Thân Hữu Tiếp Tay...
Thói hư tật xấu của người mình! - Trần Văn Giang
( HNPĐ ) Không hiểu cuốn sách “Người Trung Quốc xấu xí” của Bá Dương (“Bo Yang”) được xuất bản cách đây gần hai chục năm có liên quan gì đến sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc hôm nay hay không?
Lời giới thiệu:
——————
Lời giới thiệu:
( HNPĐ ) Không hiểu cuốn sách “Người Trung Quốc xấu xí”
của Bá Dương (“Bo Yang”) được xuất bản cách đây gần hai chục năm có liên quan
gì đến sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc hôm nay hay không?
[Nên biết bên Mỹ có cuốn sách nổi tiếng tương tự là
"The ugly American" của
WILLIAM J. LEDERER AND EUGENE BURDICK xuất bản năm 1958 đã trở thành cuốn sách
bán chạy nhất thời đó].
Tuy nhiên, hình như có nhiều liên quan giữa sự can đảm
nhìn nhận ra những yếu kém của chính mình và sức vươn lên mạnh mẽ cho dân tộc (!)
Ở hoàn cảnh Việt Nam, đã gần một thế kỷ rồi, thế hệ
cha ông của chúng ta cũng đã có rất nhiều người dám vạch thẳng những tính xấu, những
hủ tục của người Việt mình để biết mà sửa đổi (!) Nhưng mà không thấy có ai
chịu nghe??? Để xét cái kết quả (“không
khá”) này, cứ việc nhìn vào hiện tình dân tộc Việt ở trong nước lẫn ở hải
ngọai; cứ nhìn vào chính bản thân mình, đồng bào và các tổ chức / hội đoàn chung
quanh mình chứ chẳng cần tìm đâu xa! Đến
lúc này, thế hệ chúng ta, giữa những thay đổi lớn lao đang và vừa mới xẩy đến
cho dân tộc chúng ta, giữa khát vọng phục hưng dân tộc… đây là một cơ hội thật
tốt để cùng nhau đọc lại những nhận định mà các vị tiền bối đã viết về nhũng
cái xấu xa của người mình và rồi tự đặt câu hỏi cho bản thân và cộng đồng của
mình phải làm gì để cho dân tộc mình khá hơn?
“Có lẽ ta đâu mãi thế này …”
(Nguyễn Công Trứ - “Quân tử cố cùng”)
TVG
*
|
|
|
1- Chơi bời lãng phí
Trần Chánh Chiếu
(“Lục tỉnh tân văn,” năm 1907)
Theo tục ông bà để lại, hễ
mãn một năm thì ăn Tết một lần ấy cũng là phải. Sao tôi thấy hễ tới ngày ấy, ai
ai cũng đốt pháo, dựng nêu, treo bùa tứ tung ngũ hoành, đánh đáo đánh quần tới
bảy bữa, rồi nào me, nào lú (1), bài cào, xóc đĩa, tổ tôm đủ thứ. Thậm chí có
ông ăn Tết rồi thì bán nhà bán cửa, nợ réo trước nợ réo sau. Đã “bần nhược” (2) lại “đãi đọa” (3) vậy thì
biết chừng nào mà giàu có như người ta đặng?
——————
(1) Theo Huỳnh Tịnh Của, “Đánh me” là "gây ăn
thua trong cuộc chơi tiền,” còn “Lú” là "cuộc chơi con nít dùng tiền mà
đánh đố.”
(2) Nghèo đói.
(3) Biếng nhác.
2- Ở đâu cũng thấy học đòi làm dáng
Hoa Bằng
(“Hiếu thượng,” Tri tân, năm
1943)
Cái hiếu thượng (1) của số
đông người mình đã lộ rõ ở từ ngôn ngữ đến cử chỉ, từ hành vi trong gia đình
đến động tác ngoài xã hội. Người ta chơi
câu đối? Phần đông không phải vì thích
chữ tốt yêu văn hay nhưng vì muốn sĩ diện ở mấy cái lạc khoản (2) có chức tước.
Người ta in danh thiếp? Không phải vì cốt thông tính danh tỏ địa chỉ,
song hình như chỉ cốt trưng những chức sắc tước trật và phẩm hàm. Người ta đăng cáo phó? Có lẽ ít vì cốt để báo tang, nhưng phần nhiều
cốt để lợi dụng cái chết của ông bà cha mẹ mà quảng cáo cái danh phận của con
cháu.
Cái bệnh hiếu thượng ấy
truyền nhiễm đến cả nữ giới làm cho lắm người cũng mắc lây. Một dạo ở xã hội ta nổi lên cái phong trào “phi cao đẳng bất thành phu phụ.” Vì thế trong cuộc hôn nhân đã xảy ra lắm
chuyện buồn cười. Hoặc mượn văn bằng của
người khác để đưa nhà gái sát hạch lúc cầu hôn, hoặc giả làm nhà tòng sự (3)
suốt mấy tháng để nhà gái nếu có dò la vẫn thấy sớm vác ô đi tối vác về...
——————
(1) Thích hướng lên trên, tức hiếu danh, bon chen...
(2) Tự đề tên họ chức tước ở một góc câu đối.
(3) Làm công chức.
3- Học vấn một đằng, công nghệ một nẻo
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm
1915)
Tính người mình không biết
quý trọng công nghệ, người làm nghề tựa hồ như bất đắc dĩ không học được làm
quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra làm nghề thôi. Mà làm nghề thì không cần gì tinh xảo chỉ cốt
bán rẻ tiền được nhiều người mua là hơn. Công nghệ suy nhược lại còn là vì người có học
thức không chịu làm, người chịu làm thì lại là người không có học thức, chẳng
qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa chớ không nghĩ được cách thức nào mới.
Ít năm nay, có trường bách
công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều và
cũng đã có người sinh được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi buôn
bán. Song cái tính khinh đường công nghệ
thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu có song vẫn tự coi
mình là đê tiện, phải mượn cái phẩm ông Hàn ông Bá mới là vẻ vang.
4- Khéo tay mà trí không khôn
Phạm Quỳnh
(“Pháp du hành trình nhật ký,”
năm 1922)
Xét ra ở nước Nam ta mới có
các nghề mỹ nghệ là thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề trang sức cả, còn mỹ
thuật thì chưa có gì sánh được với các nước, nhưng ngay trong mỹ nghệ cũng chưa
có kỷ luật, chưa có thể thống gì, chưa phân rõ các kiểu cách, các thời đại, các
lề lối, các phương pháp, thợ thuyền phần nhiều là những người vô học, phi quen
tay phóng lại lối cũ, thời bắt chước chép của người ngoài, thành ra tay có khéo
mà trí không khôn, không biết biến báo mà vẫn giữ được tinh thần cốt cách cũ ,
tồn cổ mà khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mời, nói tóm lại là không có trí
sáng khởi (1) khôn ngoan, gây ra trong mỗi nghề một cái thể thức trang nghiêm
mà đặc biệt. Cho nên các nhà nghề ta
không thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho có cái trí khôn nữa.
Nay muốn gây lấy cái trí khôn
ngoan trong mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức, thời không gì bằng lập
ra một nhà bảo tàng mỹ nghệ, sưu tập lấy những đồ đẹp trong nước, chia ra từng
thời đại, bày cho có thống hệ (2), để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà học
cho biết nghề mình duyên cách (3) thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy
mà giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ, hoặc nhân đấy mà biển đổi dần
——————
(1) Bắt đầu dựng lên, ngày nay hay viết là “sáng tạo.”
(2) Quan hệ của những cái liên tiếp nhau. Cũng nghĩa
như hệ thống.
(3) Duyên (có khi đọc diên) ở đây lá thủ cựu, cách là
đổi mới. Duyên cách: Tình hình trong một khu vực nào đó cái cũ thế nào, cái mới
ra sao.
5- Thiếu tinh thần cầu học
Nguyễn Văn Tố
(theo Lê Thanh, “Cuộc phỏng
vấn các nhà văn,” năm 1943)
Phải nhận rằng người mình
không ham học mấy. Thí dụ như người đỗ
bằng tốt nghiệp, có công ăn việc làm thì thôi, không chịu học thêm. Tôi cho thế là nhầm lắm. Người ta dạy cho bấy nhiêu là để cho mình tạm
đủ sức mà học lấy, khi ở trường ra mắt là chỗ khởi hành, mình lại tưởng đến nơi
rồi. Nếu tôi được phép, tôi sẽ khuyên
anh em thanh niên học rõ nhiều, vừa đọc văn Tây, vừa học lại tiếng ta, vì phần
đông người ta mà viết văn ta còn sai nhiều.
6- Mô phỏng đã thành thói quen
Hoa Bằng
(“Phải có cái gì để làm đặc
tính của người mình chứ.” Tri tân, năm 1941)
Hết thảy mọi phương diện,
chẳng hạn, từ văn học tới nghệ thuật - chúng ta đều ăn của người, nhưng đã biết
hóa để làm của riêng của mình chưa?
Bình tĩnh mà xét, từ hình
thức đến tinh thần ta nay cũng có một đôi phần tiến. Nhưng cái óc mô phỏng hay còn rõ sờ sờ trung
hết thảy mọi mặt.
"Chúng ta phải làm con
cháu của cổ nhân chứ không nên làm nô lệ của cổ nhân.” Đối với cổ nhân ta nay còn phải dè dặt thay,
huống chi đối với gió bốn phương, há lại nên bạ chiều nào che chiều ấy?!
7- Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não
Nguyễn Văn Huyên
(“Văn minh Việt Nam,” năm
1944)
Sự đơn điệu tẻ nhạt của cảnh
sắc thiên nhiên, tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt của các nhóm
người, sự phân chia nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiển người
Việt thiên về u buồn và sầu não.
Cá nhân bị giam hãm một cách
chặt chẽ và giả tạo trong những khuôn khổ cứng ngắc như gia đình và làng mạc
đến nỗi họ không quan niệm nổi họ có khả năng hành động một mình. Vì thế khi môi trường chung quanh không còn
giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông thường mà lễ giáo quy định, người ta
dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến mọi nỗ lực trí tuệ tiêu tán.
Nền văn hóa vốn thấm nhuần
lòng từ bi Phật giáo cũng góp thêm phần dồn nén các dục vọng cá nhân. Rồi quan
niệm siêu hình của đạo Lão khiển nhiều tác giả thiên về một cái nhìn bi quan
sâu sắc và một sự mỉa mai chua chát. Chinh
phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm cũng như các tác phẩm của Trần Tế
Xương, Nguyễn Khắc Hiếu… chỉ là những
tiếng vọng của nỗi đau nhân loại. Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn thấy
cùng những đề tài giống nhau về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản ảnh tất
cả sự dồn nén tinh thần của cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn thuở của
một kiếp người bấp bênh, một cuộc sống chật hẹp.
8- Một nền nghệ thuật thiếu tư tưởng
Hoài Thanh
(“Có một nền văn hóa Việt
Nam,” năm 1946)
Trong lịch sử ta biết bao thế
hệ nhà nho kế tiếp nhau mài miệt trong sách vở của thánh hiền mà nào có sáng
tác được gì đâu.
Ta không có một nền quốc học
nếu quốc học là học thuật riêng của nước. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử ta cơ hồ không
có sáng tác gì về học thuật. Ấy cũng vì
ta kém óc trừu tượng khái quát, điều kiện căn bản để phát minh về tư tưởng.
Người phương Tây rất ngạc
nhiên thấy ta hôm qua chỉ biết có “Tứ thư Ngũ kinh” mà hôm nay bỗng tin theo
những thuyết rất mới mẻ, rất cấp tiến của khoa học hiện kim. Họ không biết rằng
học thuật tư tưởng không phải là những căn bản tinh thần của dân tộc ta. Tư tưởng nào có lợi cho đời sống của dân tộc
thì ta theo, nhưng một khi tình thế đổi thay, tư tưởng ấy trở nên có hại cho
đời sống chung, ta sẽ trút bỏ dễ dàng không tiếc hối.
9- Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu nhược
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm
1915)
Văn chương gọt từng tiếng
khác nào như người gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cài giò kia hãm
cho thấp trông thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động vào đã gãy, để chưa mấy
ngày đã úa. Cốt lấy cái khéo nhỏ nhặt
làm mất đi cái khí mạnh, gọi là "nhu
nhược chi văn chương!"
10- Xu thế trang sức quá nặng
Đào Duy Anh
(“Việt Nam văn hóa sử cương,”
năm 1938)
Nghệ thuật Việt Nam thường bị
bó buộc trong lề lối cổ. Phải tôn trọng
những phép tắc xưa, cho nên nhà nghệ tài giỏi mấy cũng chỉ phỏng lại những hình
thức có sẵn cho khéo, chứ không được theo tự ý mà sáng kiến những cách thức
mới.
Nhà nghệ thuật Việt Nam không
phải là người biểu diễn ý chí tâm tình của mình, cũng không phải người quan sát
và biểu hiện tự nhiên mà chỉ là người giỗi bắt chước những kiểu mẫu sẵn. Có muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho
khéo cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật tinh tế, thật dụng công, chỉ cốt xếp đặt các
bộ phận cho xinh xắn lộng lẫy.
Tính chất đặc biệt của nghệ
thuật Việt Nam là tính trang sức. Nó
thiếu hẳn hoạt khí, vì cách biển hóa tuy lưu động mà ở trong phạm vi hình thức,
cách phối hợp tuy phiền phức mà ở trong phạm vi thái độ chế kiểu.
11- Lối tính toán thiển cận
Lương Dũ Thúc
(“Nông cổ mím đàm,” năm 1901)
Cách đại thương (1) là có gan
làm giàu. Coi người ta phí (2) là bao nhiêu tiền bạc mà không sợ mất, là vì
người ta tiên liệu đại lợi, kể chi sự phí. Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho thấy trước
mắt có lợi mới chịu làm. Nếu đem đại
thương mà sánh với bán hàng bông (3) thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt,
hễ mua sớm mai thì chiều thấy lợi, còn mua chiều sáng thấy, chớ như đại thương
thì ít nữa là năm năm còn nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi. Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít, cái lợi mà
lâu thấy thì thật lớn lắm.
Người nước nào đều có ngay
gian xấu tốt, họ không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm rồi thì
quen, còn người mình không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.
——————
(1) Buôn bán lớn.
(2) Bỏ tiền của ra sử dụng.
(3) Bán hoa quả bông trái.
12- Mê tín gây nhiều lãng phí
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm
1915)
Lễ kỳ (1) an chủ
ý là trừ khử ma quỷ cho dân xã bình an. Ta
lại tin theo Phật thuyết (2), bày ra vàng mã, nào mũ Ngọc Hoàng, nào tượng Minh
Vương, nào âm quan quỷ tốt, chiến khí binh tiền được việc cũng cam, nhưng nào
có được việc gì đâu, rút lại chỉ tại ta tin nhảm.
——————
——————
(1) Kỳ đây là cầu.
(2) Theo tôi (người viết / Trần Văn Giang) Cụ Phan Kế Bính có lẽ hiểu lầm (!?) Phật thuyết của Phật giáo về vấn đề đốt vàng mã, mũ Ngọc Hoàng v..v... Đốt vàng mã không phải là sản phẩm của Phật giáo mà là sản phẩm của mấy ông nhà Nho Trung Hoa truyền sang Việt Nam dưới thời Việt Nam bị đô hộ. Một số các thầy "cúng," những người nầy không phải là các Sư Tăng đạo Phật, vẫn còn dùng cái hủ tục mê tín dị đoan này vì nhiều người Việt nẫn còn tin!
(2) Theo tôi (người viết / Trần Văn Giang) Cụ Phan Kế Bính có lẽ hiểu lầm (!?) Phật thuyết của Phật giáo về vấn đề đốt vàng mã, mũ Ngọc Hoàng v..v... Đốt vàng mã không phải là sản phẩm của Phật giáo mà là sản phẩm của mấy ông nhà Nho Trung Hoa truyền sang Việt Nam dưới thời Việt Nam bị đô hộ. Một số các thầy "cúng," những người nầy không phải là các Sư Tăng đạo Phật, vẫn còn dùng cái hủ tục mê tín dị đoan này vì nhiều người Việt nẫn còn tin!
13- Không ai chuyên nhất việc gì
Tân Việt (*)
(“Mỗi người một việc” - Đông
Pháp thời báo, năm 1928)
Các nước phú cường, người nào
làm việc gì. Nhà khoa học lo cả đời phát
minh, người làm giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước ta thì không thế. Một người làm năm bảy việc, trong khi làm bầu
gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình, lại có mở một cửa
hàng tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu sang Pháp làm chính trị.
Người ngoại quốc thấy vậy,
cho rằng chúng ta có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức chuyên nhất,
không có tính nhẫn nại.
——————
(*) Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan Khôi ký chung
trên Đông Pháp thời báo 1928 (theo Lại Nguyên Ân). Nghe giọng (văn phong) thì
người viết ở đây có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?)
14- Dễ dãi trong tiếp nhận nên hỏng việc
Phạm Quỳnh
(“Giải nghĩa đồng hóa,” Nam
Phong, năm 1931)
Người An Nam vốn có cái thiên
tính dễ đồng hóa (1), dễ am hiểu, dễ thu nạp lấy những cái khác lạ với mình, dễ
đem những điều hay điều dở của người mà hóa (2) làm của mình, nhưng cái tài
đồng hóa đó thường thường chỉ là cái khóe tinh (3), biết xem xét và bắt chước
của người, chỉ phảng phất ở bề ngoài chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để (4)
chỗ tinh túy.
Tỷ như thợ An Nam thì phóng
chép tài lắm, những hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu cách lạ đến đâu, họ cũng bắt
chước được như hệt cả.
Học trò ta học rất mau, nhớ
cũng rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu thấu đã hóa được những cái người ta dạy
mình.
Một người trí não khô cạn hay
là vì không được tiêm nhiễm những cái tinh hoa của nòi giống mà thành ra khó
cạn đi - một người như thế không thể không thể nào hiểu thấu được cái tinh thần
của Tây phương. Có đồng hóa chỉ đồng hóa được cái bề ngoài, chỉ bắt chước được
cái hình thức.
Cái cách đồng hóa dễ dàng thô
thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt, mà có thể cho là cái tính xấu
được. Chưa chắc cái học tiếp thu được dễ
dàng như vậy đã làm cho óc được khôn ra, người được chín ra chút nào.
Đồng hóa một cách cấp tốc,
một cách vô độ há chẳng phải là hại hơn lợi?
——————
(1) Tiếp nhận.
(2) Biến cải.
(3) Ngón nghề, mánh lới.
(4) Gốc rễ, cơ bản.
15- Quá tin ở những điều viển vông
Phan Bội Châu
(“Cao đẳng quốc dân,” năm
1928)
Mê tín sinh ra những việc nực
cười. Ngày giờ nào cũng là trời bầy định mà bảo rằng có ngày dữ ngày lành, núi
sông nào cũng là đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu, vì nấu ăn mới có
bếp mà bảo rằng có ông thần táo, vì che mưa gió mới có nhà mà bảo rằng có ông
thần nhà, cho đến thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử, trăm việc gì
cũng trông mong vào thần, kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy những cửa nát
nhà tan, của mòn người hết, tin thần bao nhiêu thì tai họa bấy nhiêu...
16- Tầm thường hóa những giáo lý sâu xa
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm
1915)
Phật giáo là một tôn giáo
riêng, cũng có lý tưởng. Mà lời thiện ác báo ứng cũng đủ khuyên răn người.
Nhưng hiềm ta không cứu (1) đến nguyên lý mà chỉ tin những lời trần hủ (2),
sùng tín cái vỏ xác ngoài còn cái lý cao xa của người ta, không mấy người nghĩ
đến. Đã không ích gì, mà làm hại của cải
cũng chỉ bởi lòng tin sai vậy.
——————
(1) Xét đoán, tra hỏi.
(2) Cũ kỹ, không hợp thời.
17- Vớ được sách nào theo sách ấy
Nguyễn Văn Vĩnh
(“Hương Sơn hành trình,” Đông
Dương Tạp chí, năm 1914)
Có kẻ sáng ngày ra vào phủ
thờ bà cô, ông mãnh nào, chiều lại vào làm tôi con ông Trần Hưng Đạo là thần
hay trị những tà ma, những ông hoàng bà chúa. Đến sáng hôm sau cũng người ấy có
thể chay lòng thực dạ mà nghe giảng những lời đạo đức của ông Khổng, ông này
không có dạy phải tin thờ ông thần ông thánh nào cả hoặc là đi lễ Phật là một
đạo trái hẳn với mọi ma thiêng thần dữ.
Nói rút lại, thì người An Nam
ta tin bậy hình như theo lý tưởng này: Dẫu không có mà tin cũng chẳng hề chi,
ngộ có mà không tin, có lẽ hại đến mình. Cho nên cứ tin liều đi.
Người ta theo lý tưởng ấy cho
nên sinh ra những đạo không có tôn chỉ, quy tắc pháp ở trong tay mấy anh sư mô,
thầy cúng, ngày nay làm theo sách này, ngày mai bịa ra sách khác, có ngược nhau
cũng chẳng ai bảo sao. Mà người tin, người tộc trưởng, người làm lễ tang lễ hỷ,
cũng cứ tùy bện mà theo, vớ được sách nào theo sách ấy, tùy cách lịch sự tùy
gia tư (1) mà theo lễ này hay lễ kia, chứ không theo tôn chỉ nào cả.
Còn như sự đi chùa Hương và
các chùa chiền khác, nhiều người cho như một cái tật của các cụ già và của
người đàn bà. Cũng có kẻ bảo là việc hay, cũng có người cho là việc dở. Hay là
vì các bà các cô đi lễ bái như thể nó cũng thêm được cái dáng đạo đức, cái nếp
nhà ra một chút. Dở là vì các bà ganh
nhau tốn kém và mấy ông sư ông vả lại cũng chưa quên hẳn sự đời.
——————
(1) Của cải, tài sản trong gia đình.
18- Đời sống tôn giáo hời hợt
Nguyễn Văn Huyên
(“Hương Sơn hành trình,” Đông
Dương Tạp chí, năm 1914)
Mặc dù sự có mặt của vô số ma
quỷ và thần linh, người Việt vẫn có một đời sống tôn giáo không lấy gì làm sâu
sắc cho lắm. Người ta chỉ có những niềm
tin mơ hồ về linh hồn, về sự sống ở thế giới bên kia, về các thần. Một số lớn
thần được định tính không rõ ràng và thường thường là phi nhân cách. Không có
sự giáo dục tôn giáo cụ thể, cũng như không có sự tuyên truyền tôn giáo có tổ
chức.
Mọi người chỉ cầu tới tôn
giáo do nhu cầu vật chất. Ở một số
trường hợp, người ta tìm kiếm một kết quả trước mắt như khỏi bệnh, có con, có
tiền tài. Người ta cũng cầu thần để cho
đời sống một người đã khuất ở thế giới bên kia được dễ dàng, để thi đỗ, để
nhanh chóng trong một việc, để đi xa một chuyển được bình yên... Thường thường
trong ý thức dân gian, tôn giáo được quy lại chỉ còn là một lô thực hành thờ
cúng đã trở thành bắt buộc. Lễ nghi là
tất cả, nó đôi khi bao gồm những nghi thức rắc rối hoặc núp dưới một hình thức
long trọng có tính cách bề ngoài.
19- Từ ảo tưởng tới thoái hoá
Phan Khôi
(Báo Thần chung, năm 1929)
Mấy trăm năm nay, thuyết minh đức tân dân (1)
làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong thời đại khoa cử thịnh hành. Buổi
còn đang đi học thì người nào cũng nhằm vào hai chữ tân dân đó mà ôm những hy
vọng hăo huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau sẽ làm ông nọ bà kia, sẽ kinh bang
tế thế, rồi mình sẽ thượng trí quan, hạ trạch dân, làm nên công nghiệp (2) ghi
vào thanh sử (3) đến đời đời, không ngờ thi không đậu hay đậu mà không làm ra
trò chi, thì trở nên thất vọng, thiếu điều ngă ngửa người ra, tay chân xuôi lơ
và bủn rủn.
Còn người khác đắc thời, thi đậu ra làm quan
thì lại ỉ rằng bấy lâu mình đă có cái công phu minh đức, nghĩa là mình đă học
giỏi rồi, thì bây giờ cứ việc thôi sờ học ư sở hành, chớ có lo chi.
Bởi vậy nên có những ông thượng thư bộ hộ mà
làm chẳng chạy bốn phép toán, thượng thư bộ binh mà cả đời chẳng biết đến cái
lưng con ngựa ra sao cái cò khẩu súng là gì. Mà rồi ông quan nào cũng như thượng
đế cả, nghĩa là toàn trí, toàn năng (!)
——————
(1) Trích từ câu đầu tiên của sách Đại học, có
nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn đổi mới.
(2) Cũng
tức là sự nghiệp.
(3) Thanh
sét thời cổ ở Trung Quốc dùng thẻ tre để chép sử, nên lịch sử thường được gọi
là thanh sử.
20- Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học trò
Phạm Quỳnh
(“Bàn về quốc học,” Nam
phong, 1931)
Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả
nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy trò chỉ ôn lại mấy quyển sách
giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm
học trò!
Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến
nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò
Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi… chưa mấy ai là rơ rệt
có cái tư cách – đừng nói đến tư cách nữa, hăy nói có cái hy vọng mà thôi –
muốn độc lập trong cơi tư tưởng cả.
Như vậy thì ra giống ta chung kiếp (1) chỉ
làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược
quá không đủ cho ta cái óc tự lập.
——————
(1) Suốt đời.
21- Không có can đảm là mình
Nguyễn Duy Thanh
(“Muốn cho tiếng An Nam
giàu,” báo Phụ nữ tân văn, 1929)
Ông Dorgelès trong quyển “Con đường cái quan”
có nói đến thói hay bắt chước của người mình. Đại khái ông nói rằng: “Ngày xưa
người Tàu sang cai trị An Nam, người An Nam đều nhất nhất theo Tàu cả. Nay
người Pháp sang bảo hộ mới được gần một trăm năm, mà nhà cửa đă theo Tây thời
rất dễ dàng, nói đến tiếng An Nam thời khô khan, hình như phải dịch tiếng mình
ra tiếng nước ngoài… Khoa học có nói rằng giống thằn lằn hễ bám vào cây nào thì
lâu dần sẽ giống da cây ấy. Ở bên An Nam này thời không thế, thằn lằn không đổi
màu da mà chính cây đổi màu da để lấy màu da thằn lằn.”
Câu nói đau đớn thay mà xét người ta nói cũng
phải. …Người viết văn phải có can đảm mà dịch những chữ nước ngoài ra. Mở đầu
có hơi ngang tai, sau dần rồi cũng nghe được. Cụ Nguyễn Du không can đảm sao
dịch nổi chữ tang thương ra chữ bể dâu, chữ thiết diện ra chữ mặt sắt (1)… Mà
cũng lạ thay cho người mình không suy xét kỹ: Người Tàu nói chữ vân cẩu tang
thương có khác gì chữ mây chó chữ bể dâu không. Ấy thế mà giá mình nói “Bức
tranh mây chó vẽ người bể dâu” (2) tất phần nhiều người cho là mách qué! Người
Tàu trước kia làm gì có những tiếng cộng hòa, cách mạng, cá nhân, vật lý học,
kỷ hà học (3)… Vì sốt sắng làm cho tiếng nước nhà giàu thêm lên, nên họ không
ngại khó, rồi mới đặt ra được cái tiếng ấy. Người mình thì không thế. Muốn dịch
một chữ Pháp hay chữ Anh ra tiếng nước nhà mà không dịch nổi, thì cứ việc mở
ngay tự vị (4) Tàu ra, trong ấy đă sẵn sàng cả rồi. Dù người Tàu có dịch sai
chăng nữa cũng mặc cứ cắm đầu cắm cổ mà chép, ai biết đến đó mà lo.
——————
(1) Hai
câu nguyên văn trong Truyện Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu” và “Lạ cho mặt sắt
cũng ngây vi tính.”
(2) Một
câu trong “Cung oán ngâm khúc.” “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.”
(3) Tức
hình học.
(4) Tức
từ điển.
22- Thạo sử người hơn sử mình
Hoàng Cao Khải
(Việt sử yếu, 1914)
Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không
biết đất đai của nước ta và ṇi giống dân ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao
Tổ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ
chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không biết các bề tôi Tô Hiến Thành,
Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót
vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu
tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ – phát nguyên từ nơi nào. Ưa chuộng phong tục nước
ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (1), chúng ta đều bắt chước
người Trung Hoa cả. Lại c̣òn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đă không chịu
học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp
cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ, hàng tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn (2)…
chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh
hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí năo của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta
không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta cứ chuyên trọng Bắc sứ (3) mà thôi.
——————
(1) Các
việc thuộc về đ́nh đám, ma chay, cưới xin…
(2) Hàng
dệt bằng tơ, mặt bóng mịn.
(3) Tức
lịch sử Trung Hoa.
23- Đầu óc vọng ngoại và hay kỳ thị (**)
Luôn luôn có đầu óc vọng
ngoại, nghĩa là tôn sùng hàng (ngoại) hóa và người ngoại quốc – những gì đến từ
bên ngoài Việt Nam đều tốt đẹp hơn ở nội địa. Có lẽ vì dân trí mình còn thấp
kém lại bị ngoại quốc đô hộ quá lâu - trên ngàn năm. Đã đành là đối với người
ngoại quốc thì e sợ, nhát nhúa, nhưng đối với nhau thì lại thích hống hách và
kỳ thị.
Người mình có đủ mọi kiểu kỳ
thị: Tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Hoà hảo, Cao đài, Tin lành v.v..); Địa
phương (nơi, miền); Sinh trưởng (Nam, Trung, Bắc); Sắc dân (Kinh, Thượng, Cao
miên, Chàm, Trung hoa…); Bằng cấp và Xuất xứ được đào tạo giáo dục (truờng Việt,
trường Mỹ, truờng Tây, trường Tầu, trường Liên xô…)
Sang sống tị nạn ở hải ngoại,
sau khi ăn nên làm ra, cũng thấy bắt đầu dở mòi kỳ thị người thiểu số, da mầu
bản xứ (da đen và da nâu / Mễ) nhiều khi tính kỳ thị của người mình còn hơn cả
người Da trắng chính gốc bản địa nữa (!)
24- Vô kỷ luật (**)
Bất cứ ở đâu cũng có thể lấy
thịt đè người, to tiếng, chen lấn vô trật tự, khinh thường người khác có vẻ nhỏ
bé, nhã nhặn hơn mặc dù chưa (hoặc chẳng cần) hiểu rõ họ là ai? Ở những nơi như chợ búa, hàng quán… Những nơi cần
phải được xếp hàng theo thứ tự, tuần tự thì phe ta cứ tự tiện bất chấp luật lệ,
lẽ phải tự nhiên (“common senses”), cứ tranh dành thế nào để rồi chen lấn, xô
đẩy xếp thành một hàng ngang thôi mới vừa ý – hàng ngang có nghĩa rằng mọi người
đều là số 1, không ai chịu thua kém ai?
Thiệt tình dân mình! – Người nào hung bạo nhất, to tiếng nhất thì người
đó cũng tự cho mình có cái quyền phải được phục vụ trước (?) Hay thật!
Sau biến cố tháng 4 năm 1975,
người Việt Nam di tản đi tị nạn cộng sản khắp thế giới, sau khi đã được định cư
ở những nước văn minh Âu Mỹ thì Cộng Đồng Việt Nam bị những sắc dân bản xứ và
thiểu số khác coi thường chỉ vì cái "thói quen cố hữu 4000 năm chen
lấn" này.
Vấn đề “vô kỷ luật,”
thiếu lịch sự tối thiểu còn được thấy ngay trong các dịp đi dự tiệc cưới, họp
mặt, lễ lạc, giờ hẹn phòng mạch bác sĩ… Cứ
tự nhiên đi trễ cả tiếng đồng hồ sau giờ ấn định làm các quan khách, các thân
hữu, người phục vụ phải chờ đợi trông ngóng mệt mỏi. Sự trễ nãi lạc hậu này đã trở thành một hủ
tục gắn liền với người Việt Nam. Đến nỗi
tại hải ngoại có câu vè châm biếm:
"Không ăn đậu (“bean”) không
phải Mễ,
Không đi trễ không phải Việt
Nam…"
________
Chú thích:
(**) TVG viết thêm 2 tiểu mục số 23 và 24.
Trần Văn Giang ( HNPD )
(Ghi lại và viết thêm 2 mục)
Thói hư tật xấu của người mình! - Trần Văn Giang
( HNPĐ ) Không hiểu cuốn sách “Người Trung Quốc xấu xí” của Bá Dương (“Bo Yang”) được xuất bản cách đây gần hai chục năm có liên quan gì đến sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc hôm nay hay không?
Lời giới thiệu:
( HNPĐ ) Không hiểu cuốn sách “Người Trung Quốc xấu xí”
của Bá Dương (“Bo Yang”) được xuất bản cách đây gần hai chục năm có liên quan
gì đến sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc hôm nay hay không?
[Nên biết bên Mỹ có cuốn sách nổi tiếng tương tự là
"The ugly American" của
WILLIAM J. LEDERER AND EUGENE BURDICK xuất bản năm 1958 đã trở thành cuốn sách
bán chạy nhất thời đó].
Tuy nhiên, hình như có nhiều liên quan giữa sự can đảm
nhìn nhận ra những yếu kém của chính mình và sức vươn lên mạnh mẽ cho dân tộc (!)
Ở hoàn cảnh Việt Nam, đã gần một thế kỷ rồi, thế hệ
cha ông của chúng ta cũng đã có rất nhiều người dám vạch thẳng những tính xấu, những
hủ tục của người Việt mình để biết mà sửa đổi (!) Nhưng mà không thấy có ai
chịu nghe??? Để xét cái kết quả (“không
khá”) này, cứ việc nhìn vào hiện tình dân tộc Việt ở trong nước lẫn ở hải
ngọai; cứ nhìn vào chính bản thân mình, đồng bào và các tổ chức / hội đoàn chung
quanh mình chứ chẳng cần tìm đâu xa! Đến
lúc này, thế hệ chúng ta, giữa những thay đổi lớn lao đang và vừa mới xẩy đến
cho dân tộc chúng ta, giữa khát vọng phục hưng dân tộc… đây là một cơ hội thật
tốt để cùng nhau đọc lại những nhận định mà các vị tiền bối đã viết về nhũng
cái xấu xa của người mình và rồi tự đặt câu hỏi cho bản thân và cộng đồng của
mình phải làm gì để cho dân tộc mình khá hơn?
“Có lẽ ta đâu mãi thế này …”
(Nguyễn Công Trứ - “Quân tử cố cùng”)
TVG
*
|
|
|
1- Chơi bời lãng phí
Trần Chánh Chiếu
(“Lục tỉnh tân văn,” năm 1907)
Theo tục ông bà để lại, hễ
mãn một năm thì ăn Tết một lần ấy cũng là phải. Sao tôi thấy hễ tới ngày ấy, ai
ai cũng đốt pháo, dựng nêu, treo bùa tứ tung ngũ hoành, đánh đáo đánh quần tới
bảy bữa, rồi nào me, nào lú (1), bài cào, xóc đĩa, tổ tôm đủ thứ. Thậm chí có
ông ăn Tết rồi thì bán nhà bán cửa, nợ réo trước nợ réo sau. Đã “bần nhược” (2) lại “đãi đọa” (3) vậy thì
biết chừng nào mà giàu có như người ta đặng?
——————
(1) Theo Huỳnh Tịnh Của, “Đánh me” là "gây ăn
thua trong cuộc chơi tiền,” còn “Lú” là "cuộc chơi con nít dùng tiền mà
đánh đố.”
(2) Nghèo đói.
(3) Biếng nhác.
2- Ở đâu cũng thấy học đòi làm dáng
Hoa Bằng
(“Hiếu thượng,” Tri tân, năm
1943)
Cái hiếu thượng (1) của số
đông người mình đã lộ rõ ở từ ngôn ngữ đến cử chỉ, từ hành vi trong gia đình
đến động tác ngoài xã hội. Người ta chơi
câu đối? Phần đông không phải vì thích
chữ tốt yêu văn hay nhưng vì muốn sĩ diện ở mấy cái lạc khoản (2) có chức tước.
Người ta in danh thiếp? Không phải vì cốt thông tính danh tỏ địa chỉ,
song hình như chỉ cốt trưng những chức sắc tước trật và phẩm hàm. Người ta đăng cáo phó? Có lẽ ít vì cốt để báo tang, nhưng phần nhiều
cốt để lợi dụng cái chết của ông bà cha mẹ mà quảng cáo cái danh phận của con
cháu.
Cái bệnh hiếu thượng ấy
truyền nhiễm đến cả nữ giới làm cho lắm người cũng mắc lây. Một dạo ở xã hội ta nổi lên cái phong trào “phi cao đẳng bất thành phu phụ.” Vì thế trong cuộc hôn nhân đã xảy ra lắm
chuyện buồn cười. Hoặc mượn văn bằng của
người khác để đưa nhà gái sát hạch lúc cầu hôn, hoặc giả làm nhà tòng sự (3)
suốt mấy tháng để nhà gái nếu có dò la vẫn thấy sớm vác ô đi tối vác về...
——————
(1) Thích hướng lên trên, tức hiếu danh, bon chen...
(2) Tự đề tên họ chức tước ở một góc câu đối.
(3) Làm công chức.
3- Học vấn một đằng, công nghệ một nẻo
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm
1915)
Tính người mình không biết
quý trọng công nghệ, người làm nghề tựa hồ như bất đắc dĩ không học được làm
quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra làm nghề thôi. Mà làm nghề thì không cần gì tinh xảo chỉ cốt
bán rẻ tiền được nhiều người mua là hơn. Công nghệ suy nhược lại còn là vì người có học
thức không chịu làm, người chịu làm thì lại là người không có học thức, chẳng
qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa chớ không nghĩ được cách thức nào mới.
Ít năm nay, có trường bách
công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều và
cũng đã có người sinh được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi buôn
bán. Song cái tính khinh đường công nghệ
thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu có song vẫn tự coi
mình là đê tiện, phải mượn cái phẩm ông Hàn ông Bá mới là vẻ vang.
4- Khéo tay mà trí không khôn
Phạm Quỳnh
(“Pháp du hành trình nhật ký,”
năm 1922)
Xét ra ở nước Nam ta mới có
các nghề mỹ nghệ là thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề trang sức cả, còn mỹ
thuật thì chưa có gì sánh được với các nước, nhưng ngay trong mỹ nghệ cũng chưa
có kỷ luật, chưa có thể thống gì, chưa phân rõ các kiểu cách, các thời đại, các
lề lối, các phương pháp, thợ thuyền phần nhiều là những người vô học, phi quen
tay phóng lại lối cũ, thời bắt chước chép của người ngoài, thành ra tay có khéo
mà trí không khôn, không biết biến báo mà vẫn giữ được tinh thần cốt cách cũ ,
tồn cổ mà khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mời, nói tóm lại là không có trí
sáng khởi (1) khôn ngoan, gây ra trong mỗi nghề một cái thể thức trang nghiêm
mà đặc biệt. Cho nên các nhà nghề ta
không thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho có cái trí khôn nữa.
Nay muốn gây lấy cái trí khôn
ngoan trong mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức, thời không gì bằng lập
ra một nhà bảo tàng mỹ nghệ, sưu tập lấy những đồ đẹp trong nước, chia ra từng
thời đại, bày cho có thống hệ (2), để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà học
cho biết nghề mình duyên cách (3) thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy
mà giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ, hoặc nhân đấy mà biển đổi dần
——————
(1) Bắt đầu dựng lên, ngày nay hay viết là “sáng tạo.”
(2) Quan hệ của những cái liên tiếp nhau. Cũng nghĩa
như hệ thống.
(3) Duyên (có khi đọc diên) ở đây lá thủ cựu, cách là
đổi mới. Duyên cách: Tình hình trong một khu vực nào đó cái cũ thế nào, cái mới
ra sao.
5- Thiếu tinh thần cầu học
Nguyễn Văn Tố
(theo Lê Thanh, “Cuộc phỏng
vấn các nhà văn,” năm 1943)
Phải nhận rằng người mình
không ham học mấy. Thí dụ như người đỗ
bằng tốt nghiệp, có công ăn việc làm thì thôi, không chịu học thêm. Tôi cho thế là nhầm lắm. Người ta dạy cho bấy nhiêu là để cho mình tạm
đủ sức mà học lấy, khi ở trường ra mắt là chỗ khởi hành, mình lại tưởng đến nơi
rồi. Nếu tôi được phép, tôi sẽ khuyên
anh em thanh niên học rõ nhiều, vừa đọc văn Tây, vừa học lại tiếng ta, vì phần
đông người ta mà viết văn ta còn sai nhiều.
6- Mô phỏng đã thành thói quen
Hoa Bằng
(“Phải có cái gì để làm đặc
tính của người mình chứ.” Tri tân, năm 1941)
Hết thảy mọi phương diện,
chẳng hạn, từ văn học tới nghệ thuật - chúng ta đều ăn của người, nhưng đã biết
hóa để làm của riêng của mình chưa?
Bình tĩnh mà xét, từ hình
thức đến tinh thần ta nay cũng có một đôi phần tiến. Nhưng cái óc mô phỏng hay còn rõ sờ sờ trung
hết thảy mọi mặt.
"Chúng ta phải làm con
cháu của cổ nhân chứ không nên làm nô lệ của cổ nhân.” Đối với cổ nhân ta nay còn phải dè dặt thay,
huống chi đối với gió bốn phương, há lại nên bạ chiều nào che chiều ấy?!
7- Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não
Nguyễn Văn Huyên
(“Văn minh Việt Nam,” năm
1944)
Sự đơn điệu tẻ nhạt của cảnh
sắc thiên nhiên, tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt của các nhóm
người, sự phân chia nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiển người
Việt thiên về u buồn và sầu não.
Cá nhân bị giam hãm một cách
chặt chẽ và giả tạo trong những khuôn khổ cứng ngắc như gia đình và làng mạc
đến nỗi họ không quan niệm nổi họ có khả năng hành động một mình. Vì thế khi môi trường chung quanh không còn
giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông thường mà lễ giáo quy định, người ta
dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến mọi nỗ lực trí tuệ tiêu tán.
Nền văn hóa vốn thấm nhuần
lòng từ bi Phật giáo cũng góp thêm phần dồn nén các dục vọng cá nhân. Rồi quan
niệm siêu hình của đạo Lão khiển nhiều tác giả thiên về một cái nhìn bi quan
sâu sắc và một sự mỉa mai chua chát. Chinh
phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm cũng như các tác phẩm của Trần Tế
Xương, Nguyễn Khắc Hiếu… chỉ là những
tiếng vọng của nỗi đau nhân loại. Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn thấy
cùng những đề tài giống nhau về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản ảnh tất
cả sự dồn nén tinh thần của cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn thuở của
một kiếp người bấp bênh, một cuộc sống chật hẹp.
8- Một nền nghệ thuật thiếu tư tưởng
Hoài Thanh
(“Có một nền văn hóa Việt
Nam,” năm 1946)
Trong lịch sử ta biết bao thế
hệ nhà nho kế tiếp nhau mài miệt trong sách vở của thánh hiền mà nào có sáng
tác được gì đâu.
Ta không có một nền quốc học
nếu quốc học là học thuật riêng của nước. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử ta cơ hồ không
có sáng tác gì về học thuật. Ấy cũng vì
ta kém óc trừu tượng khái quát, điều kiện căn bản để phát minh về tư tưởng.
Người phương Tây rất ngạc
nhiên thấy ta hôm qua chỉ biết có “Tứ thư Ngũ kinh” mà hôm nay bỗng tin theo
những thuyết rất mới mẻ, rất cấp tiến của khoa học hiện kim. Họ không biết rằng
học thuật tư tưởng không phải là những căn bản tinh thần của dân tộc ta. Tư tưởng nào có lợi cho đời sống của dân tộc
thì ta theo, nhưng một khi tình thế đổi thay, tư tưởng ấy trở nên có hại cho
đời sống chung, ta sẽ trút bỏ dễ dàng không tiếc hối.
9- Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu nhược
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm
1915)
Văn chương gọt từng tiếng
khác nào như người gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cài giò kia hãm
cho thấp trông thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động vào đã gãy, để chưa mấy
ngày đã úa. Cốt lấy cái khéo nhỏ nhặt
làm mất đi cái khí mạnh, gọi là "nhu
nhược chi văn chương!"
10- Xu thế trang sức quá nặng
Đào Duy Anh
(“Việt Nam văn hóa sử cương,”
năm 1938)
Nghệ thuật Việt Nam thường bị
bó buộc trong lề lối cổ. Phải tôn trọng
những phép tắc xưa, cho nên nhà nghệ tài giỏi mấy cũng chỉ phỏng lại những hình
thức có sẵn cho khéo, chứ không được theo tự ý mà sáng kiến những cách thức
mới.
Nhà nghệ thuật Việt Nam không
phải là người biểu diễn ý chí tâm tình của mình, cũng không phải người quan sát
và biểu hiện tự nhiên mà chỉ là người giỗi bắt chước những kiểu mẫu sẵn. Có muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho
khéo cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật tinh tế, thật dụng công, chỉ cốt xếp đặt các
bộ phận cho xinh xắn lộng lẫy.
Tính chất đặc biệt của nghệ
thuật Việt Nam là tính trang sức. Nó
thiếu hẳn hoạt khí, vì cách biển hóa tuy lưu động mà ở trong phạm vi hình thức,
cách phối hợp tuy phiền phức mà ở trong phạm vi thái độ chế kiểu.
11- Lối tính toán thiển cận
Lương Dũ Thúc
(“Nông cổ mím đàm,” năm 1901)
Cách đại thương (1) là có gan
làm giàu. Coi người ta phí (2) là bao nhiêu tiền bạc mà không sợ mất, là vì
người ta tiên liệu đại lợi, kể chi sự phí. Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho thấy trước
mắt có lợi mới chịu làm. Nếu đem đại
thương mà sánh với bán hàng bông (3) thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt,
hễ mua sớm mai thì chiều thấy lợi, còn mua chiều sáng thấy, chớ như đại thương
thì ít nữa là năm năm còn nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi. Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít, cái lợi mà
lâu thấy thì thật lớn lắm.
Người nước nào đều có ngay
gian xấu tốt, họ không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm rồi thì
quen, còn người mình không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.
——————
(1) Buôn bán lớn.
(2) Bỏ tiền của ra sử dụng.
(3) Bán hoa quả bông trái.
12- Mê tín gây nhiều lãng phí
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm
1915)
Lễ kỳ (1) an chủ
ý là trừ khử ma quỷ cho dân xã bình an. Ta
lại tin theo Phật thuyết (2), bày ra vàng mã, nào mũ Ngọc Hoàng, nào tượng Minh
Vương, nào âm quan quỷ tốt, chiến khí binh tiền được việc cũng cam, nhưng nào
có được việc gì đâu, rút lại chỉ tại ta tin nhảm.
——————
——————
(1) Kỳ đây là cầu.
(2) Theo tôi (người viết / Trần Văn Giang) Cụ Phan Kế Bính có lẽ hiểu lầm (!?) Phật thuyết của Phật giáo về vấn đề đốt vàng mã, mũ Ngọc Hoàng v..v... Đốt vàng mã không phải là sản phẩm của Phật giáo mà là sản phẩm của mấy ông nhà Nho Trung Hoa truyền sang Việt Nam dưới thời Việt Nam bị đô hộ. Một số các thầy "cúng," những người nầy không phải là các Sư Tăng đạo Phật, vẫn còn dùng cái hủ tục mê tín dị đoan này vì nhiều người Việt nẫn còn tin!
(2) Theo tôi (người viết / Trần Văn Giang) Cụ Phan Kế Bính có lẽ hiểu lầm (!?) Phật thuyết của Phật giáo về vấn đề đốt vàng mã, mũ Ngọc Hoàng v..v... Đốt vàng mã không phải là sản phẩm của Phật giáo mà là sản phẩm của mấy ông nhà Nho Trung Hoa truyền sang Việt Nam dưới thời Việt Nam bị đô hộ. Một số các thầy "cúng," những người nầy không phải là các Sư Tăng đạo Phật, vẫn còn dùng cái hủ tục mê tín dị đoan này vì nhiều người Việt nẫn còn tin!
13- Không ai chuyên nhất việc gì
Tân Việt (*)
(“Mỗi người một việc” - Đông
Pháp thời báo, năm 1928)
Các nước phú cường, người nào
làm việc gì. Nhà khoa học lo cả đời phát
minh, người làm giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước ta thì không thế. Một người làm năm bảy việc, trong khi làm bầu
gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình, lại có mở một cửa
hàng tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu sang Pháp làm chính trị.
Người ngoại quốc thấy vậy,
cho rằng chúng ta có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức chuyên nhất,
không có tính nhẫn nại.
——————
(*) Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan Khôi ký chung
trên Đông Pháp thời báo 1928 (theo Lại Nguyên Ân). Nghe giọng (văn phong) thì
người viết ở đây có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?)
14- Dễ dãi trong tiếp nhận nên hỏng việc
Phạm Quỳnh
(“Giải nghĩa đồng hóa,” Nam
Phong, năm 1931)
Người An Nam vốn có cái thiên
tính dễ đồng hóa (1), dễ am hiểu, dễ thu nạp lấy những cái khác lạ với mình, dễ
đem những điều hay điều dở của người mà hóa (2) làm của mình, nhưng cái tài
đồng hóa đó thường thường chỉ là cái khóe tinh (3), biết xem xét và bắt chước
của người, chỉ phảng phất ở bề ngoài chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để (4)
chỗ tinh túy.
Tỷ như thợ An Nam thì phóng
chép tài lắm, những hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu cách lạ đến đâu, họ cũng bắt
chước được như hệt cả.
Học trò ta học rất mau, nhớ
cũng rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu thấu đã hóa được những cái người ta dạy
mình.
Một người trí não khô cạn hay
là vì không được tiêm nhiễm những cái tinh hoa của nòi giống mà thành ra khó
cạn đi - một người như thế không thể không thể nào hiểu thấu được cái tinh thần
của Tây phương. Có đồng hóa chỉ đồng hóa được cái bề ngoài, chỉ bắt chước được
cái hình thức.
Cái cách đồng hóa dễ dàng thô
thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt, mà có thể cho là cái tính xấu
được. Chưa chắc cái học tiếp thu được dễ
dàng như vậy đã làm cho óc được khôn ra, người được chín ra chút nào.
Đồng hóa một cách cấp tốc,
một cách vô độ há chẳng phải là hại hơn lợi?
——————
(1) Tiếp nhận.
(2) Biến cải.
(3) Ngón nghề, mánh lới.
(4) Gốc rễ, cơ bản.
15- Quá tin ở những điều viển vông
Phan Bội Châu
(“Cao đẳng quốc dân,” năm
1928)
Mê tín sinh ra những việc nực
cười. Ngày giờ nào cũng là trời bầy định mà bảo rằng có ngày dữ ngày lành, núi
sông nào cũng là đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu, vì nấu ăn mới có
bếp mà bảo rằng có ông thần táo, vì che mưa gió mới có nhà mà bảo rằng có ông
thần nhà, cho đến thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử, trăm việc gì
cũng trông mong vào thần, kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy những cửa nát
nhà tan, của mòn người hết, tin thần bao nhiêu thì tai họa bấy nhiêu...
16- Tầm thường hóa những giáo lý sâu xa
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm
1915)
Phật giáo là một tôn giáo
riêng, cũng có lý tưởng. Mà lời thiện ác báo ứng cũng đủ khuyên răn người.
Nhưng hiềm ta không cứu (1) đến nguyên lý mà chỉ tin những lời trần hủ (2),
sùng tín cái vỏ xác ngoài còn cái lý cao xa của người ta, không mấy người nghĩ
đến. Đã không ích gì, mà làm hại của cải
cũng chỉ bởi lòng tin sai vậy.
——————
(1) Xét đoán, tra hỏi.
(2) Cũ kỹ, không hợp thời.
17- Vớ được sách nào theo sách ấy
Nguyễn Văn Vĩnh
(“Hương Sơn hành trình,” Đông
Dương Tạp chí, năm 1914)
Có kẻ sáng ngày ra vào phủ
thờ bà cô, ông mãnh nào, chiều lại vào làm tôi con ông Trần Hưng Đạo là thần
hay trị những tà ma, những ông hoàng bà chúa. Đến sáng hôm sau cũng người ấy có
thể chay lòng thực dạ mà nghe giảng những lời đạo đức của ông Khổng, ông này
không có dạy phải tin thờ ông thần ông thánh nào cả hoặc là đi lễ Phật là một
đạo trái hẳn với mọi ma thiêng thần dữ.
Nói rút lại, thì người An Nam
ta tin bậy hình như theo lý tưởng này: Dẫu không có mà tin cũng chẳng hề chi,
ngộ có mà không tin, có lẽ hại đến mình. Cho nên cứ tin liều đi.
Người ta theo lý tưởng ấy cho
nên sinh ra những đạo không có tôn chỉ, quy tắc pháp ở trong tay mấy anh sư mô,
thầy cúng, ngày nay làm theo sách này, ngày mai bịa ra sách khác, có ngược nhau
cũng chẳng ai bảo sao. Mà người tin, người tộc trưởng, người làm lễ tang lễ hỷ,
cũng cứ tùy bện mà theo, vớ được sách nào theo sách ấy, tùy cách lịch sự tùy
gia tư (1) mà theo lễ này hay lễ kia, chứ không theo tôn chỉ nào cả.
Còn như sự đi chùa Hương và
các chùa chiền khác, nhiều người cho như một cái tật của các cụ già và của
người đàn bà. Cũng có kẻ bảo là việc hay, cũng có người cho là việc dở. Hay là
vì các bà các cô đi lễ bái như thể nó cũng thêm được cái dáng đạo đức, cái nếp
nhà ra một chút. Dở là vì các bà ganh
nhau tốn kém và mấy ông sư ông vả lại cũng chưa quên hẳn sự đời.
——————
(1) Của cải, tài sản trong gia đình.
18- Đời sống tôn giáo hời hợt
Nguyễn Văn Huyên
(“Hương Sơn hành trình,” Đông
Dương Tạp chí, năm 1914)
Mặc dù sự có mặt của vô số ma
quỷ và thần linh, người Việt vẫn có một đời sống tôn giáo không lấy gì làm sâu
sắc cho lắm. Người ta chỉ có những niềm
tin mơ hồ về linh hồn, về sự sống ở thế giới bên kia, về các thần. Một số lớn
thần được định tính không rõ ràng và thường thường là phi nhân cách. Không có
sự giáo dục tôn giáo cụ thể, cũng như không có sự tuyên truyền tôn giáo có tổ
chức.
Mọi người chỉ cầu tới tôn
giáo do nhu cầu vật chất. Ở một số
trường hợp, người ta tìm kiếm một kết quả trước mắt như khỏi bệnh, có con, có
tiền tài. Người ta cũng cầu thần để cho
đời sống một người đã khuất ở thế giới bên kia được dễ dàng, để thi đỗ, để
nhanh chóng trong một việc, để đi xa một chuyển được bình yên... Thường thường
trong ý thức dân gian, tôn giáo được quy lại chỉ còn là một lô thực hành thờ
cúng đã trở thành bắt buộc. Lễ nghi là
tất cả, nó đôi khi bao gồm những nghi thức rắc rối hoặc núp dưới một hình thức
long trọng có tính cách bề ngoài.
19- Từ ảo tưởng tới thoái hoá
Phan Khôi
(Báo Thần chung, năm 1929)
Mấy trăm năm nay, thuyết minh đức tân dân (1)
làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong thời đại khoa cử thịnh hành. Buổi
còn đang đi học thì người nào cũng nhằm vào hai chữ tân dân đó mà ôm những hy
vọng hăo huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau sẽ làm ông nọ bà kia, sẽ kinh bang
tế thế, rồi mình sẽ thượng trí quan, hạ trạch dân, làm nên công nghiệp (2) ghi
vào thanh sử (3) đến đời đời, không ngờ thi không đậu hay đậu mà không làm ra
trò chi, thì trở nên thất vọng, thiếu điều ngă ngửa người ra, tay chân xuôi lơ
và bủn rủn.
Còn người khác đắc thời, thi đậu ra làm quan
thì lại ỉ rằng bấy lâu mình đă có cái công phu minh đức, nghĩa là mình đă học
giỏi rồi, thì bây giờ cứ việc thôi sờ học ư sở hành, chớ có lo chi.
Bởi vậy nên có những ông thượng thư bộ hộ mà
làm chẳng chạy bốn phép toán, thượng thư bộ binh mà cả đời chẳng biết đến cái
lưng con ngựa ra sao cái cò khẩu súng là gì. Mà rồi ông quan nào cũng như thượng
đế cả, nghĩa là toàn trí, toàn năng (!)
——————
(1) Trích từ câu đầu tiên của sách Đại học, có
nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn đổi mới.
(2) Cũng
tức là sự nghiệp.
(3) Thanh
sét thời cổ ở Trung Quốc dùng thẻ tre để chép sử, nên lịch sử thường được gọi
là thanh sử.
20- Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học trò
Phạm Quỳnh
(“Bàn về quốc học,” Nam
phong, 1931)
Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả
nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy trò chỉ ôn lại mấy quyển sách
giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm
học trò!
Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến
nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò
Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi… chưa mấy ai là rơ rệt
có cái tư cách – đừng nói đến tư cách nữa, hăy nói có cái hy vọng mà thôi –
muốn độc lập trong cơi tư tưởng cả.
Như vậy thì ra giống ta chung kiếp (1) chỉ
làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược
quá không đủ cho ta cái óc tự lập.
——————
(1) Suốt đời.
21- Không có can đảm là mình
Nguyễn Duy Thanh
(“Muốn cho tiếng An Nam
giàu,” báo Phụ nữ tân văn, 1929)
Ông Dorgelès trong quyển “Con đường cái quan”
có nói đến thói hay bắt chước của người mình. Đại khái ông nói rằng: “Ngày xưa
người Tàu sang cai trị An Nam, người An Nam đều nhất nhất theo Tàu cả. Nay
người Pháp sang bảo hộ mới được gần một trăm năm, mà nhà cửa đă theo Tây thời
rất dễ dàng, nói đến tiếng An Nam thời khô khan, hình như phải dịch tiếng mình
ra tiếng nước ngoài… Khoa học có nói rằng giống thằn lằn hễ bám vào cây nào thì
lâu dần sẽ giống da cây ấy. Ở bên An Nam này thời không thế, thằn lằn không đổi
màu da mà chính cây đổi màu da để lấy màu da thằn lằn.”
Câu nói đau đớn thay mà xét người ta nói cũng
phải. …Người viết văn phải có can đảm mà dịch những chữ nước ngoài ra. Mở đầu
có hơi ngang tai, sau dần rồi cũng nghe được. Cụ Nguyễn Du không can đảm sao
dịch nổi chữ tang thương ra chữ bể dâu, chữ thiết diện ra chữ mặt sắt (1)… Mà
cũng lạ thay cho người mình không suy xét kỹ: Người Tàu nói chữ vân cẩu tang
thương có khác gì chữ mây chó chữ bể dâu không. Ấy thế mà giá mình nói “Bức
tranh mây chó vẽ người bể dâu” (2) tất phần nhiều người cho là mách qué! Người
Tàu trước kia làm gì có những tiếng cộng hòa, cách mạng, cá nhân, vật lý học,
kỷ hà học (3)… Vì sốt sắng làm cho tiếng nước nhà giàu thêm lên, nên họ không
ngại khó, rồi mới đặt ra được cái tiếng ấy. Người mình thì không thế. Muốn dịch
một chữ Pháp hay chữ Anh ra tiếng nước nhà mà không dịch nổi, thì cứ việc mở
ngay tự vị (4) Tàu ra, trong ấy đă sẵn sàng cả rồi. Dù người Tàu có dịch sai
chăng nữa cũng mặc cứ cắm đầu cắm cổ mà chép, ai biết đến đó mà lo.
——————
(1) Hai
câu nguyên văn trong Truyện Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu” và “Lạ cho mặt sắt
cũng ngây vi tính.”
(2) Một
câu trong “Cung oán ngâm khúc.” “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.”
(3) Tức
hình học.
(4) Tức
từ điển.
22- Thạo sử người hơn sử mình
Hoàng Cao Khải
(Việt sử yếu, 1914)
Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không
biết đất đai của nước ta và ṇi giống dân ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao
Tổ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ
chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không biết các bề tôi Tô Hiến Thành,
Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót
vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu
tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ – phát nguyên từ nơi nào. Ưa chuộng phong tục nước
ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (1), chúng ta đều bắt chước
người Trung Hoa cả. Lại c̣òn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đă không chịu
học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp
cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ, hàng tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn (2)…
chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh
hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí năo của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta
không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta cứ chuyên trọng Bắc sứ (3) mà thôi.
——————
(1) Các
việc thuộc về đ́nh đám, ma chay, cưới xin…
(2) Hàng
dệt bằng tơ, mặt bóng mịn.
(3) Tức
lịch sử Trung Hoa.
23- Đầu óc vọng ngoại và hay kỳ thị (**)
Luôn luôn có đầu óc vọng
ngoại, nghĩa là tôn sùng hàng (ngoại) hóa và người ngoại quốc – những gì đến từ
bên ngoài Việt Nam đều tốt đẹp hơn ở nội địa. Có lẽ vì dân trí mình còn thấp
kém lại bị ngoại quốc đô hộ quá lâu - trên ngàn năm. Đã đành là đối với người
ngoại quốc thì e sợ, nhát nhúa, nhưng đối với nhau thì lại thích hống hách và
kỳ thị.
Người mình có đủ mọi kiểu kỳ
thị: Tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Hoà hảo, Cao đài, Tin lành v.v..); Địa
phương (nơi, miền); Sinh trưởng (Nam, Trung, Bắc); Sắc dân (Kinh, Thượng, Cao
miên, Chàm, Trung hoa…); Bằng cấp và Xuất xứ được đào tạo giáo dục (truờng Việt,
trường Mỹ, truờng Tây, trường Tầu, trường Liên xô…)
Sang sống tị nạn ở hải ngoại,
sau khi ăn nên làm ra, cũng thấy bắt đầu dở mòi kỳ thị người thiểu số, da mầu
bản xứ (da đen và da nâu / Mễ) nhiều khi tính kỳ thị của người mình còn hơn cả
người Da trắng chính gốc bản địa nữa (!)
24- Vô kỷ luật (**)
Bất cứ ở đâu cũng có thể lấy
thịt đè người, to tiếng, chen lấn vô trật tự, khinh thường người khác có vẻ nhỏ
bé, nhã nhặn hơn mặc dù chưa (hoặc chẳng cần) hiểu rõ họ là ai? Ở những nơi như chợ búa, hàng quán… Những nơi cần
phải được xếp hàng theo thứ tự, tuần tự thì phe ta cứ tự tiện bất chấp luật lệ,
lẽ phải tự nhiên (“common senses”), cứ tranh dành thế nào để rồi chen lấn, xô
đẩy xếp thành một hàng ngang thôi mới vừa ý – hàng ngang có nghĩa rằng mọi người
đều là số 1, không ai chịu thua kém ai?
Thiệt tình dân mình! – Người nào hung bạo nhất, to tiếng nhất thì người
đó cũng tự cho mình có cái quyền phải được phục vụ trước (?) Hay thật!
Sau biến cố tháng 4 năm 1975,
người Việt Nam di tản đi tị nạn cộng sản khắp thế giới, sau khi đã được định cư
ở những nước văn minh Âu Mỹ thì Cộng Đồng Việt Nam bị những sắc dân bản xứ và
thiểu số khác coi thường chỉ vì cái "thói quen cố hữu 4000 năm chen
lấn" này.
Vấn đề “vô kỷ luật,”
thiếu lịch sự tối thiểu còn được thấy ngay trong các dịp đi dự tiệc cưới, họp
mặt, lễ lạc, giờ hẹn phòng mạch bác sĩ… Cứ
tự nhiên đi trễ cả tiếng đồng hồ sau giờ ấn định làm các quan khách, các thân
hữu, người phục vụ phải chờ đợi trông ngóng mệt mỏi. Sự trễ nãi lạc hậu này đã trở thành một hủ
tục gắn liền với người Việt Nam. Đến nỗi
tại hải ngoại có câu vè châm biếm:
"Không ăn đậu (“bean”) không
phải Mễ,
Không đi trễ không phải Việt
Nam…"
________
Chú thích:
(**) TVG viết thêm 2 tiểu mục số 23 và 24.
Trần Văn Giang ( HNPD )
(Ghi lại và viết thêm 2 mục)