Văn Học & Nghệ Thuật

Thời phân ly (1954-1965)

Hiệp Ðịnh Genève chia đôi đất nước vào năm 54 đã để lại một vết cắt đau thương trong các nguồn hứng sáng tác. Rồi chiến cuộc bùng nổ mạnh mẽ từ 65 đến 75 đã đưa tân nhạc lên chiến hào trong tiếng bom đạn của cả hai bên...
Quỳnh Giao

Sau thời kỳ phát huy rực rỡ của tân nhạc Việt Nam từ 45 đến 54, thì kể từ 1954 trở đi, thời cuộc đã ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt âm nhạc. Hiệp Ðịnh Genève chia đôi đất nước vào năm 54 đã để lại một vết cắt đau thương trong các nguồn hứng sáng tác. Rồi chiến cuộc bùng nổ mạnh mẽ từ 65 đến 75 đã đưa tân nhạc lên chiến hào trong tiếng bom đạn của cả hai bên...

Hiệp Ðịnh Genève chia đôi xứ sở từ năm 54 đã đưa đến cuộc di cư của mấy triệu người từ Bắc vào Nam. Quý vị vừa nghe tác phẩm “Người Hà Nội” của Nguyễn Ðình Thi, sáng tác điển hình cho tinh thần lạc quan tự hào của tân nhạc ở miền Bắc sau năm 54.

Sau chín năm kháng chiến, các nghệ sĩ tân nhạc miền Bắc đều có chiều hướng sáng tác mang âm điệu phấn khởi, và Hà Nội đã là chủ đề kết tụ tinh thần đó tới cao độ. Tiêu biểu cho tinh thần này, ngoài Nguyễn Ðình Thi, ta có Trần Hoàn với “Ðêm Hồ Gươm,” Hoàng Hiệp với “Nhớ Về Hà Nội,” Hồng Ðăng với “Hoa Sữa,” hoặc Phạm Tuyên, con trai của học giả Phạm Quỳnh, với bài “Hồ Tây, Chiều Bình Yên”...

Một đặc điểm khác của tân nhạc miền Bắc trong thời phân ly là nó ra khỏi thành phố để đi về thôn quê, làm phương tiện cổ động cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn miền Bắc. Ðây là thời kỳ mà nhiều sáng tác có tính chất chiến dịch hay phát động việc thi đua sản xuất đã ồ ạt xuất hiện với giá trị nghệ thuật tương xứng với mục tiêu chính trị của miền Bắc.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý từng phát biểu rằng các sáng tác lãng mạn phải nhường bước sau khi có “Cách Mạng Tháng Tám.” Tất cả những người sáng tác lúc bấy giờ phải đành lòng tạm dời khuynh hướng lãng mạn và đưa lên những tác phẩm gọi là “phục vụ cách mạng.”

Nhạc sĩ vừa phát biểu ở trên về việc “những người sáng tác lúc bấy giờ phải đành lòng tạm dời khuynh hướng lãng mạn và đưa lên những tác phẩm gọi là phục vụ cách mạng” là Nguyễn Văn Tý, tác giả của bản “Dư Âm” trữ tình thời trước. Ông có thể là điển hình của người nghệ sĩ đã đoạn tuyệt với cảm hứng lãng mạn của thời cũ để viết ra những bài ngợi ca công nhân, dân cày, chị dân công, anh bộ đội hay các sắc dân thiểu số, với các tác phẩm như “Bài Ca Năm Tấn,” “Em Ði Làm Tín Dụng,” “Dáng Ðứng Bến Tre”... hay như bài “Làng Tôi” của Văn Cao.

Trong khi đó, tại miền Nam, ta lại chứng kiến nhiều xu hướng khác biệt trong tân nhạc. 

Một số đông đảo các nghệ sĩ thành danh ở miền Bắc đã di cư vào Nam. Họ tự động gây nên phong trào sáng tác mới trong nhiều bộ môn nghệ thuật khác nhau của miền Nam. Trong tân nhạc, các nghệ sĩ này đã cống hiến ba loại đề tài được nhiều người hưởng ứng.

Thứ nhất là nỗi luyến tiếc miền Bắc và niềm ước mơ một ngày hồi hương. Tiêu biểu và đẹp nhất cho các ca khúc loại này là bài Giấc Mơ Hồi Hương của Vũ Thành.

Ðặc biệt là trong hoàn cảnh éo le của sự chia cách, Hoàng Dương là một nhạc sĩ đã rời Hà Nội vào Nam, rồi vì nhớ Hà Nội quá ông lại trở ra Bắc. Tác phẩm “Hướng Về Hà Nội” của ông viết trong thời kỳ này là bài ca bất hủ cho tất cả những ai ngóng trông về Hà Nội, vào mọi thời.

Loại đề tài thứ hai là niềm hy vọng sẽ xây dựng lại một cuộc sống tự do tươi đẹp tại miền Nam. Ðề tài mang đặc tính lạc quan này đã hòa chung niềm phấn khởi của các nhạc sĩ di cư từ miền Bắc với các nhạc sĩ sinh trưởng ở miền Nam vĩ tuyến 17.

Trong số các nhạc sĩ di cư, chúng ta có Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Phạm Duy, Vũ Thành, Phạm Ðình Chương, Hoàng Trọng, Nguyễn Hiền, Phó Quốc Thăng và Ðan Thọ.

Một số nhạc sĩ sinh trưởng tại miền Nam như Lam Phương, Lê Dinh, Minh Kỳ, Hoàng Lang hoặc nổi tiếng sau năm 54, như Văn Phụng hay Tuấn Khanh, cũng đã thấm đậm nỗi niềm nhớ Bắc, và cống hiến nhiều ca khúc thuộc đề tài này. Tiêu biểu là Lam Phương, nhạc sĩ miền Nam, với “Sầu Cố Ðô” hoặc “Chuyến Ðò Vĩ Tuyến,” Văn Phụng với “Nhớ Bến Ðà Giang,” và Tuấn Khanh với “Hoa Xoan Bên Thềm Cũ.”

Một loại đề tài thứ ba ở trong Nam cũng cần được nhắc tới ở đây. 

Vốn xuất phát từ thành phố, tân nhạc thường chủ yếu hướng vào thị dân. Sau năm 54, nếu tại miền Bắc ta có thấy xuất hiện đưa tân nhạc ra khỏi thành phố, nhiều khi với chủ đích động viên tinh thần, thì ở trong Nam người ta cũng chứng kiến một chiều hướng sáng tác mang nhiều xã hội tính, với các bài ca viết về cuộc sống tăm tối trong xóm nghèo của người bình dân lao động. 

Tiêu biểu cho thể tài đó, ta có “Phố Buồn” của Phạm Duy, “Kiếp Nghèo” của Lam Phương, “Nửa Ðêm Ngoài Phố” của Trúc Phương, “Ngoại Ô Ðèn Vàng” của Y Vân, hay “Xóm Ðêm” của Phạm Ðình Chương...

Kính thưa quý vị, khi sơ kết về Suối Nguồn Tân Nhạc vào thời phân ly, ta thấy nổi bật nhất, và vượt lên hoàn cảnh chia cách lẫn lập trường chính trị, là tình yêu quê hương.

Ðây là đề tài gợi hứng sáng tác cho đông đảo các nhạc sĩ trên cả hai miền. Từ Sài Gòn người ta có nhớ về Hà Nội và từ Hà Nội có luyến nhớ Bến Tre hay Ðà Lạt, Nha Trang, thì tận cùng vẫn là quê hương đất nước. 

Tác phẩm lớn nhất trong thời kỳ phân ly này chính là trường ca “Con Ðường Cái Quan” của Phạm Duy. 

Ngoài giá trị hiển nhiên về nghệ thuật đã kết hợp tinh hoa của dân ca theo thể điệu mới, bản Trường ca còn nói lên giấc mơ của người Việt, được đi suốt con đường Xuyên Việt nối lòng người trên cả hai miền “trong một duyên tình dài.” 

Quỳnh Giao xin kính chào tạm biệt quý vị, và xin hẹn tái ngộ trong chương trình tới của Suối Nguồn Tân Nhạc...
Người Việt

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Thời phân ly (1954-1965)

Hiệp Ðịnh Genève chia đôi đất nước vào năm 54 đã để lại một vết cắt đau thương trong các nguồn hứng sáng tác. Rồi chiến cuộc bùng nổ mạnh mẽ từ 65 đến 75 đã đưa tân nhạc lên chiến hào trong tiếng bom đạn của cả hai bên...
Quỳnh Giao

Sau thời kỳ phát huy rực rỡ của tân nhạc Việt Nam từ 45 đến 54, thì kể từ 1954 trở đi, thời cuộc đã ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt âm nhạc. Hiệp Ðịnh Genève chia đôi đất nước vào năm 54 đã để lại một vết cắt đau thương trong các nguồn hứng sáng tác. Rồi chiến cuộc bùng nổ mạnh mẽ từ 65 đến 75 đã đưa tân nhạc lên chiến hào trong tiếng bom đạn của cả hai bên...

Hiệp Ðịnh Genève chia đôi xứ sở từ năm 54 đã đưa đến cuộc di cư của mấy triệu người từ Bắc vào Nam. Quý vị vừa nghe tác phẩm “Người Hà Nội” của Nguyễn Ðình Thi, sáng tác điển hình cho tinh thần lạc quan tự hào của tân nhạc ở miền Bắc sau năm 54.

Sau chín năm kháng chiến, các nghệ sĩ tân nhạc miền Bắc đều có chiều hướng sáng tác mang âm điệu phấn khởi, và Hà Nội đã là chủ đề kết tụ tinh thần đó tới cao độ. Tiêu biểu cho tinh thần này, ngoài Nguyễn Ðình Thi, ta có Trần Hoàn với “Ðêm Hồ Gươm,” Hoàng Hiệp với “Nhớ Về Hà Nội,” Hồng Ðăng với “Hoa Sữa,” hoặc Phạm Tuyên, con trai của học giả Phạm Quỳnh, với bài “Hồ Tây, Chiều Bình Yên”...

Một đặc điểm khác của tân nhạc miền Bắc trong thời phân ly là nó ra khỏi thành phố để đi về thôn quê, làm phương tiện cổ động cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn miền Bắc. Ðây là thời kỳ mà nhiều sáng tác có tính chất chiến dịch hay phát động việc thi đua sản xuất đã ồ ạt xuất hiện với giá trị nghệ thuật tương xứng với mục tiêu chính trị của miền Bắc.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý từng phát biểu rằng các sáng tác lãng mạn phải nhường bước sau khi có “Cách Mạng Tháng Tám.” Tất cả những người sáng tác lúc bấy giờ phải đành lòng tạm dời khuynh hướng lãng mạn và đưa lên những tác phẩm gọi là “phục vụ cách mạng.”

Nhạc sĩ vừa phát biểu ở trên về việc “những người sáng tác lúc bấy giờ phải đành lòng tạm dời khuynh hướng lãng mạn và đưa lên những tác phẩm gọi là phục vụ cách mạng” là Nguyễn Văn Tý, tác giả của bản “Dư Âm” trữ tình thời trước. Ông có thể là điển hình của người nghệ sĩ đã đoạn tuyệt với cảm hứng lãng mạn của thời cũ để viết ra những bài ngợi ca công nhân, dân cày, chị dân công, anh bộ đội hay các sắc dân thiểu số, với các tác phẩm như “Bài Ca Năm Tấn,” “Em Ði Làm Tín Dụng,” “Dáng Ðứng Bến Tre”... hay như bài “Làng Tôi” của Văn Cao.

Trong khi đó, tại miền Nam, ta lại chứng kiến nhiều xu hướng khác biệt trong tân nhạc. 

Một số đông đảo các nghệ sĩ thành danh ở miền Bắc đã di cư vào Nam. Họ tự động gây nên phong trào sáng tác mới trong nhiều bộ môn nghệ thuật khác nhau của miền Nam. Trong tân nhạc, các nghệ sĩ này đã cống hiến ba loại đề tài được nhiều người hưởng ứng.

Thứ nhất là nỗi luyến tiếc miền Bắc và niềm ước mơ một ngày hồi hương. Tiêu biểu và đẹp nhất cho các ca khúc loại này là bài Giấc Mơ Hồi Hương của Vũ Thành.

Ðặc biệt là trong hoàn cảnh éo le của sự chia cách, Hoàng Dương là một nhạc sĩ đã rời Hà Nội vào Nam, rồi vì nhớ Hà Nội quá ông lại trở ra Bắc. Tác phẩm “Hướng Về Hà Nội” của ông viết trong thời kỳ này là bài ca bất hủ cho tất cả những ai ngóng trông về Hà Nội, vào mọi thời.

Loại đề tài thứ hai là niềm hy vọng sẽ xây dựng lại một cuộc sống tự do tươi đẹp tại miền Nam. Ðề tài mang đặc tính lạc quan này đã hòa chung niềm phấn khởi của các nhạc sĩ di cư từ miền Bắc với các nhạc sĩ sinh trưởng ở miền Nam vĩ tuyến 17.

Trong số các nhạc sĩ di cư, chúng ta có Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Phạm Duy, Vũ Thành, Phạm Ðình Chương, Hoàng Trọng, Nguyễn Hiền, Phó Quốc Thăng và Ðan Thọ.

Một số nhạc sĩ sinh trưởng tại miền Nam như Lam Phương, Lê Dinh, Minh Kỳ, Hoàng Lang hoặc nổi tiếng sau năm 54, như Văn Phụng hay Tuấn Khanh, cũng đã thấm đậm nỗi niềm nhớ Bắc, và cống hiến nhiều ca khúc thuộc đề tài này. Tiêu biểu là Lam Phương, nhạc sĩ miền Nam, với “Sầu Cố Ðô” hoặc “Chuyến Ðò Vĩ Tuyến,” Văn Phụng với “Nhớ Bến Ðà Giang,” và Tuấn Khanh với “Hoa Xoan Bên Thềm Cũ.”

Một loại đề tài thứ ba ở trong Nam cũng cần được nhắc tới ở đây. 

Vốn xuất phát từ thành phố, tân nhạc thường chủ yếu hướng vào thị dân. Sau năm 54, nếu tại miền Bắc ta có thấy xuất hiện đưa tân nhạc ra khỏi thành phố, nhiều khi với chủ đích động viên tinh thần, thì ở trong Nam người ta cũng chứng kiến một chiều hướng sáng tác mang nhiều xã hội tính, với các bài ca viết về cuộc sống tăm tối trong xóm nghèo của người bình dân lao động. 

Tiêu biểu cho thể tài đó, ta có “Phố Buồn” của Phạm Duy, “Kiếp Nghèo” của Lam Phương, “Nửa Ðêm Ngoài Phố” của Trúc Phương, “Ngoại Ô Ðèn Vàng” của Y Vân, hay “Xóm Ðêm” của Phạm Ðình Chương...

Kính thưa quý vị, khi sơ kết về Suối Nguồn Tân Nhạc vào thời phân ly, ta thấy nổi bật nhất, và vượt lên hoàn cảnh chia cách lẫn lập trường chính trị, là tình yêu quê hương.

Ðây là đề tài gợi hứng sáng tác cho đông đảo các nhạc sĩ trên cả hai miền. Từ Sài Gòn người ta có nhớ về Hà Nội và từ Hà Nội có luyến nhớ Bến Tre hay Ðà Lạt, Nha Trang, thì tận cùng vẫn là quê hương đất nước. 

Tác phẩm lớn nhất trong thời kỳ phân ly này chính là trường ca “Con Ðường Cái Quan” của Phạm Duy. 

Ngoài giá trị hiển nhiên về nghệ thuật đã kết hợp tinh hoa của dân ca theo thể điệu mới, bản Trường ca còn nói lên giấc mơ của người Việt, được đi suốt con đường Xuyên Việt nối lòng người trên cả hai miền “trong một duyên tình dài.” 

Quỳnh Giao xin kính chào tạm biệt quý vị, và xin hẹn tái ngộ trong chương trình tới của Suối Nguồn Tân Nhạc...
Người Việt

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm