Thân Hữu Tiếp Tay...
Thanh trừng trong nội bộ lãnh đạo cộng sản - Trần Văn Giang
HNPĐ- (Hộ khẩu cuối cùng của độc tài toàn trị)
Cộng sản mà không giết người thì cũng y như món “tiết canh mà không có tiết.” – TVG.
(Hộ khẩu cuối cùng của độc tài toàn trị)
Cộng sản mà không giết người thì cũng y như món “tiết canh mà không có tiết.” – TVG.
Hộ khẩu cuối cùng của độc tài toàn trị ( Hình )
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Liên sô có khoảng cách địa lý xa xôi và văn hóa khá xa lạ với Việt Nam - ngoại trừ một vài cá nhân tên tuổi đã được thế giới bi61t đến, còn hầu hết nhưng tên người và địa danh không đọc thành tiếng Việt được. Người viết chỉ xin phép ghi một số quan chức cao cấp quan trọng trong lãnh đạo cs Liên sô bị thanh trừng.
(Hộ khẩu cuối cùng của độc tài toàn trị)
Cộng sản mà không giết người thì cũng y như món “tiết canh mà không có tiết.” – TVG.
Hộ khẩu cuối cùng của độc tài toàn trị ( Hình )
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin... bất diệt.”
(Tố Hữu - Cải Cách Ruộng Đất
cuả thập niên 1950)
“Giết, giết nữa” là nét tiêu
biểu đặc biệt của chủ nghĩa cộng sản.
Chẳng những chỉ “giết” thôi mà phải giết cho thật nhiều (“bàn tay không phút nghỉ”). Lịch sử thế giới từ cổ chí kim chưa có một
chế độ, một đường lối chính trị nào chủ trương giết đồng chủng một cách tàn ác
mà có thể so sánh được với cộng sản.
Thật bất hạnh cho dân tộc, Hồ
Chí Minh (HCM) đưa nước Việt Nam
vào cái vòng chém giết phi nhân này đã gần 100 năm. Chỉ qua một vài câu thơ
ngắn ở trên thôi, Tố Hữu đã đã cho chúng ta thấy cái ý đồ, cái cương lĩnh
của đảng csvn trong việc “rèn luyện đạo đức cách mạng,” “tạo bản lĩnh phi
nhân” con người cs; biến những người nông dân Việt hiền lành chất phác
thành những tên sát nhân tàn bạo để phục vụ cho mục đích của cs. Vài câu thơ ngắn này cũng đã được đọc đi đọc
lại trên hệ thống tuyên truyền của csvn trong giai đoạn “Cải cách ruộng đất”
rập khuôn theo cs tầu, hô hào phải giết bớt đồng bào ruột thịt… rồi sau đó làm
gì? “thờ
Sít-ta-lin (của cs Liên sô), thờ Mao Chủ
tịch (của tầu cộng)… bất diệt???” Mỉa
mai thay hai tên trùm cộng sản khát máu quốc tế mà Tố Hữu mù quáng nâng bi này
đã giết tổng cộng trên 50 triệu nhân mạng (con số bị giết chưa được kiểm kê
không chính xác, nhiều tài liệu nói từ 20 triệu đến 70 triệu) qua các chương
trình diệt chủng quy mô như:
Tại tập trung khổ sai (Gulags),
Vùng kinh tế mới (Kulaks / forced resettlement),
Cải cách ruộng đất (Land Reform),
Trăm hoa đua nở (Let a Hundred Flowers Bloom),
Bước tiến nhẩy vọt (Great Leap Forward),
Cách mạng văn hóa (Cultural Revolution).
HCM và đảng csvn đã “nhiệt
liệt” cóp-pi tận tình các chương trình giết người quy mô này và áp dụng lên dân
tộc Việt: Cứ việc giết nhau để tự hủy diệt nòi giống. Chính sách gì mà quái đản vậy nè trời!
Trong lịch sử diệt chủng của
thế giới có liệt kê cả tên tuổi thành tích sát nhân HCM của csvn. Đây phải là một sự xấu hổ vô bờ bến cho dân
tộc chứ vinh quang cái con củ cải gì?
Rất tiếc, vì giấy bút có hạn,
bài viết này chỉ chủ tâm trình bày một khía cạnh nhỏ trong chương trình “giết”
to lớn của cs. Đó là vấn đề giới lãnh
đạo cs thanh trừng, tiêu diệt giới lãnh đạo cs.
Thiệt tình! Cs giết dân chưa mệt,
chưa chán, họ quay qua giết lẫn nhau cho đủ chỉ tiêu?!
Việc thanh trừng dưới chế độ
cs không phải là chuyện mới lạ (đã có cs là phải có giết). Thanh trừng / Giết là phương tiện để cs chứng
minh, duy trì mục đích, củng cố hệ thống độc tài toàn trị. Cộng sản mà không giết người thì cũng y như
món “tiết canh mà không có tiết;” hay nói cho văn hoa hơn là như “vườn thượng
uyển không có hoa…”
Phải thật sự mù lòa mới không
nhận ra những gì người cộng sản làm, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, chỉ thuần
túy là các trò hề vụng về được diễn đi diễn lại nhiều lần từ quốc gia này qua
quốc gia khác. Khởi đầu phải được đề
xuất một cách “kiệt xuất” từ một anh cs vĩ đại (Liên sô hay Trung cộng gì đó)
rồi các đàn em cs nhỏ nhi nhô cứ thế mà mần đi mần lại y chang. Thật tội nghiệp, thật thê thảm cho kiếp con
người phải bất hạnh sống dưới chế độ cs.
Việc thanh trừng và thủ tiêu
xuyên qua 4 lãnh vực:
Hàng ngũ cao cấp Chính trị đảng cs,
Quân đội,
Hàng ngũ trí thức
và đám dân ngu khu đen.
Việc thanh trừng không chỉ
đơn thuần nhẹ nhàng vô tội vạ như “khai trừ khỏi đảng” mà chắc chắn phải có các
hình thức trừng phạt nặng nề làm tổn thương đến tài sản, thể xác, bắt giam, tù
đày cải tạo… cho chết dần chết mòn; thủ tiêu cho chết tức thời (cắt tiết, mò
tôm, đầu độc…)
Qua phần trình bày ở phía
dưới, quý vị sẽ thấy các tiểu sử trích ngang của các nhân vật cao cấp cs bị
thanh trừng. Tiểu sử bao gồm vắn tắt thời gian và hoàn cảnh gia
nhập hoặc kết nạp vào đảng cs, thành tích, chức vụ và lý do tại sao bị thanh trừng; kế tiếp là đời sống, sinh
mạng của các cán bộ cao cấp thổ tả này kết thúc như thế nào sau khi bị thanh
trừng.
Tại Liên sô (Nga)
Liên sô có khoảng cách địa lý xa xôi và văn hóa khá xa lạ với Việt Nam - ngoại trừ một vài cá nhân tên tuổi đã được thế giới bi61t đến, còn hầu hết nhưng tên người và địa danh không đọc thành tiếng Việt được. Người viết chỉ xin phép ghi một số quan chức cao cấp quan trọng trong lãnh đạo cs Liên sô bị thanh trừng.
Joseph Stalin đứng đầu danh
sách lãnh tụ cs khát máu thế giới. Theo
các tài liệu lịch sử còn ghi lại, Stalin và đảng cs Liên sô đã giết trên 30
triệu dân Liên sô dưới nhiều hình thức.
Stalin còn thanh trừng, tiêu diệt các lãnh đạo công sản Liên sô không có
đồng quan điểm với hắn. Khởi đầu Stalin
đã tìm nhiều cách ngoạn mục giết gần một nửa số thành viên của bộ chính trị
đảng cs Liên sô do Lenin thành lập (mà chính Stalin cũng là một thành viên) gồm
cả các “anh hùng” của “cách mạng vô sản tháng 10 Liên sô” như Mikhail
Tukhachevsky, Béla Kun, Leon Trotsky…
Nên biết, Leon Trotsky là một trong những người đã sáng lập ra Hồng Quân
(Red Army), một trong những thành viên đầu tiên của bộ chính trị đảng cs Liên
sô, nhân vật đối lập chính trị tranh chấp quyền hành trực tiếp với Stalin. Trotsky bị Stalin khai trừ khỏi đảng cs Liên
sô năm 1927, rồi bị trục xuất khỏi lãnh thổ Liên sô năm 1929. Năm 1940 Stalin gởi điệp viên (agents) sang
tận Mexico
để ám sát Leon Trotsky khi Trotsky đang sống lưu vong ở đây. Gia đình Trotsky ở lại Liên sô cũng bị giết
gần hết trong các lần tấn công khác của Stalin.
Đặc biệt hơn nữa, Stalin còn
tiêu diệt cả các đồng chí cộng sự viên thân tín đã cũng cố địa vị của Stalin
chứ không phải chỉ có phần tử đối lập, tranh quyền. Năm 1934 Stalin giết (bằng cách ám sát)
Sergei Kirov, cánh tay phải thân tình sát cánh của Stalin, chỉ vì Kiriov có
đường lối cách mạng ôn hòa hơn Stalin và từ từ được quần chúng tỏ ra mến chuộng.
Đến khi Đức quốc xã đánh sang
Liên sô, Stalin dùng một chiêu rất ngoạn mục gọi là “Đạo quân thứ 5” (The Fifth
Column) để lấy cớ, làm tiền đề tiêu diệt, loại ngoài vòng chiến rất nhiều thành
viên bộ chính trị Liên sô nổi tiếng khác
như Vyacheslav Molotov và Lazar Kayanovich;
Stalin gán cho họ các tội làm
gián điệp cho Đức quốc xã mà không cần nêu bằng chứng rõ ràng.
Trong quân đội, Hồng quân
(Red Army), Stalin thanh trừng (đuổi cổ ra khỏi đảng cộng sản Liên sô, hoặc cầm
tù…) với các tội danh rất mơ hồ như gián điệp, phản quốc, phản cách mạng, lừng
khừng thiếu lập trường. Vài con số được
ghi lại: 3 trong 5 Thống tướng (5 sao), 13 trong 15 tướng tư lệnh bộ binh (3 và
4 sao), 8 trong 9 Đô đốc Hải quân, 50 tướng trong số 57 tư lệnh quân đoàn, 154
tướng trong số 186 tướng sư đoàn… Tóm
lại trong quân đội Liên sô, có 25-50% sĩ quan các cấp bị thanh trừng (chừng 30%
được giữ lại trong quân đội lúc chiến tranh với Đức quốc xã lên cao điểm).
Trên mặt trận văn hóa, trong
2 thập niên 1920’s và 1930’s có khoảng 2000 văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ,
nghệ sĩ đủ loại bị bắt cầm tù trong các trại cưỡng bức lao động tập trung
(Gulags) cũng với các tội rất mơ hồ, rất tự tiện như gián điệp, phản quốc, phản
cách mạng, thiếu lập trường, có tư tưởng đồi trụy, tư tưởng tiểu tư sản… Trong số bị giam cầm đày đọa này, độ 1500
người bỏ mạng vì đói, bệnh, kiệt sức trong lúc tù đày.
Tại Trung cộng
Đồ tể Mao Trạch Đông không khi
nào chịu thua kém gì Stalin của Liên sô về bất cứ khía cạnh nào. Ngay sau khi chiến tranh quốc–cộng ở Trung
hoa vừa chấm dứt, Mao Trạch Đông và cs tầu đã hoàn toàn kiểm soát Trung hoa là
Mao đã nghĩ đến việc giết dân và thanh trừng cán bộ chính trị cs. Nhóm đầu tiên phải giết là trí thức, viên chức
chính phủ và sĩ quan quân đội thuộc hoặc liên hệ đến chính quyền Tưởng giới
Thạch (Quốc dân đảng Trung hoa).
Các chương trình Cải cách
ruộng đất, Bước tiến nhẩy vot, Trăm hoa đua nở, Cách mạng văn hóa diệt chủng
của Mao lấy đi mạng sống của gần 20 (?) triệu dân Trung hoa vô tội.
Mao và đảng cs tầu còn thanh
trừng và giết một số đồng chí bộ chính trị tên tuổi lớn như sau:
1- Lâm Bưu (1907-1971)
Lâm Bưu là một trong nhũng
đảng viện cs tầu kỳ cựu nhất của cs tầu, từ lúc cs tầu còn đánh nhau với quân Tưởng
Giới Thạch và quân Nhật Bản.
Ngoài chức Ủy viên bộ chính
trị (Poliburo), Lâm Bưu còn là Phó chủ tịch nhà nước (1958), Bộ trưởng quốc
phòng (1959).
Năm 1966, Lâm Bưu được chỉ
định là người kế vị Mao; và chính Lâm Bưu được xem như người đã vẽ, sáng lập ra
phong trào “Cách mạng văn hóa / Vệ binh đỏ” bắt đầu từ năm 1966. Phong trào này kéo dài qua cả thời gian sau
khi Lâm Bưu chết năm 1971; và chỉ hoàn toàn chấm dứt khi Giang Thanh và “Tứ
nhân bang” (Gang of Four) banh càng.
Từ cao điểm của cuộc “Cách
mạng văn hóa” với các khuấy động đẫm máu gây ra bởi “Vệ binh đỏ” do Lâm Bưu cầm
chịch này, 4 nhân vật chóp bu khác của bộ chính trị là Lưu Thiếu Kỳ (Chủ tịch
nhà nước - 1954 to 1959, and President of the People's Republic of China, from
1959 to 1968 China's head of state), Bành Chân (Thị trưởng Bắc kinh) và Bành
Đức Hoài (cựu Bộ trưởng quốc phòng). Đặng Tiểu Bình (Phó thủ tướng, Trưởng ban
bí thư trung ương đảng) bị thanh
trừng.
Trời quả báo, chỉ đến năm
1970 thì Lâm Bưu bị thất sủng. Thấy nguy
cơ cho tính mạng mình, năm 1971 Lâm Bưu âm mưu một cuộc đảo chánh Mao Trạch
Đông nhưng âm mưu bị bại lộ. Sợ bị trừng
phạt, Lâm Bưu dùng máy bay định bay qua Liên sô xin tỵ nạn nhưng bị chết vì máy
bay rớt ở Mông cổ.
2- Lưu Thiếu Kỳ (1898 – 1969)
Tương tự như trường hợp của
Lâm Bưu, Lưu Thiếu Kỳ là một đảng viên, ủy viên bộ chính trị kỳ cựu cs
tầu. Lưu Thiếu Kỳ được xem như lý thuyết
gia (Chief Theoretician) chính cùa đảng cs tầu. Lưu Thiếu Kỳ từng được mao nhường
cho chức Chủ tịch nhà nước Trung cộng (President of the People's Republic of
China / China's head of state ) từ năm
1954 cho mãi đến năm 1968. Mao chỉ giữ
chức Chủ tịch đảng cs và tư lệnh quân đội.
Có thể nói Lưu Thiếu Kỳ được xếp hàng thứ nhì trong giới lãnh đạo cs
tầu, chỉ đứng sau có Mao trạch Đông.
Mãi cho đến khi bị thanh
trừng vào năm 1968, Lưu Thiếu Kỳ đươc công nhận khá rộng rãi là người sẽ kế vị
Mao Trạch Đông.
Bắt đầu từ năm 1962 Lưu Thiếu
Kỳ (cùng với Đặng Tiểu Bình) công khai nêu ra sự cần thiết của một số chương
trình canh tân, cải tổ trong đó cho phép dân có một ít quyền tư hữu, mở cửa mậu
dịch với ngoại quốc, bài trừ tham nhũng và trì trệ hành chánh... Lưu Thiếu Kỳ (và Đặng Tiểu Bình) sau đó bị
thất sủng, bị gán (labeled / denounced) và kết nhiều tội (condemned) như “phản
quốc,” “thành phần nguy hiểm mở đường cho tư bản,” “có tư tưởng phá hoại định
chế đảng cs và quốc gia...” Thực ra sự
thất sủng của Lưu Thiếu Kỳ rất mơ hồ, không được ghi chép lại rõ rệt với bằng
cớ. Một nguyên do khác của sự thất sủng
có lẽ là Lưu Thiếu Kỳ dần dần được xem như là có ý đồ cạnh tranh, thi đua quyền
lực với Mao (the result of a power struggle).
Đến khi “Cách mạng văn hóa,” bùng nổ, Mao củng cố vị trí xong thì việc
đầu tiên Mao làm là thanh trừng Lưu Thiếu Kỳ.
Năm 1967-68, Lưu Thiếu Kỳ bị tước hết quyền hành, bị trục xuất khỏi đảng
cs, và bị giam lỏng tại nhà (house arrest).
Từ sau khi bị thanh trừng không ai còn nghe thấy tăm hơi gì của Lưu
Thiếu Kỳ; chỉ biết Lưu Thiếu Kỳ chết năm 1969 (?)
3- Bành Chân (1902 - 1997)
Bành Chân là một đảng viên cs
tầu kỳ cựu. Gia nhập đảng cs từ năm
1923. Ra vào tù rất nhiều lần vì tranh đấu chống Nhật, chống Quốc dân
đảng.
Năm 1949 Bành Chân có công
chỉ huy một lực lượng võ trang cs chiếm lấy thủ đô Bắc kinh từ quân Tưởng Giới
Thạch.
Năm 1951 Sau khi giữ nhiều
chức vụ khác nhau ở bộ chính trị và ban bí thư bộ chính trị, Bành Chân được bổ
nhiệm làm Bí thư thứ nhất Thành phố Bắc kinh (Tương tự như chức Thị
Trưởng).
Bành Chân là ủy viên chính
thức của Bộ chính trị từ năm 1956 đến năm 1966.
Năm 1980 Bành Chân làm Bí thư
Cục Chính trị và “Công vụ” (Legal Affairs) tại Bộ chính trị đảng.
Năm 1983 là chủ tịch quốc hội
kỳ 6 của Trung cộng.
Vào giai đoạn bắt đầu của
phong trào “Cách mạng văn hóa,” (1966) Bành Chân là một trong 5 người được Mao
ủy thác để sửa soạn khởi phát phong trào này.
Tháng 4, 1966, Bành Chân lên
tiếng chỉ trích tư tưởng và chủ trương của Mao trong vấn đề gọi là “văn hóa
phải được dùng để phục vụ chính quyền.”
Tháng 5, 1966 khi “Cách mạng
văn hóa`” khởi phát xong, Bành Chân bị kết tội “phản cách mạng.”
Nhờ ơn thầy phước chủ sao đó
rất khó hiểu (?) Bành Chân là đảng viên, ủy viên bộ chính trị duy nhất chỉ
trích Mao và bị Mao thanh trừng nhưng vẫn may mắn sống sót và được tiếp tục giữ
đảng tịch, tiếp tục được hoạt động trong hàng ngũ đảng cs Trung hoa với vai trò
kém quan trọng hơn cho đến khi về hưu năm 1988 (!)
4- Bành Đức Hoài (1898 – 1974)
Bành Đức Hoài là một nhân vật
chính trị và quân sự rất quan trọng của chế độ cs Trung hoa.
Năm 1904, Bành Đức Hoài gia
nhập làm lính quèn cho một lãnh chúa (War Lord) ở Hồ Nam từ lúc mới 16 tuổi.
Năm 1926 lực lượng của lãnh
chúa Hồ Nam sát nhập vào quân đội Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch thì Bành
Đức Hoài mang cấp bậc Thiếu tá, bỏ hàng ngũ quân lãnh chúa và quốc dân
đảng. Bành Đức Hoài bắt tay với cs từ
lúc này.
Trong gia đoạn chiến tranh
Trung-Nhật (1937-45), Bành Đức Hoài cổ võ việc cộng sản tầu hợp tác với Quốc
dân đảng để chống Nhật. Bành Đức Hoài
giữ chức Tướng tư lệnh cao cấp của liên quân quốc-cộng.
Khi Nhật đầu hàng năm 1945,
Bành Đức Hoài là tư lệnh toàn thể quân đội cộng sản vùng Tây Bắc Trung Hoa.
Bành Đức Hoài đã nhiều lần đánh giải vây, cứu thoát Mao Trạch Đông trong nhiều
hoàn cảnh Mao suýt bị Tưởng Giới Thạch bắt sống.
Rồi Bành Đức Hoài theo Mao
trong cuộc Vạn lý trường chinh (1933-35).
Khi Mao đánh bại Tưởng Giới
Thạch 1950, Bành Đức Hoài là người đã cố vấn và đề nghị Mao can dự trực tiếp
vào trận chiến Đại hàn (Korean War) 1950- 1953.
Bành Đức Hoài là tư lệnh tối cao của 350 ngàn lính Trung công tham chiến
cùng với quân đội Bắc hàn đương đầu với quân Liên Hiệp quốc.
Bành Đức Hoài là người đại
diện cho Trung cộng ký bản Hiệp ước ngừng chiến ở Đại hàn năm 1953 (Korean
Armistice Agreement in 1953).
Phải nói Bành Đức Hoài là
người duy nhất dưới chế độ cs tầu có cái can trường rất hiếm hoi, dám trực tiếp
chỉ trích và ngăn cản nhiều việc làm của Mao Trạch Đông. Trong thập niên
1950’s, Bành Đức Hoài phản đối các nỗ lực của đảng cs nhằm thần thánh hóa vai
trò Mao Trạch Đông; và chỉ trích là chính chương trình “Bước tiến nhẩy vọt”
(Great Leap Forward) của Mao là đã gây ra nạn đói làm chết hàng triệu người dân
Trung hoa. Năm 1959, Bành Đức Hoài ngang
nhiên đối đầu tranh luận về quyền lực với Mao trong Hội nghị Lushan (Lushan
Conference). Trong hội nghị này, Mao
thắng thế và ngay sau đó Bành Đức Hoài bị tước hết tất cả quyền hành vĩnh viễn
(for life) và bị gán cho cái nhãn (labeled) “tập đoàn chống đảng.”
Từ đó Bành Đức Hoài sống
trong bóng tối ra sao không ai hay biết cho đến khi “Cách mạng văn hóa” khởi
phát thì Bành Đức Hoài bị nhóm “Cách mạng văn hóa” quá khích cầm đầu bởi Lâm
Bưu và Giang Thanh đem ra công chúng đấu tố, sỉ nhục, bị bắt viết bản tự kiểm…
Năm 1970 Bành Đức Hoài bị án
chung thân khổ sai, bị tra tấn thảm thiết và chết trong tù năm 1974.
5- Đặng Tiểu Bình (1904-1997)
Đặng Tiểu Bình gia nhập đảng
cs tầu tứ năm 1923 và cũng tham gia trong cuộc “Vạn lý trường chinh.”
Năm 1952 Đặng Tiểu Bình giữ
chức vụ Phó thủ tướng và Chủ tịch ủy ban Tài chánh, sau đó kiêm nhiệm thêm chức
Bộ trưởng Tài chánh. Năm 1957, Đặng Tiểu
Bình là Trưởng ban Bí thư thường vụ trung ương đảng cs và làm việc trực tiếp
dưới quyền chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ. Đặng
Tiểu Bình (và Lưu Thiếu Kỳ) có lập trường dần dà thay đổi từ “cực tả”
(ultra-left) sang “cấp tiến” (Pragmatic / Right Opportunist).
Năm 1962 tại hội nghị ở Quảng
châu, Đặng Tiểu Bình tuyên bố một câu có lẽ là “nhãn hiệu” chính của hắn:
“Không cần biết là mèo trắng hay mèo đen; miễn sao mèo
bắt chuột là được.”
Tháng 7 năm 1962, Đặng Tiểu
Bình trong bài diễn văn “Làm cách nào để
tăng gia sản xuất” đã lớn tiếng mạnh dạn kêu gọi sự mở màn, bắt đầu công
việc cải cách kinh tế đi ra từ cái vỏ “vô sản, công trường sản xuất” vô tích
sự; khuyến khích nông dân sản xuất hữu hiệu hơn bằng cách cho họ thuê đất để tự
canh tác. Đặng Tiểu Bình mở đường, khai phá cho cái mà cs sau này gọi là “Kinh tế thị trường.”
Từ năm 1963, Đặng Tiểu Bình
bắt tay với Lưu Thiếu Kỳ để bắt đầu thi hành cái gọi là “Cải tổ kinh tế”
(Eeconomic Reforms) này. Qua hành động
của Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ, Mao thấy có chuyện không ổn sẽ xẩy đến cho
chủ thuyết cs. Mao e ngại là sẽ có sự trở lại của nền kinh tế tư bản và cái bùa
mà Mao gọi là “Cách mạng” sẽ chấm dứt).
Mao tức thì can thiệp, cho phát động phong trào “Cách mạng văn hóa” làm
bàn đạp cho việc thanh trừng (rooted out) Đặng Tiểu Bình (và Lưu Thiếu kỳ).
Đặng Tiểu Bình bị thanh
trừng, tước hết quyền hành, đưa trở về nông thôn làm việc lao động sản xuất
chân tay. Đặng Tiểu Bình tuy bị thanh
trừng nhưng cuộc đời và sự nghiệp không bị kết thúc một cách thê thảm như
trường hợp của Lưu Thiếu Kỳ.
________
Phụ Chú:
Môt tháng sau cái chết của Mao Trạch Đông (tháng 9 năm
1976), Hoa Quốc Phong tiện tay dẹp tiệm luôn cái gọi là “Cách Mạng Văn Hóa”bố
láo và thanh trừng “Tứ nhân Bang” (Gang of Four) cầm đầu bởi Giang Thanh vợ của
Mao chí tử.
Ngày 22 tháng 7 năm 197,7 Đặng Tiểu Bình được phục hồi chức vụ Phó chủ tịch Trung ương
đảng, Phó quân ủy và Tham mưu trưởng quân đội nhân dân.
Năm 1980 Đặng Tiểu Bình (tên
lùn mã tử - người ruồi gieo máu lửa) dùng tài khéo léo chính trị của mình, qua
mặt tất cả các đối thủ của mình trong đảng cs tầu kể cả Hoa Quốc Phong. Đặng Tiểu Bình chỉ cho Hoa Quốc Phong giữ
chức Ủy viên bộ chính trị và sau đó cho Hoa về hưu lặng lẽ.
Tại Việt Nam
Con rối lãnh tụ csvn như
thong lệ, rập theo khuôn khổ, đường lối, chính sách diệt chủng đã nêu ở trên từ
các lãnh tụ cs vĩ đại: Tại tập trung khổ sai (Gulags), Vùng kinh tế mới (Kulaks
/ forced resettlement), Cải cách ruộng đất (Land Reform), Trăm hoa đua nở (Let
a Hundred Flowers Bloom), Cách mạng văn hóa (Cultural Revolution), Bước tiến
nhẩy vọt (Great Leap Forward), Trại cải tạo (Re-eduacation camps)… đảng csvn
cũng thấy cần phải giết, phải thanh trừng để tỏ cho thế giới biết cộng sản Việt
Nam luôn luôn trung thành, đứng sát cánh với hàng ngũ đàn anh vĩ đại cộng sản
quốc tế Liên sô – Trung hoa. Đã bảo “Không ăn đậu không phải là Mễ; Không giết
không phải là cs.” Nếu cs Liên sô –
Trung hoa giết 10 thì csvn mình cũng cố gắng giết 2-3 cho nó ra vẻ cộng sản?!
Sau đâu chúng ta hãy điểm sơ
qua một số thanh trừng sắt máu trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam:
1- Trung tướng Nguyễn Bình (1906 - 1951)
Nguyễn Bình là Tổng chỉ huy
chiến trường cs ở trong Nam,
là trùm khủng bố đã từng giết rất nhiều người quốc gia. Vào tháng 5 năm 1951, Nguyễn Bình nhận được
một bức thơ vắn tắt của Võ Nguyên Giáp nguyên văn như sau:
“Đồng chí thân mến, Đồng chí sẽ được một toán hộ tống
30 người gồm nhân viên tùy tùng và bảo vệ. Tôi tin rằng đồng chí sẽ hoàn thành
nhiệm vụ nầy. Đồng chí sẽ đi đường rừng băng qua các tỉnh Kompong Chàm, Kratié,
Stung Streng.”
Dường như đã có linh tính báo
trước chuyến đi “tầu suốt” nầy. Tuy
Nguyễn Bình không nói ra, nhưng những thuộc hạ chung quanh Nguyễn Bình đều biết
như vậy. Thật ra, Nguyễn Bình có lý do lo lắng “việc ra Bắc” vì chính ngay
Nguyễn Bình trước đây cũng đã có làm vài phùa tương tự như việc ký những lịnh
“đi Bắc” để đưa những một số đồng chí thân yêu lên đường đi qua bên kia thế
giới cho tiện sổ sách.
Ngày 29/9/1951, Nguyễn Bình cùng đoàn tùy tùng 30 người trên
đường ra Bắc theo lịnh của Trung Ương đảng, đã bị một toán lính Miên do một
Trung úy người Pháp chỉ huy, phục kích tấn công. Nguyễn Bình bị tử thương tại làng Srépok,
huyện Se San, tỉnh Stung Streng, Cam Bốt.
Nhiều nguồn tin lúc bấy giờ
quả quyết là Tướng Nguyễn Bình bị Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp diệt trừ bằng
cách bí mật chỉ điểm cho Pháp biết lộ trình trên đường về Bắc của Nguyễn Bình
mà phục kích ngay chóc.
2- Đại biểu Quốc Hội Dương Bạch Mai (1904-1964)
Năm 1928, Dương Bạch Mai được
đảng cộng sản Pháp cử sang Moscow
trước để liên lạc với đảng cs Liên sô, sau đó là theo học thuyết cộng sản tại
trường “đai học Đông phương Stalin.”
Dương Bạch Mai học cùng khóa với các tổ sư csvn như Hà Huy Tập, Bùi Văn
Thủ, Trần Ngọc Danh (em của Trần Phú).
Học xong năm 1930 Dương Bạch Mai trở về Pháp và tiếp tục hoạt động cho
đảng cs Pháp.
Năm 1932 về Việt Nam sống công
khai và hoạt động cho csvn.
Năm 1946 Dương Bạch Mai được
bầu làm đại biểu quốc hội khóa I nước “Việt Nam Dân chủ Công Hòa” (Nước Việt
Cộng).
Ngày 20 tháng 3 năm 1947 mặc
dù Dương Bạch Mai đại diện cho cái chú phỉnh VNDCCH ở Pháp, nhưng Dương Bạch
Mai vẫn bị chính quyền chính quốc Pháp bắt ngang xương chẳng nể mặt nể mũi chú
phỉnh VNDCCH gì cả! Chính phủ ở Pháp
quản thúc Dương Bạch Mai ở Djibouti,
một thuộc địa của Pháp ở Phi châu.
Tháng 7, 1949 Dương Bạch Mai
bị Pháp giải về Saigon và đem đi quản thúc ở
Kontum. Với sự trợ giúp của cs địa
phương, Dương Bạch Mai vượt ngục Kontum và sau đó được đưa ra Bắc và tiếp tục
giữ vai trò Ủy viên ban thường trực quốc hội, thành viên ban Mặt trận của Trung
ương đảng.
Năm 1960 được lưu nhiệm là
đại biểu quốc hôi Việt Nam Khóa II.
Ngày 4 tháng 4 năm 1964,
trong ngày họp cuối cùng của kỳ họp thứ 8 của quốc hội khóa II, Dương Bạch Mai
bất ngở ngã quỵ phải đưa vào bệnh viện và chết ở đó.
Theo ông Vũ Thư Hiên, Dương
Bạch Mai bị đầu độc và cái chết của Dương Bạch Mai có liên quan đến vấn đề
Dương Bạch Mai dự định đọc một bài diễn văn phản đối lối xây dựng xã hội Viêt
Nam theo kiểu “xã hội trại lính” của Mao Trạch Đông, đòi đảng cs cải thiện đời
sống dân chúng, đòi thực hiện dân chủ trong nội bộ đảng…
_______
Phụ chú:
Một cán bộ cs gốc miền Nam chết một cách bí ẩn khác là
Huỳnh Văn Nghệ, Thứ tưởng Bộ Lâm Nghiệp.
Ttrước 1975, Huỳnh Văn Nghệ là Tư lệnh phó của Trần Văn Trà (tư lệnh
quân đội vi-xi ở miền Nam).
Huỳnh Văn Nghệ bị bệnh (?) và chết tại Sài gòn ngày 5 tháng 3 năm 1977.
3- Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-1967)
Nguyễn Chí Thanh là Ủy viên
Bộ Chính Trị, Bí Thư Trung ương Cục Miền Nam
kiêm Chính Ủy Quân Giải Phóng Miền Nam. Sau khi dùng cơm chia tay với
HCM ở Phủ Chủ Tịch, trở về nhà thì ngay đêm hôm đó, khi gần sáng ngày 6/7/1967
bị ói ra máu chết, đúng ngày định trở về miền Nam lần thứ 2. Theo cuốn “Giọt nước
trong biển cả,” trang 420, của Hoàng Văn Hoan, thì kẻ biết rõ âm mưu ám sát là
Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh.
4- Đại sứ Đinh Bá Thi (1921-1978)
Đinh Bá Thi tập kết ra Bắc
năm 1954. Làm việc ở Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam với chức vụ Ủy viên ban chấp hành Công đoàn Việt Nam, Trưởng ban
Tuyên Huấn Công đoàn Việt Nam.
Năm 1963 chuyển sang ngành
ngoại giao và năm 1969 làm đại sứ của chính quyền csvn ở Tiệp Khắc rồi Hungary.
Trong cuộc đàm phán để chấm
dứt chiến tranh Việt Nam ở Paris (bắt đầu tại Paris
từ ngày 13-5-1968 và ký kết ngày 23-1-1973). Đinh Bá Thi là Phó trưởng Phái
đoàn Đàm phán của MTGPMN trong hội nghị 4 bên.
Sau 1975, Đinh Bá Thi làm đại
sứ đầu tiên của cs ở Liên Hiệp Quốc.
Năm 1978, lúc 57 tuổi, khi
hoạt động tình báo tại Hoa Kỳ bị lộ, Đinh Bá Thi bị gọi về nước. Trong lúc đang chờ nhận nhiệm sở mới thì bị
chết vì tai nạn giao thông ở Phan thiết.
Đinh Bá Thi bị Lê Đức Thọ ra
lệnh giết vì bị nghi làm gián điệp hai mang trong thời gian hoạt động ở Hoa Kỳ.
5- Đai tướng Chu Văn
Tấn (1909-1984)
Chu Văn Tấn là Bộ trưởng Quốc
phòng đầu tiên, Thiếu tướng đầu tiên, và Thượng tướng đầu tiên của Quân đội
nhân dân csvn. Chu Văn Tấn bị thanh
trừng vì bị cho là theo phe than Trung công Hoàng Văn Hoan.
Ngày 2/9/1945, ngay sau khi
tuyên bố ra đời nước VNDCCH, HCM giao cho Chu Văn Tấn làm Bộ Trưởng Quốc
phòng. Chu Văn Tấn là một trong 9 Thiếu
tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân cs (1948) và cũng là một trong 2 Thượng
tướng đầu tiên.
Chu Văn Tấn ngưới gốc thiểu
số Nùng, từng dậy học ở Bắc hà. Năm 1936
đươc kết nạp vào đảng csvn. Năm 1941 là
Xứ ủy viên Bắc hà, chỉ huy Đội Cứu quốc quân 1, Cứu quốc quân 2.
Tháng 6 năm 1945 tham gia ban
lãnh đạo Tổng khởi nghĩa. Chu Văn Tấn
làm Bộ trưởng quốc phòng cho đến ngày 2/3/1946.
Năm 1948 là Khu trưởng khu 4,
rối chính ủy Chiến khu 1. Cũng năm này
Chu Văn Tấn được phong hàm Thiếu tướng.
Từ năm 1949 đến năm 1954, Chu
Văn Tấn làm Khu trưởng, Bí thư khu ủy Liên khu Việt Bắc, Chánh án Tòa án Quân
sự, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.
Từ năm 1954 đến cuối năm
1956, Chu Văn Tấn làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư quân khu ủy Liên khu Việt
Bắc.
Từ năm 1957 đến cuối năm
1975, ông làm Chính ủy, Bí thư khu ủy Quân khu Việt Bắc, Chủ tịch Ủy ban hành
chính Khu tự trị Việt Bắc.
Ngày 31 tháng 8 năm 1959,
được thăng quân hàm vượt từ cấp Thiếu tướng lên thẳng Thượng tướng và là một
trong hai Thượng tướng lúc bấy giờ.
Chu Văn Tấn được bầu làm Phó
Chủ tịch Quốc hội từ khóa III đến khóa V, Tổng Thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa V; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc. Hắn cũng là
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa I, II và III; đại biểu
Quốc hội từ khóa II đến khóa V.
Năm 1976, Chu Văn Tấn được
bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất. Tuy nhiên, không
lâu sau đó, quan hệ Việt-Trung trở nên căng thẳng và tệ hại nhanh chóng đưa đến
viễn ảnh thanh trừng nội bộ sẽ xảy ra giữa các thành phần lãnh đạo csvn có lập
trường thân Liên sô và thân Trung. Con
nhạn Ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan thấy lạnh gáy, biết thân phận, phải
chạy vọt trốn sang Trung hoa xin tỵ nạn chính trị.
Cuộc chiến tranh Việt-Trung
bùng nổ vào năm 1979. Chu Văn Tấn cũng bị liên lụy vì bị cho là cùng phe với
Hoàng Văn Hoan. Từ đó Chu Văn Tấn bị trù
dập, quản thúc xa gia đình cho đến ngày qua đời năm 1984 tại Hà Nội.
6- Đại tướng Hoàng Văn Thái (1915-1986)
Hoàng Văn Thái là Tướng Tham
mưu trưởng đầu tiên của quân đội nhân dân cs lúc mới có 30 tuổi. Hoàng Văn Thái là sui gia với Võ Nguyên Giáp.
Khi Hoàng Văn Thái là Tư lệnh
quân giải phóng Miền Nam,
Thái tham gia hầu hết các chiến dịch quân sự lớn nhất của csvn ở Miền Nam: Chiến dịch
Tết Mậu Thân (1968); Chiến dịch Xuân Hè (1972); Chiến dịch Mùa Xuân / Hồ Chí
Minh (1975). (Trước đây Thái cũng đã
tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm (1954).
Năm 1973, sau Hiệp định Paris ký kế, Mỹ bắt đầu rút khỏi Việt Nam thì Hoàng
Văn Thái được triệu ra Bắc nhận chức vụ Thứ trưởng quốc phòng.
Hoàng Văn Thái cũng là một
nhân vật chính trị cao cấp của Việt cộng, từng giữ các chức trọng đại khác như:
Đại biểu quốc hội khóa VII, Ủy viên Ban chấp hành trung ương đảng csvn khóa
III, IV và V.
Đến năm 1980 thì mang quân
hàm Đại tướng.
Khi Thái chuẩn bị lên làm Bộ
Trưởng Quốc Phòng thay thế Văn Tiến Dũng và có thể trở thành Chủ tịch Hội đồng
an ninh quốc gia đầu tiên của Việt Nam thì ngày 2/7/1986 Thái chết đột ngột,
thọ 71 tuổi. Trước khi chết, Thái nói với vợ: “Người ta giết tôi!”
7- Đại tướng Lê Trọng Tấn (1914-1986)
Lê Trọng Tấn tên thật là Lê
Trọng Tố, gia nhập Việt Minh từ năm 1945, giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung
đoàn 312 trong chiến dịch Điện biên phủ (1954).
Từ 1954-60 Lê Trọng Tấn làm
Giám đốc trường Sĩ quan bộ binh rồi làm Phó Tổng Tham mưu quân đội (1961-62).
Trong chiến tranh Việt Nam.
Lê Trọng Tấn xâm nhập vào Nam
từ năm 1972. Chỉ huy mặt trận Quảng Trị
năm 1975, và chỉ huy mặt trận Huế- Đà nẵng vào đầu năm 1975.
Tháng 3 năm 1975 Lê Trọng Tấn
là Chỉ huy Phó toàn bộ Chiến dịch HCM.
Nên biết đại đội 4 thuộc trung đoàn 1 quân đoàn 2 là đơn chỉ huy bởi Lê
Trọng Tấn đầu tiên tiến chiếm Dinh Độc lập Saigon ngày 30/4/1975.
Sau 30/4/1975, Lê Trọng Tấn
làm Giám đốc Trường quân sự cao cấp; và trong trận chiếm Campuchia, Lê Trọng
Tấn là tư lệnh các lực lượng quân sự vi-xi đánh ở Campuchia (1976-79).
Từ 6/1978 cho đến khi chết,
Lê Trọng Tấn làm Thứ trưởng Bộ quốc phòng và Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân
dân, chuẩn bị để thay thế Văn Tiến Dũng thì chết đột ngột vào ngày 5/12/1986,
thọ 72 tuổi.
Nên biết, Lê Trọng Tấn chết
ngay sau khi trở về từ chuyến đến viếng thăm nhà của Lê Đức Thọ.
Có tin đồn là Lê Trọng Tấn bị
đầu độc (Lê Trọng Tấn chết 5 tháng sau khi Hoàng Văn Thái cũng bị Lê Đức Thọ
sát hại).
8- Trung tướng Phan Bình (1934-1987)
Phan Bình Cục trưởng Cục Quân
Báo (tức Cục 2), sau khi vừa bị Lê Đức Anh chỉ thị phải về hưu, tước mất quyền
binh giao cho Tư Văn, một đàn em của Lê Đức Anh (Cục 2 sau đó đổi thành Tổng
Cục 2). Vừa Bàn giao quyền hành xong,
Phan Bình từ Hà Nội vào Sài gòn thăm bạn bè thì bị giết bằng cách bắn vào đầu
vào ngày 13/12/1987 tại nhà nghỉ của Cục 2 số 30 Lê Quý Đôn Sài gòn.
Sau cái chết của Phan Bình,
Tổng Cục 2 báo cáo lên Trung Ương đảng csvn là “Đồng chí Phan Bình bị bệnh tâm
thần nên đã tự sát.” Giới lãnh đạo đảng
không thuộc ngành quân báo đều biết là Phan Bình bị giết chứ không phải tự
sát. Tổng Cục 2 chỉ tạo dựng chứng cớ
giả để bưng bít lừa gạt dư luận. Trung
tướng quân đội Lê Văn Hiền, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, Thượng tướng Nguyễn
Minh Châu… đều xác nhận chuyện này.
Tướng Nguyễn Minh Châu, tư
lệnh quân khu 7 cho biết là báo cáo của Tổng Cục 2 không đúng sự thật. Phan Bình chết ngã nằm sấp ở phòng khách ở
đầu bị bắn thủng toạc ra một lỗ rất rộng, chứng tỏ người bắn là người quen
biết, đến rất gần sát Phan Bình rồi bất ngờ nổ súng thình lình làm Phan Bình
trở tay không kịp. Ngoài ra kẻ ám sát
còn biết rõ là sau khi bàn giao Cục Quân báo cho cho Tư Văn, Phan Bình bị lấy
lại súng ngắn nên không có gì để tự vệ; kẻ sát nhân yên tâm dễ dàng ra tay.
Dã man hơn nữa là 1 tháng sau
khi Phan Bình bị chết, con trai của Phan Bình cũng là một sĩ quan Quân báo, là
người phát giác ra cha mình bị giết cũng bị chết một cách mờ ám khi bị ép đưa
vào viện “tâm thần.”
Cái chết của cha con Phan
Bình làm cho các sĩ quan cao cấp quân đội cũng như ngành quân báo cs rúng động,
lo sợ cái không khí khủng bố bao trùm.
Nguyên nhân chính làm cho
Phan Bình bị giết vì Phan Bình từng là chỉ huy Cục quân báo, hắn biết rất nhiều
chuyện nếu lọt ra ngoài thì không có lợi cho cấp lãnh đạo cs. Phải giết để bịt đầu mối.
9- Thượng Tướng Công An Thi Văn Tám (1948-2008)
Thi Văn Tám sinh ở Long an,
hoạt động bí mật cho cs từ lúc 13 tuổi.
Năm 6/1966 làm công tác ở đội Cảnh vệ Công an Huyện Đức Hòa tỉnh Long
an.
Tháng 2/1968 làm đội trưởng
Đội cảnh vệ huyện Đức hòa. Tháng 12/1968
được kết nạp vào đảng cs.
Tháng 6/1970 trên đường đi
công trác đụng độ với quân VNCH thì bị thương và bị bắt sống đày ra Phú quốc.
Sau khi hiệp định Paris được ký kết (1973),
Thi Văn Tám được trao đổi tù binh và sau đó được đưa thẳng ra Bắc để điều
dưỡng.
Tháng 4/1974 xâm nhập miền Nam trở lại và
được bố trí tại đơn vị Trinh sát thuộc Tiểu ban bảo vệ chính trị thuộc Ban an
ninh Trung ương Cục Miền nam.
Sau 1975 Thi Văn Tám từ một
cán bộ trinh sát, được thăng cấp ào ào vì có nhiều thành tích tình báo an ninh
nổi bật. Thi Văn Tám đã trực tiếp đến vùng rừng núi Việt-Lào để
phối hợp với quân đội, chỉ huy thu thập tài liệu, hình ảnh việc tiêu diệt quân
khánh chiến xâm nhập, giết Hoàng Cơ Minh chủ tịch của “Mặt trận quốc gia thống
nhất giải phóng Việt Nam” ngày 4-8-1987.
Tháng 10/1987 đến tháng
12/1988 ngày 4-8-1987 làm chuyên viên an ninh ở Campuchia.
Năm 1996 làm Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục An ninh.
Nam 2001 Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh.
Năm 2002 thăng hàm Thiếu
tướng.
Năm 2005 lên Trung tướng.
Năm 2006 thăng Thượng tướng
và được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Công an.
Ngày 12/12/2008 Thi Văn Tám
Thứ trưởng Bộ Công an đặc trách Tình báo Gián điệp ngã lăn ra chết trong lúc
đang mạnh giỏi và đi công tác đó đây liên tục.
Mãi đến ngày 15/12/2008, các cơ quan truyền thông mới đồng loạt loan tin
là Thi Văn Tám “chết sau một thời gian dài lâm bệnh,” mà không nói rõ là chết
vì bệnh gì?
Dư luận cho là Thi Văn Tám bị
thanh toán, chết vì đầu độc. Thi Văn Tám
đi cộng tác vừa về đến nhà thì chết vì bị uống nước pha thuốc độc trên máy bay.
10- Thượng Tướng Nguyễn Khắc Nghiên (1951- 2010)
Nguyễn Khắc Nghiên nhập ngũ
năm 1969, gia nhập đảng cs năm 1972.
Năm 1998 được phong Thiếu
tướng.
Năm 2002 thăng Trung Tướng và
nhận chức Tổng Tham mưu trưởng thay cho Phùng Quang Thanh.
Năm 2007 thăng Thượng tướng
và bổ nhiệm Thứ trưởng quốc phòng.
Như vậy Nguyễn Khắc Nghiên,
nhân vật số 2 của Bộ Quốc Phòng chỉ đứng sau Phùng Quang Thanh.
Trong khi đang giữ hai chức
vụ Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và Tổng Tham Mưu Trưởng Quân đội Nhân dân rất ngon
lành ở tuổi 59, Nguyễn Khắc Nghiên đột ngột qua đời ở Bệnh viện Trung Ương Quân
Đội 108 ngày 13/11/2010 sau một thời gian “lâm bệnh hiểm nghèo?” nhưng không
nói là bệnh gì?
11- Thượng Tướng Phạm Quý Ngọ (1954 - 2014)
Phạm Quý Ngọ theo học và tốt
nghiệp Đại học Cảnh sát Nhân dân, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 19 tháng 4 năm 1980.
Trước khi về công tác tại Bộ
Công an, năm 1997, Ngọ từng giữ chức Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh Thái
Bình, hàm Đại tá. Thời gian này Ngọ
thẳng tay đàn áp, bắt và thủ tiêu vào ban đêm rất nhiều người dân khố rách áo
ôm và cựu chiến binh cộng sản ở Thái Bình nổi loạn kéo sập ủy ban hành chánh,
đập bỏ tượng HCM. Đường hoạn lộ và quyền lực của Ngọ “thăng hoa” từ thành tích
đàn áp cuộc nổi dậy trên quê hương Thái bình của Ngọ, nhà văn Dương Thu Hương dã
phải kết luận là:
“Nếu không có nổi loạn Thái Bình 1997 thì không có
Thượng tướng Công an Phạm Quý Ngọ hôm nay.”
Ngày 14 tháng 2 năm 2006, Ngọ
được bổ nhiệm làm Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát nhân dân, hàm Thiếu
tướng.
Ngày 11 tháng 7 năm 2006, Ngọ
được bổ nhiệm kiêm chức Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra, thay Thiếu tướng
Cao Ngọc Oánh vừa bị Nguyễn Tấn Dũng cách chức vì đã tham dự "bữa ăn chạy
án" vụ PMU 18.
Ngày 28 tháng 1 năm 2008, Ngọ
giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an. Trên cương vị
này, Ngọ giữ vai trò Chủ tịch Hội nghị Cảnh sát các nước ASEAN lần thứ 29
(ASEANAPOL-29) diễn ra từ 13 đến 15 tháng 5 năm 2009 tại Hà Nội.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2010
Ngọ được chuyển sang làm Tổng Cục trưởng Tổng Cục Cảnh sát Phòng chống Tội
phạm.
Ngày 12 tháng 8 năm 2010, Ngọ
được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng Bộ Công an.
Ngày 18 tháng 1 năm 2011, Ngọ
được bầu làm Ủy viên Chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Ngày 22 tháng 7 năm 2013, Ngọ
được thăng hàm Thượng tướng.
Trong vụ án Dương Chí Dũng
Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội
Đồng Quản trị Vinalines, đã lãnh án tử hình vì tội “cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế và Tham ô tài sản
lên tới 3.2 tỳ đô la.” Trong lúc vụ
án Dương Chí Dũng tham nhũng bạc tỷ này đang được điều tra thì Dương Chí Dũng
chạy trốn sang Campuchia. Sau khi Dương
Chí Dũng bị bắt giải về Việt Nam
và tiếp tục bị xử. Dương Chí Dũng khai
là đã hối lộ cho Phạm Quý Ngọ (nên biết chính bá Ngọ đang là Trưởng ban chuyên
án điều tra các sai phạm tại Vinalines) tổng cộng trong 2 lần với số tiền mặt
510,000 đô la để Ngọ và cấp trên của Ngọ giúp Dương Chí Dũng chạy án cho nhẹ
tội.
CSvn rất lúng túng chưa biết
phải dùng cơ quan nào để điều tra lời khai của Dương Chí Dũng cho đỡ bẽ bàng,
vì không lẽ dùng Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an do Ngọ làm thủ trưởng để
điều tra Ngọ? Có tin là Ban Nội chính
Trung ương sẽ đề nghị Ban chỉ đạo chống tham nhũng (do Tổng Bí Thư Nguyễn Phú
Trọng) trực tiếp yêu cầu Công an Hà nội nhận điều tra vụ án Phạm Quý Ngọ này.
Đùng một cái có tin Phạm Quý
Ngọ mất ngày 18 tháng 2 năm 2014 ở tuổi 60 tại Bệnh viện Quân đội 108, Hà Nội
do bệnh “ung thư gan.”
Thật khôi hài, trước ngày “được
chết theo quy trình” độ 1 tháng (ngày 11/12/2013), Phạm Quý Ngọ với tướng mạo hồng hào mạnh
khỏe, đứng ra tổ chức đám cưới linh đình nhất ở Việt Nam từ trước đến nay tại
khách sạn 5 sao J.W. Marriott Hà Nội (khách sạn này thuộc loại sang trọng bậc
nhất Hà Nội nằm trong Trung tâm Hội nghị Quốc gia và Hội trường Ba Đình). Nên
biết thêm, khách sạn J.W. Marriott được giới thiệu có phòng dành cho khách
nguyên thủ quốc gia (1 phòng dành cho Phó Tổng thống và 1 phòng dành cho Tổng
thống) cho con trai là Đại úy Công an Phạm Mạnh Hùng – Trưởng phòng Điều tra
thẩm định án kinh tế, tham nhũng thuộc Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ
Công an (Báo lố cs tâng bốc là “hổ phụ sinh hổ tử?!” – Người viết xin tạm dịch
nôm là “Cha chết rồi con sẽ chết.”)
Việc các tướng ngành công an,
tình báo chết gần đây do tranh giành quyền lực hoặc vì nhu cầu bịt miệng (xác
chết không biết nói) cũng không phải là chuyện ngạc nhiên. Chính các giới an ninh này đã có sẵn nhiều
phương tiện mờ ám, tài chánh, và nhân sự chuyên nghiệp (professional hitmen),
thành ra ra tay hạ độc thủ chỉ là chuyện “một ngày như mọi ngày” thôi.
Lời kết
Chuyện thanh trừng nội bộ lãnh
đạo cao cấp cộng sản rất dài, chưa thể ngừng ở đây...
Còn biết bao nhiêu cuộc thanh
trừng và trù dập khác chưa có dịp kể đến như trường hợp của Thượng tướng Trần
văn Trà (1919-1996), Trung tướng Trần Độ (1923-2002), Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
(1908-1986), Thiếu tướng Đặng kim Giang (1910-1983), Cựu Phó thủ tướng Đoàn Duy
Thành (1929-2003), Thượng tướng Lê Minh Hương (1936-2004), Thượng tướng Thứ
trưởng Công an Nguyễn Văn Tính (1961-2006), Ủy viên BCT Trần Xuân Bách
(1924-2006)… và ngày rộng tháng dài, danh sách này cứ thế tiếp tục dài thêm. Ai
sẽ là người kế tiếp được ưu ái liệt kê trong bảng phong thần này? Có nhiều tay đã vấy máu đồng bào, đống chí,
đồng rận còn phải chui qua ống cống trước đã… Mồ mả của những tay đã bán muối
rồi cũng chẳng được yên ổn đâu! Chờ xem
phần kết.
Kể ra cũng thấy rét thật chớ
chẳng phải chuyện đùa!
Trần Văn Giang
28 tháng 2 năm 2014
( HNPĐ )
* Xin Chỉnh CỠ CHỮ hoặc BẤM VÀO ĐÂY ĐỌC RÕ HƠN cho vừa mắt xem.
( HNPĐ )
* Xin Chỉnh CỠ CHỮ hoặc BẤM VÀO ĐÂY ĐỌC RÕ HƠN cho vừa mắt xem.
Bàn ra tán vào (1)
quang dinh
ĐẢNG THỊT XÔI MỒI BA X
Hấp dẫn quỷ râu xanh tranh bước nhảy hoàn vũ
SÀI GÒN không chính chủ đảng X đủ mặt dày
Xin cho bọn tay sai xài đô la rúp hét
Vua Tin Vịt bốc phét những đàn két hả hơi
Đạo dụ đám dân chơi của trời ơi ăn nhậu
Lương lãnh không bằng lậu gương mẫu cậu ông trời
Bà thiên hậu lã lơi mời tam tòng Doan Phóng
La Thăng không bất động mộng lũng đoạn giáng si
Nước mắt tiển Ngọ đi li kì dân trùng táng Hà Nội lội dưới háng khè tứ tốt bạn vàng
Một đại tướng quốc tang hai to hàm thí chốt
Đầu bốn thằng khỉ đột dột từ nóc xuống trôn
Công an nhóm cô hồn môn búa liềm xiềng xích
Đại gia xây tuỳ thích hịch cửu vạn đầu lâu
Khen ai khéo lên lầu thuyền câu chầu hạm chiến
Giang san trong nguy biến vẫn biểu diễn múa đôi
Dư lợn viên ướt môi cỗ thịt xôi bồi máu
TÂM THANH
----------------------------------------------------------------------------------
Thanh trừng trong nội bộ lãnh đạo cộng sản - Trần Văn Giang
HNPĐ- (Hộ khẩu cuối cùng của độc tài toàn trị)
Cộng sản mà không giết người thì cũng y như món “tiết canh mà không có tiết.” – TVG.
(Hộ khẩu cuối cùng của độc tài toàn trị)
Cộng sản mà không giết người thì cũng y như món “tiết canh mà không có tiết.” – TVG.
Hộ khẩu cuối cùng của độc tài toàn trị ( Hình )
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin... bất diệt.”
(Tố Hữu - Cải Cách Ruộng Đất
cuả thập niên 1950)
“Giết, giết nữa” là nét tiêu
biểu đặc biệt của chủ nghĩa cộng sản.
Chẳng những chỉ “giết” thôi mà phải giết cho thật nhiều (“bàn tay không phút nghỉ”). Lịch sử thế giới từ cổ chí kim chưa có một
chế độ, một đường lối chính trị nào chủ trương giết đồng chủng một cách tàn ác
mà có thể so sánh được với cộng sản.
Thật bất hạnh cho dân tộc, Hồ
Chí Minh (HCM) đưa nước Việt Nam
vào cái vòng chém giết phi nhân này đã gần 100 năm. Chỉ qua một vài câu thơ
ngắn ở trên thôi, Tố Hữu đã đã cho chúng ta thấy cái ý đồ, cái cương lĩnh
của đảng csvn trong việc “rèn luyện đạo đức cách mạng,” “tạo bản lĩnh phi
nhân” con người cs; biến những người nông dân Việt hiền lành chất phác
thành những tên sát nhân tàn bạo để phục vụ cho mục đích của cs. Vài câu thơ ngắn này cũng đã được đọc đi đọc
lại trên hệ thống tuyên truyền của csvn trong giai đoạn “Cải cách ruộng đất”
rập khuôn theo cs tầu, hô hào phải giết bớt đồng bào ruột thịt… rồi sau đó làm
gì? “thờ
Sít-ta-lin (của cs Liên sô), thờ Mao Chủ
tịch (của tầu cộng)… bất diệt???” Mỉa
mai thay hai tên trùm cộng sản khát máu quốc tế mà Tố Hữu mù quáng nâng bi này
đã giết tổng cộng trên 50 triệu nhân mạng (con số bị giết chưa được kiểm kê
không chính xác, nhiều tài liệu nói từ 20 triệu đến 70 triệu) qua các chương
trình diệt chủng quy mô như:
Tại tập trung khổ sai (Gulags),
Vùng kinh tế mới (Kulaks / forced resettlement),
Cải cách ruộng đất (Land Reform),
Trăm hoa đua nở (Let a Hundred Flowers Bloom),
Bước tiến nhẩy vọt (Great Leap Forward),
Cách mạng văn hóa (Cultural Revolution).
HCM và đảng csvn đã “nhiệt
liệt” cóp-pi tận tình các chương trình giết người quy mô này và áp dụng lên dân
tộc Việt: Cứ việc giết nhau để tự hủy diệt nòi giống. Chính sách gì mà quái đản vậy nè trời!
Trong lịch sử diệt chủng của
thế giới có liệt kê cả tên tuổi thành tích sát nhân HCM của csvn. Đây phải là một sự xấu hổ vô bờ bến cho dân
tộc chứ vinh quang cái con củ cải gì?
Rất tiếc, vì giấy bút có hạn,
bài viết này chỉ chủ tâm trình bày một khía cạnh nhỏ trong chương trình “giết”
to lớn của cs. Đó là vấn đề giới lãnh
đạo cs thanh trừng, tiêu diệt giới lãnh đạo cs.
Thiệt tình! Cs giết dân chưa mệt,
chưa chán, họ quay qua giết lẫn nhau cho đủ chỉ tiêu?!
Việc thanh trừng dưới chế độ
cs không phải là chuyện mới lạ (đã có cs là phải có giết). Thanh trừng / Giết là phương tiện để cs chứng
minh, duy trì mục đích, củng cố hệ thống độc tài toàn trị. Cộng sản mà không giết người thì cũng y như
món “tiết canh mà không có tiết;” hay nói cho văn hoa hơn là như “vườn thượng
uyển không có hoa…”
Phải thật sự mù lòa mới không
nhận ra những gì người cộng sản làm, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, chỉ thuần
túy là các trò hề vụng về được diễn đi diễn lại nhiều lần từ quốc gia này qua
quốc gia khác. Khởi đầu phải được đề
xuất một cách “kiệt xuất” từ một anh cs vĩ đại (Liên sô hay Trung cộng gì đó)
rồi các đàn em cs nhỏ nhi nhô cứ thế mà mần đi mần lại y chang. Thật tội nghiệp, thật thê thảm cho kiếp con
người phải bất hạnh sống dưới chế độ cs.
Việc thanh trừng và thủ tiêu
xuyên qua 4 lãnh vực:
Hàng ngũ cao cấp Chính trị đảng cs,
Quân đội,
Hàng ngũ trí thức
và đám dân ngu khu đen.
Việc thanh trừng không chỉ
đơn thuần nhẹ nhàng vô tội vạ như “khai trừ khỏi đảng” mà chắc chắn phải có các
hình thức trừng phạt nặng nề làm tổn thương đến tài sản, thể xác, bắt giam, tù
đày cải tạo… cho chết dần chết mòn; thủ tiêu cho chết tức thời (cắt tiết, mò
tôm, đầu độc…)
Qua phần trình bày ở phía
dưới, quý vị sẽ thấy các tiểu sử trích ngang của các nhân vật cao cấp cs bị
thanh trừng. Tiểu sử bao gồm vắn tắt thời gian và hoàn cảnh gia
nhập hoặc kết nạp vào đảng cs, thành tích, chức vụ và lý do tại sao bị thanh trừng; kế tiếp là đời sống, sinh
mạng của các cán bộ cao cấp thổ tả này kết thúc như thế nào sau khi bị thanh
trừng.
Tại Liên sô (Nga)
Liên sô có khoảng cách địa lý xa xôi và văn hóa khá xa lạ với Việt Nam - ngoại trừ một vài cá nhân tên tuổi đã được thế giới bi61t đến, còn hầu hết nhưng tên người và địa danh không đọc thành tiếng Việt được. Người viết chỉ xin phép ghi một số quan chức cao cấp quan trọng trong lãnh đạo cs Liên sô bị thanh trừng.
Joseph Stalin đứng đầu danh
sách lãnh tụ cs khát máu thế giới. Theo
các tài liệu lịch sử còn ghi lại, Stalin và đảng cs Liên sô đã giết trên 30
triệu dân Liên sô dưới nhiều hình thức.
Stalin còn thanh trừng, tiêu diệt các lãnh đạo công sản Liên sô không có
đồng quan điểm với hắn. Khởi đầu Stalin
đã tìm nhiều cách ngoạn mục giết gần một nửa số thành viên của bộ chính trị
đảng cs Liên sô do Lenin thành lập (mà chính Stalin cũng là một thành viên) gồm
cả các “anh hùng” của “cách mạng vô sản tháng 10 Liên sô” như Mikhail
Tukhachevsky, Béla Kun, Leon Trotsky…
Nên biết, Leon Trotsky là một trong những người đã sáng lập ra Hồng Quân
(Red Army), một trong những thành viên đầu tiên của bộ chính trị đảng cs Liên
sô, nhân vật đối lập chính trị tranh chấp quyền hành trực tiếp với Stalin. Trotsky bị Stalin khai trừ khỏi đảng cs Liên
sô năm 1927, rồi bị trục xuất khỏi lãnh thổ Liên sô năm 1929. Năm 1940 Stalin gởi điệp viên (agents) sang
tận Mexico
để ám sát Leon Trotsky khi Trotsky đang sống lưu vong ở đây. Gia đình Trotsky ở lại Liên sô cũng bị giết
gần hết trong các lần tấn công khác của Stalin.
Đặc biệt hơn nữa, Stalin còn
tiêu diệt cả các đồng chí cộng sự viên thân tín đã cũng cố địa vị của Stalin
chứ không phải chỉ có phần tử đối lập, tranh quyền. Năm 1934 Stalin giết (bằng cách ám sát)
Sergei Kirov, cánh tay phải thân tình sát cánh của Stalin, chỉ vì Kiriov có
đường lối cách mạng ôn hòa hơn Stalin và từ từ được quần chúng tỏ ra mến chuộng.
Đến khi Đức quốc xã đánh sang
Liên sô, Stalin dùng một chiêu rất ngoạn mục gọi là “Đạo quân thứ 5” (The Fifth
Column) để lấy cớ, làm tiền đề tiêu diệt, loại ngoài vòng chiến rất nhiều thành
viên bộ chính trị Liên sô nổi tiếng khác
như Vyacheslav Molotov và Lazar Kayanovich;
Stalin gán cho họ các tội làm
gián điệp cho Đức quốc xã mà không cần nêu bằng chứng rõ ràng.
Trong quân đội, Hồng quân
(Red Army), Stalin thanh trừng (đuổi cổ ra khỏi đảng cộng sản Liên sô, hoặc cầm
tù…) với các tội danh rất mơ hồ như gián điệp, phản quốc, phản cách mạng, lừng
khừng thiếu lập trường. Vài con số được
ghi lại: 3 trong 5 Thống tướng (5 sao), 13 trong 15 tướng tư lệnh bộ binh (3 và
4 sao), 8 trong 9 Đô đốc Hải quân, 50 tướng trong số 57 tư lệnh quân đoàn, 154
tướng trong số 186 tướng sư đoàn… Tóm
lại trong quân đội Liên sô, có 25-50% sĩ quan các cấp bị thanh trừng (chừng 30%
được giữ lại trong quân đội lúc chiến tranh với Đức quốc xã lên cao điểm).
Trên mặt trận văn hóa, trong
2 thập niên 1920’s và 1930’s có khoảng 2000 văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ,
nghệ sĩ đủ loại bị bắt cầm tù trong các trại cưỡng bức lao động tập trung
(Gulags) cũng với các tội rất mơ hồ, rất tự tiện như gián điệp, phản quốc, phản
cách mạng, thiếu lập trường, có tư tưởng đồi trụy, tư tưởng tiểu tư sản… Trong số bị giam cầm đày đọa này, độ 1500
người bỏ mạng vì đói, bệnh, kiệt sức trong lúc tù đày.
Tại Trung cộng
Đồ tể Mao Trạch Đông không khi
nào chịu thua kém gì Stalin của Liên sô về bất cứ khía cạnh nào. Ngay sau khi chiến tranh quốc–cộng ở Trung
hoa vừa chấm dứt, Mao Trạch Đông và cs tầu đã hoàn toàn kiểm soát Trung hoa là
Mao đã nghĩ đến việc giết dân và thanh trừng cán bộ chính trị cs. Nhóm đầu tiên phải giết là trí thức, viên chức
chính phủ và sĩ quan quân đội thuộc hoặc liên hệ đến chính quyền Tưởng giới
Thạch (Quốc dân đảng Trung hoa).
Các chương trình Cải cách
ruộng đất, Bước tiến nhẩy vot, Trăm hoa đua nở, Cách mạng văn hóa diệt chủng
của Mao lấy đi mạng sống của gần 20 (?) triệu dân Trung hoa vô tội.
Mao và đảng cs tầu còn thanh
trừng và giết một số đồng chí bộ chính trị tên tuổi lớn như sau:
1- Lâm Bưu (1907-1971)
Lâm Bưu là một trong nhũng
đảng viện cs tầu kỳ cựu nhất của cs tầu, từ lúc cs tầu còn đánh nhau với quân Tưởng
Giới Thạch và quân Nhật Bản.
Ngoài chức Ủy viên bộ chính
trị (Poliburo), Lâm Bưu còn là Phó chủ tịch nhà nước (1958), Bộ trưởng quốc
phòng (1959).
Năm 1966, Lâm Bưu được chỉ
định là người kế vị Mao; và chính Lâm Bưu được xem như người đã vẽ, sáng lập ra
phong trào “Cách mạng văn hóa / Vệ binh đỏ” bắt đầu từ năm 1966. Phong trào này kéo dài qua cả thời gian sau
khi Lâm Bưu chết năm 1971; và chỉ hoàn toàn chấm dứt khi Giang Thanh và “Tứ
nhân bang” (Gang of Four) banh càng.
Từ cao điểm của cuộc “Cách
mạng văn hóa” với các khuấy động đẫm máu gây ra bởi “Vệ binh đỏ” do Lâm Bưu cầm
chịch này, 4 nhân vật chóp bu khác của bộ chính trị là Lưu Thiếu Kỳ (Chủ tịch
nhà nước - 1954 to 1959, and President of the People's Republic of China, from
1959 to 1968 China's head of state), Bành Chân (Thị trưởng Bắc kinh) và Bành
Đức Hoài (cựu Bộ trưởng quốc phòng). Đặng Tiểu Bình (Phó thủ tướng, Trưởng ban
bí thư trung ương đảng) bị thanh
trừng.
Trời quả báo, chỉ đến năm
1970 thì Lâm Bưu bị thất sủng. Thấy nguy
cơ cho tính mạng mình, năm 1971 Lâm Bưu âm mưu một cuộc đảo chánh Mao Trạch
Đông nhưng âm mưu bị bại lộ. Sợ bị trừng
phạt, Lâm Bưu dùng máy bay định bay qua Liên sô xin tỵ nạn nhưng bị chết vì máy
bay rớt ở Mông cổ.
2- Lưu Thiếu Kỳ (1898 – 1969)
Tương tự như trường hợp của
Lâm Bưu, Lưu Thiếu Kỳ là một đảng viên, ủy viên bộ chính trị kỳ cựu cs
tầu. Lưu Thiếu Kỳ được xem như lý thuyết
gia (Chief Theoretician) chính cùa đảng cs tầu. Lưu Thiếu Kỳ từng được mao nhường
cho chức Chủ tịch nhà nước Trung cộng (President of the People's Republic of
China / China's head of state ) từ năm
1954 cho mãi đến năm 1968. Mao chỉ giữ
chức Chủ tịch đảng cs và tư lệnh quân đội.
Có thể nói Lưu Thiếu Kỳ được xếp hàng thứ nhì trong giới lãnh đạo cs
tầu, chỉ đứng sau có Mao trạch Đông.
Mãi cho đến khi bị thanh
trừng vào năm 1968, Lưu Thiếu Kỳ đươc công nhận khá rộng rãi là người sẽ kế vị
Mao Trạch Đông.
Bắt đầu từ năm 1962 Lưu Thiếu
Kỳ (cùng với Đặng Tiểu Bình) công khai nêu ra sự cần thiết của một số chương
trình canh tân, cải tổ trong đó cho phép dân có một ít quyền tư hữu, mở cửa mậu
dịch với ngoại quốc, bài trừ tham nhũng và trì trệ hành chánh... Lưu Thiếu Kỳ (và Đặng Tiểu Bình) sau đó bị
thất sủng, bị gán (labeled / denounced) và kết nhiều tội (condemned) như “phản
quốc,” “thành phần nguy hiểm mở đường cho tư bản,” “có tư tưởng phá hoại định
chế đảng cs và quốc gia...” Thực ra sự
thất sủng của Lưu Thiếu Kỳ rất mơ hồ, không được ghi chép lại rõ rệt với bằng
cớ. Một nguyên do khác của sự thất sủng
có lẽ là Lưu Thiếu Kỳ dần dần được xem như là có ý đồ cạnh tranh, thi đua quyền
lực với Mao (the result of a power struggle).
Đến khi “Cách mạng văn hóa,” bùng nổ, Mao củng cố vị trí xong thì việc
đầu tiên Mao làm là thanh trừng Lưu Thiếu Kỳ.
Năm 1967-68, Lưu Thiếu Kỳ bị tước hết quyền hành, bị trục xuất khỏi đảng
cs, và bị giam lỏng tại nhà (house arrest).
Từ sau khi bị thanh trừng không ai còn nghe thấy tăm hơi gì của Lưu
Thiếu Kỳ; chỉ biết Lưu Thiếu Kỳ chết năm 1969 (?)
3- Bành Chân (1902 - 1997)
Bành Chân là một đảng viên cs
tầu kỳ cựu. Gia nhập đảng cs từ năm
1923. Ra vào tù rất nhiều lần vì tranh đấu chống Nhật, chống Quốc dân
đảng.
Năm 1949 Bành Chân có công
chỉ huy một lực lượng võ trang cs chiếm lấy thủ đô Bắc kinh từ quân Tưởng Giới
Thạch.
Năm 1951 Sau khi giữ nhiều
chức vụ khác nhau ở bộ chính trị và ban bí thư bộ chính trị, Bành Chân được bổ
nhiệm làm Bí thư thứ nhất Thành phố Bắc kinh (Tương tự như chức Thị
Trưởng).
Bành Chân là ủy viên chính
thức của Bộ chính trị từ năm 1956 đến năm 1966.
Năm 1980 Bành Chân làm Bí thư
Cục Chính trị và “Công vụ” (Legal Affairs) tại Bộ chính trị đảng.
Năm 1983 là chủ tịch quốc hội
kỳ 6 của Trung cộng.
Vào giai đoạn bắt đầu của
phong trào “Cách mạng văn hóa,” (1966) Bành Chân là một trong 5 người được Mao
ủy thác để sửa soạn khởi phát phong trào này.
Tháng 4, 1966, Bành Chân lên
tiếng chỉ trích tư tưởng và chủ trương của Mao trong vấn đề gọi là “văn hóa
phải được dùng để phục vụ chính quyền.”
Tháng 5, 1966 khi “Cách mạng
văn hóa`” khởi phát xong, Bành Chân bị kết tội “phản cách mạng.”
Nhờ ơn thầy phước chủ sao đó
rất khó hiểu (?) Bành Chân là đảng viên, ủy viên bộ chính trị duy nhất chỉ
trích Mao và bị Mao thanh trừng nhưng vẫn may mắn sống sót và được tiếp tục giữ
đảng tịch, tiếp tục được hoạt động trong hàng ngũ đảng cs Trung hoa với vai trò
kém quan trọng hơn cho đến khi về hưu năm 1988 (!)
4- Bành Đức Hoài (1898 – 1974)
Bành Đức Hoài là một nhân vật
chính trị và quân sự rất quan trọng của chế độ cs Trung hoa.
Năm 1904, Bành Đức Hoài gia
nhập làm lính quèn cho một lãnh chúa (War Lord) ở Hồ Nam từ lúc mới 16 tuổi.
Năm 1926 lực lượng của lãnh
chúa Hồ Nam sát nhập vào quân đội Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch thì Bành
Đức Hoài mang cấp bậc Thiếu tá, bỏ hàng ngũ quân lãnh chúa và quốc dân
đảng. Bành Đức Hoài bắt tay với cs từ
lúc này.
Trong gia đoạn chiến tranh
Trung-Nhật (1937-45), Bành Đức Hoài cổ võ việc cộng sản tầu hợp tác với Quốc
dân đảng để chống Nhật. Bành Đức Hoài
giữ chức Tướng tư lệnh cao cấp của liên quân quốc-cộng.
Khi Nhật đầu hàng năm 1945,
Bành Đức Hoài là tư lệnh toàn thể quân đội cộng sản vùng Tây Bắc Trung Hoa.
Bành Đức Hoài đã nhiều lần đánh giải vây, cứu thoát Mao Trạch Đông trong nhiều
hoàn cảnh Mao suýt bị Tưởng Giới Thạch bắt sống.
Rồi Bành Đức Hoài theo Mao
trong cuộc Vạn lý trường chinh (1933-35).
Khi Mao đánh bại Tưởng Giới
Thạch 1950, Bành Đức Hoài là người đã cố vấn và đề nghị Mao can dự trực tiếp
vào trận chiến Đại hàn (Korean War) 1950- 1953.
Bành Đức Hoài là tư lệnh tối cao của 350 ngàn lính Trung công tham chiến
cùng với quân đội Bắc hàn đương đầu với quân Liên Hiệp quốc.
Bành Đức Hoài là người đại
diện cho Trung cộng ký bản Hiệp ước ngừng chiến ở Đại hàn năm 1953 (Korean
Armistice Agreement in 1953).
Phải nói Bành Đức Hoài là
người duy nhất dưới chế độ cs tầu có cái can trường rất hiếm hoi, dám trực tiếp
chỉ trích và ngăn cản nhiều việc làm của Mao Trạch Đông. Trong thập niên
1950’s, Bành Đức Hoài phản đối các nỗ lực của đảng cs nhằm thần thánh hóa vai
trò Mao Trạch Đông; và chỉ trích là chính chương trình “Bước tiến nhẩy vọt”
(Great Leap Forward) của Mao là đã gây ra nạn đói làm chết hàng triệu người dân
Trung hoa. Năm 1959, Bành Đức Hoài ngang
nhiên đối đầu tranh luận về quyền lực với Mao trong Hội nghị Lushan (Lushan
Conference). Trong hội nghị này, Mao
thắng thế và ngay sau đó Bành Đức Hoài bị tước hết tất cả quyền hành vĩnh viễn
(for life) và bị gán cho cái nhãn (labeled) “tập đoàn chống đảng.”
Từ đó Bành Đức Hoài sống
trong bóng tối ra sao không ai hay biết cho đến khi “Cách mạng văn hóa” khởi
phát thì Bành Đức Hoài bị nhóm “Cách mạng văn hóa” quá khích cầm đầu bởi Lâm
Bưu và Giang Thanh đem ra công chúng đấu tố, sỉ nhục, bị bắt viết bản tự kiểm…
Năm 1970 Bành Đức Hoài bị án
chung thân khổ sai, bị tra tấn thảm thiết và chết trong tù năm 1974.
5- Đặng Tiểu Bình (1904-1997)
Đặng Tiểu Bình gia nhập đảng
cs tầu tứ năm 1923 và cũng tham gia trong cuộc “Vạn lý trường chinh.”
Năm 1952 Đặng Tiểu Bình giữ
chức vụ Phó thủ tướng và Chủ tịch ủy ban Tài chánh, sau đó kiêm nhiệm thêm chức
Bộ trưởng Tài chánh. Năm 1957, Đặng Tiểu
Bình là Trưởng ban Bí thư thường vụ trung ương đảng cs và làm việc trực tiếp
dưới quyền chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ. Đặng
Tiểu Bình (và Lưu Thiếu Kỳ) có lập trường dần dà thay đổi từ “cực tả”
(ultra-left) sang “cấp tiến” (Pragmatic / Right Opportunist).
Năm 1962 tại hội nghị ở Quảng
châu, Đặng Tiểu Bình tuyên bố một câu có lẽ là “nhãn hiệu” chính của hắn:
“Không cần biết là mèo trắng hay mèo đen; miễn sao mèo
bắt chuột là được.”
Tháng 7 năm 1962, Đặng Tiểu
Bình trong bài diễn văn “Làm cách nào để
tăng gia sản xuất” đã lớn tiếng mạnh dạn kêu gọi sự mở màn, bắt đầu công
việc cải cách kinh tế đi ra từ cái vỏ “vô sản, công trường sản xuất” vô tích
sự; khuyến khích nông dân sản xuất hữu hiệu hơn bằng cách cho họ thuê đất để tự
canh tác. Đặng Tiểu Bình mở đường, khai phá cho cái mà cs sau này gọi là “Kinh tế thị trường.”
Từ năm 1963, Đặng Tiểu Bình
bắt tay với Lưu Thiếu Kỳ để bắt đầu thi hành cái gọi là “Cải tổ kinh tế”
(Eeconomic Reforms) này. Qua hành động
của Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ, Mao thấy có chuyện không ổn sẽ xẩy đến cho
chủ thuyết cs. Mao e ngại là sẽ có sự trở lại của nền kinh tế tư bản và cái bùa
mà Mao gọi là “Cách mạng” sẽ chấm dứt).
Mao tức thì can thiệp, cho phát động phong trào “Cách mạng văn hóa” làm
bàn đạp cho việc thanh trừng (rooted out) Đặng Tiểu Bình (và Lưu Thiếu kỳ).
Đặng Tiểu Bình bị thanh
trừng, tước hết quyền hành, đưa trở về nông thôn làm việc lao động sản xuất
chân tay. Đặng Tiểu Bình tuy bị thanh
trừng nhưng cuộc đời và sự nghiệp không bị kết thúc một cách thê thảm như
trường hợp của Lưu Thiếu Kỳ.
________
Phụ Chú:
Môt tháng sau cái chết của Mao Trạch Đông (tháng 9 năm
1976), Hoa Quốc Phong tiện tay dẹp tiệm luôn cái gọi là “Cách Mạng Văn Hóa”bố
láo và thanh trừng “Tứ nhân Bang” (Gang of Four) cầm đầu bởi Giang Thanh vợ của
Mao chí tử.
Ngày 22 tháng 7 năm 197,7 Đặng Tiểu Bình được phục hồi chức vụ Phó chủ tịch Trung ương
đảng, Phó quân ủy và Tham mưu trưởng quân đội nhân dân.
Năm 1980 Đặng Tiểu Bình (tên
lùn mã tử - người ruồi gieo máu lửa) dùng tài khéo léo chính trị của mình, qua
mặt tất cả các đối thủ của mình trong đảng cs tầu kể cả Hoa Quốc Phong. Đặng Tiểu Bình chỉ cho Hoa Quốc Phong giữ
chức Ủy viên bộ chính trị và sau đó cho Hoa về hưu lặng lẽ.
Tại Việt Nam
Con rối lãnh tụ csvn như
thong lệ, rập theo khuôn khổ, đường lối, chính sách diệt chủng đã nêu ở trên từ
các lãnh tụ cs vĩ đại: Tại tập trung khổ sai (Gulags), Vùng kinh tế mới (Kulaks
/ forced resettlement), Cải cách ruộng đất (Land Reform), Trăm hoa đua nở (Let
a Hundred Flowers Bloom), Cách mạng văn hóa (Cultural Revolution), Bước tiến
nhẩy vọt (Great Leap Forward), Trại cải tạo (Re-eduacation camps)… đảng csvn
cũng thấy cần phải giết, phải thanh trừng để tỏ cho thế giới biết cộng sản Việt
Nam luôn luôn trung thành, đứng sát cánh với hàng ngũ đàn anh vĩ đại cộng sản
quốc tế Liên sô – Trung hoa. Đã bảo “Không ăn đậu không phải là Mễ; Không giết
không phải là cs.” Nếu cs Liên sô –
Trung hoa giết 10 thì csvn mình cũng cố gắng giết 2-3 cho nó ra vẻ cộng sản?!
Sau đâu chúng ta hãy điểm sơ
qua một số thanh trừng sắt máu trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam:
1- Trung tướng Nguyễn Bình (1906 - 1951)
Nguyễn Bình là Tổng chỉ huy
chiến trường cs ở trong Nam,
là trùm khủng bố đã từng giết rất nhiều người quốc gia. Vào tháng 5 năm 1951, Nguyễn Bình nhận được
một bức thơ vắn tắt của Võ Nguyên Giáp nguyên văn như sau:
“Đồng chí thân mến, Đồng chí sẽ được một toán hộ tống
30 người gồm nhân viên tùy tùng và bảo vệ. Tôi tin rằng đồng chí sẽ hoàn thành
nhiệm vụ nầy. Đồng chí sẽ đi đường rừng băng qua các tỉnh Kompong Chàm, Kratié,
Stung Streng.”
Dường như đã có linh tính báo
trước chuyến đi “tầu suốt” nầy. Tuy
Nguyễn Bình không nói ra, nhưng những thuộc hạ chung quanh Nguyễn Bình đều biết
như vậy. Thật ra, Nguyễn Bình có lý do lo lắng “việc ra Bắc” vì chính ngay
Nguyễn Bình trước đây cũng đã có làm vài phùa tương tự như việc ký những lịnh
“đi Bắc” để đưa những một số đồng chí thân yêu lên đường đi qua bên kia thế
giới cho tiện sổ sách.
Ngày 29/9/1951, Nguyễn Bình cùng đoàn tùy tùng 30 người trên
đường ra Bắc theo lịnh của Trung Ương đảng, đã bị một toán lính Miên do một
Trung úy người Pháp chỉ huy, phục kích tấn công. Nguyễn Bình bị tử thương tại làng Srépok,
huyện Se San, tỉnh Stung Streng, Cam Bốt.
Nhiều nguồn tin lúc bấy giờ
quả quyết là Tướng Nguyễn Bình bị Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp diệt trừ bằng
cách bí mật chỉ điểm cho Pháp biết lộ trình trên đường về Bắc của Nguyễn Bình
mà phục kích ngay chóc.
2- Đại biểu Quốc Hội Dương Bạch Mai (1904-1964)
Năm 1928, Dương Bạch Mai được
đảng cộng sản Pháp cử sang Moscow
trước để liên lạc với đảng cs Liên sô, sau đó là theo học thuyết cộng sản tại
trường “đai học Đông phương Stalin.”
Dương Bạch Mai học cùng khóa với các tổ sư csvn như Hà Huy Tập, Bùi Văn
Thủ, Trần Ngọc Danh (em của Trần Phú).
Học xong năm 1930 Dương Bạch Mai trở về Pháp và tiếp tục hoạt động cho
đảng cs Pháp.
Năm 1932 về Việt Nam sống công
khai và hoạt động cho csvn.
Năm 1946 Dương Bạch Mai được
bầu làm đại biểu quốc hội khóa I nước “Việt Nam Dân chủ Công Hòa” (Nước Việt
Cộng).
Ngày 20 tháng 3 năm 1947 mặc
dù Dương Bạch Mai đại diện cho cái chú phỉnh VNDCCH ở Pháp, nhưng Dương Bạch
Mai vẫn bị chính quyền chính quốc Pháp bắt ngang xương chẳng nể mặt nể mũi chú
phỉnh VNDCCH gì cả! Chính phủ ở Pháp
quản thúc Dương Bạch Mai ở Djibouti,
một thuộc địa của Pháp ở Phi châu.
Tháng 7, 1949 Dương Bạch Mai
bị Pháp giải về Saigon và đem đi quản thúc ở
Kontum. Với sự trợ giúp của cs địa
phương, Dương Bạch Mai vượt ngục Kontum và sau đó được đưa ra Bắc và tiếp tục
giữ vai trò Ủy viên ban thường trực quốc hội, thành viên ban Mặt trận của Trung
ương đảng.
Năm 1960 được lưu nhiệm là
đại biểu quốc hôi Việt Nam Khóa II.
Ngày 4 tháng 4 năm 1964,
trong ngày họp cuối cùng của kỳ họp thứ 8 của quốc hội khóa II, Dương Bạch Mai
bất ngở ngã quỵ phải đưa vào bệnh viện và chết ở đó.
Theo ông Vũ Thư Hiên, Dương
Bạch Mai bị đầu độc và cái chết của Dương Bạch Mai có liên quan đến vấn đề
Dương Bạch Mai dự định đọc một bài diễn văn phản đối lối xây dựng xã hội Viêt
Nam theo kiểu “xã hội trại lính” của Mao Trạch Đông, đòi đảng cs cải thiện đời
sống dân chúng, đòi thực hiện dân chủ trong nội bộ đảng…
_______
Phụ chú:
Một cán bộ cs gốc miền Nam chết một cách bí ẩn khác là
Huỳnh Văn Nghệ, Thứ tưởng Bộ Lâm Nghiệp.
Ttrước 1975, Huỳnh Văn Nghệ là Tư lệnh phó của Trần Văn Trà (tư lệnh
quân đội vi-xi ở miền Nam).
Huỳnh Văn Nghệ bị bệnh (?) và chết tại Sài gòn ngày 5 tháng 3 năm 1977.
3- Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-1967)
Nguyễn Chí Thanh là Ủy viên
Bộ Chính Trị, Bí Thư Trung ương Cục Miền Nam
kiêm Chính Ủy Quân Giải Phóng Miền Nam. Sau khi dùng cơm chia tay với
HCM ở Phủ Chủ Tịch, trở về nhà thì ngay đêm hôm đó, khi gần sáng ngày 6/7/1967
bị ói ra máu chết, đúng ngày định trở về miền Nam lần thứ 2. Theo cuốn “Giọt nước
trong biển cả,” trang 420, của Hoàng Văn Hoan, thì kẻ biết rõ âm mưu ám sát là
Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh.
4- Đại sứ Đinh Bá Thi (1921-1978)
Đinh Bá Thi tập kết ra Bắc
năm 1954. Làm việc ở Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam với chức vụ Ủy viên ban chấp hành Công đoàn Việt Nam, Trưởng ban
Tuyên Huấn Công đoàn Việt Nam.
Năm 1963 chuyển sang ngành
ngoại giao và năm 1969 làm đại sứ của chính quyền csvn ở Tiệp Khắc rồi Hungary.
Trong cuộc đàm phán để chấm
dứt chiến tranh Việt Nam ở Paris (bắt đầu tại Paris
từ ngày 13-5-1968 và ký kết ngày 23-1-1973). Đinh Bá Thi là Phó trưởng Phái
đoàn Đàm phán của MTGPMN trong hội nghị 4 bên.
Sau 1975, Đinh Bá Thi làm đại
sứ đầu tiên của cs ở Liên Hiệp Quốc.
Năm 1978, lúc 57 tuổi, khi
hoạt động tình báo tại Hoa Kỳ bị lộ, Đinh Bá Thi bị gọi về nước. Trong lúc đang chờ nhận nhiệm sở mới thì bị
chết vì tai nạn giao thông ở Phan thiết.
Đinh Bá Thi bị Lê Đức Thọ ra
lệnh giết vì bị nghi làm gián điệp hai mang trong thời gian hoạt động ở Hoa Kỳ.
5- Đai tướng Chu Văn
Tấn (1909-1984)
Chu Văn Tấn là Bộ trưởng Quốc
phòng đầu tiên, Thiếu tướng đầu tiên, và Thượng tướng đầu tiên của Quân đội
nhân dân csvn. Chu Văn Tấn bị thanh
trừng vì bị cho là theo phe than Trung công Hoàng Văn Hoan.
Ngày 2/9/1945, ngay sau khi
tuyên bố ra đời nước VNDCCH, HCM giao cho Chu Văn Tấn làm Bộ Trưởng Quốc
phòng. Chu Văn Tấn là một trong 9 Thiếu
tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân cs (1948) và cũng là một trong 2 Thượng
tướng đầu tiên.
Chu Văn Tấn ngưới gốc thiểu
số Nùng, từng dậy học ở Bắc hà. Năm 1936
đươc kết nạp vào đảng csvn. Năm 1941 là
Xứ ủy viên Bắc hà, chỉ huy Đội Cứu quốc quân 1, Cứu quốc quân 2.
Tháng 6 năm 1945 tham gia ban
lãnh đạo Tổng khởi nghĩa. Chu Văn Tấn
làm Bộ trưởng quốc phòng cho đến ngày 2/3/1946.
Năm 1948 là Khu trưởng khu 4,
rối chính ủy Chiến khu 1. Cũng năm này
Chu Văn Tấn được phong hàm Thiếu tướng.
Từ năm 1949 đến năm 1954, Chu
Văn Tấn làm Khu trưởng, Bí thư khu ủy Liên khu Việt Bắc, Chánh án Tòa án Quân
sự, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.
Từ năm 1954 đến cuối năm
1956, Chu Văn Tấn làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư quân khu ủy Liên khu Việt
Bắc.
Từ năm 1957 đến cuối năm
1975, ông làm Chính ủy, Bí thư khu ủy Quân khu Việt Bắc, Chủ tịch Ủy ban hành
chính Khu tự trị Việt Bắc.
Ngày 31 tháng 8 năm 1959,
được thăng quân hàm vượt từ cấp Thiếu tướng lên thẳng Thượng tướng và là một
trong hai Thượng tướng lúc bấy giờ.
Chu Văn Tấn được bầu làm Phó
Chủ tịch Quốc hội từ khóa III đến khóa V, Tổng Thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa V; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc. Hắn cũng là
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa I, II và III; đại biểu
Quốc hội từ khóa II đến khóa V.
Năm 1976, Chu Văn Tấn được
bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất. Tuy nhiên, không
lâu sau đó, quan hệ Việt-Trung trở nên căng thẳng và tệ hại nhanh chóng đưa đến
viễn ảnh thanh trừng nội bộ sẽ xảy ra giữa các thành phần lãnh đạo csvn có lập
trường thân Liên sô và thân Trung. Con
nhạn Ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan thấy lạnh gáy, biết thân phận, phải
chạy vọt trốn sang Trung hoa xin tỵ nạn chính trị.
Cuộc chiến tranh Việt-Trung
bùng nổ vào năm 1979. Chu Văn Tấn cũng bị liên lụy vì bị cho là cùng phe với
Hoàng Văn Hoan. Từ đó Chu Văn Tấn bị trù
dập, quản thúc xa gia đình cho đến ngày qua đời năm 1984 tại Hà Nội.
6- Đại tướng Hoàng Văn Thái (1915-1986)
Hoàng Văn Thái là Tướng Tham
mưu trưởng đầu tiên của quân đội nhân dân cs lúc mới có 30 tuổi. Hoàng Văn Thái là sui gia với Võ Nguyên Giáp.
Khi Hoàng Văn Thái là Tư lệnh
quân giải phóng Miền Nam,
Thái tham gia hầu hết các chiến dịch quân sự lớn nhất của csvn ở Miền Nam: Chiến dịch
Tết Mậu Thân (1968); Chiến dịch Xuân Hè (1972); Chiến dịch Mùa Xuân / Hồ Chí
Minh (1975). (Trước đây Thái cũng đã
tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm (1954).
Năm 1973, sau Hiệp định Paris ký kế, Mỹ bắt đầu rút khỏi Việt Nam thì Hoàng
Văn Thái được triệu ra Bắc nhận chức vụ Thứ trưởng quốc phòng.
Hoàng Văn Thái cũng là một
nhân vật chính trị cao cấp của Việt cộng, từng giữ các chức trọng đại khác như:
Đại biểu quốc hội khóa VII, Ủy viên Ban chấp hành trung ương đảng csvn khóa
III, IV và V.
Đến năm 1980 thì mang quân
hàm Đại tướng.
Khi Thái chuẩn bị lên làm Bộ
Trưởng Quốc Phòng thay thế Văn Tiến Dũng và có thể trở thành Chủ tịch Hội đồng
an ninh quốc gia đầu tiên của Việt Nam thì ngày 2/7/1986 Thái chết đột ngột,
thọ 71 tuổi. Trước khi chết, Thái nói với vợ: “Người ta giết tôi!”
7- Đại tướng Lê Trọng Tấn (1914-1986)
Lê Trọng Tấn tên thật là Lê
Trọng Tố, gia nhập Việt Minh từ năm 1945, giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung
đoàn 312 trong chiến dịch Điện biên phủ (1954).
Từ 1954-60 Lê Trọng Tấn làm
Giám đốc trường Sĩ quan bộ binh rồi làm Phó Tổng Tham mưu quân đội (1961-62).
Trong chiến tranh Việt Nam.
Lê Trọng Tấn xâm nhập vào Nam
từ năm 1972. Chỉ huy mặt trận Quảng Trị
năm 1975, và chỉ huy mặt trận Huế- Đà nẵng vào đầu năm 1975.
Tháng 3 năm 1975 Lê Trọng Tấn
là Chỉ huy Phó toàn bộ Chiến dịch HCM.
Nên biết đại đội 4 thuộc trung đoàn 1 quân đoàn 2 là đơn chỉ huy bởi Lê
Trọng Tấn đầu tiên tiến chiếm Dinh Độc lập Saigon ngày 30/4/1975.
Sau 30/4/1975, Lê Trọng Tấn
làm Giám đốc Trường quân sự cao cấp; và trong trận chiếm Campuchia, Lê Trọng
Tấn là tư lệnh các lực lượng quân sự vi-xi đánh ở Campuchia (1976-79).
Từ 6/1978 cho đến khi chết,
Lê Trọng Tấn làm Thứ trưởng Bộ quốc phòng và Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân
dân, chuẩn bị để thay thế Văn Tiến Dũng thì chết đột ngột vào ngày 5/12/1986,
thọ 72 tuổi.
Nên biết, Lê Trọng Tấn chết
ngay sau khi trở về từ chuyến đến viếng thăm nhà của Lê Đức Thọ.
Có tin đồn là Lê Trọng Tấn bị
đầu độc (Lê Trọng Tấn chết 5 tháng sau khi Hoàng Văn Thái cũng bị Lê Đức Thọ
sát hại).
8- Trung tướng Phan Bình (1934-1987)
Phan Bình Cục trưởng Cục Quân
Báo (tức Cục 2), sau khi vừa bị Lê Đức Anh chỉ thị phải về hưu, tước mất quyền
binh giao cho Tư Văn, một đàn em của Lê Đức Anh (Cục 2 sau đó đổi thành Tổng
Cục 2). Vừa Bàn giao quyền hành xong,
Phan Bình từ Hà Nội vào Sài gòn thăm bạn bè thì bị giết bằng cách bắn vào đầu
vào ngày 13/12/1987 tại nhà nghỉ của Cục 2 số 30 Lê Quý Đôn Sài gòn.
Sau cái chết của Phan Bình,
Tổng Cục 2 báo cáo lên Trung Ương đảng csvn là “Đồng chí Phan Bình bị bệnh tâm
thần nên đã tự sát.” Giới lãnh đạo đảng
không thuộc ngành quân báo đều biết là Phan Bình bị giết chứ không phải tự
sát. Tổng Cục 2 chỉ tạo dựng chứng cớ
giả để bưng bít lừa gạt dư luận. Trung
tướng quân đội Lê Văn Hiền, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, Thượng tướng Nguyễn
Minh Châu… đều xác nhận chuyện này.
Tướng Nguyễn Minh Châu, tư
lệnh quân khu 7 cho biết là báo cáo của Tổng Cục 2 không đúng sự thật. Phan Bình chết ngã nằm sấp ở phòng khách ở
đầu bị bắn thủng toạc ra một lỗ rất rộng, chứng tỏ người bắn là người quen
biết, đến rất gần sát Phan Bình rồi bất ngờ nổ súng thình lình làm Phan Bình
trở tay không kịp. Ngoài ra kẻ ám sát
còn biết rõ là sau khi bàn giao Cục Quân báo cho cho Tư Văn, Phan Bình bị lấy
lại súng ngắn nên không có gì để tự vệ; kẻ sát nhân yên tâm dễ dàng ra tay.
Dã man hơn nữa là 1 tháng sau
khi Phan Bình bị chết, con trai của Phan Bình cũng là một sĩ quan Quân báo, là
người phát giác ra cha mình bị giết cũng bị chết một cách mờ ám khi bị ép đưa
vào viện “tâm thần.”
Cái chết của cha con Phan
Bình làm cho các sĩ quan cao cấp quân đội cũng như ngành quân báo cs rúng động,
lo sợ cái không khí khủng bố bao trùm.
Nguyên nhân chính làm cho
Phan Bình bị giết vì Phan Bình từng là chỉ huy Cục quân báo, hắn biết rất nhiều
chuyện nếu lọt ra ngoài thì không có lợi cho cấp lãnh đạo cs. Phải giết để bịt đầu mối.
9- Thượng Tướng Công An Thi Văn Tám (1948-2008)
Thi Văn Tám sinh ở Long an,
hoạt động bí mật cho cs từ lúc 13 tuổi.
Năm 6/1966 làm công tác ở đội Cảnh vệ Công an Huyện Đức Hòa tỉnh Long
an.
Tháng 2/1968 làm đội trưởng
Đội cảnh vệ huyện Đức hòa. Tháng 12/1968
được kết nạp vào đảng cs.
Tháng 6/1970 trên đường đi
công trác đụng độ với quân VNCH thì bị thương và bị bắt sống đày ra Phú quốc.
Sau khi hiệp định Paris được ký kết (1973),
Thi Văn Tám được trao đổi tù binh và sau đó được đưa thẳng ra Bắc để điều
dưỡng.
Tháng 4/1974 xâm nhập miền Nam trở lại và
được bố trí tại đơn vị Trinh sát thuộc Tiểu ban bảo vệ chính trị thuộc Ban an
ninh Trung ương Cục Miền nam.
Sau 1975 Thi Văn Tám từ một
cán bộ trinh sát, được thăng cấp ào ào vì có nhiều thành tích tình báo an ninh
nổi bật. Thi Văn Tám đã trực tiếp đến vùng rừng núi Việt-Lào để
phối hợp với quân đội, chỉ huy thu thập tài liệu, hình ảnh việc tiêu diệt quân
khánh chiến xâm nhập, giết Hoàng Cơ Minh chủ tịch của “Mặt trận quốc gia thống
nhất giải phóng Việt Nam” ngày 4-8-1987.
Tháng 10/1987 đến tháng
12/1988 ngày 4-8-1987 làm chuyên viên an ninh ở Campuchia.
Năm 1996 làm Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục An ninh.
Nam 2001 Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh.
Năm 2002 thăng hàm Thiếu
tướng.
Năm 2005 lên Trung tướng.
Năm 2006 thăng Thượng tướng
và được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Công an.
Ngày 12/12/2008 Thi Văn Tám
Thứ trưởng Bộ Công an đặc trách Tình báo Gián điệp ngã lăn ra chết trong lúc
đang mạnh giỏi và đi công tác đó đây liên tục.
Mãi đến ngày 15/12/2008, các cơ quan truyền thông mới đồng loạt loan tin
là Thi Văn Tám “chết sau một thời gian dài lâm bệnh,” mà không nói rõ là chết
vì bệnh gì?
Dư luận cho là Thi Văn Tám bị
thanh toán, chết vì đầu độc. Thi Văn Tám
đi cộng tác vừa về đến nhà thì chết vì bị uống nước pha thuốc độc trên máy bay.
10- Thượng Tướng Nguyễn Khắc Nghiên (1951- 2010)
Nguyễn Khắc Nghiên nhập ngũ
năm 1969, gia nhập đảng cs năm 1972.
Năm 1998 được phong Thiếu
tướng.
Năm 2002 thăng Trung Tướng và
nhận chức Tổng Tham mưu trưởng thay cho Phùng Quang Thanh.
Năm 2007 thăng Thượng tướng
và bổ nhiệm Thứ trưởng quốc phòng.
Như vậy Nguyễn Khắc Nghiên,
nhân vật số 2 của Bộ Quốc Phòng chỉ đứng sau Phùng Quang Thanh.
Trong khi đang giữ hai chức
vụ Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và Tổng Tham Mưu Trưởng Quân đội Nhân dân rất ngon
lành ở tuổi 59, Nguyễn Khắc Nghiên đột ngột qua đời ở Bệnh viện Trung Ương Quân
Đội 108 ngày 13/11/2010 sau một thời gian “lâm bệnh hiểm nghèo?” nhưng không
nói là bệnh gì?
11- Thượng Tướng Phạm Quý Ngọ (1954 - 2014)
Phạm Quý Ngọ theo học và tốt
nghiệp Đại học Cảnh sát Nhân dân, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 19 tháng 4 năm 1980.
Trước khi về công tác tại Bộ
Công an, năm 1997, Ngọ từng giữ chức Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh Thái
Bình, hàm Đại tá. Thời gian này Ngọ
thẳng tay đàn áp, bắt và thủ tiêu vào ban đêm rất nhiều người dân khố rách áo
ôm và cựu chiến binh cộng sản ở Thái Bình nổi loạn kéo sập ủy ban hành chánh,
đập bỏ tượng HCM. Đường hoạn lộ và quyền lực của Ngọ “thăng hoa” từ thành tích
đàn áp cuộc nổi dậy trên quê hương Thái bình của Ngọ, nhà văn Dương Thu Hương dã
phải kết luận là:
“Nếu không có nổi loạn Thái Bình 1997 thì không có
Thượng tướng Công an Phạm Quý Ngọ hôm nay.”
Ngày 14 tháng 2 năm 2006, Ngọ
được bổ nhiệm làm Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát nhân dân, hàm Thiếu
tướng.
Ngày 11 tháng 7 năm 2006, Ngọ
được bổ nhiệm kiêm chức Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra, thay Thiếu tướng
Cao Ngọc Oánh vừa bị Nguyễn Tấn Dũng cách chức vì đã tham dự "bữa ăn chạy
án" vụ PMU 18.
Ngày 28 tháng 1 năm 2008, Ngọ
giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an. Trên cương vị
này, Ngọ giữ vai trò Chủ tịch Hội nghị Cảnh sát các nước ASEAN lần thứ 29
(ASEANAPOL-29) diễn ra từ 13 đến 15 tháng 5 năm 2009 tại Hà Nội.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2010
Ngọ được chuyển sang làm Tổng Cục trưởng Tổng Cục Cảnh sát Phòng chống Tội
phạm.
Ngày 12 tháng 8 năm 2010, Ngọ
được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng Bộ Công an.
Ngày 18 tháng 1 năm 2011, Ngọ
được bầu làm Ủy viên Chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Ngày 22 tháng 7 năm 2013, Ngọ
được thăng hàm Thượng tướng.
Trong vụ án Dương Chí Dũng
Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội
Đồng Quản trị Vinalines, đã lãnh án tử hình vì tội “cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế và Tham ô tài sản
lên tới 3.2 tỳ đô la.” Trong lúc vụ
án Dương Chí Dũng tham nhũng bạc tỷ này đang được điều tra thì Dương Chí Dũng
chạy trốn sang Campuchia. Sau khi Dương
Chí Dũng bị bắt giải về Việt Nam
và tiếp tục bị xử. Dương Chí Dũng khai
là đã hối lộ cho Phạm Quý Ngọ (nên biết chính bá Ngọ đang là Trưởng ban chuyên
án điều tra các sai phạm tại Vinalines) tổng cộng trong 2 lần với số tiền mặt
510,000 đô la để Ngọ và cấp trên của Ngọ giúp Dương Chí Dũng chạy án cho nhẹ
tội.
CSvn rất lúng túng chưa biết
phải dùng cơ quan nào để điều tra lời khai của Dương Chí Dũng cho đỡ bẽ bàng,
vì không lẽ dùng Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an do Ngọ làm thủ trưởng để
điều tra Ngọ? Có tin là Ban Nội chính
Trung ương sẽ đề nghị Ban chỉ đạo chống tham nhũng (do Tổng Bí Thư Nguyễn Phú
Trọng) trực tiếp yêu cầu Công an Hà nội nhận điều tra vụ án Phạm Quý Ngọ này.
Đùng một cái có tin Phạm Quý
Ngọ mất ngày 18 tháng 2 năm 2014 ở tuổi 60 tại Bệnh viện Quân đội 108, Hà Nội
do bệnh “ung thư gan.”
Thật khôi hài, trước ngày “được
chết theo quy trình” độ 1 tháng (ngày 11/12/2013), Phạm Quý Ngọ với tướng mạo hồng hào mạnh
khỏe, đứng ra tổ chức đám cưới linh đình nhất ở Việt Nam từ trước đến nay tại
khách sạn 5 sao J.W. Marriott Hà Nội (khách sạn này thuộc loại sang trọng bậc
nhất Hà Nội nằm trong Trung tâm Hội nghị Quốc gia và Hội trường Ba Đình). Nên
biết thêm, khách sạn J.W. Marriott được giới thiệu có phòng dành cho khách
nguyên thủ quốc gia (1 phòng dành cho Phó Tổng thống và 1 phòng dành cho Tổng
thống) cho con trai là Đại úy Công an Phạm Mạnh Hùng – Trưởng phòng Điều tra
thẩm định án kinh tế, tham nhũng thuộc Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ
Công an (Báo lố cs tâng bốc là “hổ phụ sinh hổ tử?!” – Người viết xin tạm dịch
nôm là “Cha chết rồi con sẽ chết.”)
Việc các tướng ngành công an,
tình báo chết gần đây do tranh giành quyền lực hoặc vì nhu cầu bịt miệng (xác
chết không biết nói) cũng không phải là chuyện ngạc nhiên. Chính các giới an ninh này đã có sẵn nhiều
phương tiện mờ ám, tài chánh, và nhân sự chuyên nghiệp (professional hitmen),
thành ra ra tay hạ độc thủ chỉ là chuyện “một ngày như mọi ngày” thôi.
Lời kết
Chuyện thanh trừng nội bộ lãnh
đạo cao cấp cộng sản rất dài, chưa thể ngừng ở đây...
Còn biết bao nhiêu cuộc thanh
trừng và trù dập khác chưa có dịp kể đến như trường hợp của Thượng tướng Trần
văn Trà (1919-1996), Trung tướng Trần Độ (1923-2002), Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
(1908-1986), Thiếu tướng Đặng kim Giang (1910-1983), Cựu Phó thủ tướng Đoàn Duy
Thành (1929-2003), Thượng tướng Lê Minh Hương (1936-2004), Thượng tướng Thứ
trưởng Công an Nguyễn Văn Tính (1961-2006), Ủy viên BCT Trần Xuân Bách
(1924-2006)… và ngày rộng tháng dài, danh sách này cứ thế tiếp tục dài thêm. Ai
sẽ là người kế tiếp được ưu ái liệt kê trong bảng phong thần này? Có nhiều tay đã vấy máu đồng bào, đống chí,
đồng rận còn phải chui qua ống cống trước đã… Mồ mả của những tay đã bán muối
rồi cũng chẳng được yên ổn đâu! Chờ xem
phần kết.
Kể ra cũng thấy rét thật chớ
chẳng phải chuyện đùa!
Trần Văn Giang
28 tháng 2 năm 2014
( HNPĐ )
* Xin Chỉnh CỠ CHỮ hoặc BẤM VÀO ĐÂY ĐỌC RÕ HƠN cho vừa mắt xem.
( HNPĐ )
* Xin Chỉnh CỠ CHỮ hoặc BẤM VÀO ĐÂY ĐỌC RÕ HƠN cho vừa mắt xem.