kích ra sức chèo. Tư Beo chờ cho chiếc ghe lao lên một quãng nữa cho
vừa tầm đạn. Hắn nín thở, bóp cò. Đoàng! Đoàng! Cùng lúc với tiếng
súng, toán du kích nghe có tiếng người rú lên thất thanh. Liền đó, người
chèo lái chiếc ghe phía trước gục ngay xuống như một cây chuối bị chặt
ngang. Nhưng chiếc ghe phía trước vẫn không ngừng lại. Một người khác
đưa tay cầm ngay lấy cây chèo lái, anh ta đứng vào chỗ người vừa trúng
đạn tiếp tục chèo. Tên xã đội trưởng lại đưa súng lên. Bọn du kích đồng
thanh la lớn.
- Thôi! Anh Tư, đừng bắn nữa! Chết một người rồi kìa!
Cả
bọn quát xong, buông lơi tay chèo. Chiếc ghe chạy chậm dần rồi dừng lại
giữa khoảng trời nước mênh mông. Tư Beo gương mặt đỏ gay. Đôi mắt long
lên sòng sọc. Trông hắn như một con dã thú đang say mùi máu tanh. Quấc
đứng dậy giằng lấy cây súng của hắn, và rên rĩ.
- Chết người rồi, làm sao bây giờ đây?
Tư
Beo vẻ mặt lầm lì không nói một lời. Chiếc ghe trước mặt đã chạy xa tít
tắp. Hắn khoát tay ra hiệu cho quay mũi ghe vào bờ. Toán du kích mặt
mày phờ phạc, thất thần như một toán quân thua trận. Quần áo ướt sũng mồ
hôi và nước mặn. Tư Beo ngồi phệt xuống sàn ghe. Cái vẻ hùng hổ, cuồng
ngạo của hắn tan biến đâu mất. Hắn cúi gục mặt, đôi mắt nhắm nghiền,
vầng trán nhắn tít như đang toan tính điều gì lung lắm trong đầu.
Tư
Beo ngồi tựa lưng vào chiếc ghế sa lông song làm bằng thứ gỗ hương lên
nước vàng óng. Miệng hắn phì phà điếu thuốc lá. Hai bàn chân to bè như
chân vịt gác lên cái bàn dài trước mặt. Hắn lim dim mắt nhưng không phải
để mơ mộng mà để nghĩ ngợi, suy tính. Thỉnh thoảng từ cái miệng rộng có
cặp môi dày và hàm răng vàng khè nhả ra những vòng khói thuốc chữ O
tròn trĩnh từ từ bay lên cao, lan rộng và tan loãng vào không khí. Hôm
nay, hắn thức dậy sớm nhưng cáo bệnh không xuống Ủy ban xã, vì suốt đêm
qua, hắn trằn trọc, suy nghĩ cách viết báo cáo cho vụ bắn người bữa nọ,
không hề chợp mắt được. Chiều hôm qua, hắn nhận được thông báo rằng
người thanh niên trúng đạn đã chết trên đường đến bệnh viện. Gia đình
anh ta đã làm đơn khởi kiện nhóm du kích xóm 8 lên tòa án tỉnh. Vì thế
hôm nay hắn quyết định ở nhà một ngày để tìm cách giải quyết. Vợ hắn đã
đi chợ, hai đứa con đến trường từ sớm, chỉ còn mình hắn ngồi nhà. Bầu
không khí thật tĩnh lặng thuận tiện cho viết lách, nhưng cả tiếng đồng
hồ trôi qua mà hắn vẫn chưa viết được chữ nào. Bởi lẽ, hắn không muốn
báo cáo sự thật. Hắn không muốn bị mất chức, hoặc bị tù tội, thậm chí là
bản án tử hình.
Tư
Beo chồm người dậy, đưa tay với lấy cái bình trà kiểu xưa, vòi và quai
cầm đều bịt đồng sáng bóng. Hắn mỉm cười, thoáng vẻ đắc chí khi ngắm
nghía món đồ yêu thích đó. Hắn nhớ lại bộ tách này hắn đã lấy ở một gia
đình cuối xóm hồi tháng trước, khi hắn ghé chơi. Nhà đó có đứa con trai
vượt biên nên thấy hắn như mèo thấy chuột. Tìm cách lủi đi nhưng không
được nên họ đành phải tiếp. Lúc họ mời nước trông thấy cái bình trà hắn
đã muốn lấy ngay, nhưng giả vờ hỏi xin. Chủ nhà nhỏ nhẹ khước từ khéo.
Hắn giận quắc mắt, chủi thề, rồi đứng dậy ra về, tiện tay cầm cái bình
trà đi thẳng ra ngõ. Chủ nhà ngó theo tiếc của mà không dám đòi.
Tư
Beo rót một tách trà, rồi bưng lên uống ực một hơi cạn sạch, vẻ mặt đầy
khoan khoái. Chung trà làm cho đầu óc tỉnh táo hẳn lên. Hắn lại ngả
người trên sa lông, nhưng lần này đôi mắt có nhiều lòng trắng mở to
ngước nhìn trần nhà. Ngắm giàn xuyên trính vuông vức bằng gỗ dầu lai lên
nước bóng loáng hắn gục gặc cái đầu tỏ ý rất đỗi hài lòng. Nhưng ô kìa,
phía trên lớp mè, rui mạng nhện giăng mắc ngang dọc, mái ngói lâu ngày
đen xỉn trông chả đẹp chút nào.. Hắn nghĩ bụng có lẽ chủ nhà trước đây
đã mua trúng thứ ngói rẻ tiền, nên thế. Hắn chặc lưỡi tự nói thầm như để
nhắc nhở mình: “Xong cái vụ giết người rắc rối này ta sẽ móc hầu bao
vài kẻ chạy chọt nghĩa vụ quân sự cho con cháu để kiếm ít cây vàng thay
lớp ngói cho ngôi nhà mới được .” Tính hắn xưa nay vẫn vậy thích lấy của
người khác về làm của nhà mình. Với cái chức vụ xã đội trưởng trong
thời buổi ngoài biên ải có giặc dữ, trong nước dân chúng bỏ quê hương ra
đi, hắn mặc sức mà hoành hành ở cái làng biển hẻo lánh này.
Chả
thế mà cả căn nhà hắn đang ở, kể luôn nội thất cũng đều là tài sản của
người bỏ trốn ra nước ngoài, và hắn đã tịch thu. Nhà này nguyên ủy là
của một gia đình giàu có, chủ tàu hành nghề lưới cảng đường dài. Hồi đầu
năm 1979 cả xóm 8 bỗng nhiên náo động vì qua một đêm sáng dậy nghe
người ta đồn ầm lên, toàn bộ gia đình ông Phú đã đi vượt biển. Người dân
trong xóm lúc đó bàn tán ì xèo. Ai cũng khen họ khéo ngụy trang giấu
giếm kế hoạch, và tổ chức chu đáo nên không bị lộ. Họ có biết đâu chính
hắn đã ăn rơ với chủ tịch, công an trưởng và bí thư xã bán bãi cho ông
Phú để lấy hàng trăm cây vàng đút túi. Phần gã lại viện cớ chưa có chỗ ở
nên làm đơn xin luôn căn nhà và mảnh vườn. Vì lúc ấy hắn vẫn còn là một
cán bộ vô sản, sống nương nhờ vào gia đình mẹ đẻ,. Thế nên Ủy ban cấp
luôn cho hắn làm phần thưởng cho công tác tịch biên. Cũng nhờ khôn khéo
và biết nịnh nọt cấp trên nên hắn dễ dàng đạt được mọi mục đích.
Tư
Beo có ngày nay là cũng nhờ vào cuộc đổi đời tháng Tư năm 1975. Hắn vốn
là con của một gia đình có công với cách mạng. Cha hắn đảng viên kỳ cựu
từ hồi Khởi nghĩa. Năm hắn lên hai tuổi, ông tập kết ra Bắc. Trước khi
đi ông nhờ một đồng chí của mình còn ở lại trông nôm giùm vợ con. Họ
tưởng đâu hai năm sau sẽ đoàn tụ. Dè đâu ông đi biệt từ đó. Chuyện gì
phải xảy ra ắt xảy ra. Trai chưa vợ, gái đã có chồng, nhưng lửa gần rơm
lâu ngày cũng cháy bùng khó lòng dập tắt. Thế là bà mẹ Tư Beo cùng ông
đồng chí của cha hắn góp gạo thổi cơm chung với nhau và sinh ra mấy cô
cậu nữa. Để tránh bị chính quyền thời ông Ngô Đình Diệm nghi ngờ, theo
dõi gia đình có người tập kết ra Bắc, bà mẹ cho Tư Beo lấy theo họ của
cha dượng. Cuối năm 1967 chiến tranh ở vùng này vô cùng khốc liệt, gia
đình Tư Beo di tản vào Sa Huỳnh. Nhưng ông cha dượng vẫn tiếp tục hoạt
động cho cộng sản. Ông thường xuyên theo ghe lưới quay về cửa Mỹ Á để
tiếp tế lương thực, thuốc men cho quân du kích. Đầu năm 1972, ông bị lực
lượng cảnh sát tuần duyên bắt vì tội kinh tài và vận chuyển nhu yếu
phẩm cho Việt Cộng. Cha dượng Tư Beo bị kết án ba năm tù giam, đày đi
côn đảo. Tư Beo lo sợ bị liên lụy nên nhảy theo ghe lưới trốn về quê cũ
tham gia đội du kích xã. Lúc này hắn đổi lại họ cha đẻ, khai ông tập kết
vào lý lịch để được hưởng quyền lợi đãi ngộ của Việt cộng địa phương.
Xét thấy hắn cũng là một hạt giống đỏ của cách mạng xã nhà nên cấp ủy xã
Bằng An gửi hắn lên đào tạo ở miền rừng núi phía tây huyện Đức Phổ. Tại
đây hắn được biên chế vào đội canh phòng và bảo vệ mấy lán trại của cơ
quan huyện uỷ. Vì tướng tá cao to, và bàn tay có vết chàm đầu báo, tính
tình lại hung hãn, cộc cằn nên mấy đồng chí du kích đặt cho hắn cái tên
rất rừng rú là Tư Beo để phân biệt với một người khác cũng tên Tư.
Từ năm
1972 đến cuối năm 1974, Sư đoàn 2 Bộ binh của quân lực Việt Nam Cộng
hòa làm cỏ vùng duyên hải Mộ Đức, Đức Phổ. Các cơ sở thân Việt cộng đều
bị đánh bật gốc. Sau nhiều trận săn lùng và tiêu diệt, du kích xã Bằng
An chết sạch, không còn ai sống sót. Đầu năm 1975, Huyện đội điều Tư Beo
về gây dựng lại đội du kích xã Bằng An. Thế là đêm đêm hắn cho người
đột nhập vào nhà thường dân hăm dọa, bắt bớ thiếu niên mười ba mười bốn
tuổi thoát ly gia đình tham gia vào đội. Dù hắn hết sức cố gắn nhưng cả
mấy tháng cũng chỉ gom được vẻn vẹn chừng một tiểu đội mười hai người.
Số phận quả thật rất ưu ái với Tư Beo. Gần cuối tháng ba năm 1975 thì
tỉnh Quảng Ngãi hoàn toàn giải phóng. Nhiều gia đình chạy nạn chiến
tranh từ Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn lần lượt về quê. Chớp lấy cơ hội ấy
Ủy ban nhân dân xã tuyên truyền, kêu gọi thanh niên tích cực tham gia
du kích bảo vệ quê hương. Với nhiệt tình và hăng hái của tuổi trẻ rất
đông thanh niên nam nữ đã đăng ký vào đội du kích thôn, du kích xã.
Thanh thế và địa vị của Tư Beo nổi lên từ đó, mặc dù hắn chưa hề tham
gia trận đánh nào từ khi được cầm súng, hoặc có thành tích gì. Rồi kế
đến khi biên giới phía Bắc bị quân Tàu tràn ngập thì phong trào du kích,
địa phương tự vệ được hô hào, cổ động mạnh, Tư Beo càng thấy vai trò
mình quan trọng càng trở nên hống hách và ngang ngược với dân lành.
Giờ
đây Tư Beo đang ngồi tư lự, hắn lo sợ bị bay mất cái chức xã đội trưởng
muốn gió có gió, muốn mưa có mưa ở cái xã toàn những người ngư dân dễ
bảo này. Đêm qua, hắn cũng đã từng suy nghĩ muốn nhờ cha ruột can thiệp,
nhưng mà ông ở tít ngoài Bắc. Nước xa không cứu được lửa gần. Sau năm
1975, người cha đi biền biệt suốt 22 năm trời lù lù quay về. Tưởng đâu
lúc gặp nhau cha mẹ hắn rất khó xử, nhưng không, họ coi nhau như bạn.
Ông đã có gia đình ngoài Bắc, bà thì đã ôm cầm thuyền khác. Thế là huề
cả làng. Hiện tại ông đang làm phó bí thư huyện ủy một huyện miền núi
thuộc vùng Tây bắc rất xa xôi nên chẳng dễ gì liên lạc được.
Tư
Beo đốt thêm điếu thuốc lá nữa, đứng lên đóng cửa, và đi xuống sân, dắt
chiếc xe đạp ra ngõ. Vừa qua khỏi ngõ nhà thì gặp vợ đang khệ nệ bưng
một thúng đầy ăm ắp từ chợ về. Hắn nói với vợ: “Tui đi xuống nhà thằng
Quấc có công chuyện chút!” Nói xong, không chờ nghe vợ trả lời, hắn đạp
xe đi thẳng. Lúc qua ngã ba chỗ trường tiểu học đúng vào giờ ra chơi, Tư
Beo suýt tông vào một đám học sinh đang bắn bi ngoài đường. Hắn ngừng
xe trợn mắt quát:
- Bọn bây hết chỗ chơi rồi à? Muốn chết sao chơi bắn bi ngoài đường?
Có mấy đứa sợ hãi bỏ chạy tán loạn, duy nhất một cậu bé gầy nhom còn đứng lại cãi.
- Bọn cháu chỉ chơi ven lề đường thôi, chú đi xe ẩu còn đổ thừa.
Tư Beo đỏ mặt tía tai, nạt.
- Còn cãi! Đ.M. Tránh ra không tao đá cho một cái bây giờ.
Tư Beo bước xuống xe, bặm môi, trợn mắt. Thằng nhỏ thấy thế co giò, cắm cổ chạy biến vào trong trường.
Đến ngõ nhà Quấc, Tư Beo đứng ngoài hàng rào, gọi:
- Quấc! … Quấc!
Có tiếng đáp từ trong nhà vọng ra:
- Ai đó?
- Anh Tư đây! Ra ngoài này nói chuyện chút.
Quấc lững thững đi ra. Tư Beo dựng xe đạp vào hàng rào cây ngũ sắc nở đầy hoa.
-
Trên huyện gửi giấy về đòi chúng ta tuần tới phải ra hầu tòa. – Tư Beo
nói xong móc túi đưa tờ giấy cho Quấc. Anh thanh niên xem xong, mặt mày
tái mét, hỏi Tư Beo.
- Làm sao bây giờ anh Tư?
Chờ cho chàng trai thấm đòn cân não, Tư Beo thủng thẳng nói:
- Chỉ còn cách là em nhận tội đã ngộ sát thôi.
Quấc giẫy nẫy:
- Anh bắn mà! Đâu phải em!
Tư Beo ôn tồn:
-
Đ.M. Nhưng súng và đạn là của em! Tòa án họ căn cứ vào bằng chứng. Hơn
nữa một người bị tù còn hơn cả bọn, đúng không nào? Mấy đứa khác đã
thống nhất khai như vậy rồi! Chỉ còn có mỗi mình em khai khác đi, tòa
cũng không tin đâu.
- Em phải ở tù bao lâu? – Giọng Quấc đầy rầu rĩ, tuyệt vọng.
-
Bọn thanh niên Lý Sơn đã sai trước, vì chúng xâm phạm, đánh mìn phá
hoại vùng biển của ta. Mình vì bảo vệ tài sản cho nhân dân mà ngộ sát
nên tòa chỉ phạt nhẹ thôi, chừng vài năm tù là cùng. Em yên chí, ở nhà
gia đình cha mẹ em có anh lo cho tất cả. – Tư Beo Trấn an Quấc. Rồi hắn
nói thêm. – Nhưng em phải nhận trách nhiệm là chỉ mình em nổ súng, cho
khớp với lời khai của mọi người. Rõ chưa?
Anh thanh niên khờ khạo, thiểu não gật gật đầu.
oOo
Phiên
tòa xét xử vụ nổ súng trên vùng biển xóm 8 kết thúc chóng vánh. Thẩm
phán tuyên án du kích Võ Quấc tội ngộ sát khi đương làm nhiệm vụ mười
năm tù giam. Những người khác trong toán cùng đi hôm ấy vô tội. Nghe
xong lời tuyên bố của tòa Tư Beo nở một nụ cười vừa sung sướng vừa thâm
hiểm trên đôi môi chì dày cộm như hai thỏi thịt trâu.
HẾT
10/4/2024
Trần Đức Phổ ( HNPD )