Cà Kê Dê Ngỗng
Tàu cộng công khai tuyên bố tiêu diệt quân và dân ta. - GS David Tran
GS David Tran
Sau khi tòa trọng tài thường trực Quốc Tế (PCA) La Hay ngày 12.7.2016 ra phán quyết về đường lưỡi bò chín khúc ở Biển Đông do Trung Quốc tự vẽ và áp đặt sau hơn 3 năm thụ lý đơn khởi kiện của Philippines. Qua đó tòa đã khẳng định “Trung Quốc không có căn cứ pháp lý để đòi chủ quyền lịch sử với các đảo trên Biển Đông”. Như một ngọn giáo đâm sâu vào tử huyệt gót chân Ashin. Con thuồng luồng Biển Đông vẫy vùng dậy sóng…cơn co giật trước khi đi về với cõi vĩnh hằng và thân xác sẽ bị chia năm xẻ bảy là điều không tránh khỏi.
Ngày 20.7.2016 trên Tân Hoa Xã, kênh truyền thông chính thức của đảng csTQ thiếu tướng Bành quang Khiêm PCT Ủy ban chính sách an ninh Trung Quốc ngạo mạn tuyên bố: Bắn tất cả tàu cá Việt Nam ra Hoàng Sa và Trường sa đánh bắt và sẽ biến tất cả các tàu trên thành bia tập trận cho dù cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, tàu chiến của Việt Nam ra hổ trợ cho ngư dân thì tất cả (tàu chiến lẫn quân đội) cũng sẽ trở thành “BIA SỐNG” và không còn một ai trở về. Đồng thời hắn còn công khai tuyên bố việc 2 máy bay Su-22 và Casa-212 của VN rơi (tan xác) là một lời cảnh báo nếu ai dám điều động quân đội tiến gần các đảo (chỉ gần thôi chứ chưa nói là đổ bộ).
Đến giờ phút này theo tôi nghĩ và tất cả những người dân VN không theo cộng sản làm tay sai cho giặc rằng “đã đến lúc đảng csVN phải khai tử 16 chữ vàng và 4 tốt” điếm lừa của quan thầy csTQ đã đặt lên đầu đảng csVN vào những ngày đầu tháng 9.1990. Đồng thời phải xác định rằng cái gọi là mật ước Thành Đô và những thứ gọi là VÀNG và TỐT ấy chỉ là một sự kiện lén lút, mờ ám, điếm lừa vội vã trong đêm của hai tập đoàn kẻ trộm người cướp mà thôi chứ không thể đem cái mật ước “mèo mả gà đồng” ấy phủ lên đầu toàn thể nhân dân VN.
Đảng csVN chỉ có thể bán hay dâng hiến những gì mà chúng có (chỉ mỗi đôi dép râu, nón cối nội địa) mà thôi. Còn non sông đất nước này là của toàn dân tộc VN do tiền nhân dòng dõi Lạc Hồng dày công tạo dựng và lưu truyền. CsVN không thể bán, hiến dâng cho giặc những gì không phải của mình ngoài hành động “trộm đạo” của người khác mà thôi, như năm 1958 Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng cùng bè lũ đã ngang nhiên đem hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của VNCH mà dâng cho Tàu cộng trong lúc nó không thuộc về của mình. Đây là hành động giống như tên điếm lừa người khác bán bầy vịt trời…vậy
Kể từ khi những luận điệu giả dối nào tình hữu nghị môi răng khắn kít, môi hở răng lạnh đến khi răng cắn sứt môi và mất đi từng mảng thịt lớn… nhất là từ tháng 2/1979 và những tháng năm kế tiếp trải dài đến năm 1989. Chẳng những mất đi da thịt mà máu còn loang lỗ nhuộm cả núi đồi, biển đảo…xương trắng phơi đầy Vị Xuyên, Lão sơn cao điểm 1509, chìm đáy Gạc Ma. Mỉa mai thay những cú tát trời giáng đó lại là từ tay quan thầy giáng thẳng vào mặt kẻ bầy tôi rằng “dạy cho Việt Nam một bài học”???
Kính thưa quí độc giả! Để cho mọi người dân VN yêu nước tỏ rõ hơn trong một giai đoạn lịch sử có liên quan đến hai nước Việt Nam-Trung Hoa (cũ) và để củng cố niềm tin mà có quyết tâm hơn nhằm loại bỏ tất cả những hậu quả, những sự việc mà tập đoàn csVN vẽ ra, dựng nên và ký kết với ngoại bang trong hành trình làm tay sai mãi quốc cầu vinh của chúng, để cho ngày hôm nay đảng csTQ dựa vào đó mà ngạo mạn ngông cuồng như lời của tên tướng Bành quang Khiêm tuyên bố thông qua Tân Hoa Xã mà tôi đã nêu trên. Tôi xin mạn phép ngược thời gian đôi chút.
Quan hệ Viêt Nam-Trung Hoa:
Là một mối quan hệ luôn là thời sự nóng và nóng mãi… cho dù hàng ngàn năm trước nó cũng trải qua bao phen máu lửa, bão tố, phong ba rồi yên ả nhưng có lẽ những cơn sóng bạc đầu đó biến dạng thành những đợt sóng ngầm và âm ỉ không bao giờ tắt lịm để chuẩn bị cho thời kỳ sau bộc phát gầm lên. Xét về mặt địa chính trị thì hai nước có một sự liên quan, kết dính tự ngàn xưa bởi núi sông biển đảo liền kề… từ đó những móc xích về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa luôn ảnh hưởng cho nhau và nỗ lực tách rời, độc lập cho dù là từ phía nào cũng khó mà thực hiện. Nhưng qui luật muôn đời là “Nước chảy về vùng trũng”, do đó nền văn minh, văn hóa Bắc phương hàng ngàn năm qua luôn chảy về phương Nam một cách tự nhiên và ào ạt mang theo bao hệ lụy… trong đó rực rỡ cũng nhiều và đen tối, độc hại chất chứa sự xâm thực đầy ác ý mưu mô đồng hóa thì luôn đầy dẫy và chực chờ thấm vào da thịt người dân đất phương Nam.
Nơi đây tôi chỉ trích một vài điều có liên quan để làm sáng rõ cho luận điểm mà mục đích của bài viết có liên quan đến sự kiện Thành Đô. Còn đi sâu vào sự xâm thực của văn hóa phương Bắc đối với đất phương Nam tôi sẽ giới thiệu từng phần trong tác phẩm nghiên cứu văn học sử “Nguồn gốc và sự phát triển của nền văn minh, văn hóa Phù Nam” hầu phục vụ bạn đọc sau.
Như tôi đã nói sự liên quan về mặt địa chính trị và lôi theo phương diện văn hóa, quân sự, kinh tế… của hai nước như vậy nó đã tồn tại từ trước thế kỷ thứ 2 trước cn và từ đó cho đến nay trải qua bao thời kỳ và mỗi thời đại nó có một sắc thái đặc thù khác biệt tùy theo hoàn cảnh lịch sử của mỗi giai đoạn. Nhưng tựu chung hình thức và hoàn cảnh nào thì bọn Bắc phương cũng đứng đầu gió và dân tộc đất phương Nam luôn trong tình trạng chống đỡ, né tránh thậm chí phải chịu tang tóc, đau thương bởi những cơn thịnh nộ của cuồng phong, những mùa gió chướng, gió mùa Đông Bắc tràn về. Hành trình của mối quan hệ VN-TH từ trước thế kỷ thứ 2 trước cn đến nay trải qua 4 giai đoạn (nơi đây tôi chỉ kê lên mà không dẫn giải, chi tiết sẽ có trong tác phẩm đã nêu trên). Và vì khuôn khổ của một bài viết.
1- Thời Bắc thuộc: khoảng 1000 năm từ Âu Lạc-An Dương Vương (179 trước cn) đến khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán và sau đó lên ngôi vương năm 939 sau cn.
2- Thời Đại Việt: Cũng khoảng 1000 năm tương đương với thời Bắc thuộc. Từ khi Ngô Quyền xưng Vương đến khi đế quốc Pháp bắt đầu đặt nền đô hộ năm 1883.
3- Thời Pháp thuộc: Từ năm 1883 đến 1945 hơn 60 năm đến khi VN giành độc lập.
4- Thời hiện đại: Từ năm 1945 đến nay.
Nơi đây tôi nói một vài đặc điểm ở thời kỳ thứ 4 để có cái nhìn xuyên suốt nhằm giúp nhân dân củng cố niềm tin và vững bước trên con đường phục hưng đất nước..
Ta biết rằng khi HCM du nhập CNXH về VN là nguồn gốc từ Liên Xô, từ lúc HCM bị Pháp từ chối đơn xin nhập học trường Thuộc Địa (École Coloniale) để rồi lưu lạc qua Mạc tư Khoa và được Lenin thu nhận, đào tạo để rồi sau đó mang chủ nghĩa Mác-Lê về gieo rắc với ý đồ nhuộm đỏ vùng ĐNÁ, trước mắt là Đông Dương. Do đó suốt chuỗi hành trình, đảng CSVN luôn dựa vào LX và xem Kremlin là tường thành vững chắc cho chủ nghĩa cs. Chế độ và CSVN đã từng ký hiệp định quân sự toàn diện với LX. Mặt khác trên đầu HCM và tập đoàn CSVN lại có một bóng mây đen đầy lông lá (Mao) lởn vởn che mờ và gây ra nhiều phiền nhiểu, sự cố…
Bằng những toan tính thủ đoạn, HCM và đảng CSVN không chịu cảnh bơi chèo giữa hai dòng nước và từ đó đưa cả hai tay vuốt ve, nâng khăn sửa túi cho cả hai khách đa tình mà cũng lắm nỗi bạc bẽo, mưu mô lợi dụng kẻ bề tôi trong những phương diện riêng của mỗi kẻ.
Trong giai đoạn này HCM, CSVN nhận ơn mưa móc từ cả hai. Trái ngang thay, thập niên 60 thế kỷ trước hai kẻ phong tình LX-TQ lâm vào cảnh cơm không lành, canh không ngọt đưa đến rạn nứt và bất đồng quan điểm lên đến cực đại. Lúc bấy giờ sự dựa dẫm vào LX mà một mặt hai lòng với TQ của CSVN đã lộ rõ. Do đó Đặng Tiểu Bình quyết ra tay “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Thế là chiến tranh biên giới Việt-Trung nổ ra thảm khốc ở Vị Xuyên, Lão sơn…đã nêu trên, đồng thời Đặng xúi dục, chống lưng cho Khmer đỏ tiến hành chiến tranh biên giới Tây Nam với VN rồi Gạc Ma – Trường Sa chiến sĩ VN phải bỏ mình trong lòng biển, đem máu nhuộm sơn hà bảo vệ biển đảo non sông.
Lúc này CSVN gọi Tàu cộng là “phản động” là “bành trướng,bá quyền”…v.v…thù địch, chửi bới nhau kéo dài hơn mười năm.
Qua hơn mười năm bão tố ngút ngàn, đường biên và các cột mốc biên giới Việt-Trung từ xưa đâu còn nữa và đã bị dời sâu vào lòng của Mẹ Âu cơ, hàng ngàn km2 đất dọc biên giới phía Bắc đã trở thành “nước lạ” bởi:
“Bên kia biên giới là nhà.
Bên này biên giới cũng là quê hương…” (Tố Hữu)
Cho nên ải Nam Quan, thác Bản Giốc, núi Lão Sơn… đối với dân VN còn chỉ là hoài niệm. Rồi cũng trong thời điểm này thật mỉa mai thay cho kiếp hoa chùm gởi, cho phận Cát Đằng, Phong Lan bám vào cổ thụ, cành cao mà ký sinh… CS Đông Âu sụp đổ, lâu đài điện Cẩm Linh đang chao đảo chuẩn bị đổ nhào. Đảng CSVN như kẻ lạc loài trong đêm trường mưa bão, trong tay không một chiếc la bàn, phương hướng và tầm nhìn hoàn toàn bị mất. Cơn đói khát thiếu nơi nương tựa, cảnh “Gió cát mưa sa trên màu cờ đỏ”(Trần Dần) đã hiển hiện từ xa… Đảng CSVN như “kẻ khát nước qua sa mạc…”(Nguyễn Khoa Điềm), lúc bấy giờ tập đoàn csVN khao khát được quay về với kẻ thù hàng ngàn năm để tìm một chút hương thừa. Ngay lúc này ở trên đỉnh Hoa Sơn, chưởng môn Nhạc Bất Quần liếc nhìn về cõi trời Nam bằng nửa con mắt mà rằng: “Sóc chết ba năm cũng quay đầu về núi!!!”, thế là kịch bản “Thành Đô” được viết ra và dàn dựng bởi quân sư Đặng Tiểu Bình – một chính khách được thế giới xem là nhân vật của thập kỷ 80 tk 20.
Thưa các bạn, tuy có lan man đôi chút nhưng không biết phải sao vì muốn cho mọi người được tỏ tường nên đành phải mắc phải lỗi này khiến cho các bạn tốn không ít thời gian và mỏi mắt. Xin mời các bạn đọc tiếp.
Từ khi VN-TQ “anh đi đường anh tôi đi đường tôi”(Thế Lữ)… Buổi chia phôi còn đó, bây giờ cảnh “Giải cấu tương phùng”(Từ của Nguyễn Du) là niềm ước ao của tập đoàn CSVN. Do đó “Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc” là nỗi lo hàng đầu, mất ăn mất ngủ của CSVN.
CSTQ thả con mồi. VN khấp khởi với dịp may hiếm có, nhưng phập phồng lo sợ vì biết rằng TQ là con hổ luôn khát máu, đói mồi.
“Ngày 29.8.1990 đại sứ TQ tại HN Trương Đức Duy xin gặp TBT Nguyễn Văn Linh và chủ tịch hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và chủ tịch Quốc vụ viện Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, CTHĐBT Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 3.9.1990 để hội đàm bí mật về Campuchia và vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước.”(Hồi ký Trần quang Cơ).
Như kẻ chết trôi vớ được chiếc bè và một sự chuyển biến quá bất ngờ vì trước kia Trung Nam Hải khẳng định rằng chỉ khi nào vấn đề CPC được giải quyết rốt ráo rồi mới tính đến chuyện bình thường hóa quan hệ hai nước. Mới ngày 24.8.90 Bắc Kinh còn bác bỏ việc gặp cấp cao của hai đảng, hai nước như vậy đối với một kẻ đần độn cũng đủ hiểu rằng đây là một âm mưu nham hiểm và đầy cạm bẫy đen tối của CS Bắc Kinh.
Kịch bản đã viết sẵn, lệnh thiên triều cho gọi bầy tôi được ban ra. Cộng sản VN chỉ việc chấp hành, tất cả diễn biến của sự kiện Thành Đô đều diễn ra hoàn toàn trong vòng bí mật từ địa điểm đến ngày giờ và nội dung. Một sự kiện có quan hệ đến sự sống còn của đất nước mà chỉ trong một số tên đầu sỏ biết và tự giải quyết với tư thế của một bầy tôi? Đúng là tội đồ thiên cổ của dân tộc, nhân dân VN phải gánh lấy hậu quả đến đời con cháu cũng chưa phai.
Ta hãy nghe người trong cuộc tự thú:
Ông Phạm Văn Đồng nói: “…Trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thỏa thuận, các đ/c lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại khi họ mời TBT, CTHĐBT sang gặp TBT, CTQVV lại mời thêm tôi, tôi khá bất ngờ không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước được hậu quả…” (Hồi ký TQC) đúng là cơ hội bán nước và việc ký tá của một kẻ đui mù, thiểu năng trí tuệ.
Võ Văn Kiệt xót xa: “Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô (P.V.Đ) trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng (Đ.t.Bình) thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết rằng anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghỉ Trung Quốc luôn là cạm bẫy!”(Hồi ký Trần Quang Cơ) cũng chính từ những tư duy này mà Võ Văn Kiệt phải nhận cái chết đầy bí ẩn?
Còn việc triệu Phạm Văn Đồng qua Thành Đô theo tôi cũng chỉ là để làm nhân chứng sống với cái xác không hồn chờ ngày hạ huyệt theo Mác theo Mao và làm tác nhân để CSVN thực hiện tiếp những gì mà PVĐ cùng HCM ký kết trước đây với Tàu cộng trong đó có công hàm 1958 đầy ô nhục và bẩn thỉu gây ra bao cảnh tang thương cho dân tộc, ngư dân phải bỏ mình trong lòng biển và biết bao nhà yêu nước, tuổi trẻ phải chịu gông cùm, đánh đập dã man truy bức từ trong tù cho đến ngoài xã hội, một nhà tù lớn CHXHCNVN.
Phạm Văn Đồng tiếp: “Mình bị hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái đó…nhưng tôi không nghĩ vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.”( H.KýT.Q.C)
Trần Quang Cơ nói: “Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với TQ. Đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc. Tưởng rằng thỏa thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại…”(H.ký TQC)
Nói chung từ trước đến nay trong lịch sử ngoại giao của CSVN thì sự kiện Thành Đô là một thất bại nhục nhã, ê chề làm tiêu tan con đường tiến lên của đất nước. Nơi đây ta thấy rõ TQ là một mối lo, là một sự đe dọa cực kỳ nguy hiểm làm tổn hại đến sự độc lập và toàn vẹn lảnh thổ của đất nước Việt Nam.
Trên đây là sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô hay còn gọi là “Mật chỉ Thành Đô” mà tập đoàn CSVN cúi đầu tuân mệnh một cách mờ ám mà hơn hai mươi mấy năm qua nhân dân VN phải gánh chịu vì mạng sống luôn bị đe dọa dưới tầm búa, lưỡi liềm. Các cảnh nhân dân VN yêu nước bị đàn áp, đánh đập dã man, tù đày vô pháp luật đối với các ngòi bút, dân oan, tuổi trẻ cùng các nhà đấu tranh cho dân chủ, hòa bình và toàn vẹn lãnh thổ… Đó là những dòng, trang trong chiếu chỉ Thành Đô tháng 9.1990. Sau khi kết thúc hội nghị bí mật một cách mờ ám và đầy ô nhục trên, lãnh đạo csVN phải đắng cay cúi đầu cam chịu. Để xoa dịu bầy tôi, cuối cùng Giang cũng đã an ủi và tặng câu thơ của Lỗ Tấn mà rằng:
度尽劫波兄弟在,相逢一笑泯恩仇
Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu.
Dịch nghĩa: Sau kiếp nạn anh em còn đó, Trông nhau cười, thù oán sạch không!
Kiếp ba: (Thuật ngữ Phật giáo), phiên âm Phạn ngữ Kapla có nghĩa là một thời kỳ rất dài (x. Từ điển Phật học Hán Việt.)
Nghe đến đây các vị trong đoàn CSVN nở nụ cười tươi của thằng Bờm khi nhận được gói xôi từ tay Phú Ông.
Kính thưa quí vị! sau khi tôi đưa quí vị đi ngược thời gian đôi chút để có cái nhìn chính xác về thực trạng đất nước trong thời gian bị csvn thống trị cùng những cái dã tâm lẫn kém tầm lùn trí của chúng đã gây ra bao hệ lụy đến sự sống còn của dân tộc, non sông.
Đảng csVN như một con lừa luôn ngoan ngoản đi theo sau sợi dây xỏ mũi được nối liền với Trung Nam Hải, còn đối với nhân dân VN thì chúng luôn độc tài khát máu thi hành theo mệnh lênh của cs Bắc Kinh. Vì thế trong thời gian gần ¾ thế kỷ qua nhân dân, chiến sĩ VN biết bao người phải nằm xuống qua các sự kiện CCRĐ, chiến tranh biên giới Việt-Trung, Hoàng Sa, Trường Sa…và đến ngày nay là dậy sóng Biển Đông.
Vậy thì nhân dân VN còn chần chừ gì nữa mà không hành động một khi Tàu cộng chứ không phải “kẻ lạ” đã công khai tuyên bố giết sạch ngư dân, binh lính ngay trên lãnh thổ, lãnh hải của chính quê hương mình?
GS David Tran
Nguyễn Hải chuyển
Bàn ra tán vào (1)
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
Tàu cộng công khai tuyên bố tiêu diệt quân và dân ta. - GS David Tran
GS David Tran
Sau khi tòa trọng tài thường trực Quốc Tế (PCA) La Hay ngày 12.7.2016 ra phán quyết về đường lưỡi bò chín khúc ở Biển Đông do Trung Quốc tự vẽ và áp đặt sau hơn 3 năm thụ lý đơn khởi kiện của Philippines. Qua đó tòa đã khẳng định “Trung Quốc không có căn cứ pháp lý để đòi chủ quyền lịch sử với các đảo trên Biển Đông”. Như một ngọn giáo đâm sâu vào tử huyệt gót chân Ashin. Con thuồng luồng Biển Đông vẫy vùng dậy sóng…cơn co giật trước khi đi về với cõi vĩnh hằng và thân xác sẽ bị chia năm xẻ bảy là điều không tránh khỏi.
Ngày 20.7.2016 trên Tân Hoa Xã, kênh truyền thông chính thức của đảng csTQ thiếu tướng Bành quang Khiêm PCT Ủy ban chính sách an ninh Trung Quốc ngạo mạn tuyên bố: Bắn tất cả tàu cá Việt Nam ra Hoàng Sa và Trường sa đánh bắt và sẽ biến tất cả các tàu trên thành bia tập trận cho dù cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, tàu chiến của Việt Nam ra hổ trợ cho ngư dân thì tất cả (tàu chiến lẫn quân đội) cũng sẽ trở thành “BIA SỐNG” và không còn một ai trở về. Đồng thời hắn còn công khai tuyên bố việc 2 máy bay Su-22 và Casa-212 của VN rơi (tan xác) là một lời cảnh báo nếu ai dám điều động quân đội tiến gần các đảo (chỉ gần thôi chứ chưa nói là đổ bộ).
Đến giờ phút này theo tôi nghĩ và tất cả những người dân VN không theo cộng sản làm tay sai cho giặc rằng “đã đến lúc đảng csVN phải khai tử 16 chữ vàng và 4 tốt” điếm lừa của quan thầy csTQ đã đặt lên đầu đảng csVN vào những ngày đầu tháng 9.1990. Đồng thời phải xác định rằng cái gọi là mật ước Thành Đô và những thứ gọi là VÀNG và TỐT ấy chỉ là một sự kiện lén lút, mờ ám, điếm lừa vội vã trong đêm của hai tập đoàn kẻ trộm người cướp mà thôi chứ không thể đem cái mật ước “mèo mả gà đồng” ấy phủ lên đầu toàn thể nhân dân VN.
Đảng csVN chỉ có thể bán hay dâng hiến những gì mà chúng có (chỉ mỗi đôi dép râu, nón cối nội địa) mà thôi. Còn non sông đất nước này là của toàn dân tộc VN do tiền nhân dòng dõi Lạc Hồng dày công tạo dựng và lưu truyền. CsVN không thể bán, hiến dâng cho giặc những gì không phải của mình ngoài hành động “trộm đạo” của người khác mà thôi, như năm 1958 Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng cùng bè lũ đã ngang nhiên đem hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của VNCH mà dâng cho Tàu cộng trong lúc nó không thuộc về của mình. Đây là hành động giống như tên điếm lừa người khác bán bầy vịt trời…vậy
Kể từ khi những luận điệu giả dối nào tình hữu nghị môi răng khắn kít, môi hở răng lạnh đến khi răng cắn sứt môi và mất đi từng mảng thịt lớn… nhất là từ tháng 2/1979 và những tháng năm kế tiếp trải dài đến năm 1989. Chẳng những mất đi da thịt mà máu còn loang lỗ nhuộm cả núi đồi, biển đảo…xương trắng phơi đầy Vị Xuyên, Lão sơn cao điểm 1509, chìm đáy Gạc Ma. Mỉa mai thay những cú tát trời giáng đó lại là từ tay quan thầy giáng thẳng vào mặt kẻ bầy tôi rằng “dạy cho Việt Nam một bài học”???
Kính thưa quí độc giả! Để cho mọi người dân VN yêu nước tỏ rõ hơn trong một giai đoạn lịch sử có liên quan đến hai nước Việt Nam-Trung Hoa (cũ) và để củng cố niềm tin mà có quyết tâm hơn nhằm loại bỏ tất cả những hậu quả, những sự việc mà tập đoàn csVN vẽ ra, dựng nên và ký kết với ngoại bang trong hành trình làm tay sai mãi quốc cầu vinh của chúng, để cho ngày hôm nay đảng csTQ dựa vào đó mà ngạo mạn ngông cuồng như lời của tên tướng Bành quang Khiêm tuyên bố thông qua Tân Hoa Xã mà tôi đã nêu trên. Tôi xin mạn phép ngược thời gian đôi chút.
Quan hệ Viêt Nam-Trung Hoa:
Là một mối quan hệ luôn là thời sự nóng và nóng mãi… cho dù hàng ngàn năm trước nó cũng trải qua bao phen máu lửa, bão tố, phong ba rồi yên ả nhưng có lẽ những cơn sóng bạc đầu đó biến dạng thành những đợt sóng ngầm và âm ỉ không bao giờ tắt lịm để chuẩn bị cho thời kỳ sau bộc phát gầm lên. Xét về mặt địa chính trị thì hai nước có một sự liên quan, kết dính tự ngàn xưa bởi núi sông biển đảo liền kề… từ đó những móc xích về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa luôn ảnh hưởng cho nhau và nỗ lực tách rời, độc lập cho dù là từ phía nào cũng khó mà thực hiện. Nhưng qui luật muôn đời là “Nước chảy về vùng trũng”, do đó nền văn minh, văn hóa Bắc phương hàng ngàn năm qua luôn chảy về phương Nam một cách tự nhiên và ào ạt mang theo bao hệ lụy… trong đó rực rỡ cũng nhiều và đen tối, độc hại chất chứa sự xâm thực đầy ác ý mưu mô đồng hóa thì luôn đầy dẫy và chực chờ thấm vào da thịt người dân đất phương Nam.
Nơi đây tôi chỉ trích một vài điều có liên quan để làm sáng rõ cho luận điểm mà mục đích của bài viết có liên quan đến sự kiện Thành Đô. Còn đi sâu vào sự xâm thực của văn hóa phương Bắc đối với đất phương Nam tôi sẽ giới thiệu từng phần trong tác phẩm nghiên cứu văn học sử “Nguồn gốc và sự phát triển của nền văn minh, văn hóa Phù Nam” hầu phục vụ bạn đọc sau.
Như tôi đã nói sự liên quan về mặt địa chính trị và lôi theo phương diện văn hóa, quân sự, kinh tế… của hai nước như vậy nó đã tồn tại từ trước thế kỷ thứ 2 trước cn và từ đó cho đến nay trải qua bao thời kỳ và mỗi thời đại nó có một sắc thái đặc thù khác biệt tùy theo hoàn cảnh lịch sử của mỗi giai đoạn. Nhưng tựu chung hình thức và hoàn cảnh nào thì bọn Bắc phương cũng đứng đầu gió và dân tộc đất phương Nam luôn trong tình trạng chống đỡ, né tránh thậm chí phải chịu tang tóc, đau thương bởi những cơn thịnh nộ của cuồng phong, những mùa gió chướng, gió mùa Đông Bắc tràn về. Hành trình của mối quan hệ VN-TH từ trước thế kỷ thứ 2 trước cn đến nay trải qua 4 giai đoạn (nơi đây tôi chỉ kê lên mà không dẫn giải, chi tiết sẽ có trong tác phẩm đã nêu trên). Và vì khuôn khổ của một bài viết.
1- Thời Bắc thuộc: khoảng 1000 năm từ Âu Lạc-An Dương Vương (179 trước cn) đến khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán và sau đó lên ngôi vương năm 939 sau cn.
2- Thời Đại Việt: Cũng khoảng 1000 năm tương đương với thời Bắc thuộc. Từ khi Ngô Quyền xưng Vương đến khi đế quốc Pháp bắt đầu đặt nền đô hộ năm 1883.
3- Thời Pháp thuộc: Từ năm 1883 đến 1945 hơn 60 năm đến khi VN giành độc lập.
4- Thời hiện đại: Từ năm 1945 đến nay.
Nơi đây tôi nói một vài đặc điểm ở thời kỳ thứ 4 để có cái nhìn xuyên suốt nhằm giúp nhân dân củng cố niềm tin và vững bước trên con đường phục hưng đất nước..
Ta biết rằng khi HCM du nhập CNXH về VN là nguồn gốc từ Liên Xô, từ lúc HCM bị Pháp từ chối đơn xin nhập học trường Thuộc Địa (École Coloniale) để rồi lưu lạc qua Mạc tư Khoa và được Lenin thu nhận, đào tạo để rồi sau đó mang chủ nghĩa Mác-Lê về gieo rắc với ý đồ nhuộm đỏ vùng ĐNÁ, trước mắt là Đông Dương. Do đó suốt chuỗi hành trình, đảng CSVN luôn dựa vào LX và xem Kremlin là tường thành vững chắc cho chủ nghĩa cs. Chế độ và CSVN đã từng ký hiệp định quân sự toàn diện với LX. Mặt khác trên đầu HCM và tập đoàn CSVN lại có một bóng mây đen đầy lông lá (Mao) lởn vởn che mờ và gây ra nhiều phiền nhiểu, sự cố…
Bằng những toan tính thủ đoạn, HCM và đảng CSVN không chịu cảnh bơi chèo giữa hai dòng nước và từ đó đưa cả hai tay vuốt ve, nâng khăn sửa túi cho cả hai khách đa tình mà cũng lắm nỗi bạc bẽo, mưu mô lợi dụng kẻ bề tôi trong những phương diện riêng của mỗi kẻ.
Trong giai đoạn này HCM, CSVN nhận ơn mưa móc từ cả hai. Trái ngang thay, thập niên 60 thế kỷ trước hai kẻ phong tình LX-TQ lâm vào cảnh cơm không lành, canh không ngọt đưa đến rạn nứt và bất đồng quan điểm lên đến cực đại. Lúc bấy giờ sự dựa dẫm vào LX mà một mặt hai lòng với TQ của CSVN đã lộ rõ. Do đó Đặng Tiểu Bình quyết ra tay “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Thế là chiến tranh biên giới Việt-Trung nổ ra thảm khốc ở Vị Xuyên, Lão sơn…đã nêu trên, đồng thời Đặng xúi dục, chống lưng cho Khmer đỏ tiến hành chiến tranh biên giới Tây Nam với VN rồi Gạc Ma – Trường Sa chiến sĩ VN phải bỏ mình trong lòng biển, đem máu nhuộm sơn hà bảo vệ biển đảo non sông.
Lúc này CSVN gọi Tàu cộng là “phản động” là “bành trướng,bá quyền”…v.v…thù địch, chửi bới nhau kéo dài hơn mười năm.
Qua hơn mười năm bão tố ngút ngàn, đường biên và các cột mốc biên giới Việt-Trung từ xưa đâu còn nữa và đã bị dời sâu vào lòng của Mẹ Âu cơ, hàng ngàn km2 đất dọc biên giới phía Bắc đã trở thành “nước lạ” bởi:
“Bên kia biên giới là nhà.
Bên này biên giới cũng là quê hương…” (Tố Hữu)
Cho nên ải Nam Quan, thác Bản Giốc, núi Lão Sơn… đối với dân VN còn chỉ là hoài niệm. Rồi cũng trong thời điểm này thật mỉa mai thay cho kiếp hoa chùm gởi, cho phận Cát Đằng, Phong Lan bám vào cổ thụ, cành cao mà ký sinh… CS Đông Âu sụp đổ, lâu đài điện Cẩm Linh đang chao đảo chuẩn bị đổ nhào. Đảng CSVN như kẻ lạc loài trong đêm trường mưa bão, trong tay không một chiếc la bàn, phương hướng và tầm nhìn hoàn toàn bị mất. Cơn đói khát thiếu nơi nương tựa, cảnh “Gió cát mưa sa trên màu cờ đỏ”(Trần Dần) đã hiển hiện từ xa… Đảng CSVN như “kẻ khát nước qua sa mạc…”(Nguyễn Khoa Điềm), lúc bấy giờ tập đoàn csVN khao khát được quay về với kẻ thù hàng ngàn năm để tìm một chút hương thừa. Ngay lúc này ở trên đỉnh Hoa Sơn, chưởng môn Nhạc Bất Quần liếc nhìn về cõi trời Nam bằng nửa con mắt mà rằng: “Sóc chết ba năm cũng quay đầu về núi!!!”, thế là kịch bản “Thành Đô” được viết ra và dàn dựng bởi quân sư Đặng Tiểu Bình – một chính khách được thế giới xem là nhân vật của thập kỷ 80 tk 20.
Thưa các bạn, tuy có lan man đôi chút nhưng không biết phải sao vì muốn cho mọi người được tỏ tường nên đành phải mắc phải lỗi này khiến cho các bạn tốn không ít thời gian và mỏi mắt. Xin mời các bạn đọc tiếp.
Từ khi VN-TQ “anh đi đường anh tôi đi đường tôi”(Thế Lữ)… Buổi chia phôi còn đó, bây giờ cảnh “Giải cấu tương phùng”(Từ của Nguyễn Du) là niềm ước ao của tập đoàn CSVN. Do đó “Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc” là nỗi lo hàng đầu, mất ăn mất ngủ của CSVN.
CSTQ thả con mồi. VN khấp khởi với dịp may hiếm có, nhưng phập phồng lo sợ vì biết rằng TQ là con hổ luôn khát máu, đói mồi.
“Ngày 29.8.1990 đại sứ TQ tại HN Trương Đức Duy xin gặp TBT Nguyễn Văn Linh và chủ tịch hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và chủ tịch Quốc vụ viện Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, CTHĐBT Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 3.9.1990 để hội đàm bí mật về Campuchia và vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước.”(Hồi ký Trần quang Cơ).
Như kẻ chết trôi vớ được chiếc bè và một sự chuyển biến quá bất ngờ vì trước kia Trung Nam Hải khẳng định rằng chỉ khi nào vấn đề CPC được giải quyết rốt ráo rồi mới tính đến chuyện bình thường hóa quan hệ hai nước. Mới ngày 24.8.90 Bắc Kinh còn bác bỏ việc gặp cấp cao của hai đảng, hai nước như vậy đối với một kẻ đần độn cũng đủ hiểu rằng đây là một âm mưu nham hiểm và đầy cạm bẫy đen tối của CS Bắc Kinh.
Kịch bản đã viết sẵn, lệnh thiên triều cho gọi bầy tôi được ban ra. Cộng sản VN chỉ việc chấp hành, tất cả diễn biến của sự kiện Thành Đô đều diễn ra hoàn toàn trong vòng bí mật từ địa điểm đến ngày giờ và nội dung. Một sự kiện có quan hệ đến sự sống còn của đất nước mà chỉ trong một số tên đầu sỏ biết và tự giải quyết với tư thế của một bầy tôi? Đúng là tội đồ thiên cổ của dân tộc, nhân dân VN phải gánh lấy hậu quả đến đời con cháu cũng chưa phai.
Ta hãy nghe người trong cuộc tự thú:
Ông Phạm Văn Đồng nói: “…Trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thỏa thuận, các đ/c lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại khi họ mời TBT, CTHĐBT sang gặp TBT, CTQVV lại mời thêm tôi, tôi khá bất ngờ không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước được hậu quả…” (Hồi ký TQC) đúng là cơ hội bán nước và việc ký tá của một kẻ đui mù, thiểu năng trí tuệ.
Võ Văn Kiệt xót xa: “Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô (P.V.Đ) trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng (Đ.t.Bình) thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết rằng anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghỉ Trung Quốc luôn là cạm bẫy!”(Hồi ký Trần Quang Cơ) cũng chính từ những tư duy này mà Võ Văn Kiệt phải nhận cái chết đầy bí ẩn?
Còn việc triệu Phạm Văn Đồng qua Thành Đô theo tôi cũng chỉ là để làm nhân chứng sống với cái xác không hồn chờ ngày hạ huyệt theo Mác theo Mao và làm tác nhân để CSVN thực hiện tiếp những gì mà PVĐ cùng HCM ký kết trước đây với Tàu cộng trong đó có công hàm 1958 đầy ô nhục và bẩn thỉu gây ra bao cảnh tang thương cho dân tộc, ngư dân phải bỏ mình trong lòng biển và biết bao nhà yêu nước, tuổi trẻ phải chịu gông cùm, đánh đập dã man truy bức từ trong tù cho đến ngoài xã hội, một nhà tù lớn CHXHCNVN.
Phạm Văn Đồng tiếp: “Mình bị hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái đó…nhưng tôi không nghĩ vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.”( H.KýT.Q.C)
Trần Quang Cơ nói: “Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với TQ. Đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc. Tưởng rằng thỏa thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại…”(H.ký TQC)
Nói chung từ trước đến nay trong lịch sử ngoại giao của CSVN thì sự kiện Thành Đô là một thất bại nhục nhã, ê chề làm tiêu tan con đường tiến lên của đất nước. Nơi đây ta thấy rõ TQ là một mối lo, là một sự đe dọa cực kỳ nguy hiểm làm tổn hại đến sự độc lập và toàn vẹn lảnh thổ của đất nước Việt Nam.
Trên đây là sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô hay còn gọi là “Mật chỉ Thành Đô” mà tập đoàn CSVN cúi đầu tuân mệnh một cách mờ ám mà hơn hai mươi mấy năm qua nhân dân VN phải gánh chịu vì mạng sống luôn bị đe dọa dưới tầm búa, lưỡi liềm. Các cảnh nhân dân VN yêu nước bị đàn áp, đánh đập dã man, tù đày vô pháp luật đối với các ngòi bút, dân oan, tuổi trẻ cùng các nhà đấu tranh cho dân chủ, hòa bình và toàn vẹn lãnh thổ… Đó là những dòng, trang trong chiếu chỉ Thành Đô tháng 9.1990. Sau khi kết thúc hội nghị bí mật một cách mờ ám và đầy ô nhục trên, lãnh đạo csVN phải đắng cay cúi đầu cam chịu. Để xoa dịu bầy tôi, cuối cùng Giang cũng đã an ủi và tặng câu thơ của Lỗ Tấn mà rằng:
度尽劫波兄弟在,相逢一笑泯恩仇
Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu.
Dịch nghĩa: Sau kiếp nạn anh em còn đó, Trông nhau cười, thù oán sạch không!
Kiếp ba: (Thuật ngữ Phật giáo), phiên âm Phạn ngữ Kapla có nghĩa là một thời kỳ rất dài (x. Từ điển Phật học Hán Việt.)
Nghe đến đây các vị trong đoàn CSVN nở nụ cười tươi của thằng Bờm khi nhận được gói xôi từ tay Phú Ông.
Kính thưa quí vị! sau khi tôi đưa quí vị đi ngược thời gian đôi chút để có cái nhìn chính xác về thực trạng đất nước trong thời gian bị csvn thống trị cùng những cái dã tâm lẫn kém tầm lùn trí của chúng đã gây ra bao hệ lụy đến sự sống còn của dân tộc, non sông.
Đảng csVN như một con lừa luôn ngoan ngoản đi theo sau sợi dây xỏ mũi được nối liền với Trung Nam Hải, còn đối với nhân dân VN thì chúng luôn độc tài khát máu thi hành theo mệnh lênh của cs Bắc Kinh. Vì thế trong thời gian gần ¾ thế kỷ qua nhân dân, chiến sĩ VN biết bao người phải nằm xuống qua các sự kiện CCRĐ, chiến tranh biên giới Việt-Trung, Hoàng Sa, Trường Sa…và đến ngày nay là dậy sóng Biển Đông.
Vậy thì nhân dân VN còn chần chừ gì nữa mà không hành động một khi Tàu cộng chứ không phải “kẻ lạ” đã công khai tuyên bố giết sạch ngư dân, binh lính ngay trên lãnh thổ, lãnh hải của chính quê hương mình?
GS David Tran
Nguyễn Hải chuyển