Kinh Đời
Tháng Tư về, tôi mặc niệm tháng Tư
Tháng Tư về, tôi buồn nhưng cũng có chút nguôi ngoai vì bà đã đi xa, thật xa trước khi biển chết, trước khi bà phải chứng kiến con cháu của bà không những ngưng ăn cá vào tháng Tư mà cả năm nay, chẳng có con cá
VietTuSaiGon's blog (RFA)
VietTuSaiGon
Những ngày tôi còn nhỏ, lúc đó quê hương mới vừa
thay đổi (mà bây giờ tôi hiểu đó là một biến cố lịch sử), bà thường không bao
giờ mua cá biển vào tháng Tư, cả nhà không ăn cá cho đến hết tháng Tư, qua giữa
tháng Năm bà mới cho ăn cá trở lại. Bà không giải thích điều này, nhưng bà nói
đó là một việc tâm linh, sau này lớn lên con sẽ hiểu!
Cũng như lúc còn nhỏ, tôi nhớ đinh ninh cái bến xe
khách quốc doanh cùng những chiếc xe chạy bằng than, khói bốc mù mịt, bám đầy
hai lổ mũi, người ngồi xe sợ nhất là phải ngồi cuối băng ghế trái (phía tài xe,
gần lò than). Bà dắt tôi đi thăm ông cậu, ra đến thành phố, tôi ở nhà ông cậu
(em ruột của bà) chơi với mấy bà dì (con ông cậu). Mỗi lần đi, bà mang đùm đề gạo,
chuối bồ hương, gà cho ông. Và đương nhiên là bà phải xin giấy phép của ủy ban
xã để khỏi bị thuế vụ tịch thu, phạt tiền khi khám xe.
Và cũng trong hàng chục lần thăm ấy, có một lần, sau
đó bà đã không bao giờ đến thăm em trai của mình nữa. Tôi nhớ lần đó ông cậu
đưa tôi và bà ra bến xe bằng chiếc Honda Đam (tịch thu được ‘sau giải phóng’) về
nhà. Đến nơi, như mọi lần, ông đứng chơi, trò chuyện với bà một chút cho đến
lúc xe chạy thì vẫy tay tạm biệt bà cháu tôi. Thời đó xài tiền kên (từng đồng
xu bằng nhôm, loại năm xu, một hào, hai hào, năm hào và một đồng). Thường thì
đi xe chừng vài hào, cao nhất cũng chỉ năm hào. Hai bà cháu đang đứng thì có
hai người đàn ông cụt chân ghé đến ngửa tay xin tiền bà, bà nhìn họ rồi lấy ra
hai hào cho hai người. Ông cậu thấy vậy, quát: “Sao chị lại cho tiền bọn thương binh ngụy này! Để chúng nó chết đói đi
là vừa!”. Bà im lặng, không nói gì, bà chỉ xoa đầu tôi, nói: “Ông cậu nói chơi đó con, không có chi đâu!”.
Và đó cũng là lần cuối cùng tôi và bà đi thăm ông cậu,
sau này lớn lên, rồi làm ăn, có vợ con, tôi đi ra phố cũng nhiều, nhưng chưa có
lần nào tôi mời hay rủ mà bà chịu đi ra phố. Mãi cho đến khi bà bệnh, đưa bà ra
bệnh viện thành phố, bà cũng chỉ nằm cho đến khi thấy khỏe đôi chút là bằng mọi
giá phải về nhà. Và, buồn nhất của tôi, có lẽ là cái lần bà nằm lâu, thật lâu ở
bệnh viện thành phố, cho đến khi tôi đưa bà về trong im lặng, mặc dù bà chẳng
đòi về như mọi lần, trên đường đưa bà về, mọi ký ức thành phố, ký ức hai người
thương binh chế độ cũ nhìn bà đầy chia sẻ và cảm thông sau khi bà bị người em
(vốn là quan chức to trong chế độ Cộng sản) la mắng chỉ vì bà tặng tiền cho họ.
Và, không hiểu sao lúc đó, trên xe cứu thương chạy chậm, để đèn báo hiệu “người
về”, tôi lại nhớ đến tháng Tư không ăn cá của bà!
Mãi cho đến bây giờ, trong những gì tôi hiểu biết về
tháng Tư, tôi mới thấy điều bà đã nhìn thấy và đã mang theo nơi cỏ xanh, rằng
biển tháng Tư buồn lắm, và những con cá tháng Tư cũng buồn, chúng mang một điều
gì đó thật khó nói. Bởi biển tháng Tư, dù bây giờ, lúc đó hay một ngàn năm nữa,
những tiếng kêu, những nỗi đau nơi đáy sâu đại dương hay những oan khuất lịch sử
sẽ còn đau, mãi đau chẳng thể nguôi. Đau như những ngôi mộ trên bờ biển An
Dương, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế, nơi mà bên này doi đất, cồn cát là phá
Tam Giang, bên kia là trùng dương xa lắc, đây cũng là nơi mà tháng Hai năm
1975, có hàng triệu người chen chúc nhau lên tàu và có hàng trăm ngàn người
thoát ra đại dương, hàng vài chục ngàn người bỏ mạng giữa đại dương và có hàng
ngàn người không ra kịp trùng dương, phải bỏ mạng trên ngọn sóng, xác của họ xô
dạt vào bờ, người dân thôn An Dương đã tìm họ trên khắp bờ biển để đào hào,
chôn qua quýt khi đêm về.
Mãi đến hơn ba mươi năm sau, ông Nguyễn Công Thiện,
một người giàu lòng nhân ái đã tự bỏ một số tiền không nhỏ, sau đó kêu gọi mọi
người trong làng góp thêm tiền để cải táng khu mộ tập thể cả trăm người, trong
đó toàn sắc phục lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có một xác nữ quân nhân được
chôn riêng, những người nam quân nhân đều chôn chung trong một túi vải bạt lớn.
Những vị này sau đó được cải táng lên đồi cao, được nhang khói mỗi dịp Rằm, đầu
tháng và lễ lạc, Tết nhứt.
Ông Thiện không kể gì với chúng tôi mặc dù ông từng
khẳng định đã chứng kiến cả một chiếc tàu chưa kịp ra khơi thì bị pháo kích và
chìm, họ chết rất nhiều, xác trôi dạt vào bờ, xác trôi theo gió mùa Tây Nam,
vào tận Đà Nẵng, Quảng Nam, đặc biệt Cù Lao Chàm, Hội An cũng có rất nhiều xác
mang quân phục… Chúng tôi nghe nhiều thông tin khác nhau, nhiều nguồn tin nói về
cái chết của họ, có người nói vài trăm người chết, có người nói cả ngàn người
chết, có người nói chừng một trăm người… Nhìn chung, số lượng người chết thì
người già kể khác, trung niên kể khác. Nhưng nguyên nhân chết thì chung, đó là
bị pháo kích chìm tàu, xác trôi khắp nơi.
Tháng Tư về, tự dưng tôi thấy buồn, thấy yêu và đau
vì biển, biển mang nặng máu, thân xác và linh hồn của thế hệ đi trước, của những
tâm hồn yêu tự do hay sợ hãi trận gió mới có gì đó tựa như thù hận và man rợ, của
những linh hồn vĩnh viễn tự do nơi đại dương, tiếng hát tự do của họ hòa cùng lời
ca của đại dương ẩn mật mà thiên thu sầu hận.
Tháng Tư về, tự dưng tôi thấy buồn vì nhớ bà của
tôi, bà đã đi xa, thật xa, tôi không bao giờ có thể gặp bà nữa, và cũng không
bao giờ được nghe bà nói đầy vẻ bí mật rằng “Con nhớ lớn lên, có vợ có con rồi cũng cố gắng đừng ăn cá vào tháng Tư
nghe con, tháng đó tội lắm…”. Và tôi càng không thể hiểu hơn vì một nỗi buồn
khác của bà, đầy mâu thuẫn mà tôi không tiện nêu ra ở đây. Dường như với bà,
không có biên kiến, không có thù hận, không có bên thắng bên thua, chỉ có những
con cá đói, vô tình đã ăn những đồng loại ngang tuổi bà hoặc đáng tuổi em út,
con cháu bà trong một mùa tháng Tư. Và bà không ăn cá vào tháng này như để nhắc
cho riêng mình một điều gì đó thật đau, khó nói!
Tháng Tư về, tôi buồn nhưng cũng có chút nguôi ngoai
vì bà đã đi xa, thật xa trước khi biển chết, trước khi bà phải chứng kiến con
cháu của bà không những ngưng ăn cá vào tháng Tư mà cả năm nay, chẳng có con cá
nào trong cái nồi kho cá của bà để lại.
Tháng Tư về, biển quê hương đã chết, nó chết và mang
màu tang tóc, bởi quá khứ, bởi hiện tại, bởi đâu đó vi vu trong gió chiều, trên
đồi thông, bên bờ biển, tôi đã nghe những khúc hát, tôi nghe tiếng rì rào của
lá, tôi nghe tiếng vi vu của điều gì đó tựa như có
người đang thì thầm kể lại mỗi nỗi buồn, một nỗi oan khuất nào đó giữa trùng
dương.
Tháng Tư về, tôi mặc niệm tháng Tư!
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
Tháng Tư về, tôi mặc niệm tháng Tư
Tháng Tư về, tôi buồn nhưng cũng có chút nguôi ngoai vì bà đã đi xa, thật xa trước khi biển chết, trước khi bà phải chứng kiến con cháu của bà không những ngưng ăn cá vào tháng Tư mà cả năm nay, chẳng có con cá
VietTuSaiGon
Những ngày tôi còn nhỏ, lúc đó quê hương mới vừa
thay đổi (mà bây giờ tôi hiểu đó là một biến cố lịch sử), bà thường không bao
giờ mua cá biển vào tháng Tư, cả nhà không ăn cá cho đến hết tháng Tư, qua giữa
tháng Năm bà mới cho ăn cá trở lại. Bà không giải thích điều này, nhưng bà nói
đó là một việc tâm linh, sau này lớn lên con sẽ hiểu!
Cũng như lúc còn nhỏ, tôi nhớ đinh ninh cái bến xe
khách quốc doanh cùng những chiếc xe chạy bằng than, khói bốc mù mịt, bám đầy
hai lổ mũi, người ngồi xe sợ nhất là phải ngồi cuối băng ghế trái (phía tài xe,
gần lò than). Bà dắt tôi đi thăm ông cậu, ra đến thành phố, tôi ở nhà ông cậu
(em ruột của bà) chơi với mấy bà dì (con ông cậu). Mỗi lần đi, bà mang đùm đề gạo,
chuối bồ hương, gà cho ông. Và đương nhiên là bà phải xin giấy phép của ủy ban
xã để khỏi bị thuế vụ tịch thu, phạt tiền khi khám xe.
Và cũng trong hàng chục lần thăm ấy, có một lần, sau
đó bà đã không bao giờ đến thăm em trai của mình nữa. Tôi nhớ lần đó ông cậu
đưa tôi và bà ra bến xe bằng chiếc Honda Đam (tịch thu được ‘sau giải phóng’) về
nhà. Đến nơi, như mọi lần, ông đứng chơi, trò chuyện với bà một chút cho đến
lúc xe chạy thì vẫy tay tạm biệt bà cháu tôi. Thời đó xài tiền kên (từng đồng
xu bằng nhôm, loại năm xu, một hào, hai hào, năm hào và một đồng). Thường thì
đi xe chừng vài hào, cao nhất cũng chỉ năm hào. Hai bà cháu đang đứng thì có
hai người đàn ông cụt chân ghé đến ngửa tay xin tiền bà, bà nhìn họ rồi lấy ra
hai hào cho hai người. Ông cậu thấy vậy, quát: “Sao chị lại cho tiền bọn thương binh ngụy này! Để chúng nó chết đói đi
là vừa!”. Bà im lặng, không nói gì, bà chỉ xoa đầu tôi, nói: “Ông cậu nói chơi đó con, không có chi đâu!”.
Và đó cũng là lần cuối cùng tôi và bà đi thăm ông cậu,
sau này lớn lên, rồi làm ăn, có vợ con, tôi đi ra phố cũng nhiều, nhưng chưa có
lần nào tôi mời hay rủ mà bà chịu đi ra phố. Mãi cho đến khi bà bệnh, đưa bà ra
bệnh viện thành phố, bà cũng chỉ nằm cho đến khi thấy khỏe đôi chút là bằng mọi
giá phải về nhà. Và, buồn nhất của tôi, có lẽ là cái lần bà nằm lâu, thật lâu ở
bệnh viện thành phố, cho đến khi tôi đưa bà về trong im lặng, mặc dù bà chẳng
đòi về như mọi lần, trên đường đưa bà về, mọi ký ức thành phố, ký ức hai người
thương binh chế độ cũ nhìn bà đầy chia sẻ và cảm thông sau khi bà bị người em
(vốn là quan chức to trong chế độ Cộng sản) la mắng chỉ vì bà tặng tiền cho họ.
Và, không hiểu sao lúc đó, trên xe cứu thương chạy chậm, để đèn báo hiệu “người
về”, tôi lại nhớ đến tháng Tư không ăn cá của bà!
Mãi cho đến bây giờ, trong những gì tôi hiểu biết về
tháng Tư, tôi mới thấy điều bà đã nhìn thấy và đã mang theo nơi cỏ xanh, rằng
biển tháng Tư buồn lắm, và những con cá tháng Tư cũng buồn, chúng mang một điều
gì đó thật khó nói. Bởi biển tháng Tư, dù bây giờ, lúc đó hay một ngàn năm nữa,
những tiếng kêu, những nỗi đau nơi đáy sâu đại dương hay những oan khuất lịch sử
sẽ còn đau, mãi đau chẳng thể nguôi. Đau như những ngôi mộ trên bờ biển An
Dương, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế, nơi mà bên này doi đất, cồn cát là phá
Tam Giang, bên kia là trùng dương xa lắc, đây cũng là nơi mà tháng Hai năm
1975, có hàng triệu người chen chúc nhau lên tàu và có hàng trăm ngàn người
thoát ra đại dương, hàng vài chục ngàn người bỏ mạng giữa đại dương và có hàng
ngàn người không ra kịp trùng dương, phải bỏ mạng trên ngọn sóng, xác của họ xô
dạt vào bờ, người dân thôn An Dương đã tìm họ trên khắp bờ biển để đào hào,
chôn qua quýt khi đêm về.
Mãi đến hơn ba mươi năm sau, ông Nguyễn Công Thiện,
một người giàu lòng nhân ái đã tự bỏ một số tiền không nhỏ, sau đó kêu gọi mọi
người trong làng góp thêm tiền để cải táng khu mộ tập thể cả trăm người, trong
đó toàn sắc phục lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có một xác nữ quân nhân được
chôn riêng, những người nam quân nhân đều chôn chung trong một túi vải bạt lớn.
Những vị này sau đó được cải táng lên đồi cao, được nhang khói mỗi dịp Rằm, đầu
tháng và lễ lạc, Tết nhứt.
Ông Thiện không kể gì với chúng tôi mặc dù ông từng
khẳng định đã chứng kiến cả một chiếc tàu chưa kịp ra khơi thì bị pháo kích và
chìm, họ chết rất nhiều, xác trôi dạt vào bờ, xác trôi theo gió mùa Tây Nam,
vào tận Đà Nẵng, Quảng Nam, đặc biệt Cù Lao Chàm, Hội An cũng có rất nhiều xác
mang quân phục… Chúng tôi nghe nhiều thông tin khác nhau, nhiều nguồn tin nói về
cái chết của họ, có người nói vài trăm người chết, có người nói cả ngàn người
chết, có người nói chừng một trăm người… Nhìn chung, số lượng người chết thì
người già kể khác, trung niên kể khác. Nhưng nguyên nhân chết thì chung, đó là
bị pháo kích chìm tàu, xác trôi khắp nơi.
Tháng Tư về, tự dưng tôi thấy buồn, thấy yêu và đau
vì biển, biển mang nặng máu, thân xác và linh hồn của thế hệ đi trước, của những
tâm hồn yêu tự do hay sợ hãi trận gió mới có gì đó tựa như thù hận và man rợ, của
những linh hồn vĩnh viễn tự do nơi đại dương, tiếng hát tự do của họ hòa cùng lời
ca của đại dương ẩn mật mà thiên thu sầu hận.
Tháng Tư về, tự dưng tôi thấy buồn vì nhớ bà của
tôi, bà đã đi xa, thật xa, tôi không bao giờ có thể gặp bà nữa, và cũng không
bao giờ được nghe bà nói đầy vẻ bí mật rằng “Con nhớ lớn lên, có vợ có con rồi cũng cố gắng đừng ăn cá vào tháng Tư
nghe con, tháng đó tội lắm…”. Và tôi càng không thể hiểu hơn vì một nỗi buồn
khác của bà, đầy mâu thuẫn mà tôi không tiện nêu ra ở đây. Dường như với bà,
không có biên kiến, không có thù hận, không có bên thắng bên thua, chỉ có những
con cá đói, vô tình đã ăn những đồng loại ngang tuổi bà hoặc đáng tuổi em út,
con cháu bà trong một mùa tháng Tư. Và bà không ăn cá vào tháng này như để nhắc
cho riêng mình một điều gì đó thật đau, khó nói!
Tháng Tư về, tôi buồn nhưng cũng có chút nguôi ngoai
vì bà đã đi xa, thật xa trước khi biển chết, trước khi bà phải chứng kiến con
cháu của bà không những ngưng ăn cá vào tháng Tư mà cả năm nay, chẳng có con cá
nào trong cái nồi kho cá của bà để lại.
Tháng Tư về, biển quê hương đã chết, nó chết và mang
màu tang tóc, bởi quá khứ, bởi hiện tại, bởi đâu đó vi vu trong gió chiều, trên
đồi thông, bên bờ biển, tôi đã nghe những khúc hát, tôi nghe tiếng rì rào của
lá, tôi nghe tiếng vi vu của điều gì đó tựa như có
người đang thì thầm kể lại mỗi nỗi buồn, một nỗi oan khuất nào đó giữa trùng
dương.
Tháng Tư về, tôi mặc niệm tháng Tư!