Nhân Vật

Trần Dần (1926-1997)

40 năm sau Nhân Văn, Trần Dần đã chỉ thấy những hòm bản thảo của mình: 2/3 bị tiêu tán, mục nát, 1/3 còn lại bị kết án chung thân trong trạng thái nằm.Vậy mà vẫn viết.
 
(Chương 11)
Nhân Văn- Giai Phẩm
OLYMPUS DIGITAL CAMERA
 

Trần Dần

(1926-1997)
 
40 năm sau Nhân Văn, Trần Dần đã chỉ thấy những hòm bản thảo của mình: 2/3 bị tiêu tán, mục nát, 1/3 còn lại bị kết án chung thân trong trạng thái nằm.Vậy mà vẫn viết. Viết đều. Bởi ông cho rằng viết hay ghi là phương pháp duy nhất nói chuyện với mình khi không thể nói được với ai.
 Từ 1958, “ghi trở nên một hình phạt”, người thanh niên 32 tuổi ấy đã bị“đòn ngấm quá cuống tim rồi”.
Tác phẩm chịu chung số phận với người: gần 30 tập thơ, 3 cuốn tiểu thuyết, và không biết bao nhiêu bản thảo đã bị mối mọt.
Trần Dần tên thật Trần Văn Dzần, sinh ngày 23/8/1926 tại Nam Định trong một gia đình giàu có. Mất ngày 7/1/1997 tại Hà Nội. Đậu Thành Chung ở Nam Định, lên Hà Nội học, đậu Tú Tài.
Tháng 11/1946, cùng với Đinh Hùng, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch[1]xuất bản tạp chí Dạ Đài. Trên Dạ Đài số 1 ra ngày 16/11/46, công bố bản “Tuyên ngôn tượng trưng” ký tên Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch. Nhưng Đinh Hùng mới thực là “chủ soái”, bởi thơ của cả nhóm: Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Nguyễn Văn Tậu, đều chịu ảnh hưởng Đinh Hùng.
Bài Về nẻo thanh tuyền của Trần Dần là một ví dụ, những câu thơ mở đầu, đậm mầu sắc Mê hồn ca[2]:
Đời bỏ ta nằm dưới Thủy Cung
Mờ đi! ơi ánh nguyệt vô cùng
Hồn ta qua xứ ma làm loạn
Nên thác trong đường trận hỏa công [3]
Năm 1947, Trần Dần về Nam Định theo kháng chiến, ngành thông tin tuyên truyền, và được kết nạp vào đảng ngày 19/8/1948[4].
Năm 1951, sau khi dự lớp Chỉnh huấn “có kết quả”, Trần Dần được giao việc huấn luyện đoàn Văn công quân đội. Nhưng vì “đả kích cán bộ sáng tác”nên bị kỷ luật và bị chuyển về Tuyên huấn, làm việc đến 1953[5].
Năm 1954 tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, viết tiểu thuyết Người người lớp lớp[6]. Theo Hoàng Cầm, đây là một ký sự được viết dưới dạng tiểu thuyết, có nhân vật binh nhì tên là No, và nhân vật chính ủy chính là Trần Độ.
10/10/54 được cử viết thuyết minh cho phim Điện Biên Phủ, đi Trung Quốc thu thanh. Bị chính trị viên Hoàng Xuân Tuỳ kiểm soát gắt gao. Bỏ về.
10/12/54 trở về Hà Nội.
24/12/ 54 bắt đầu tổ chức thảo luận đòi thay đổi chính sách văn nghệ quân đội.
Tháng 2/55, Trần Dần viết bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ.
Trong tháng 3 và 4/55, Trần Dần, Tử Phác tổ chức phê bình tiểu thuyếtVượt Côn Đảo của Phùng Quán và tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Tháng 4/55: Bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ không được Tuyên huấn thông qua.
23/4/55: Trần Dần quyết định viết đơn xin ra khỏi quân đội, và dự định, đường cùng sẽ ra đảng, kết hôn với cô Bùi Thị Ngọc Khuê, bất chấp quân kỷ[7]. Tháng 4/55, Hoàng Cầm làm đơn xin ra khỏi quân đội.
16/5/1955: Trần Dần gửi đơn xin giải ngũ, ra Đảng. Hoàng Tích Linh cũng xin giải ngũ[8].
13/6/1955: Tất cả các tổ Đảng ở Cục Tuyên huấn phê phán lá thư xin ra Đảng và xin giải ngũ của Trần Dần là chống đối, phá hoại tổ chức Đảng[9].
13/6 đến 13/9 Trần Dần và Tử Phác bị cấm trại 3 tháng. Trần Dần ghi trong nhật ký “Ba tháng bị giữ lại kiểm thảo”, “Nọc bệnh: anarchiste” “Khi xưa phản đối xã hội cũ bằng symbolisme”“Bây giờ phản đối những cái sai trong lãnh đạo văn nghệ bằng loạn ẩu”. Trong thời gian bị cấm trại, sáng tác Nhất định thắng, đưa cho Lê Đạt giữ[10].
21/6/1955: Trong vòng một tuần, chi bộ khai trừ Trần Dần và Nguyễn Anh Chấn (Tử Phác). Riêng Tử Phác, bị đình chỉ công tác và sinh hoạt Đảng để kiểm điểm[11].
Từ 3/11/55 đến giữa tháng 2/56 Trần Dần, Tử Phác phải đi “tham quan Cải cách ruộng đất đợt 5″ ở Yên Viên (Bắc Ninh). Ông ghi lại bi kịch Cải cách ruộng đất trong nhật ký, với những chi tiết, những con số, những màn đấu tố, những cảnh giết người.
 Khi biên tập cuốn Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài cho biết, chị chỉ mới đưa được một phần, phần còn lại sẽ dành cho cuốn sách riêng về Cải cách ruộng đất. Nhưng cho tới nay, vẫn chưa thấy tác phẩm về Cải cách ruộng đất của Trần Dần ra đời.
Cùng trong thời gian này, Hoàng Cầm và Lê Đạt tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân, lên Yên Viên bàn với Trần Dần đưa bài thơ Nhất định thắng ra in, Trần Dần đồng ý[12].
Cuối tháng 1/56 Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bị tịch thu ngay. Tháng 2/56 Lê Đạt bị Tố Hữu gọi tên tuyên huấn khiểm thảo 15 ngày. Tố Hữu tổ chức đại hội Tuyên Huấn phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân; ra lệnh bắt Trần Dần. Trần Dần, Tử Phác bị bắt ở Yên Viên. Bị giam kín. Sợ bị thủ tiêu, Trần Dần lập kế dùng dao cạo cắt cổ, được đưa vào bệnh viện. Ngày 21/2/56, Trần Dần viết lá thư dài 15 trang, trần tình với tướng Nguyễn Chí Thanh[13].
Hội Văn Nghệ tổ chức phê bình Nhất định thắng.
Ngày 7/3/56 Bắt đầu chiến dịch đánh Trần Dần trên báo với bài của Hoài Thanh.
Ngày 5/5/56, Trần Dần được thả với điều kiện phải viết “một bản kế hoạch sửa chữa sai lầm sáu tháng cuối năm”. Sau đó được chuyển sang Hội Văn Nghệ[14]. Từ tháng 8/56, tham gia NVGP và bị kỷ luật cùng điều kiện với Lê Đạt.
Nha_tho_Dinh_Hung
● Tác phẩm:
1946: Bài thơ Về nẻo thanh tuyền và Bản tuyên ngôn Dạ đài.
Phạm Thị Hoài trong Trần Dần: cuộc đời, tác phẩm, thời đại[15] liệt kê những tác phẩm sau đây:
1954: Anh đã thấy, Tiếng trống tương lai (trường ca).
1955: Cách mạng tháng Tám, Nhất định thắng (bản Hoàng Văn Chí, in trongTrần Dần thơ, Nhã Nam, Đà Nẵng, 2007).
 1957: Hãy đi mãi, Đi! Bài thơ Việt Bắc (trường ca), (Hội Nhà Văn, 1991).
1959: Sắc lệnh 59 (thơ), Con tàu xã hội (thơ), 17 tình ca (thơ).
1959-1960: Cổng tỉnh (thơ), (Hội Nhà Văn, 1994).
1961: Đêm núm sen (tiểu thuyết).
1963: Jờ Joạc (thơ) (Trần Dần thơ, 2007).
 1964: Mùa sạch (Văn Học, 1997), Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết).
1965: Một ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết).
1967: Con trắng (thơ văn xuôi) (Trần Dần thơ, 2007).
1968: 177 cảnh (hùng ca lụa).
1974: Động đất tâm thần (nhật ký thơ).
1978: Thơ không lời – Mây không lời (thơ – họa).
1979: Bộ ba: Thiên Thanh – 77 – Ngày ngày.
1980: Bộ ba: 36 – Thở dài – Tư Mã dâng sao.
1987: Thơ Mini (in trong Trần Dần thơ).
Nhưng bản kê khai trên đây chưa phải là tất cả, vì trong tuyển tập Trần Dần thơ do Vũ Văn Kha biên tập, cho biết: “phần lớn di cảo thơ Trần Dần vẫn tiếp tục số phận nằm”.
Tuyển tập Trần Dần thơ (Nhã Nam, Đà Nẵng, 2007) tập hợp các trường ca truyền thống như Bài thơ Việt Bắc, Cổng Tỉnh, vá các tác phẩm rất mới như:Mùa sạch (thử nghiệm thơ độc âm), Con OEE (biến tấu âm) và Con I (thơ bè), cả ba đều khá cường điệu và nệ hình thức, hoặc lập dị như Jờ Joạcx. Ngược lại, hai tập Sổ bụi và thơ Mini, thực sự thành công, xác định sự độc đáo của của Trần Dần, khác với Đặng Đình Hưng và Lê Đạt. Vậy lần công bố này, tầm quan trọng và sự độc đáo nằm trong Sổ bụi, và thơ Mini.
Sổ bụi tập hợp lối ghi chép đặc biệt Trần Dần: đó là những bài thơ văn xuôi cô đọng, mới, đầy biến ảnh, thể hiện mỹ học khổ đau một cách toàn diện. Thơ Mini, là những bài triết luận thu gọn đến cạn kiệt. Một Trần Dần đi từ thực tại thi nhân để đến với tâm linh hiền triết.
● Từ kháng chiến đến Nhân Văn Giai Phẩm
Dạ Đài số 1 ra đời 16/11/46, số 2 vừa xong thì chiến tranh bùng nổ[16], Trần Dần đi theo kháng chiến. Đạo diễn Trần Vũ thuật lại: Ban đầu, Trần Dần làm công tác tuyên truyền cùng Vũ Khiêu và Vũ Hoàng Ðịch. 1948, khi thành lập khu 14 ở Tây Bắc, Trần Dần cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Ðịch lên Tây Bắc. Một thời gian sau, khu 14 bị giải thể. Trần Dần vào quân đội, nhận công tác địch vận của trung đoàn Sơn La từ 1948 đến 1950[17].
Hồ Phương kể lại: Trong nhóm văn nghệ Tây Bắc, có Trần Thứ (Trần Vũ), Trần Dần và Hoài Niệm… làm tờ báo Sông Đà, trình bầy đẹp, chuyên về thơ văn. “Hồi ấy Trần Dần hay làm thơ leo thang, bài thơ thường được trình bày khá kiểu cách. Dòng thì in chữ nhỏ, dòng lại in chữ to, thiên về hạng theo mốt”[18].
Vũ Tú Nam viết: “Trần Dần làm thơ bí hiểm, vẽ theo lối lập thể, bị quần chúng bộ đội phản đối”. Và 1951, sau khi dự “một lớp Chỉnh huấn có kết quả”,Trần Dần được điều về phụ trách đoàn Văn công quân đội[19]. Hoàng Cầm cũng xác định: “Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên”[20].
Nhưng Vũ Tú Nam bình luận: vì “có ít nhiều thành tích” trong việc luyện tập Văn công, Trần Dần “đâm ra chủ quan độc đoán, đả kích cán bộ sáng tác”,”bị thi hành kỷ luật rồi điều về cục Tuyên huấn công tác, bất mãn ngấm ngầm”[21]Vậy việc về Cục tuyên huấn, là một hình phạt.
Đầu 1954, Trần Dần đi chiến dịch Điện Biên Phủ cùng với Đỗ Nhuận. Họa sĩ Tô Ngọc Vân chết trong chiến dịch này. Người người lớp lớp được sáng tác ở Điện Biên Phủ, hoàn thành cuối tháng 9/54.
Tháng 10/54, Trần Dần được cử viết thuyết minh cho phim Chiến thắng Ðiện Biên Phủ, và đi Trung Quốc để thực hiện. Ngày 10/10/54 khởi hành. Ngày 14/10, đến Nam Ninh. 20/10, đến Bắc Kinh, hoàn thành tập thơ Tiếng trống tương lai. Ngày 10/12/54 trở lại Hà Nội.
Hoàng Cầm viết: “Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đã tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. “Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lối diễn tả riêng biệt -không phải lập dị- nhưng độc đáo. Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong “Người người lớp lớp”. Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đã lâu: “Tiếng trống tương lai”[22].
ledat
Lê Đạt
 
Trong nhật ký, Trần Dần chỉ ghi sơ lược về chuyến đi này, nhưng ông đã kể cho Hoàng Cầm và Hoàng Cầm thuật lại trong bài Con người Trần Dần:
“Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định. Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh. Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.
Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ – lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. (…)
hoàng câm5
Hoàng Cầm
 
Trong bài Con người Trần Dần, Hoàng Cầm đã phải giữ ý khi viết, nhưng trong băng ghi âm sau này, ông nói thẳng hơn:
 ”Ban Tuyên Huấn cử Trần Dần viết thuyết minh cho phim của Karmen về chiến thắng Điện Biên Phủ. Trần Dần được cử sang Trung Quốc. Theo lời Trần Dần kể, thì bản thảo thuyết minh đã viết xong ở nhà, ông Lê Quang Đạo đã duyệt rồi. Sang Bắc Kinh Trần Dần làm việc với ban kỹ thuật, về việc lắp ráp, thu thanh, lồng tiếng… Nhưng ít lâu sau, thì Hoàng Xuân Tuỳ sang, Hoàng Xuân Tuỳ là chính ủy trung đoàn, làm việc ở Tuyên Huấn, được gửi sang với nhiệm vụ kiểm soát mọi việc.
 Vừa xem bản thuyết minh của Trần Dần, anh ta phát biểu ngay: “Cái này anh viết hỏng, không hay mà lại hỏng”. Gặp ai chứ gặp phải Trần Dần, tính khí ngang tàng, làm sao chịu được: “Thế nào là hỏng? Thế nào là không hay, anh chỉ cho tôi biết?” Hoàng Xuân Tùy là một tay chính trị viên giáo điều, làm sao tranh luận được với Trần Dần. Nhất là cái bản thảo đã được ông Lê Quang Đạo thông qua trước khi đi. Thế là Hoàng Xuân Tuỳ ra lệnh: “Anh phải viết lại”. Trần Dần dằn từng tíếng một: “Tôi- không- viết- lại”. Không ai chịu ai.
Cuối cùng Trần Dần quyết định: “Thôi thế để anh làm nhá, anh tự viết, tự kiểm duyệt, tôi về nước”. - “Cái đó tuỳ anh”. Trần Dần xếp vali về nước, thuật lại chuyện với ông Lê Quang Đạo, thì tất nhiên ông ấy phải đứng về phía Hoàng Xuân Tuỳ, vì hắn là đảng viên cao cấp. Ông nói: “Thôi để anh Hoàng Xuân Tuỳ làm cũng được, anh về đây phụ trách tạp chí Văn (thực ra là tạp chí Sinh Hoạt Văn Nghệ)”[23].
 Vậy sự chống đối của Trần Dần sau khi đi Trung Quốc về, không vì Hồ Phong, như trong các bản cáo trạng buộc tội ông, mà trực tiếp đến từ sự kiểm duyệt của Hoàng Xuân Tùy.
Cung cách giáo điều của cán bộ này đã khiến Trần Dần, khi bỏ Bắc Kinh, về bắt tay ngay vào việc tổ chức đấu tranh trong quân đội một cách quy mô và quyết liệt.
Chính sách áp chế tư tưởng và sự can thiệp vào đời sống tình cảm con người đã thúc đẩy Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ dự thảo ra bản “Đề nghị cải tổ chính sách văn nghệ” gửi lên cấp trên, đòi bãi bỏ vai trò của chính trị viên trong quân đội.
 
● Tranh đấu trong quân đội, đầu năm 1955
Từ Bắc Kinh trở về Hà Nội, Trần Dần ghi tình hình trong nhật ký ngày 20/12/54:
“Về Hà Nội được đúng 10 ngày (…) Cơ quan văn nghệ chưa có gì thay đổi.(…) Vẫn những chính sách gò bó, mệnh lệnh và máy móc “quân sự hoá văn nghệ”. Đời tôi chìm chết trong chính sách này, cũng như những anh em khác. Khó lắm. Nhưng tôi nghe nhiều tiếng cất lên. Phản đối. Bàn cãi. Mỉa mai. Và cả chửi bới. Cái đó có nghiã là tiếng trống báo tử của những tư tưởng và chính sách áp chế văn nghệ bộ đội. Những ngày gần đây sao mà tôi buồn. Buốt óc lắm. Và bực tức. Cơ quan và chính sách. Hội văn nghệ đánh mất bản thảo Người người lớp lớp (phần 4 và 5). Món nợ chính phủ, những kỷ niệm ngày bé, chua chát và mãnh liệt, những uất ức của 9 năm chiến tranh. Thơ tôi người ta không chê nhưng cũng không sốt sắng in. Những dự định khó thực hiện vì chính sách gò bó: tích lũy cuộc sống mới thì phải được tự do, v.v… Tôi bị bao vây. Chặt quá. Ép quá (…) Tôi muốn những gì?
- Một chính sách văn nghệ mở rộng ra, cho nó đúng đắn.
 - Một cuộc sống sáng tạo. Cái cũ thì trút ra. (…)
24/12: Đêm Noël (…) Bước quanh Bờ Hồ. Trời tôi tối. Còn vẳng tiếng hát micro nhà thờ buông trầm trầm. Hai thằng đi. Tôi và Lê Đạt. Buồn quá. Đây là những lúc người tôi hẫng lắm. Rỗng lắm. Tôi còn đầy dư vị những câu chuyện trao đổi đêm nay về chính sách văn nghệ.
 Dư vị chua, đắng, nhạt thếch”[24].
Như vậy, những cuộc thảo luận đổi mới văn nghệ đã xẩy ra từ Noël 1955, trong không khí chán nản, “dư vị chua, đắng, nhạt thếch” như lời Trần Dần.
Không khí này được Từ Bích Hoàng mô tả trong bài buộc tội Trần Dần, như sau:
 “Từ Trung Quốc về, Trần Dần còn mang theo một bài thơ dài “Tiếng trống tương lai” trong đó Trần Dần gọi cán bộ chính trị là “người bệnh”, “người ròi”[giòi], ”người ụ”. Đó chỉ có thể là cách nhìn của bọn thù địch đối với cán bộ của Đảng. Đủ biết sự hằn học của Dần lúc bấy giờ đã nặng đến thế nào! Không ngạc nhiên khi thấy Dần mới bước về Phòng Văn nghệ Quân đội đã đả kích luôn lãnh đạo, rồi nhân một số thắc mắc của anh em về công tác, Dần lợi dụng phát động từng người và biến thành một cuộc đấu tranh đối lập với lãnh đạo, lấy “áp lực quần chúng” hòng buộc lãnh đạo phải chấp nhận những yêu sách thoát ly chính trị, thoát ly quân đội như ta đã biết. Chính Trần Dần đã thú nhận tính chất hoạt động này của họ.
Cục Tuyên Huấn bảo anh em nghiên cứu lại bản đề nghị, Dần không chịu, bỏ mặc và phá phách ngày một dữ hơn. Dần lôi kéo được một số phá phách theo mình. Trần Công quá khích ăn nói lung tung: “Sống trong vòng K.50 (ý nói trong doanh trại, bên ngoài có bộ đội gác) nghẹt thở quá!” Những luận điệu vô kỷ luật này rất phù hợp với chủ trương “phải phá mà ra” của Trần Dần và mở đường cho bọn Dần càng đi sâu vào cạm bẫy của tư sản”[25].
● Trần Dần, Người-phá, Anarchiste
Ngày 10/3/55 Trần Dần ghi trong nhật ký:
“Chính sách tính lại thử xem có những gì? – Vài cái bàn. Vài cái đèn điện lạnh và vàng. Thêm một bàn hành chính. Tờ báo ra nhưng khổ và tên SHVN[26]cũ. Người ta sợ đổi khổ là tính chiến đấu của nó [cũng đổi đi]. Có vậy thôi. Tôi không nói ngoa. Người ta quan niệm chính sách là như vậy. Đấy. Cái thông minh của người lãnh đạo năm 1955 tới cái mức ấy. Vậy là quá đáng lắm rồi. Còn đòi hỏi cái gì? Văn nghệ được thế là “chiếu cố”, là “châm chước” tột độ rồi. Đáng lẽ chúng mày không có bàn, có điện, có báo nữa. Đáng lẽ chúng mày không được thức khuya hơn 9 giờ. Không được ra ngoài trại. Đằng này còn cho đi lại một chút. Vậy là rộng rãi lắm rồi còn gì!
Nhưng tôi nghĩ, những ông Cương[27] ông Thanh[28] gì đó không đáng trách (…) Đáng trách là cả một cái HỆ THỐNG! Nó nặng như núi… Nó ở trên có, ở dưới có. Ở ngang có. Đằng trước, đằng sau đều có nó. Hệ thống gì? Đó là hổ lốn: sợ hãi cúi đầu, làm thân con sên, con tầm gửi, -hò hét mệnh lệnh, làm ông sấm, ông sét. Đảng ở đâu? (…) Tôi nghĩ và tôi làm: Đảng ở tôi. Tôi phá HỆ THỐNG. Làm sao tới Hội Nghị Văn Thơ tôi phải làm được một số việc: vượt khỏi các ước lệ, điều lệ, thành kiến mà làm bằng được. (…) Độ này có hai chiến trường khá sôi sục:
1) Vượt Côn Đảo
2) Thơ Tố Hữu
Tôi thích những cuộc tranh luận này. Không phải vì bản thân những quyển sách và những tác giả ấy. Mà vì ý nghiã nó rộng ra nhiều mặt khác. Phát huy phê bình tự do (…) Tại sao bọn giả mạo được tin hơn người thực thà? Tại sao loài bò sát lại được dùng nhiều. Tại sao chúng nó có mặt ở thời đại này? Ở trong Đảng? Ở cách mạng?- Lạ lùng nhất là tại sao không vạch mặt chúng ra? Văn thơ tôi sẽ balayer bọn ấy. Quét! Quét! (…) Tất cả những cái gì, nguyên tắc gì trở ngại cho nguyên tắc lớn của tôi là tôi xoá hết! Mặc! Tôi chỉ còn một nguyên tắc mà thôi! Sống và viết để đánh bọn giả mạo, bọn ỳ ạch, bọn mốc xì, bọn người-bệnh, bọn người-dòi, bọn người-ụ. Anarchiste? Nếu vậy gọi là anarchiste thì tôi rất muốn là anarchiste (…) Tôi không có khả năng công chức, khả năng người-ụ. Khả năng tôi là khả năng người-phá.”[29]
Chủ đích của Trần Dần rất rõ: Làm Người-phá, phá toàn bộ HỆ THỐNG trói buộc văn nghệ sĩ. Trần Dần xác định mình là Anarchiste và ông đã dịch chữAnarchiste rất tài tình thành Người-phá[30]. Văn nghệ sĩ thường hay có thái độanarchiste. Trần Dần thực hiện tinh thần Người-phá, phá cái HỆ THỐNG, cái cơ chế toàn trị áp đặt lên Văn nghệ sĩ, qua ba “chiến trường”: Đề nghị cải tổ Chính sách Văn nghệ Quân đội. Phê bình tập truyện Vượt Côn Đảo của Phùng Quán. Phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Ba “mặt trận” này diễn ra song song, từ tháng 2 đến tháng 5/55 trong quân đội, do Trần Dần và Tử Phác cầm đầu[31].
Từ Bích Hoàng viết: Lúc đó, Tử Phác đang làm thư ký toà soạn tờ Sinh Hoạt Văn Nghệ, Tử Phác đã lợi dụng tờ báo của quân đội để Dần nổ ra hai cuộc phê bình Vượt Côn Đảo và tập thơ Việt Bắc, với một dụng ý rất xấu. Trần Dần “bốc” thơ Hoàng Cầm lên để đẩy Cầm cùng mình và Lê Đạt đả tập thơ Việt Bắc, thông qua tập thơ đó đả vào đồng chí Tố Hữu lãnh đạo văn nghệ, “hạ thần tượng” như bọn Dần đã nói. (…) Suốt thời gian này, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm và cả Lê Đạt, luôn luôn bỏ việc đến tụ họp rượu chè trai gái ở nhà tư sản, đầu độc cho nhau những luận điệu phản động (…) Bọn họ bàn nhau “tập trung giải ngũ” để bắt bí lãnh đạo. Thấy không xong, lại bàn “phân tán giải ngũ”. Bọn họ đã thực hiện chủ trương này. Trần Dần đi tiên phong làm một lúc hai lá đơn xin ra Đảng, quân đội, có tính chất tấn công vào Đảng, quân đội như ta đã biết. Chính những hoạt động chống đối của Trần Dần, Tử Phác và sự hùa theo càng ngày càng có ý thức của số người kể trên đã gây tình trạng rối loạn hoàn toàn, một thời gian, trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội, cầm đầu hồi này là Trần Dần và Tử Phác”.[32]
● Bản đề nghị cải tổ chính sách văn nghệ quân đội
Tháng 2/55: Trần Dần viết bản Đề nghị Chính sách Văn nghệvới sự góp ý của Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, bài dài 12 trang đánh máy, được đưa ra thảo luận, điều đình, thêm bớt, trong các cuộc họp của Phòng Văn Nghệ Quân Đội từ tháng 2 đến tháng 4/55. Vũ Tú Nam, cháu tướng Nguyễn Chí Thanh, được ông Thanh giao toàn bộ hồ sơ Trần Dần (gồm bản Đề nghị, thư xin ra Đảng, thư xin giải ngũ, thư cầu cứu sau khi bị bắt lần thứ hai, phải lập mưu cứa cổ để thoát, vv…) để có đủ tài liệu viết hai bài:
- Bài Những ngày thử thách, nhật ký chép lại ngày 25/10/2006[33]. Nếu bài này chép đúng sự thật, thì Vũ Tú Nam và Từ Bích Hoàng lúc trước đã ở cùng nhóm với Trần Dần. Nhưng theo băng Hoàng Cầm, Vũ Tú Nam chống lại từ đầu. Vậy bài này có thể đã được sửa lại như nhiều “nhật ký” hoặc “hồi ký” xuất hiện gần đây.
- Bài Sự thực về con người Trần Dần, in trên Văn Nghệ Quân Đội, năm 1958[34] là tài liệu gốc, chưa bị sửa, tuy viết với mục đích “đánh”, nhưng có nhiều thông tin đáng tin cậy về con người Trần Dần, về nội dung bản Đề nghịcải tổ. Sự trích dẫn dài rộng của Vũ Tú Nam có thể do thiện ý muốn để lại dấu vết bản Đề nghị cho mai sau. Vũ Tú Nam viết:
“Cuối năm 1954 sang đầu năm 1955, các đồng chí trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội đều thắc mắc muốn cải tiến tổ chức, chính sách cho hợp với tình hình mới, muốn đề đạt lên cấp trên nghiên cứu, giải quyết. Trong một cuộc họp với đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Trần Dần hùng hổ yêu sách mấy điểm, tự ý thêm thắt, không thật trung thành với những điều đã bàn với một số anh em trong Phòng:
1- Trả lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ.
2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên huấn và Tổng cục chính trị.
3- Bỏ mọi “chế độ quân sự hiện hành” trong văn nghệ quân đội…
Nghe xong, đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ ra, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và một vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ. Tháng 2/1955, trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội có tình trạng lỏng lẻo, rã rời, buông thả đến cao độ. Có đồng chí phải thốt ra lời than thở “Anarchie totale!” (Vô chính phủ hoàn toàn)[35]. Trần Dần vẫn được tín nhiệm giao cho công tác phụ trách Ban Văn, chuẩn bị triệu tập hội nghị ngành Văn toàn quân vào tháng 4/1955. Bản báo cáo do chính Trần Dần viết (tháng 2/1955). Vì tư tưởng cán bộ trong Phòng Văn nghệ lúc đó lệch lạc nhiều, vì nội dung bản báo cáo có nhiều điều nguy hiểm, Cục tuyên huấn quyết định đình việc chuẩn bị cuộc họp ngành Văn lại, Trần Dần càng bất mãn, càng u uất hơn”[36].
Về Nội dung bản Đề nghị cải tổ, xin trích lại những đoạn đã được Vũ Tú Nam trích, những chỗ in đậm là do chúng tôi nhấn mạnh:
1- Về trách nhiệm của người cầm bút, Trần Dần viết: “Biểu hiện cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm… Tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, – vừa là lập trường, – vừa là phương pháp làm việc của người viết”.
2- Thế nào là sự thực đối với một nhà văn? Trần Dần viết: “Thế nào là trung thành với sự thực? Đầu tiên, sự thực là gì?”, “Có sự thực của vũ trụ, của lịch sử, của thế giới, của cách mạng. Lại có sự thực trong nước, từng địa phương, -từng ngành, từng giới, từng nghề, từng gia đình và từng người một nữa. Trong mỗi người cũng lại có triệu vấn đề, mỗi vấn đề là một sự thực (…) Tức là: những vấn đề, hiện tượng của xã hội, của con người là sự thực.”
3- Nhà văn phải phục tùng sự thực hay phục tùng chính sách, chỉ thị, phục tùng tuyên huấn? Trần Dần trả lời: “Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào… Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách. Không bao giờ được biến chính sách, chỉ thị thành định kiến “đinh ninh” (…) Người viết chỉ viết do thôi thúc của thực tế. Những chân lý lớn, nhỏ, anh ta tự giác thấy ở cuộc sống, ở quân đội. Không phải viết để vừa lòng Tuyên huấn, vừa lòng cấp trên. Để có cái danh phục vụ kịp thời. Một triệu lần, không có mùi mè giác ngộ, phục vụ gì cả! Cái áo không thể che được mùi thối trong ruột. Cách mạng không cần những người vỗ tay hoan hô nhắm mắt. Những anh hót ca chính sách. Thậm chí những anh “thày cúng chính sách”, leng keng bóp méo, nghèo nàn. (…) Liệu cứ viết như một anh thày cúng ê a căm thù yêu nước xông lên, có phải là trách nhiệm không?”
4 – Trần Dần mô tả bộ mặt thực của văn học kháng chiến: “Có thể nói văn chương hiện nay nhiều cái giả tạo (giả trá nữa). Gọi đúng tên nó là chủ nghiã công thức, giản đơn, sơ lược. Tức là người viết đặt ra một cái khuôn nhất định, rồi gò ép mọi sự thực vào đó.
“Tả anh hùng chả hạn thì là: căm hờn, vào bộ đội rồi anh dũng lập công. Đối trên thì phục tùng kỷ luật (…) Lệnh gì là làm ngay không thắc mắc, hoặc có thắc mắc thì phê bình sau (…) Đối bạn thì giúp đỡ, thân ái phê bình, ai ai cũng mến (có người nào như vậy không?) Đối với đảng thì mở mồm là biết ơn. Đối với dân thì yêu mến giúp đỡ. Đó là cái khuôn cho anh hùng. Cái kiểu anh hùng không khuyết điểm (…) ấy thực chất là kiểu iêng hùng gì? Có mùi mè gì của người anh hùng quần chúng không? Có mùi mè gì của nhân văn chúng ta không? Và có thực như vậy không? (…) Vậy mà qua cái khuôn trên kia dập ra thì thành ngòi bút, chậu thau giống nhau cả. Thật là lối sản xuất kỹ nghệ định đem vào sản xuất con người và sản xuất nghệ thuật!
“Tại sao không viết về cơ quan chẳng hạn? Tại sao sợ viết về tình yêu chẳng hạn? Mà viết tình yêu thì y như đưa ra ái tình hy sinh vì Tổ quốc!… Tại sao cứ xuất thân công nông mới đáng viết? (…) Ngày nay, trong văn chương, kẻ thù ghê tởm là chủ nghiã công thức, giản đơn sơ lược. Phải nói trắng ra là nó ở cả người viết, ở cả xã hội (…) Thực thà chỉ có một con đường: Đấu tranh tàn khốc với chủ nghiã công thức giản đơn sơ lược trong bản thân và chung quanh”.
Sau cùng Vũ Tú Nam cho biết: “Bản báo cáo Trần Dần viết, không được Cục Tuyên Huấn thông qua, và cuộc họp ngành Văn Thơ toàn quân phải đình lại. Trần Dần càng bất mãn, gây gổ, thường thường bỏ doanh trại bộ đội ra ngoài phố ở, giao du rộng rãi, tự do”[37].
Theo Hoàng Cầm, thì ban đầu đã có nhiều ý kiến thuận của Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội (có thể là ba vị tướng lãnh cao cấp trong Tổng Cục ChínhTrị lúc bấy giờ: Lê Liêm, Lê Quang Đạo và Trần Độ). Hoàng Cầm kể lại không khí buổi họp mang tính quyết định, như sau: “Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày.(…) Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:”Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…” Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:”Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!” Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang”[38].
Người nói câu đó là Tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
 Vũ Tú Nam xác định: “Nghe xong, đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị[39]“.
● Phê bình Vượt Côn Đảo
Theo Vũ Tú Nam, có ba buổi phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán:
“7/3/1955: Chiều thứ bảy, mình [Vũ Tú Nam] và Dần … xin phép không họp chi bộ để đi thảo luận về Vượt Côn Đảo. Ông Tú Mỡ hoàn toàn khen. Mình nói lại rằng Vượt Côn Đảo có những nhược điểm. Anh em bộ đội nói nhiều nhất. Ra về, mình dồn anh Lưu Trọng Lư rằng lãnh đạo cần phải thay đổi, quan liêu và trì trệ quá”.
“14/3/1955: Tranh luận về Vượt Côn Đảo lần ba ở trường Nguyễn Trãi, vì CLB Đoàn Kết mắc bận. Họp tới 11 h, vẫn găng hai ý kiến. Trần Dần phê phán: “Nhân vật trong Vượt Côn Đảo là người cụt đầu, không óc không tim”(?!). Ông Hoài Thanh phát biểu trân trọng về cuốn sách. Lê Đạt rất bốc”[40].
Qua những lời này, thì Vũ Tú Nam cùng lập trường với Trần Dần, khác hẳn với luận điệu trong bài Sự thực về con người Trần Dần viết tháng 3/1958. Vậy đâu là sự thật?
Theo Hoàng Cầm trong băng ghi âm:
“Vượt Côn Đảo là một cuốn sách hấp dẫn, khen thì khen lên chín từng mây như bài của các ông Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư… Trên báo Văn Nghệ, ông Hoài Thanh ca ngợi Vượt Côn Đảo một cách quá đáng, thì ông Trần Dần, báo Văn[41]bên này, mới quật lại bằng một bài, đầu đề to tướng: Bạn đã đọc kỹ Vượt Côn Đảo chưa? Bài báo hấp dẫn lắm, Trần Dần trích những câu non nớt của Phùng Quán ra phân tích, cũng chả đụng gì đến các ông Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, mà chỉ vạch ra cái non kém của Phùng Quán thôi. Phùng Quán nói: Anh đánh em đau quá Trần Dần chỉ cười. Tôi bảo: Trong văn chương được một người đàn anh đánh như thế là tốt, để cậu học tập, có đau mới tiến bộ được. Tất nhiên Phùng Quán nó không giận lâu”[42].
phungquan5
Phùng Quán
Lúc đó, Trần Dần, chủ trương phê bình tự do, chống lại sáng tác ca tụng, có ý đưa hai cuốn sách tiêu biểu của văn học cách mạng ra để phê bình. Văn xuôi làVượt Côn Đảo của Phùng Quán và thơ là Việt Bắc của Tố Hữu. Phùng Quán nổi tiếng với tác phẩm đầu tay, viết theo lối văn tuyên truyền, bán rất chạy, trong vòng một năm tái bản bốn lần: Tiểu thuyết Vượt Côn Đảo[43] ca tụng sự can trường của các chiến sĩ cộng sản tổ chức vượt ngục Côn Đảo.
Trần Dần chủ trương viết về bất cứ điều gì, cũng phải viết sự thực, tự phê cuốn Người người lớp lớp của mình trong nhật ký như sau: “Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi ít thấy sự thực của bản thân tôi trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh, chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: “Anh đã thấy” (Mes douleurs) trên dưới có 6 trang!”[44]
Trước Nguyễn Minh Châu 30 năm, Trần Dần đã đòi hỏi nhà văn phải viết sự thực về chiến tranh một cách quyết liệt và toàn diện: viết sự thực không tô hồng, không nói dối, không nặn ra những anh hùng giả, toàn tim, không óc.
Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần đi Trung Quốc. Khi trở về sách đã in, nhưng Hội Văn Nghệ đánh mất bản thảo Người người lớp lớp (phần 4 và 5)[45]. Như vậy cuốn sách đã in không có phần 4 và 5. Có nghĩa là 2 phần này tác giả viết “không đúng đường lối” chăng?
Chính Trần Dần, cũng không bằng lòng với cách viết của mình, cho nên quaVượt Côn Đảo, ông muốn phê phán cả một tầng lớp nhà văn chính thống, từ Nguyễn Đình Thi trong Xung kích, Vỡ bờ đến cách Hoài Thanh, Xuân Diệu nhắm mắt ca tụng Việt Bắc của Tố Hữu. Lý do thứ hai, vì Phùng Quán là đàn em, cho nên việc phê bình sách của Phùng Quán cùng với sách Tố Hữu, chứng tỏ họ “không bè phái”, chê cả người trong nhóm.
Trần Dần phê bình Vượt Côn Đảo như thế nào?
nguyên ngọc
Nguyên Ngọc
 
Nguyên Ngọc viết:
“Bấy giờ Phùng Quán còn choáng mắt lên vì sự thành công của mình. Quán đang tin ở tài năng của mình và chưa kịp bình tĩnh suy nghĩ gì về những nhược điểm, khuyết điểm còn lại. Thì giữa lúc đó Trần Dần viết bài “Bạn đã đọc kỹ Vượt Côn đảo chưa?” đăng trên tạp chí Sinh Hoạt Văn Nghệ ra ngày 1/4/1955.(…) Trần Dần lật ngược tất cả những nhận định trước nay về Vượt Côn đảo, thẳng tay đập tơi bời cuốn sách đầu tay đó của Phùng Quán. Trần Dần nhận định:
Về cốt chuyện “tinh thần chung của nó là hỏng. Mới xét qua cốt chuyện đã thấy nó là một quyển sách ca tụng chủ nghiã anh hùng cá nhân, ca tụng kiểu quân sự bạo động, tình cảm sốc nổi và phiêu lưu”. Về nhân vật trong chuyện: “về nhân vật quần chúng thì tôi không hiểu tác giả mắc bệnh gì mà mỗi khi tả quần chúng thì tả họ ngây ngô… cái nhân vật quần chúng đã bị bôi nhọ quá nhiều”.
Về những nhân vật khác, Trần Dần cho là: “tác giả đưa lên những người toàn tim cả mà không có óc. Hay chỉ có một chút xíu”. Nói về cái chết của những người anh hùng trong tác phẩm của Phùng Quán, Trần Dần viết một cách vô lương tâm: “Tôi đã không khóc mà lại còn muốn nói rất nhiều về những cái chết mù quáng như vậy. Không phải cứ mang cái chết ra mà cảm động được chúng ta đâu!… Tôi không rỏ một giọt nước mắt nào cho những con người chết như thế. Đó là cái chết của những con người khờ dại… đảng viên ấy không phải là đảng viên, chiến sĩ ấy không phải là chiến sĩ…” (…)
Suốt cả bài ấy Trần Dần dùng một lối văn đả kích bằng cách chơi chữ, lập lờ, một thứ “thủ đoạn văn chương” mà sau này ta đã tìm thấy lại trên báo Nhân Văn, trong các tập Giai phẩm và Đất Mới của nhà xuất bản Minh Đức. Ví dụ chê một chỗ tác giả đưa lên một khó khăn quá ngây thơ, Trần Dần viết: “lần này là khó khăn con chó”.
Một tháng sau Lê Đạt cũng viết một bài phê bình Vượt Côn đảo (Sinh Hoạt Văn Nghệ, số 39 ra ngày 19/5/1955) ý kiến không có gì khác Trần Dần lắm. (…)
Sau khi đã đập Phùng Quán tơi bời bằng một bài phê bình trên báo, sau khi đã làm cho Phùng Quán hoang mang suy nghĩ về tài năng, về trình độ mọi mặt của mình, Trần Dần lại nói riêng với Phùng Quán: “Tao đập là đập bọn chúng nó ngu dốt không biết gì chứ có phải đập mày đâu”. (…) Thế là Trần Dần hoàn thành cái thủ đoạn của mình một cách khôn khéo, bắn một phát trúng nhiều mục tiêu: qua phê bình Vượt Côn đảo mà thoá mạ những chiến sĩ cộng sản, qua Phùng Quán mà chửi quần chúng là ngu dốt, tâng bốc Phùng Quán, đưa Phùng Quán đến chỗ đối lập lại quần chúng độc giả và lãnh đạo, lôi kéo Phùng Quán. Trần Dần đã thành công trong việc đó thật”[46].
 ● Phê bình Việt Bắc
Phê bình tập thơ Việt Bắc là ngòi nổ công khai đầu tiên của phong trào NVGP. Việt Bắc của Tố Hữu được tôn sùng như cuốn “thánh kinh” của văn học cách mạng. Từ khi tác phẩm ra đời cuối năm 1954 cho đến ngày nay, bao nhiêu giấy bút đã dành cho sự ca tụng nó. Hiếm có nhà phê bình nào, dám viết một câu phạm thượng về Việt Bắc. Đúng như Lê Đạt nhận xét: “Ở Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ”[47]. Sở dĩ việc phê bình thơ Tố Hữu, không chỉ khép kín trong các buổi họp nội bộ quân đội, mà thoát ra ngoài, nhờ hai người: Tử Phác, thư ký toà soạn báo Sinh Hoạt Văn Nghệ, tung trên Sinh Hoạt Văn Nghệ trước. Rồi Lê Đạt, phụ trách Văn Nghệ, đưa lên Văn Nghệ sau.
Vũ Tú Nam viết:
“Ngày 4/3/1955, nổ ra cuộc họp đầu tiên tranh luận phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần gọi thơ Tố Hữu là “tí ti la haine, tí ti l’amour” (tí ti căm thù, tí ti tình yêu) một cách hằn học, đểu cáng. Ngày 7/3/1955, bắt đầu tranh luận phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Trần Dần gọi những chiến sĩ Côn Đảo trong truyện là những “người cụt đầu”, “toàn tim”, mù quáng (…) Bài phê bình Vượt Côn Đảo của Trần Dần lệch lạc nguy hiểm như vậy, nhưng cũng có một số đồng chí trong quân đội không nhận ra, viết bài hưởng ứng. Cuối tháng 3/1955, khi duyệt những bức thư bạn đọc chung quanh việc phê bình Vượt Côn Đảo để in báo Sinh hoạt Văn nghệ, Cục Tuyên huấn quyết định bỏ bớt một số bài tán thành Trần Dần. Lúc này, Trần Dần phản ứng rất mạnh, gọi lãnh đạo là “répression policière!” (đàn áp kiểu cu-lít). Và đầu tháng 4/1955, mượn cớ đau óc, Trần Dần xin nghỉ dài hạn, bỏ công tác, bỏ doanh trại bộ đội, tự tiện ra ngoài phố ở.”[48]
tohuu
Tố Hửu
 
Về không khí các buổi phê bình thơ Tố Hữu, Vũ Tú Nam ghi trong nhật ký, như sau:
5/3/1955: Tối qua, tranh luận về thơ Tố Hữu ở Cửa Đông, anh Nguyễn Chí Thanh tới (…) anh em đông lắm, cả Hồ Dzếnh. Hoàng Yến trình bày vấn đề “khả năng hiện thực trong thơ Tố Hữu – Tố Hữu có tiêu biểu cho thời đại không?” Trần Dần, Lê Đạt nói bốc nhất. Hoàng Trung Thông, Nguyễn Xuân Sanh ngồi ghi mà không nói gì. Tố Hữu không tới, Xuân Diệu không tới.
8/4/1955: Đêm 7-4, phê bình thơ Việt Bắc ở 51 Trần Hưng Đạo đến 12 h khuya. Dần tâm sự khi anh đi xe đạp có hai bộ đội theo dõi (?). Tối vào nhà bạn, lúc ra Dần bị bộ đội giữ mấy tiếng. Mình báo cáo sự việc với chi ủy. Trần Việt nói: Dần vào 69 Quán Thánh, nhà Hoàng Cơ Bình cũ, nên có thể bị theo dõi.
15/4/1955: Đêm qua, thảo luận về thơ Việt Bắc đến 12h đêm. Hoàng Yến, Trần Dần, Hoàng Cầm nói gay gắt. Trương Tửu tranh luận rất phản khoa học. Huy Cận ngồi im. Tạ Hữu Thiện nói nhiều suy diễn, ví dụ cho đoạn nào là giống Kiều… Hoàng Cầm dẫn thơ Hồ Xuân Hương để chứng minh “chất sống” và “hồn thơ” của nữ thi sĩ.[49]
Trong bài Cách nhìn sự vật của nhà thơ Tố Hữu, viết tháng 5/55, Trần Dần viết: “Nói chung thơ Tố Hữu có rất nhiều cái lười biếng. “Ý lời tầm thường (…), rất nhiều cái kiểu “lòng ta xao xuyến, rung rinh”, – “chúng bay chỉ một đường ra, một là tiêu diệt hai là tù binh”, – hoặc “đời vẫn ca vang núi đèo”, hoặc “Cụ Hồ sáng soi”. Không phải là thiên lệch trích ra một số câu như vậy, hãy đọc lại cả tập Việt Bắc xem, ta thấy nhan nhản những lối lười, nhạt, cả lảm nhảm nữa (…) Phá đường: “Nhà neo việc bận vẫn đi” – làm thì thi đua -, thi đua kết quả thì rồi mai địch chết. Ta đi tới: đủ cả Bắc Nam, Việt, Miên, Lào, Itsala, Itsarắc… xem ra thì có vẻ đúng chính trị. Nhưng xét sâu xem? (…) Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao… Tố Hữu chưa đem tới một cái nhìn mới mẻ gì.[50]
 Tiễn đưa Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang ghi sổ tang:
 “Lần đầu gặp anh trong cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc, đến nay dù hơn bốn mươi năm, biết bao là gian nan, trong những cố gắng chung để tìm cho văn nghệ Việt Nam một con đường phát triển thuận lợi nhất. Đúng hay sai, hôm nay tôi vẫn chưa dám khẳng định… Dù sao thiện chí của chúng ta chỉ có kẻ ác ý mới cố tình phủ nhận.
Tiễn đưa anh về cõi vĩnh hằng, có lẽ tôi chỉ có thể nhắc lại cùng anh vế đối của Ngô Thì Nhậm nói cái lẽ tất yếu: Gặp thì thế, thế thì phải thế. (…)
 Cả nước biết lúc nào anh cũng có tư tưởng Nhất định thắng, dù cho ý chí ấy anh không đạt được thì cũng vẫn là phẩm giá cao đẹp của một con người”[51].
 
● Trần Dần ghi
Về NVGP, có những sự việc đã bị chôn sống, tưởng rồi sẽ tan trong lòng đất. Có những sự thực đã bị bóp méo đến độ dị dạng. Trong hơn nửa thế kỷ, người ta đã quen sống với những quái thai dị đạng đó: những xuyên tạc, bôi nhọ được đề cao như những chân lý. Ngờ đâu, những con chữ trong hòm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện mình. Tập Trần Dần ghi 1954-1960[52] là một trong những tư liệu hòm, tự khai, tự quật. Tác phẩm mở ra những dòng chữ đầu tiên để lấp những trang còn trắng về một thời kỳ văn học sử, còn chưa được biết, còn chưa được viết.
Tập Trần Dần ghi 1954-1960 thực chất là ba quyển sách gồm một: Phần đầu tích lũy những suy nghĩ về sáng tạo. Phần thứ nhì, tác giả quay lại chiến dịch đấu tố với những hình ảnh khủng khiếp kinh hoàng. Phần thứ ba, viết về cuộc sống cải tạo trong những năm kỷ luật. Với một lối viết tốc ký, ngắn gọn, thể hiệnmỹ học khổ đau của Trần Dần.
 Chuyện cải tạo sau Nhân Văn, nằm trong lối tốc ký ấy:
“9/9/58 (…) Ðêm, tôi thiếp đi trong mộng ác. Tay mưng, đau nhất là ở những chỗ đã thành chai mà lại mưng tái lại. Mọi bắp thịt suốt đêm lọc acide, và chôn cất những tế bào chết vì lao lực quá sức… Lục đục suốt đêm như vậy trong toàn bộ xác thịt tôi.
 10/9/58 (…) Gió khiếp quá. Hàng sư đoàn gió bấc trèo qua núi lúc nào đổ xuống đồng cỏ. Suốt buổi sáng, mùa hè bị đánh tan nát. Nắng bị gió may thổi mát đi, nguội lửa.
Gió tốc mái, rứt mấy lá gồi chuồng bò. Cây cành bị túm tóc, vật vã kêu gào, gió vẫn không tha. Các tàu chuối bị tước xơ ra. Có tàu rách mướp, trông hệt một con rết xanh khổng lồ, hàng nghìn chân xanh ngọ ngoạy điên cuồng, cào trong không khí, cái đuôi nó bị giữ rịt ở thân, nó lồng lộn ngang ngửa, không thoát. (…)
Các nón lá bị gió nó hất chụp mặt. Nó kéo ra sau, quai nón xiết cổ như thừng thắt cổ! Bụi phả vào mắt chúng tôi, chưa dụi xong, gió đã ném thêm. Bọn tôi đào gốc, đã nhọc, còn bị lũ gió may kia trêu chọc. Nó đùa dai chứ… Có lúc tôi cuốc đất, mắt nhắm tịt, một anh mù làm việc”[53].
Về những ngày sôi động sau 2 cuộc Chỉnh huấn ở Thái Hà ấp, 16/4/1958, Trần Dần ghi:
“Hiện nay Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Minh Ðức đã bị bắt, chẳng bao lâu sẽ ra tòa. Báo chí vẫn tiếp tục diệt đánh Nhân Văn Bộ 6 Giai Phẩm Mùa Xuân[54]. Bộ 6 đã buông nhau ra. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm cũng ô-rơ-voa[55]nhau hết (…) Sỹ Ngọc đóng cửa, miễn tiếp khách. Bản thân tôi, do chỗ đã tự giác đình bản tư tưởng thù địch (thứ tự giác kết quả của áp lực…) nên mọi mặt khác, tôi cũng đình bản cả giao du, đình bản cả việc viết lách. Có nên đi gặp những đồng chí lãnh đạo để hỏi những việc cần phải làm không? Ði thì lại sợ bị hiểu lầm. Nhưng nếu ngồi nhà, tiêu cực đợi, có khi còn bị hiểu lầm gấp bội. (…)
Bọn Ðang – Minh Ðức – Thụy An thân thì bị cầm tù, tội ác thì đem bêu đầu trên báo chí. Vai trò của bọn chúng trong các vụ phá hoại 3 năm đang được vạch trần. Phan Khôi thì đóng cửa, nằm khàn, không đọc báo. Trương Tửu, Trần Ðức Thảo làm gì? Còn cả loại B chúng tôi hiện ra sao? Làm gì? Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đang tiếp tục kiểm thảo ở cơ quan, cùng với những Quang Dũng, Trần Lê Văn, v.v…
Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một mảng thịt của mình.(…) Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ (…) Tôi vừa là một tội nhân, vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn”[56].
Những người nhân văn ấy, đã phải nhận tội, phải “cắt bỏ những mảng thịt của mình”, phải tự chửi rủa mình, phải tìm gặp lãnh đạo, phải tố cáo bạn bè để xin một chút ơn huệ thừa, nhưng rồi cũng không ai thoát được guồng máy, không ai tránh khỏi bị “ninh nhừ”.
Con người nhất định thắng ấy, sau trận Thái Hà, đã thua, đã hàng, đã nhận tội, đã ly khai những lý tưởng ngày trước, đã phải đứng về phía bên này, để nhìn “bọn” bên kia: gồm những “tên thủ lĩnh chủ nghiã xét lại” Nguyễn Hữu Đang, “tên phá hoại” Minh Đức, “con mụ gián điệp” Thụy An…, đã xuống đến nấc thang cuối cùng của sự “giẻ rách hoá” con người.
10/12/ 59, Trần Dần ghi: “Sớm mai tòa án xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Ðang phá hại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự, có lẽ vì không có vị trí gì ở đó. Không phải là nhân chứng, cũng không phải là đại biểu của nhân dân…
Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Ðang cầm đầu. Tôi đã ly khai với “lý tưởng” đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ “Đúng” mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa không? Đang đã nhìn thấy cái sai lớn của Đang chưa?(…)
Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Ðôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Ðang ra tòa cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ “Ðúng” mới nhiều máu làm sao!”[57]
Từ lâu “ghi trở nên một hình phạt”. Nhưng vẫn ghi.
Cuốn sổ 1958, ghi lại con đường của những người muốn ngoi lên để đi đến chỗ “Đúng”. Ai cũng muốn tìm một đường “máu” để thoát thân: biết đâu Đảng chả đoái thương mà nghĩ lại? Phương tiện nào cũng tốt kể cả “khai”. Cả “tố”.
Bao nhiêu khuôn mặt đã bước trên con đường “nhiều máu “ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã vo ve sự “Đúng” ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu tên tuổi đã đạt được sự “Đúng” ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã “Sai.” Trần Dần ghi.
Cả đúng lẫn sai đều lầm than, đều tiến dần tới tha hóa. Họ tan tác cả. Họ chia tay. Có những oán hận, căm thù. Chính quyền đã thành công trong sự “giẻ rách hoá” con người, như lời Lê Đạt.
Thành công lớn nhất của guồng máy là đã đánh vào những yếu tố thiêng liêng nhất của con người: đánh vào tình bạn, tình người, đánh tan tác hết.
Những người nhân văn không chết, nhưng họ bị rút máu, rút gân, rút dần sinh lực. Họ đều rời rã, đều muốn hàng. Nhiều người đã đầu hàng, trong đó có Trần Dần. Họ muốn được lãnh đạo thương xót, họ muốn được lãnh đạo đoái hoài. Họ đã xuống đến đáy vực, họ chịu hết nổi. Họ sẵn sàng “chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa” nhưng người ta vẫn lạnh lùng quay đi. Người ta vẫn không cho ngoi lên. Cái phận người nhỏ nhoi. Phận người nhân văn bị sa lầy, lún xuống, trong thời không nhân văn của dân tộc mình. Câm và điếc. Như đã chết.
Và điều đó chỉ có mỹ học khổ đau của Trần Dần mới viết nên được.

[1] Em ruột Vũ Hoàng Chương.
[2] Tác phẩm của Đinh Hùng.
[3] In trong Thơ Mới 1932-1945, Lại Nguyên Ân sưu tập, Hội Nhà Văn, 1999, phụ lục, trang 1395.
[4] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.
[5] Vũ Tú Nam, bđd.
[6] nxb Quân Đội Nhân Dân, 1954.
[7] Nhật ký Trần Dần ghiPhạm Thị Hoài, biên soạn, Văn nghệ California, 2001.
[8] Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, hồi ký, chép lại 25/10/2006 (tạp chí Nhà Văn số 3/2007), mạng Talawas.
[9] Vũ Tú Nam, hồi ký, bđd.
[10] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần.
[11] Vũ Tú Nam, hồi ký, bđd.
[12] Nhật ký Trần Dần ghi.
[13] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.
[14] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.
[15] Trần Dần ghi.
[16] Theo lịch trình sau:16/11/46, Tự vệ Hải Phòng được lệnh chuẩn bị chống Pháp. 30/11/46, xung đột ở Đồ Sơn. 7/12/46, Võ Nguyên Giáp ra lệnh sửa soạn tấn công. 8/12/46, Hà Nội đào hầm, đục tường xuyên nhà nọ sang nhà kia. 10/12/46, Hà Nội bắt đầu tản cư. 20/12/46, lệnh kháng chiến từ Hà Nội, ban hành ở Nam Bộ.
[17] Đạo diễn Trần Vũ nói trong Chương trình tưởng niệm Trần Dần trên RFI, tháng 1/1997.
[18] Hồ Phương, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, Tác Phẩm Mới, 1987, trang 140.
[19] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.
[20] Hoàng Cầm, Con người Trần DầnNhân Văn số 1, 20/9/1956.
[21] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, bđd.
[22] Hoàng Cầm, bđd.
[23] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[24] Trần Dần ghi, trang 63 và 65.
[25] Từ Bích Hoàng, Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số cầm đầu trong nhóm phá hoại Nhân Văn Giai Phẩm, VNQĐ, số 5, tháng 5/1958.
[26] Tức là tờ Sinh Hoạt Văn Nghệ, do Tử Phác làm thư ký toà soạn.
[27] Tức Võ Hồng Cương, hay Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn.
[28] Tức Tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị.
[29] Trần Dần ghi, sđd, trang 73-75.
[30] Anarchiste thường được dịch là vô chính phủ, chỉ đúng trong nghiã chính trị (nghiã gốc), nhưng nói rộng ra, anarchistecòn có nghiã là quậy, pháloạn, không chịu bất cứ một thứ kỷ luật sắt nào.
[31] Phần lớn văn nghệ sĩ lúc ấy đều ở trong quân đội. Những người chủ chốt trong nhóm phản kháng gồm: Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm, với “mưu sĩ số 1″ Đặng Đình Hưng, “mưu sĩ số 2″ Tử Phác và Lê Đạt. Nhóm quy tụ được gần 30 văn nghệ sĩ. Vũ Tú Nam và Từ Bích Hoàng cũng “cùng chí hướng”, Đỗ Nhuận là thành phần “chủ chốt”, cả ba người này sau quay lại viết bài đánh Trần Dần và NVGP.
[32] Từ Bích Hoàng, bđd.
[33] In trên tạp chí Nhà Văn số 3/2007 và Talawas.
[34] Số 4, tháng 4/1958.
[35] Anarchie totale ở đây nên dịch là Loạn!
[36] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.
[37] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.
[38] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần.
[39] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.
[40] Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật ký chép lại, bđd.
[41] Thực ra là báo Sinh Hoạt Văn Nghệ của quân đội, do Tử Phác phụ trách.
[42] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[43] nxb QĐND, Hà Nội 1954.
[44] Trần Dần ghi, trang 47.
[45] Trần Dần ghi.
[46] Nguyên Ngọc, Con đường đi của Phùng Quán, con đường sai lầm điển hình của một người viết văn trẻ, VNQĐ, số 4, tháng 4/1958.
[47] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[48] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.
[49] Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật ký chép lại, bđd.
[50] Nhật ký Trần Dần ghi, trang141.
[51] Bài điếu của Nguyễn Hữu Đang, in lại trong Trần Dần ghi, trang 460.
[52] Văn Nghệ, California, 2001.
[53] Trần Dần ghi, trang 334-335.
[54] Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Ðạt, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác.
[55] Au revoir, tạm biệt.
[56] Trần Dần ghi, trang 244, 245- 260.
[57] Trần Dần ghi, trang 376.
 
Phụ đính :

Bà thơ “Nhất định thắng ” của TRẦN DẦN

Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
    tuy gọi sống Hòa Bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh…
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui – khi chợt nhớ – chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc
 
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
    máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi đao cùn!
Không đứt được – mà đau!
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ơi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: Có phải vết đao?
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc ngày hôm nay rớm máu.
 
2.
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi
- Đứng lại!
- Đi đâu?
- Làm gì?
Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh nam chị nữ kêu buồn
- Ở đây
    khát gió, thèm mây…
         Ô hay!
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?
Sau đám mây kia
    là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!
Tiệm nhảy, rượu nồng, gái tơ
Tha hồ những tự do tự diếc
Tưởng như ở đấy cứ chìa tay
     là có đô-la
Có trâu ruộng, – Có ngày đêm hoan hỷ!
Mặc dầu sao nỡ đổi trời ta?
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
- Bỏ tôi ư? – Từng vạt áo – Gót chân
Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn…
- Không! Hãy ở lại
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
    non bồng Mỹ
     triệu lần…
Mảnh đất dễ mà quên?
     Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?
Chỉ là:
- thiếu quả tim, bộ óc!
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi
    - Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi,
    gió cản áo bay về.
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Giăng giối lại: – Mỗi lùm cây – hốc đá
         – Mỗi căn vườn – gốc vả – cây sung
Không nói được, chỉ còn nức nở
Trắng con ngươi nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy – quên làm sao được?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió giập vùi
- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc…
Ai dẫn họ đi?
     Ai?
     Dẫn đi đâu? – mà họ khóc mãi thôi
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ -
     Khổ nhiều rồi!
Họ xấu số – Chớ hành thêm họ nữa
Vườn ruộng hoang sơ – Cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương
Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn
Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ
 
3.
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
Không thấy phố
     không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
    trên màu cờ đỏ.
 
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ.
    Họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…
Em đi
Trong mưa
     cúi đầu
         nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Em ơi!
Em có biết đâu
Ta khổ thế này
Vì sao?
Em biết đâu
Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?
Khổ thân em mưa nắng đi về
         lủi thủi
Bóng chúng
     đè lên
     số phận
        từng người
Em cúi đầu đi, mưa rơi
 
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
    không thấy phố
        không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
     trên màu cờ đỏ
 
4.
Đất nước khó khăn này
    sao không thấm được vào Thơ?
 
Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách – hình như khá chạy
À quyển kia của bạn này – bạn ấy
Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm
Nó đang mơ: – nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đã biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi Thống Nhất phải đòi từ việc nhỏ
- từ cái ăn
     cái ngủ
     chuyện riêng tư
- từ suy nghĩ
     nựng con
         và tán vợ
Trời mưa mãi lây rây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
    tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất
Sao chúng không chắp được cả cõi bờ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
Làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
     tôi làm thơ chính trị
 
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
     không thấy phố
        không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
     trên màu cờ đỏ
 
5.
Em ơi! – ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện gì vui hử
À cái tin trên báo – Ừ em ạ
Hôm nay bọn Mỹ Miếc, lũ Ngô Nghê
Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!
Vượt qua đầu chúng nó,
     mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thư, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì?
Ý muốn dân ta
    là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời mưa to lụt cả gian nhà
Em tất tả che mưa cản gió
Con chó Mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ – nó gầy – lông xấu quá
Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư?
Nó đỡ khổ – Cả em đỡ khổ.
Em thương nó – Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra
Anh đã biến thành người định kiến
Mực ơi!
Đừng oán chủ, Mực à!
Mày không hiểu những gần xa Mỹ Diệm
Chúng ở đâu – mà lại núp bên ta
Chính chúng cướp cả cơm của khuyển
 
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
    không thấy phố
        không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa.
     trên màu cờ đỏ
 
6.
Hôm nay đài tiếng nói Việt Nam
Lại có chuyện tên Ngô Đình Diệm
Hắn sai con em là lũ du côn
Đi ném đá nhà Ủy ban Quốc tế.
Hắn bảo hắn Giơ-ne không ký
Hắn bịt tai, không biết chuyện hiệp thương!
Ô hay! Cái lưỡi uốn càn
Cả thế giới vả vào mõm hắn
Hắn giậm chân khoa lưỡi đao cùn:
- Mặc kệ! Giết ta chết hẳn
        thì thôi
Ta chẳng giả miền Nam!
Chứ
Giả miền Nam cho nước Việt Nam
Thì ta chết
     – thầy ta cũng chết
Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm
Hắn lồng lộn, ôm miền Nam mà cắn!
Thịt dân ta từng mảng nát bươm
Nhưng không!
Hôm nay
Cả thành phố Sài Gòn
Đóng cửa!
Không họp chợ!
Không ra đường!
Những mảng thịt
Những đọi máu đào
Đang rầm rập kéo nhau
     đi ngoài phố
Hôm nay
    hàng triệu mối thù sâu
    tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng
Vung đao cùn chém phải quãng trời không!
Hắn đi ngủ,
     muôn tiếng kêu xúm lại quanh giường
Hắn ngồi ăn
    tiếng khóc nổi trong cơm
Hắn nhắm mắt
    tiếng kêu vào giấc ngủ
Hắn rong chơi
    tiếng rủa bước theo chân
Hắn hội họp
    tiếng kêu ngồi cạnh
Giơ bàn tay đòi mạng nghều ngào
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vạch tên mày!
Tên đứa tay sai!
Chẳng có lâu đâu!
Hắn sẽ sống như tên mắc tội tử tù
Óc điên dại
- chân lê vòng xích
Trốn đi đâu?
Đất trời sâu
Đương vẩy máu
     đuổi theo chân hắn.
Hắn run sợ – Quỳ xin đã muộn!
Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu
Máu vẫn đỏ
    trúng đầu trúng mặt
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vang tên mày!
 
7.
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.
- Chúng phá hiệp thương
- Liệu có hiệp thương?
- Liệu có tổng hay chẳng tổng?
- Liệu đúng kỳ? Hay chậm vài năm?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương Lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông!
A tiếng kèn vang
    quân đội anh hùng
Biển súng
Rừng lê
    bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà…
Lá cờ ấy là cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
Là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được Chiến Tranh
Giữ được Hòa Bình
Giặc cũ chết – lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy – kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có LÝ? và ai có LỰC?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ Quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
    Không biết sợ!
Hôm nay
Cả nước chỉ có một lời hô:
THỐNG NHẤT
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi
- Giả miền Nam!
     Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng – bỗng máu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rơi vào tôi
Dân ta ơi!
Những tiếng ta hô
Có sức đâm trời chảy máu.
Không địch nào cưỡng nổi ý ta
Chúng ta đi – như quả đất khổng lồ
Hiền hậu lắm – nhưng mà quả quyết…
 
8.
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đã giống lưỡi lê: đâm
Giống viên đạn: xé
Giống bão mưa: gào
Giống tình yêu: thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin.
Sao bỗng đêm nay,
    tôi cúi mặt trước đèn?
Gian nhà vắng – chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.
Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá
    chặn đường ta!
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
    vẫn có những phút giây ngờ vực
Ai có LÝ? Và ai có LỰC?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
Cả nước
     cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.
Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực
Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!
Tảng đá chặn đường này!
Muôn triệu con người
Muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!
Anh đã nghĩ: không có đường nào khác
Đem ngã lòng ra
    mà thống nhất Bắc Nam ư?
Không không!
Đem sức gân ra!
Em ơi em!
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT
 
9.
Hôm nay
Trời đã thôi mưa
Thôi gió
Nắng lên
Đỏ phố
    đỏ nhà
    đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!
Bây giờ
Em khuân đồ đạc ra phơi
Em nhé đừng quên
Em khuân tất cả tim gan chúng mình
    phơi nắng hết.
Em nhìn
Cao tít
    trời xanh
Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!
Hôm nay em đã có việc làm
Lương ít – Sống còn khó khăn!
Cũng là may…
Chính phủ muôn lo nghìn lắng
Thực có tài đuổi bão xua mưa
Không thì còn khổ
Em treo cờ đỏ đầu nhà
Lá cờ trừ ma
Xua được bóng đen chúng nó!
Tiếng gì ầm phố em à?
A! Những người đi Nam trở ra
Phải rồi! Quên sao đất Bắc!
- Khổ! Trong ấy loạn
Phải đi đồn điền cao su
Chúng tôi bị lừa
Bà con muốn ra không được.
Đồng bào vui muốn khóc
Ô này lạ chưa?
- Mây ngoài này không đen
Mây đen vào trong ấy cả
Đúng rồi! Đó là công sức của nhân dân ta
        lùa mây đuổi gió
Những vết thương kháng chiến đỏ lòm
Đã mím miệng, lên da lên thịt.
Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni
    và nhiều phố khác.
Anh đã sống ở Sài gòn thuở trước
Cảnh miền Nam thành một góc tim anh
Chúng đốt tận đâu
    mà lửa xém tim mình
Tim nó bị thui đen một nửa
Từ dạo ấy
    mà em chẳng rõ.
- Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã
Đứng đây
Một lúc!
Cờ bay
    đỏ phố
    đỏ nhà
Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.
Em có thấy bay trên trời xanh
Hàng triệu tâm hồn?
Họ đã bỏ miền Nam
    ra Bắc!
Chúng đem súng mà ngăn
Đem dây mà trói!
Giữ thân người
    không giữ được nhân tâm
Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả.
Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi
Đổ lên chúng nó
Mây đen
    lửa loạn
    bão thù
Ai thắng ai thua?
Ai có LÝ và ai có LỰC?
 
Em ơi
Hôm nay
    trời xanh
    xanh đúc
Nắng lên
    đỏ phố
    đỏ cờ
Cuồn cuộn mít tinh
Những ngày thương xót đã lùi xa
Hòa bình
Thêm vững
Anh bước đi
    đã thấy phố thấy nhà
Không thấy mưa sa
Chỉ thấy nắng lên
    trên màu cờ đỏ
 
Ta ở phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
Đóng cửa
Cả nhà ra phố
Mít tinh
Chúng ta đi
     nổi bão
    biểu tình
Vung cờ đỏ
    hát hò
     vỡ phổi…
Hỡi những người
     thành phố
        thôn quê
Đói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả!
Ra đường!
Đi!
Hàng đoàn
    hàng đoàn
Đòi lấy tương lai:
HÒA BÌNH
    THỐNG NHẤT
        ĐỘC LẬP
            DÂN CHỦ
Đó là tim
    là máu đời mình
Là cơm áo! Là ái tình
Nhất định thắng!
 

© 1984-2012 Thụy Khuê

VHP chuyển

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Trần Dần (1926-1997)

40 năm sau Nhân Văn, Trần Dần đã chỉ thấy những hòm bản thảo của mình: 2/3 bị tiêu tán, mục nát, 1/3 còn lại bị kết án chung thân trong trạng thái nằm.Vậy mà vẫn viết.
 
(Chương 11)
Nhân Văn- Giai Phẩm
OLYMPUS DIGITAL CAMERA
 

Trần Dần

(1926-1997)
 
40 năm sau Nhân Văn, Trần Dần đã chỉ thấy những hòm bản thảo của mình: 2/3 bị tiêu tán, mục nát, 1/3 còn lại bị kết án chung thân trong trạng thái nằm.Vậy mà vẫn viết. Viết đều. Bởi ông cho rằng viết hay ghi là phương pháp duy nhất nói chuyện với mình khi không thể nói được với ai.
 Từ 1958, “ghi trở nên một hình phạt”, người thanh niên 32 tuổi ấy đã bị“đòn ngấm quá cuống tim rồi”.
Tác phẩm chịu chung số phận với người: gần 30 tập thơ, 3 cuốn tiểu thuyết, và không biết bao nhiêu bản thảo đã bị mối mọt.
Trần Dần tên thật Trần Văn Dzần, sinh ngày 23/8/1926 tại Nam Định trong một gia đình giàu có. Mất ngày 7/1/1997 tại Hà Nội. Đậu Thành Chung ở Nam Định, lên Hà Nội học, đậu Tú Tài.
Tháng 11/1946, cùng với Đinh Hùng, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch[1]xuất bản tạp chí Dạ Đài. Trên Dạ Đài số 1 ra ngày 16/11/46, công bố bản “Tuyên ngôn tượng trưng” ký tên Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch. Nhưng Đinh Hùng mới thực là “chủ soái”, bởi thơ của cả nhóm: Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Nguyễn Văn Tậu, đều chịu ảnh hưởng Đinh Hùng.
Bài Về nẻo thanh tuyền của Trần Dần là một ví dụ, những câu thơ mở đầu, đậm mầu sắc Mê hồn ca[2]:
Đời bỏ ta nằm dưới Thủy Cung
Mờ đi! ơi ánh nguyệt vô cùng
Hồn ta qua xứ ma làm loạn
Nên thác trong đường trận hỏa công [3]
Năm 1947, Trần Dần về Nam Định theo kháng chiến, ngành thông tin tuyên truyền, và được kết nạp vào đảng ngày 19/8/1948[4].
Năm 1951, sau khi dự lớp Chỉnh huấn “có kết quả”, Trần Dần được giao việc huấn luyện đoàn Văn công quân đội. Nhưng vì “đả kích cán bộ sáng tác”nên bị kỷ luật và bị chuyển về Tuyên huấn, làm việc đến 1953[5].
Năm 1954 tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, viết tiểu thuyết Người người lớp lớp[6]. Theo Hoàng Cầm, đây là một ký sự được viết dưới dạng tiểu thuyết, có nhân vật binh nhì tên là No, và nhân vật chính ủy chính là Trần Độ.
10/10/54 được cử viết thuyết minh cho phim Điện Biên Phủ, đi Trung Quốc thu thanh. Bị chính trị viên Hoàng Xuân Tuỳ kiểm soát gắt gao. Bỏ về.
10/12/54 trở về Hà Nội.
24/12/ 54 bắt đầu tổ chức thảo luận đòi thay đổi chính sách văn nghệ quân đội.
Tháng 2/55, Trần Dần viết bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ.
Trong tháng 3 và 4/55, Trần Dần, Tử Phác tổ chức phê bình tiểu thuyếtVượt Côn Đảo của Phùng Quán và tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Tháng 4/55: Bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ không được Tuyên huấn thông qua.
23/4/55: Trần Dần quyết định viết đơn xin ra khỏi quân đội, và dự định, đường cùng sẽ ra đảng, kết hôn với cô Bùi Thị Ngọc Khuê, bất chấp quân kỷ[7]. Tháng 4/55, Hoàng Cầm làm đơn xin ra khỏi quân đội.
16/5/1955: Trần Dần gửi đơn xin giải ngũ, ra Đảng. Hoàng Tích Linh cũng xin giải ngũ[8].
13/6/1955: Tất cả các tổ Đảng ở Cục Tuyên huấn phê phán lá thư xin ra Đảng và xin giải ngũ của Trần Dần là chống đối, phá hoại tổ chức Đảng[9].
13/6 đến 13/9 Trần Dần và Tử Phác bị cấm trại 3 tháng. Trần Dần ghi trong nhật ký “Ba tháng bị giữ lại kiểm thảo”, “Nọc bệnh: anarchiste” “Khi xưa phản đối xã hội cũ bằng symbolisme”“Bây giờ phản đối những cái sai trong lãnh đạo văn nghệ bằng loạn ẩu”. Trong thời gian bị cấm trại, sáng tác Nhất định thắng, đưa cho Lê Đạt giữ[10].
21/6/1955: Trong vòng một tuần, chi bộ khai trừ Trần Dần và Nguyễn Anh Chấn (Tử Phác). Riêng Tử Phác, bị đình chỉ công tác và sinh hoạt Đảng để kiểm điểm[11].
Từ 3/11/55 đến giữa tháng 2/56 Trần Dần, Tử Phác phải đi “tham quan Cải cách ruộng đất đợt 5″ ở Yên Viên (Bắc Ninh). Ông ghi lại bi kịch Cải cách ruộng đất trong nhật ký, với những chi tiết, những con số, những màn đấu tố, những cảnh giết người.
 Khi biên tập cuốn Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài cho biết, chị chỉ mới đưa được một phần, phần còn lại sẽ dành cho cuốn sách riêng về Cải cách ruộng đất. Nhưng cho tới nay, vẫn chưa thấy tác phẩm về Cải cách ruộng đất của Trần Dần ra đời.
Cùng trong thời gian này, Hoàng Cầm và Lê Đạt tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân, lên Yên Viên bàn với Trần Dần đưa bài thơ Nhất định thắng ra in, Trần Dần đồng ý[12].
Cuối tháng 1/56 Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bị tịch thu ngay. Tháng 2/56 Lê Đạt bị Tố Hữu gọi tên tuyên huấn khiểm thảo 15 ngày. Tố Hữu tổ chức đại hội Tuyên Huấn phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân; ra lệnh bắt Trần Dần. Trần Dần, Tử Phác bị bắt ở Yên Viên. Bị giam kín. Sợ bị thủ tiêu, Trần Dần lập kế dùng dao cạo cắt cổ, được đưa vào bệnh viện. Ngày 21/2/56, Trần Dần viết lá thư dài 15 trang, trần tình với tướng Nguyễn Chí Thanh[13].
Hội Văn Nghệ tổ chức phê bình Nhất định thắng.
Ngày 7/3/56 Bắt đầu chiến dịch đánh Trần Dần trên báo với bài của Hoài Thanh.
Ngày 5/5/56, Trần Dần được thả với điều kiện phải viết “một bản kế hoạch sửa chữa sai lầm sáu tháng cuối năm”. Sau đó được chuyển sang Hội Văn Nghệ[14]. Từ tháng 8/56, tham gia NVGP và bị kỷ luật cùng điều kiện với Lê Đạt.
Nha_tho_Dinh_Hung
● Tác phẩm:
1946: Bài thơ Về nẻo thanh tuyền và Bản tuyên ngôn Dạ đài.
Phạm Thị Hoài trong Trần Dần: cuộc đời, tác phẩm, thời đại[15] liệt kê những tác phẩm sau đây:
1954: Anh đã thấy, Tiếng trống tương lai (trường ca).
1955: Cách mạng tháng Tám, Nhất định thắng (bản Hoàng Văn Chí, in trongTrần Dần thơ, Nhã Nam, Đà Nẵng, 2007).
 1957: Hãy đi mãi, Đi! Bài thơ Việt Bắc (trường ca), (Hội Nhà Văn, 1991).
1959: Sắc lệnh 59 (thơ), Con tàu xã hội (thơ), 17 tình ca (thơ).
1959-1960: Cổng tỉnh (thơ), (Hội Nhà Văn, 1994).
1961: Đêm núm sen (tiểu thuyết).
1963: Jờ Joạc (thơ) (Trần Dần thơ, 2007).
 1964: Mùa sạch (Văn Học, 1997), Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết).
1965: Một ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết).
1967: Con trắng (thơ văn xuôi) (Trần Dần thơ, 2007).
1968: 177 cảnh (hùng ca lụa).
1974: Động đất tâm thần (nhật ký thơ).
1978: Thơ không lời – Mây không lời (thơ – họa).
1979: Bộ ba: Thiên Thanh – 77 – Ngày ngày.
1980: Bộ ba: 36 – Thở dài – Tư Mã dâng sao.
1987: Thơ Mini (in trong Trần Dần thơ).
Nhưng bản kê khai trên đây chưa phải là tất cả, vì trong tuyển tập Trần Dần thơ do Vũ Văn Kha biên tập, cho biết: “phần lớn di cảo thơ Trần Dần vẫn tiếp tục số phận nằm”.
Tuyển tập Trần Dần thơ (Nhã Nam, Đà Nẵng, 2007) tập hợp các trường ca truyền thống như Bài thơ Việt Bắc, Cổng Tỉnh, vá các tác phẩm rất mới như:Mùa sạch (thử nghiệm thơ độc âm), Con OEE (biến tấu âm) và Con I (thơ bè), cả ba đều khá cường điệu và nệ hình thức, hoặc lập dị như Jờ Joạcx. Ngược lại, hai tập Sổ bụi và thơ Mini, thực sự thành công, xác định sự độc đáo của của Trần Dần, khác với Đặng Đình Hưng và Lê Đạt. Vậy lần công bố này, tầm quan trọng và sự độc đáo nằm trong Sổ bụi, và thơ Mini.
Sổ bụi tập hợp lối ghi chép đặc biệt Trần Dần: đó là những bài thơ văn xuôi cô đọng, mới, đầy biến ảnh, thể hiện mỹ học khổ đau một cách toàn diện. Thơ Mini, là những bài triết luận thu gọn đến cạn kiệt. Một Trần Dần đi từ thực tại thi nhân để đến với tâm linh hiền triết.
● Từ kháng chiến đến Nhân Văn Giai Phẩm
Dạ Đài số 1 ra đời 16/11/46, số 2 vừa xong thì chiến tranh bùng nổ[16], Trần Dần đi theo kháng chiến. Đạo diễn Trần Vũ thuật lại: Ban đầu, Trần Dần làm công tác tuyên truyền cùng Vũ Khiêu và Vũ Hoàng Ðịch. 1948, khi thành lập khu 14 ở Tây Bắc, Trần Dần cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Ðịch lên Tây Bắc. Một thời gian sau, khu 14 bị giải thể. Trần Dần vào quân đội, nhận công tác địch vận của trung đoàn Sơn La từ 1948 đến 1950[17].
Hồ Phương kể lại: Trong nhóm văn nghệ Tây Bắc, có Trần Thứ (Trần Vũ), Trần Dần và Hoài Niệm… làm tờ báo Sông Đà, trình bầy đẹp, chuyên về thơ văn. “Hồi ấy Trần Dần hay làm thơ leo thang, bài thơ thường được trình bày khá kiểu cách. Dòng thì in chữ nhỏ, dòng lại in chữ to, thiên về hạng theo mốt”[18].
Vũ Tú Nam viết: “Trần Dần làm thơ bí hiểm, vẽ theo lối lập thể, bị quần chúng bộ đội phản đối”. Và 1951, sau khi dự “một lớp Chỉnh huấn có kết quả”,Trần Dần được điều về phụ trách đoàn Văn công quân đội[19]. Hoàng Cầm cũng xác định: “Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên”[20].
Nhưng Vũ Tú Nam bình luận: vì “có ít nhiều thành tích” trong việc luyện tập Văn công, Trần Dần “đâm ra chủ quan độc đoán, đả kích cán bộ sáng tác”,”bị thi hành kỷ luật rồi điều về cục Tuyên huấn công tác, bất mãn ngấm ngầm”[21]Vậy việc về Cục tuyên huấn, là một hình phạt.
Đầu 1954, Trần Dần đi chiến dịch Điện Biên Phủ cùng với Đỗ Nhuận. Họa sĩ Tô Ngọc Vân chết trong chiến dịch này. Người người lớp lớp được sáng tác ở Điện Biên Phủ, hoàn thành cuối tháng 9/54.
Tháng 10/54, Trần Dần được cử viết thuyết minh cho phim Chiến thắng Ðiện Biên Phủ, và đi Trung Quốc để thực hiện. Ngày 10/10/54 khởi hành. Ngày 14/10, đến Nam Ninh. 20/10, đến Bắc Kinh, hoàn thành tập thơ Tiếng trống tương lai. Ngày 10/12/54 trở lại Hà Nội.
Hoàng Cầm viết: “Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đã tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. “Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lối diễn tả riêng biệt -không phải lập dị- nhưng độc đáo. Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong “Người người lớp lớp”. Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đã lâu: “Tiếng trống tương lai”[22].
ledat
Lê Đạt
 
Trong nhật ký, Trần Dần chỉ ghi sơ lược về chuyến đi này, nhưng ông đã kể cho Hoàng Cầm và Hoàng Cầm thuật lại trong bài Con người Trần Dần:
“Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định. Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh. Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.
Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ – lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. (…)
hoàng câm5
Hoàng Cầm
 
Trong bài Con người Trần Dần, Hoàng Cầm đã phải giữ ý khi viết, nhưng trong băng ghi âm sau này, ông nói thẳng hơn:
 ”Ban Tuyên Huấn cử Trần Dần viết thuyết minh cho phim của Karmen về chiến thắng Điện Biên Phủ. Trần Dần được cử sang Trung Quốc. Theo lời Trần Dần kể, thì bản thảo thuyết minh đã viết xong ở nhà, ông Lê Quang Đạo đã duyệt rồi. Sang Bắc Kinh Trần Dần làm việc với ban kỹ thuật, về việc lắp ráp, thu thanh, lồng tiếng… Nhưng ít lâu sau, thì Hoàng Xuân Tuỳ sang, Hoàng Xuân Tuỳ là chính ủy trung đoàn, làm việc ở Tuyên Huấn, được gửi sang với nhiệm vụ kiểm soát mọi việc.
 Vừa xem bản thuyết minh của Trần Dần, anh ta phát biểu ngay: “Cái này anh viết hỏng, không hay mà lại hỏng”. Gặp ai chứ gặp phải Trần Dần, tính khí ngang tàng, làm sao chịu được: “Thế nào là hỏng? Thế nào là không hay, anh chỉ cho tôi biết?” Hoàng Xuân Tùy là một tay chính trị viên giáo điều, làm sao tranh luận được với Trần Dần. Nhất là cái bản thảo đã được ông Lê Quang Đạo thông qua trước khi đi. Thế là Hoàng Xuân Tuỳ ra lệnh: “Anh phải viết lại”. Trần Dần dằn từng tíếng một: “Tôi- không- viết- lại”. Không ai chịu ai.
Cuối cùng Trần Dần quyết định: “Thôi thế để anh làm nhá, anh tự viết, tự kiểm duyệt, tôi về nước”. - “Cái đó tuỳ anh”. Trần Dần xếp vali về nước, thuật lại chuyện với ông Lê Quang Đạo, thì tất nhiên ông ấy phải đứng về phía Hoàng Xuân Tuỳ, vì hắn là đảng viên cao cấp. Ông nói: “Thôi để anh Hoàng Xuân Tuỳ làm cũng được, anh về đây phụ trách tạp chí Văn (thực ra là tạp chí Sinh Hoạt Văn Nghệ)”[23].
 Vậy sự chống đối của Trần Dần sau khi đi Trung Quốc về, không vì Hồ Phong, như trong các bản cáo trạng buộc tội ông, mà trực tiếp đến từ sự kiểm duyệt của Hoàng Xuân Tùy.
Cung cách giáo điều của cán bộ này đã khiến Trần Dần, khi bỏ Bắc Kinh, về bắt tay ngay vào việc tổ chức đấu tranh trong quân đội một cách quy mô và quyết liệt.
Chính sách áp chế tư tưởng và sự can thiệp vào đời sống tình cảm con người đã thúc đẩy Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ dự thảo ra bản “Đề nghị cải tổ chính sách văn nghệ” gửi lên cấp trên, đòi bãi bỏ vai trò của chính trị viên trong quân đội.
 
● Tranh đấu trong quân đội, đầu năm 1955
Từ Bắc Kinh trở về Hà Nội, Trần Dần ghi tình hình trong nhật ký ngày 20/12/54:
“Về Hà Nội được đúng 10 ngày (…) Cơ quan văn nghệ chưa có gì thay đổi.(…) Vẫn những chính sách gò bó, mệnh lệnh và máy móc “quân sự hoá văn nghệ”. Đời tôi chìm chết trong chính sách này, cũng như những anh em khác. Khó lắm. Nhưng tôi nghe nhiều tiếng cất lên. Phản đối. Bàn cãi. Mỉa mai. Và cả chửi bới. Cái đó có nghiã là tiếng trống báo tử của những tư tưởng và chính sách áp chế văn nghệ bộ đội. Những ngày gần đây sao mà tôi buồn. Buốt óc lắm. Và bực tức. Cơ quan và chính sách. Hội văn nghệ đánh mất bản thảo Người người lớp lớp (phần 4 và 5). Món nợ chính phủ, những kỷ niệm ngày bé, chua chát và mãnh liệt, những uất ức của 9 năm chiến tranh. Thơ tôi người ta không chê nhưng cũng không sốt sắng in. Những dự định khó thực hiện vì chính sách gò bó: tích lũy cuộc sống mới thì phải được tự do, v.v… Tôi bị bao vây. Chặt quá. Ép quá (…) Tôi muốn những gì?
- Một chính sách văn nghệ mở rộng ra, cho nó đúng đắn.
 - Một cuộc sống sáng tạo. Cái cũ thì trút ra. (…)
24/12: Đêm Noël (…) Bước quanh Bờ Hồ. Trời tôi tối. Còn vẳng tiếng hát micro nhà thờ buông trầm trầm. Hai thằng đi. Tôi và Lê Đạt. Buồn quá. Đây là những lúc người tôi hẫng lắm. Rỗng lắm. Tôi còn đầy dư vị những câu chuyện trao đổi đêm nay về chính sách văn nghệ.
 Dư vị chua, đắng, nhạt thếch”[24].
Như vậy, những cuộc thảo luận đổi mới văn nghệ đã xẩy ra từ Noël 1955, trong không khí chán nản, “dư vị chua, đắng, nhạt thếch” như lời Trần Dần.
Không khí này được Từ Bích Hoàng mô tả trong bài buộc tội Trần Dần, như sau:
 “Từ Trung Quốc về, Trần Dần còn mang theo một bài thơ dài “Tiếng trống tương lai” trong đó Trần Dần gọi cán bộ chính trị là “người bệnh”, “người ròi”[giòi], ”người ụ”. Đó chỉ có thể là cách nhìn của bọn thù địch đối với cán bộ của Đảng. Đủ biết sự hằn học của Dần lúc bấy giờ đã nặng đến thế nào! Không ngạc nhiên khi thấy Dần mới bước về Phòng Văn nghệ Quân đội đã đả kích luôn lãnh đạo, rồi nhân một số thắc mắc của anh em về công tác, Dần lợi dụng phát động từng người và biến thành một cuộc đấu tranh đối lập với lãnh đạo, lấy “áp lực quần chúng” hòng buộc lãnh đạo phải chấp nhận những yêu sách thoát ly chính trị, thoát ly quân đội như ta đã biết. Chính Trần Dần đã thú nhận tính chất hoạt động này của họ.
Cục Tuyên Huấn bảo anh em nghiên cứu lại bản đề nghị, Dần không chịu, bỏ mặc và phá phách ngày một dữ hơn. Dần lôi kéo được một số phá phách theo mình. Trần Công quá khích ăn nói lung tung: “Sống trong vòng K.50 (ý nói trong doanh trại, bên ngoài có bộ đội gác) nghẹt thở quá!” Những luận điệu vô kỷ luật này rất phù hợp với chủ trương “phải phá mà ra” của Trần Dần và mở đường cho bọn Dần càng đi sâu vào cạm bẫy của tư sản”[25].
● Trần Dần, Người-phá, Anarchiste
Ngày 10/3/55 Trần Dần ghi trong nhật ký:
“Chính sách tính lại thử xem có những gì? – Vài cái bàn. Vài cái đèn điện lạnh và vàng. Thêm một bàn hành chính. Tờ báo ra nhưng khổ và tên SHVN[26]cũ. Người ta sợ đổi khổ là tính chiến đấu của nó [cũng đổi đi]. Có vậy thôi. Tôi không nói ngoa. Người ta quan niệm chính sách là như vậy. Đấy. Cái thông minh của người lãnh đạo năm 1955 tới cái mức ấy. Vậy là quá đáng lắm rồi. Còn đòi hỏi cái gì? Văn nghệ được thế là “chiếu cố”, là “châm chước” tột độ rồi. Đáng lẽ chúng mày không có bàn, có điện, có báo nữa. Đáng lẽ chúng mày không được thức khuya hơn 9 giờ. Không được ra ngoài trại. Đằng này còn cho đi lại một chút. Vậy là rộng rãi lắm rồi còn gì!
Nhưng tôi nghĩ, những ông Cương[27] ông Thanh[28] gì đó không đáng trách (…) Đáng trách là cả một cái HỆ THỐNG! Nó nặng như núi… Nó ở trên có, ở dưới có. Ở ngang có. Đằng trước, đằng sau đều có nó. Hệ thống gì? Đó là hổ lốn: sợ hãi cúi đầu, làm thân con sên, con tầm gửi, -hò hét mệnh lệnh, làm ông sấm, ông sét. Đảng ở đâu? (…) Tôi nghĩ và tôi làm: Đảng ở tôi. Tôi phá HỆ THỐNG. Làm sao tới Hội Nghị Văn Thơ tôi phải làm được một số việc: vượt khỏi các ước lệ, điều lệ, thành kiến mà làm bằng được. (…) Độ này có hai chiến trường khá sôi sục:
1) Vượt Côn Đảo
2) Thơ Tố Hữu
Tôi thích những cuộc tranh luận này. Không phải vì bản thân những quyển sách và những tác giả ấy. Mà vì ý nghiã nó rộng ra nhiều mặt khác. Phát huy phê bình tự do (…) Tại sao bọn giả mạo được tin hơn người thực thà? Tại sao loài bò sát lại được dùng nhiều. Tại sao chúng nó có mặt ở thời đại này? Ở trong Đảng? Ở cách mạng?- Lạ lùng nhất là tại sao không vạch mặt chúng ra? Văn thơ tôi sẽ balayer bọn ấy. Quét! Quét! (…) Tất cả những cái gì, nguyên tắc gì trở ngại cho nguyên tắc lớn của tôi là tôi xoá hết! Mặc! Tôi chỉ còn một nguyên tắc mà thôi! Sống và viết để đánh bọn giả mạo, bọn ỳ ạch, bọn mốc xì, bọn người-bệnh, bọn người-dòi, bọn người-ụ. Anarchiste? Nếu vậy gọi là anarchiste thì tôi rất muốn là anarchiste (…) Tôi không có khả năng công chức, khả năng người-ụ. Khả năng tôi là khả năng người-phá.”[29]
Chủ đích của Trần Dần rất rõ: Làm Người-phá, phá toàn bộ HỆ THỐNG trói buộc văn nghệ sĩ. Trần Dần xác định mình là Anarchiste và ông đã dịch chữAnarchiste rất tài tình thành Người-phá[30]. Văn nghệ sĩ thường hay có thái độanarchiste. Trần Dần thực hiện tinh thần Người-phá, phá cái HỆ THỐNG, cái cơ chế toàn trị áp đặt lên Văn nghệ sĩ, qua ba “chiến trường”: Đề nghị cải tổ Chính sách Văn nghệ Quân đội. Phê bình tập truyện Vượt Côn Đảo của Phùng Quán. Phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Ba “mặt trận” này diễn ra song song, từ tháng 2 đến tháng 5/55 trong quân đội, do Trần Dần và Tử Phác cầm đầu[31].
Từ Bích Hoàng viết: Lúc đó, Tử Phác đang làm thư ký toà soạn tờ Sinh Hoạt Văn Nghệ, Tử Phác đã lợi dụng tờ báo của quân đội để Dần nổ ra hai cuộc phê bình Vượt Côn Đảo và tập thơ Việt Bắc, với một dụng ý rất xấu. Trần Dần “bốc” thơ Hoàng Cầm lên để đẩy Cầm cùng mình và Lê Đạt đả tập thơ Việt Bắc, thông qua tập thơ đó đả vào đồng chí Tố Hữu lãnh đạo văn nghệ, “hạ thần tượng” như bọn Dần đã nói. (…) Suốt thời gian này, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm và cả Lê Đạt, luôn luôn bỏ việc đến tụ họp rượu chè trai gái ở nhà tư sản, đầu độc cho nhau những luận điệu phản động (…) Bọn họ bàn nhau “tập trung giải ngũ” để bắt bí lãnh đạo. Thấy không xong, lại bàn “phân tán giải ngũ”. Bọn họ đã thực hiện chủ trương này. Trần Dần đi tiên phong làm một lúc hai lá đơn xin ra Đảng, quân đội, có tính chất tấn công vào Đảng, quân đội như ta đã biết. Chính những hoạt động chống đối của Trần Dần, Tử Phác và sự hùa theo càng ngày càng có ý thức của số người kể trên đã gây tình trạng rối loạn hoàn toàn, một thời gian, trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội, cầm đầu hồi này là Trần Dần và Tử Phác”.[32]
● Bản đề nghị cải tổ chính sách văn nghệ quân đội
Tháng 2/55: Trần Dần viết bản Đề nghị Chính sách Văn nghệvới sự góp ý của Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, bài dài 12 trang đánh máy, được đưa ra thảo luận, điều đình, thêm bớt, trong các cuộc họp của Phòng Văn Nghệ Quân Đội từ tháng 2 đến tháng 4/55. Vũ Tú Nam, cháu tướng Nguyễn Chí Thanh, được ông Thanh giao toàn bộ hồ sơ Trần Dần (gồm bản Đề nghị, thư xin ra Đảng, thư xin giải ngũ, thư cầu cứu sau khi bị bắt lần thứ hai, phải lập mưu cứa cổ để thoát, vv…) để có đủ tài liệu viết hai bài:
- Bài Những ngày thử thách, nhật ký chép lại ngày 25/10/2006[33]. Nếu bài này chép đúng sự thật, thì Vũ Tú Nam và Từ Bích Hoàng lúc trước đã ở cùng nhóm với Trần Dần. Nhưng theo băng Hoàng Cầm, Vũ Tú Nam chống lại từ đầu. Vậy bài này có thể đã được sửa lại như nhiều “nhật ký” hoặc “hồi ký” xuất hiện gần đây.
- Bài Sự thực về con người Trần Dần, in trên Văn Nghệ Quân Đội, năm 1958[34] là tài liệu gốc, chưa bị sửa, tuy viết với mục đích “đánh”, nhưng có nhiều thông tin đáng tin cậy về con người Trần Dần, về nội dung bản Đề nghịcải tổ. Sự trích dẫn dài rộng của Vũ Tú Nam có thể do thiện ý muốn để lại dấu vết bản Đề nghị cho mai sau. Vũ Tú Nam viết:
“Cuối năm 1954 sang đầu năm 1955, các đồng chí trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội đều thắc mắc muốn cải tiến tổ chức, chính sách cho hợp với tình hình mới, muốn đề đạt lên cấp trên nghiên cứu, giải quyết. Trong một cuộc họp với đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Trần Dần hùng hổ yêu sách mấy điểm, tự ý thêm thắt, không thật trung thành với những điều đã bàn với một số anh em trong Phòng:
1- Trả lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ.
2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên huấn và Tổng cục chính trị.
3- Bỏ mọi “chế độ quân sự hiện hành” trong văn nghệ quân đội…
Nghe xong, đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ ra, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và một vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ. Tháng 2/1955, trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội có tình trạng lỏng lẻo, rã rời, buông thả đến cao độ. Có đồng chí phải thốt ra lời than thở “Anarchie totale!” (Vô chính phủ hoàn toàn)[35]. Trần Dần vẫn được tín nhiệm giao cho công tác phụ trách Ban Văn, chuẩn bị triệu tập hội nghị ngành Văn toàn quân vào tháng 4/1955. Bản báo cáo do chính Trần Dần viết (tháng 2/1955). Vì tư tưởng cán bộ trong Phòng Văn nghệ lúc đó lệch lạc nhiều, vì nội dung bản báo cáo có nhiều điều nguy hiểm, Cục tuyên huấn quyết định đình việc chuẩn bị cuộc họp ngành Văn lại, Trần Dần càng bất mãn, càng u uất hơn”[36].
Về Nội dung bản Đề nghị cải tổ, xin trích lại những đoạn đã được Vũ Tú Nam trích, những chỗ in đậm là do chúng tôi nhấn mạnh:
1- Về trách nhiệm của người cầm bút, Trần Dần viết: “Biểu hiện cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm… Tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, – vừa là lập trường, – vừa là phương pháp làm việc của người viết”.
2- Thế nào là sự thực đối với một nhà văn? Trần Dần viết: “Thế nào là trung thành với sự thực? Đầu tiên, sự thực là gì?”, “Có sự thực của vũ trụ, của lịch sử, của thế giới, của cách mạng. Lại có sự thực trong nước, từng địa phương, -từng ngành, từng giới, từng nghề, từng gia đình và từng người một nữa. Trong mỗi người cũng lại có triệu vấn đề, mỗi vấn đề là một sự thực (…) Tức là: những vấn đề, hiện tượng của xã hội, của con người là sự thực.”
3- Nhà văn phải phục tùng sự thực hay phục tùng chính sách, chỉ thị, phục tùng tuyên huấn? Trần Dần trả lời: “Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào… Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách. Không bao giờ được biến chính sách, chỉ thị thành định kiến “đinh ninh” (…) Người viết chỉ viết do thôi thúc của thực tế. Những chân lý lớn, nhỏ, anh ta tự giác thấy ở cuộc sống, ở quân đội. Không phải viết để vừa lòng Tuyên huấn, vừa lòng cấp trên. Để có cái danh phục vụ kịp thời. Một triệu lần, không có mùi mè giác ngộ, phục vụ gì cả! Cái áo không thể che được mùi thối trong ruột. Cách mạng không cần những người vỗ tay hoan hô nhắm mắt. Những anh hót ca chính sách. Thậm chí những anh “thày cúng chính sách”, leng keng bóp méo, nghèo nàn. (…) Liệu cứ viết như một anh thày cúng ê a căm thù yêu nước xông lên, có phải là trách nhiệm không?”
4 – Trần Dần mô tả bộ mặt thực của văn học kháng chiến: “Có thể nói văn chương hiện nay nhiều cái giả tạo (giả trá nữa). Gọi đúng tên nó là chủ nghiã công thức, giản đơn, sơ lược. Tức là người viết đặt ra một cái khuôn nhất định, rồi gò ép mọi sự thực vào đó.
“Tả anh hùng chả hạn thì là: căm hờn, vào bộ đội rồi anh dũng lập công. Đối trên thì phục tùng kỷ luật (…) Lệnh gì là làm ngay không thắc mắc, hoặc có thắc mắc thì phê bình sau (…) Đối bạn thì giúp đỡ, thân ái phê bình, ai ai cũng mến (có người nào như vậy không?) Đối với đảng thì mở mồm là biết ơn. Đối với dân thì yêu mến giúp đỡ. Đó là cái khuôn cho anh hùng. Cái kiểu anh hùng không khuyết điểm (…) ấy thực chất là kiểu iêng hùng gì? Có mùi mè gì của người anh hùng quần chúng không? Có mùi mè gì của nhân văn chúng ta không? Và có thực như vậy không? (…) Vậy mà qua cái khuôn trên kia dập ra thì thành ngòi bút, chậu thau giống nhau cả. Thật là lối sản xuất kỹ nghệ định đem vào sản xuất con người và sản xuất nghệ thuật!
“Tại sao không viết về cơ quan chẳng hạn? Tại sao sợ viết về tình yêu chẳng hạn? Mà viết tình yêu thì y như đưa ra ái tình hy sinh vì Tổ quốc!… Tại sao cứ xuất thân công nông mới đáng viết? (…) Ngày nay, trong văn chương, kẻ thù ghê tởm là chủ nghiã công thức, giản đơn sơ lược. Phải nói trắng ra là nó ở cả người viết, ở cả xã hội (…) Thực thà chỉ có một con đường: Đấu tranh tàn khốc với chủ nghiã công thức giản đơn sơ lược trong bản thân và chung quanh”.
Sau cùng Vũ Tú Nam cho biết: “Bản báo cáo Trần Dần viết, không được Cục Tuyên Huấn thông qua, và cuộc họp ngành Văn Thơ toàn quân phải đình lại. Trần Dần càng bất mãn, gây gổ, thường thường bỏ doanh trại bộ đội ra ngoài phố ở, giao du rộng rãi, tự do”[37].
Theo Hoàng Cầm, thì ban đầu đã có nhiều ý kiến thuận của Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội (có thể là ba vị tướng lãnh cao cấp trong Tổng Cục ChínhTrị lúc bấy giờ: Lê Liêm, Lê Quang Đạo và Trần Độ). Hoàng Cầm kể lại không khí buổi họp mang tính quyết định, như sau: “Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày.(…) Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:”Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…” Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:”Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!” Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang”[38].
Người nói câu đó là Tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
 Vũ Tú Nam xác định: “Nghe xong, đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị[39]“.
● Phê bình Vượt Côn Đảo
Theo Vũ Tú Nam, có ba buổi phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán:
“7/3/1955: Chiều thứ bảy, mình [Vũ Tú Nam] và Dần … xin phép không họp chi bộ để đi thảo luận về Vượt Côn Đảo. Ông Tú Mỡ hoàn toàn khen. Mình nói lại rằng Vượt Côn Đảo có những nhược điểm. Anh em bộ đội nói nhiều nhất. Ra về, mình dồn anh Lưu Trọng Lư rằng lãnh đạo cần phải thay đổi, quan liêu và trì trệ quá”.
“14/3/1955: Tranh luận về Vượt Côn Đảo lần ba ở trường Nguyễn Trãi, vì CLB Đoàn Kết mắc bận. Họp tới 11 h, vẫn găng hai ý kiến. Trần Dần phê phán: “Nhân vật trong Vượt Côn Đảo là người cụt đầu, không óc không tim”(?!). Ông Hoài Thanh phát biểu trân trọng về cuốn sách. Lê Đạt rất bốc”[40].
Qua những lời này, thì Vũ Tú Nam cùng lập trường với Trần Dần, khác hẳn với luận điệu trong bài Sự thực về con người Trần Dần viết tháng 3/1958. Vậy đâu là sự thật?
Theo Hoàng Cầm trong băng ghi âm:
“Vượt Côn Đảo là một cuốn sách hấp dẫn, khen thì khen lên chín từng mây như bài của các ông Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư… Trên báo Văn Nghệ, ông Hoài Thanh ca ngợi Vượt Côn Đảo một cách quá đáng, thì ông Trần Dần, báo Văn[41]bên này, mới quật lại bằng một bài, đầu đề to tướng: Bạn đã đọc kỹ Vượt Côn Đảo chưa? Bài báo hấp dẫn lắm, Trần Dần trích những câu non nớt của Phùng Quán ra phân tích, cũng chả đụng gì đến các ông Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, mà chỉ vạch ra cái non kém của Phùng Quán thôi. Phùng Quán nói: Anh đánh em đau quá Trần Dần chỉ cười. Tôi bảo: Trong văn chương được một người đàn anh đánh như thế là tốt, để cậu học tập, có đau mới tiến bộ được. Tất nhiên Phùng Quán nó không giận lâu”[42].
phungquan5
Phùng Quán
Lúc đó, Trần Dần, chủ trương phê bình tự do, chống lại sáng tác ca tụng, có ý đưa hai cuốn sách tiêu biểu của văn học cách mạng ra để phê bình. Văn xuôi làVượt Côn Đảo của Phùng Quán và thơ là Việt Bắc của Tố Hữu. Phùng Quán nổi tiếng với tác phẩm đầu tay, viết theo lối văn tuyên truyền, bán rất chạy, trong vòng một năm tái bản bốn lần: Tiểu thuyết Vượt Côn Đảo[43] ca tụng sự can trường của các chiến sĩ cộng sản tổ chức vượt ngục Côn Đảo.
Trần Dần chủ trương viết về bất cứ điều gì, cũng phải viết sự thực, tự phê cuốn Người người lớp lớp của mình trong nhật ký như sau: “Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi ít thấy sự thực của bản thân tôi trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh, chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: “Anh đã thấy” (Mes douleurs) trên dưới có 6 trang!”[44]
Trước Nguyễn Minh Châu 30 năm, Trần Dần đã đòi hỏi nhà văn phải viết sự thực về chiến tranh một cách quyết liệt và toàn diện: viết sự thực không tô hồng, không nói dối, không nặn ra những anh hùng giả, toàn tim, không óc.
Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần đi Trung Quốc. Khi trở về sách đã in, nhưng Hội Văn Nghệ đánh mất bản thảo Người người lớp lớp (phần 4 và 5)[45]. Như vậy cuốn sách đã in không có phần 4 và 5. Có nghĩa là 2 phần này tác giả viết “không đúng đường lối” chăng?
Chính Trần Dần, cũng không bằng lòng với cách viết của mình, cho nên quaVượt Côn Đảo, ông muốn phê phán cả một tầng lớp nhà văn chính thống, từ Nguyễn Đình Thi trong Xung kích, Vỡ bờ đến cách Hoài Thanh, Xuân Diệu nhắm mắt ca tụng Việt Bắc của Tố Hữu. Lý do thứ hai, vì Phùng Quán là đàn em, cho nên việc phê bình sách của Phùng Quán cùng với sách Tố Hữu, chứng tỏ họ “không bè phái”, chê cả người trong nhóm.
Trần Dần phê bình Vượt Côn Đảo như thế nào?
nguyên ngọc
Nguyên Ngọc
 
Nguyên Ngọc viết:
“Bấy giờ Phùng Quán còn choáng mắt lên vì sự thành công của mình. Quán đang tin ở tài năng của mình và chưa kịp bình tĩnh suy nghĩ gì về những nhược điểm, khuyết điểm còn lại. Thì giữa lúc đó Trần Dần viết bài “Bạn đã đọc kỹ Vượt Côn đảo chưa?” đăng trên tạp chí Sinh Hoạt Văn Nghệ ra ngày 1/4/1955.(…) Trần Dần lật ngược tất cả những nhận định trước nay về Vượt Côn đảo, thẳng tay đập tơi bời cuốn sách đầu tay đó của Phùng Quán. Trần Dần nhận định:
Về cốt chuyện “tinh thần chung của nó là hỏng. Mới xét qua cốt chuyện đã thấy nó là một quyển sách ca tụng chủ nghiã anh hùng cá nhân, ca tụng kiểu quân sự bạo động, tình cảm sốc nổi và phiêu lưu”. Về nhân vật trong chuyện: “về nhân vật quần chúng thì tôi không hiểu tác giả mắc bệnh gì mà mỗi khi tả quần chúng thì tả họ ngây ngô… cái nhân vật quần chúng đã bị bôi nhọ quá nhiều”.
Về những nhân vật khác, Trần Dần cho là: “tác giả đưa lên những người toàn tim cả mà không có óc. Hay chỉ có một chút xíu”. Nói về cái chết của những người anh hùng trong tác phẩm của Phùng Quán, Trần Dần viết một cách vô lương tâm: “Tôi đã không khóc mà lại còn muốn nói rất nhiều về những cái chết mù quáng như vậy. Không phải cứ mang cái chết ra mà cảm động được chúng ta đâu!… Tôi không rỏ một giọt nước mắt nào cho những con người chết như thế. Đó là cái chết của những con người khờ dại… đảng viên ấy không phải là đảng viên, chiến sĩ ấy không phải là chiến sĩ…” (…)
Suốt cả bài ấy Trần Dần dùng một lối văn đả kích bằng cách chơi chữ, lập lờ, một thứ “thủ đoạn văn chương” mà sau này ta đã tìm thấy lại trên báo Nhân Văn, trong các tập Giai phẩm và Đất Mới của nhà xuất bản Minh Đức. Ví dụ chê một chỗ tác giả đưa lên một khó khăn quá ngây thơ, Trần Dần viết: “lần này là khó khăn con chó”.
Một tháng sau Lê Đạt cũng viết một bài phê bình Vượt Côn đảo (Sinh Hoạt Văn Nghệ, số 39 ra ngày 19/5/1955) ý kiến không có gì khác Trần Dần lắm. (…)
Sau khi đã đập Phùng Quán tơi bời bằng một bài phê bình trên báo, sau khi đã làm cho Phùng Quán hoang mang suy nghĩ về tài năng, về trình độ mọi mặt của mình, Trần Dần lại nói riêng với Phùng Quán: “Tao đập là đập bọn chúng nó ngu dốt không biết gì chứ có phải đập mày đâu”. (…) Thế là Trần Dần hoàn thành cái thủ đoạn của mình một cách khôn khéo, bắn một phát trúng nhiều mục tiêu: qua phê bình Vượt Côn đảo mà thoá mạ những chiến sĩ cộng sản, qua Phùng Quán mà chửi quần chúng là ngu dốt, tâng bốc Phùng Quán, đưa Phùng Quán đến chỗ đối lập lại quần chúng độc giả và lãnh đạo, lôi kéo Phùng Quán. Trần Dần đã thành công trong việc đó thật”[46].
 ● Phê bình Việt Bắc
Phê bình tập thơ Việt Bắc là ngòi nổ công khai đầu tiên của phong trào NVGP. Việt Bắc của Tố Hữu được tôn sùng như cuốn “thánh kinh” của văn học cách mạng. Từ khi tác phẩm ra đời cuối năm 1954 cho đến ngày nay, bao nhiêu giấy bút đã dành cho sự ca tụng nó. Hiếm có nhà phê bình nào, dám viết một câu phạm thượng về Việt Bắc. Đúng như Lê Đạt nhận xét: “Ở Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ”[47]. Sở dĩ việc phê bình thơ Tố Hữu, không chỉ khép kín trong các buổi họp nội bộ quân đội, mà thoát ra ngoài, nhờ hai người: Tử Phác, thư ký toà soạn báo Sinh Hoạt Văn Nghệ, tung trên Sinh Hoạt Văn Nghệ trước. Rồi Lê Đạt, phụ trách Văn Nghệ, đưa lên Văn Nghệ sau.
Vũ Tú Nam viết:
“Ngày 4/3/1955, nổ ra cuộc họp đầu tiên tranh luận phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần gọi thơ Tố Hữu là “tí ti la haine, tí ti l’amour” (tí ti căm thù, tí ti tình yêu) một cách hằn học, đểu cáng. Ngày 7/3/1955, bắt đầu tranh luận phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Trần Dần gọi những chiến sĩ Côn Đảo trong truyện là những “người cụt đầu”, “toàn tim”, mù quáng (…) Bài phê bình Vượt Côn Đảo của Trần Dần lệch lạc nguy hiểm như vậy, nhưng cũng có một số đồng chí trong quân đội không nhận ra, viết bài hưởng ứng. Cuối tháng 3/1955, khi duyệt những bức thư bạn đọc chung quanh việc phê bình Vượt Côn Đảo để in báo Sinh hoạt Văn nghệ, Cục Tuyên huấn quyết định bỏ bớt một số bài tán thành Trần Dần. Lúc này, Trần Dần phản ứng rất mạnh, gọi lãnh đạo là “répression policière!” (đàn áp kiểu cu-lít). Và đầu tháng 4/1955, mượn cớ đau óc, Trần Dần xin nghỉ dài hạn, bỏ công tác, bỏ doanh trại bộ đội, tự tiện ra ngoài phố ở.”[48]
tohuu
Tố Hửu
 
Về không khí các buổi phê bình thơ Tố Hữu, Vũ Tú Nam ghi trong nhật ký, như sau:
5/3/1955: Tối qua, tranh luận về thơ Tố Hữu ở Cửa Đông, anh Nguyễn Chí Thanh tới (…) anh em đông lắm, cả Hồ Dzếnh. Hoàng Yến trình bày vấn đề “khả năng hiện thực trong thơ Tố Hữu – Tố Hữu có tiêu biểu cho thời đại không?” Trần Dần, Lê Đạt nói bốc nhất. Hoàng Trung Thông, Nguyễn Xuân Sanh ngồi ghi mà không nói gì. Tố Hữu không tới, Xuân Diệu không tới.
8/4/1955: Đêm 7-4, phê bình thơ Việt Bắc ở 51 Trần Hưng Đạo đến 12 h khuya. Dần tâm sự khi anh đi xe đạp có hai bộ đội theo dõi (?). Tối vào nhà bạn, lúc ra Dần bị bộ đội giữ mấy tiếng. Mình báo cáo sự việc với chi ủy. Trần Việt nói: Dần vào 69 Quán Thánh, nhà Hoàng Cơ Bình cũ, nên có thể bị theo dõi.
15/4/1955: Đêm qua, thảo luận về thơ Việt Bắc đến 12h đêm. Hoàng Yến, Trần Dần, Hoàng Cầm nói gay gắt. Trương Tửu tranh luận rất phản khoa học. Huy Cận ngồi im. Tạ Hữu Thiện nói nhiều suy diễn, ví dụ cho đoạn nào là giống Kiều… Hoàng Cầm dẫn thơ Hồ Xuân Hương để chứng minh “chất sống” và “hồn thơ” của nữ thi sĩ.[49]
Trong bài Cách nhìn sự vật của nhà thơ Tố Hữu, viết tháng 5/55, Trần Dần viết: “Nói chung thơ Tố Hữu có rất nhiều cái lười biếng. “Ý lời tầm thường (…), rất nhiều cái kiểu “lòng ta xao xuyến, rung rinh”, – “chúng bay chỉ một đường ra, một là tiêu diệt hai là tù binh”, – hoặc “đời vẫn ca vang núi đèo”, hoặc “Cụ Hồ sáng soi”. Không phải là thiên lệch trích ra một số câu như vậy, hãy đọc lại cả tập Việt Bắc xem, ta thấy nhan nhản những lối lười, nhạt, cả lảm nhảm nữa (…) Phá đường: “Nhà neo việc bận vẫn đi” – làm thì thi đua -, thi đua kết quả thì rồi mai địch chết. Ta đi tới: đủ cả Bắc Nam, Việt, Miên, Lào, Itsala, Itsarắc… xem ra thì có vẻ đúng chính trị. Nhưng xét sâu xem? (…) Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao… Tố Hữu chưa đem tới một cái nhìn mới mẻ gì.[50]
 Tiễn đưa Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang ghi sổ tang:
 “Lần đầu gặp anh trong cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc, đến nay dù hơn bốn mươi năm, biết bao là gian nan, trong những cố gắng chung để tìm cho văn nghệ Việt Nam một con đường phát triển thuận lợi nhất. Đúng hay sai, hôm nay tôi vẫn chưa dám khẳng định… Dù sao thiện chí của chúng ta chỉ có kẻ ác ý mới cố tình phủ nhận.
Tiễn đưa anh về cõi vĩnh hằng, có lẽ tôi chỉ có thể nhắc lại cùng anh vế đối của Ngô Thì Nhậm nói cái lẽ tất yếu: Gặp thì thế, thế thì phải thế. (…)
 Cả nước biết lúc nào anh cũng có tư tưởng Nhất định thắng, dù cho ý chí ấy anh không đạt được thì cũng vẫn là phẩm giá cao đẹp của một con người”[51].
 
● Trần Dần ghi
Về NVGP, có những sự việc đã bị chôn sống, tưởng rồi sẽ tan trong lòng đất. Có những sự thực đã bị bóp méo đến độ dị dạng. Trong hơn nửa thế kỷ, người ta đã quen sống với những quái thai dị đạng đó: những xuyên tạc, bôi nhọ được đề cao như những chân lý. Ngờ đâu, những con chữ trong hòm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện mình. Tập Trần Dần ghi 1954-1960[52] là một trong những tư liệu hòm, tự khai, tự quật. Tác phẩm mở ra những dòng chữ đầu tiên để lấp những trang còn trắng về một thời kỳ văn học sử, còn chưa được biết, còn chưa được viết.
Tập Trần Dần ghi 1954-1960 thực chất là ba quyển sách gồm một: Phần đầu tích lũy những suy nghĩ về sáng tạo. Phần thứ nhì, tác giả quay lại chiến dịch đấu tố với những hình ảnh khủng khiếp kinh hoàng. Phần thứ ba, viết về cuộc sống cải tạo trong những năm kỷ luật. Với một lối viết tốc ký, ngắn gọn, thể hiệnmỹ học khổ đau của Trần Dần.
 Chuyện cải tạo sau Nhân Văn, nằm trong lối tốc ký ấy:
“9/9/58 (…) Ðêm, tôi thiếp đi trong mộng ác. Tay mưng, đau nhất là ở những chỗ đã thành chai mà lại mưng tái lại. Mọi bắp thịt suốt đêm lọc acide, và chôn cất những tế bào chết vì lao lực quá sức… Lục đục suốt đêm như vậy trong toàn bộ xác thịt tôi.
 10/9/58 (…) Gió khiếp quá. Hàng sư đoàn gió bấc trèo qua núi lúc nào đổ xuống đồng cỏ. Suốt buổi sáng, mùa hè bị đánh tan nát. Nắng bị gió may thổi mát đi, nguội lửa.
Gió tốc mái, rứt mấy lá gồi chuồng bò. Cây cành bị túm tóc, vật vã kêu gào, gió vẫn không tha. Các tàu chuối bị tước xơ ra. Có tàu rách mướp, trông hệt một con rết xanh khổng lồ, hàng nghìn chân xanh ngọ ngoạy điên cuồng, cào trong không khí, cái đuôi nó bị giữ rịt ở thân, nó lồng lộn ngang ngửa, không thoát. (…)
Các nón lá bị gió nó hất chụp mặt. Nó kéo ra sau, quai nón xiết cổ như thừng thắt cổ! Bụi phả vào mắt chúng tôi, chưa dụi xong, gió đã ném thêm. Bọn tôi đào gốc, đã nhọc, còn bị lũ gió may kia trêu chọc. Nó đùa dai chứ… Có lúc tôi cuốc đất, mắt nhắm tịt, một anh mù làm việc”[53].
Về những ngày sôi động sau 2 cuộc Chỉnh huấn ở Thái Hà ấp, 16/4/1958, Trần Dần ghi:
“Hiện nay Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Minh Ðức đã bị bắt, chẳng bao lâu sẽ ra tòa. Báo chí vẫn tiếp tục diệt đánh Nhân Văn Bộ 6 Giai Phẩm Mùa Xuân[54]. Bộ 6 đã buông nhau ra. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm cũng ô-rơ-voa[55]nhau hết (…) Sỹ Ngọc đóng cửa, miễn tiếp khách. Bản thân tôi, do chỗ đã tự giác đình bản tư tưởng thù địch (thứ tự giác kết quả của áp lực…) nên mọi mặt khác, tôi cũng đình bản cả giao du, đình bản cả việc viết lách. Có nên đi gặp những đồng chí lãnh đạo để hỏi những việc cần phải làm không? Ði thì lại sợ bị hiểu lầm. Nhưng nếu ngồi nhà, tiêu cực đợi, có khi còn bị hiểu lầm gấp bội. (…)
Bọn Ðang – Minh Ðức – Thụy An thân thì bị cầm tù, tội ác thì đem bêu đầu trên báo chí. Vai trò của bọn chúng trong các vụ phá hoại 3 năm đang được vạch trần. Phan Khôi thì đóng cửa, nằm khàn, không đọc báo. Trương Tửu, Trần Ðức Thảo làm gì? Còn cả loại B chúng tôi hiện ra sao? Làm gì? Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đang tiếp tục kiểm thảo ở cơ quan, cùng với những Quang Dũng, Trần Lê Văn, v.v…
Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một mảng thịt của mình.(…) Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ (…) Tôi vừa là một tội nhân, vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn”[56].
Những người nhân văn ấy, đã phải nhận tội, phải “cắt bỏ những mảng thịt của mình”, phải tự chửi rủa mình, phải tìm gặp lãnh đạo, phải tố cáo bạn bè để xin một chút ơn huệ thừa, nhưng rồi cũng không ai thoát được guồng máy, không ai tránh khỏi bị “ninh nhừ”.
Con người nhất định thắng ấy, sau trận Thái Hà, đã thua, đã hàng, đã nhận tội, đã ly khai những lý tưởng ngày trước, đã phải đứng về phía bên này, để nhìn “bọn” bên kia: gồm những “tên thủ lĩnh chủ nghiã xét lại” Nguyễn Hữu Đang, “tên phá hoại” Minh Đức, “con mụ gián điệp” Thụy An…, đã xuống đến nấc thang cuối cùng của sự “giẻ rách hoá” con người.
10/12/ 59, Trần Dần ghi: “Sớm mai tòa án xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Ðang phá hại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự, có lẽ vì không có vị trí gì ở đó. Không phải là nhân chứng, cũng không phải là đại biểu của nhân dân…
Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Ðang cầm đầu. Tôi đã ly khai với “lý tưởng” đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ “Đúng” mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa không? Đang đã nhìn thấy cái sai lớn của Đang chưa?(…)
Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Ðôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Ðang ra tòa cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ “Ðúng” mới nhiều máu làm sao!”[57]
Từ lâu “ghi trở nên một hình phạt”. Nhưng vẫn ghi.
Cuốn sổ 1958, ghi lại con đường của những người muốn ngoi lên để đi đến chỗ “Đúng”. Ai cũng muốn tìm một đường “máu” để thoát thân: biết đâu Đảng chả đoái thương mà nghĩ lại? Phương tiện nào cũng tốt kể cả “khai”. Cả “tố”.
Bao nhiêu khuôn mặt đã bước trên con đường “nhiều máu “ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã vo ve sự “Đúng” ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu tên tuổi đã đạt được sự “Đúng” ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã “Sai.” Trần Dần ghi.
Cả đúng lẫn sai đều lầm than, đều tiến dần tới tha hóa. Họ tan tác cả. Họ chia tay. Có những oán hận, căm thù. Chính quyền đã thành công trong sự “giẻ rách hoá” con người, như lời Lê Đạt.
Thành công lớn nhất của guồng máy là đã đánh vào những yếu tố thiêng liêng nhất của con người: đánh vào tình bạn, tình người, đánh tan tác hết.
Những người nhân văn không chết, nhưng họ bị rút máu, rút gân, rút dần sinh lực. Họ đều rời rã, đều muốn hàng. Nhiều người đã đầu hàng, trong đó có Trần Dần. Họ muốn được lãnh đạo thương xót, họ muốn được lãnh đạo đoái hoài. Họ đã xuống đến đáy vực, họ chịu hết nổi. Họ sẵn sàng “chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa” nhưng người ta vẫn lạnh lùng quay đi. Người ta vẫn không cho ngoi lên. Cái phận người nhỏ nhoi. Phận người nhân văn bị sa lầy, lún xuống, trong thời không nhân văn của dân tộc mình. Câm và điếc. Như đã chết.
Và điều đó chỉ có mỹ học khổ đau của Trần Dần mới viết nên được.

[1] Em ruột Vũ Hoàng Chương.
[2] Tác phẩm của Đinh Hùng.
[3] In trong Thơ Mới 1932-1945, Lại Nguyên Ân sưu tập, Hội Nhà Văn, 1999, phụ lục, trang 1395.
[4] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.
[5] Vũ Tú Nam, bđd.
[6] nxb Quân Đội Nhân Dân, 1954.
[7] Nhật ký Trần Dần ghiPhạm Thị Hoài, biên soạn, Văn nghệ California, 2001.
[8] Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, hồi ký, chép lại 25/10/2006 (tạp chí Nhà Văn số 3/2007), mạng Talawas.
[9] Vũ Tú Nam, hồi ký, bđd.
[10] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần.
[11] Vũ Tú Nam, hồi ký, bđd.
[12] Nhật ký Trần Dần ghi.
[13] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.
[14] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.
[15] Trần Dần ghi.
[16] Theo lịch trình sau:16/11/46, Tự vệ Hải Phòng được lệnh chuẩn bị chống Pháp. 30/11/46, xung đột ở Đồ Sơn. 7/12/46, Võ Nguyên Giáp ra lệnh sửa soạn tấn công. 8/12/46, Hà Nội đào hầm, đục tường xuyên nhà nọ sang nhà kia. 10/12/46, Hà Nội bắt đầu tản cư. 20/12/46, lệnh kháng chiến từ Hà Nội, ban hành ở Nam Bộ.
[17] Đạo diễn Trần Vũ nói trong Chương trình tưởng niệm Trần Dần trên RFI, tháng 1/1997.
[18] Hồ Phương, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, Tác Phẩm Mới, 1987, trang 140.
[19] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.
[20] Hoàng Cầm, Con người Trần DầnNhân Văn số 1, 20/9/1956.
[21] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, bđd.
[22] Hoàng Cầm, bđd.
[23] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[24] Trần Dần ghi, trang 63 và 65.
[25] Từ Bích Hoàng, Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số cầm đầu trong nhóm phá hoại Nhân Văn Giai Phẩm, VNQĐ, số 5, tháng 5/1958.
[26] Tức là tờ Sinh Hoạt Văn Nghệ, do Tử Phác làm thư ký toà soạn.
[27] Tức Võ Hồng Cương, hay Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn.
[28] Tức Tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị.
[29] Trần Dần ghi, sđd, trang 73-75.
[30] Anarchiste thường được dịch là vô chính phủ, chỉ đúng trong nghiã chính trị (nghiã gốc), nhưng nói rộng ra, anarchistecòn có nghiã là quậy, pháloạn, không chịu bất cứ một thứ kỷ luật sắt nào.
[31] Phần lớn văn nghệ sĩ lúc ấy đều ở trong quân đội. Những người chủ chốt trong nhóm phản kháng gồm: Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm, với “mưu sĩ số 1″ Đặng Đình Hưng, “mưu sĩ số 2″ Tử Phác và Lê Đạt. Nhóm quy tụ được gần 30 văn nghệ sĩ. Vũ Tú Nam và Từ Bích Hoàng cũng “cùng chí hướng”, Đỗ Nhuận là thành phần “chủ chốt”, cả ba người này sau quay lại viết bài đánh Trần Dần và NVGP.
[32] Từ Bích Hoàng, bđd.
[33] In trên tạp chí Nhà Văn số 3/2007 và Talawas.
[34] Số 4, tháng 4/1958.
[35] Anarchie totale ở đây nên dịch là Loạn!
[36] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.
[37] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.
[38] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần.
[39] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.
[40] Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật ký chép lại, bđd.
[41] Thực ra là báo Sinh Hoạt Văn Nghệ của quân đội, do Tử Phác phụ trách.
[42] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[43] nxb QĐND, Hà Nội 1954.
[44] Trần Dần ghi, trang 47.
[45] Trần Dần ghi.
[46] Nguyên Ngọc, Con đường đi của Phùng Quán, con đường sai lầm điển hình của một người viết văn trẻ, VNQĐ, số 4, tháng 4/1958.
[47] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[48] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.
[49] Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật ký chép lại, bđd.
[50] Nhật ký Trần Dần ghi, trang141.
[51] Bài điếu của Nguyễn Hữu Đang, in lại trong Trần Dần ghi, trang 460.
[52] Văn Nghệ, California, 2001.
[53] Trần Dần ghi, trang 334-335.
[54] Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Ðạt, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác.
[55] Au revoir, tạm biệt.
[56] Trần Dần ghi, trang 244, 245- 260.
[57] Trần Dần ghi, trang 376.
 
Phụ đính :

Bà thơ “Nhất định thắng ” của TRẦN DẦN

Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
    tuy gọi sống Hòa Bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh…
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui – khi chợt nhớ – chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc
 
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
    máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi đao cùn!
Không đứt được – mà đau!
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ơi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: Có phải vết đao?
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc ngày hôm nay rớm máu.
 
2.
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi
- Đứng lại!
- Đi đâu?
- Làm gì?
Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh nam chị nữ kêu buồn
- Ở đây
    khát gió, thèm mây…
         Ô hay!
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?
Sau đám mây kia
    là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!
Tiệm nhảy, rượu nồng, gái tơ
Tha hồ những tự do tự diếc
Tưởng như ở đấy cứ chìa tay
     là có đô-la
Có trâu ruộng, – Có ngày đêm hoan hỷ!
Mặc dầu sao nỡ đổi trời ta?
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
- Bỏ tôi ư? – Từng vạt áo – Gót chân
Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn…
- Không! Hãy ở lại
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
    non bồng Mỹ
     triệu lần…
Mảnh đất dễ mà quên?
     Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?
Chỉ là:
- thiếu quả tim, bộ óc!
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi
    - Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi,
    gió cản áo bay về.
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Giăng giối lại: – Mỗi lùm cây – hốc đá
         – Mỗi căn vườn – gốc vả – cây sung
Không nói được, chỉ còn nức nở
Trắng con ngươi nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy – quên làm sao được?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió giập vùi
- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc…
Ai dẫn họ đi?
     Ai?
     Dẫn đi đâu? – mà họ khóc mãi thôi
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ -
     Khổ nhiều rồi!
Họ xấu số – Chớ hành thêm họ nữa
Vườn ruộng hoang sơ – Cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương
Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn
Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ
 
3.
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
Không thấy phố
     không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
    trên màu cờ đỏ.
 
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ.
    Họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…
Em đi
Trong mưa
     cúi đầu
         nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Em ơi!
Em có biết đâu
Ta khổ thế này
Vì sao?
Em biết đâu
Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?
Khổ thân em mưa nắng đi về
         lủi thủi
Bóng chúng
     đè lên
     số phận
        từng người
Em cúi đầu đi, mưa rơi
 
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
    không thấy phố
        không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
     trên màu cờ đỏ
 
4.
Đất nước khó khăn này
    sao không thấm được vào Thơ?
 
Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách – hình như khá chạy
À quyển kia của bạn này – bạn ấy
Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm
Nó đang mơ: – nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đã biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi Thống Nhất phải đòi từ việc nhỏ
- từ cái ăn
     cái ngủ
     chuyện riêng tư
- từ suy nghĩ
     nựng con
         và tán vợ
Trời mưa mãi lây rây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
    tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất
Sao chúng không chắp được cả cõi bờ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
Làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
     tôi làm thơ chính trị
 
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
     không thấy phố
        không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
     trên màu cờ đỏ
 
5.
Em ơi! – ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện gì vui hử
À cái tin trên báo – Ừ em ạ
Hôm nay bọn Mỹ Miếc, lũ Ngô Nghê
Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!
Vượt qua đầu chúng nó,
     mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thư, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì?
Ý muốn dân ta
    là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời mưa to lụt cả gian nhà
Em tất tả che mưa cản gió
Con chó Mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ – nó gầy – lông xấu quá
Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư?
Nó đỡ khổ – Cả em đỡ khổ.
Em thương nó – Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra
Anh đã biến thành người định kiến
Mực ơi!
Đừng oán chủ, Mực à!
Mày không hiểu những gần xa Mỹ Diệm
Chúng ở đâu – mà lại núp bên ta
Chính chúng cướp cả cơm của khuyển
 
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
    không thấy phố
        không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa.
     trên màu cờ đỏ
 
6.
Hôm nay đài tiếng nói Việt Nam
Lại có chuyện tên Ngô Đình Diệm
Hắn sai con em là lũ du côn
Đi ném đá nhà Ủy ban Quốc tế.
Hắn bảo hắn Giơ-ne không ký
Hắn bịt tai, không biết chuyện hiệp thương!
Ô hay! Cái lưỡi uốn càn
Cả thế giới vả vào mõm hắn
Hắn giậm chân khoa lưỡi đao cùn:
- Mặc kệ! Giết ta chết hẳn
        thì thôi
Ta chẳng giả miền Nam!
Chứ
Giả miền Nam cho nước Việt Nam
Thì ta chết
     – thầy ta cũng chết
Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm
Hắn lồng lộn, ôm miền Nam mà cắn!
Thịt dân ta từng mảng nát bươm
Nhưng không!
Hôm nay
Cả thành phố Sài Gòn
Đóng cửa!
Không họp chợ!
Không ra đường!
Những mảng thịt
Những đọi máu đào
Đang rầm rập kéo nhau
     đi ngoài phố
Hôm nay
    hàng triệu mối thù sâu
    tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng
Vung đao cùn chém phải quãng trời không!
Hắn đi ngủ,
     muôn tiếng kêu xúm lại quanh giường
Hắn ngồi ăn
    tiếng khóc nổi trong cơm
Hắn nhắm mắt
    tiếng kêu vào giấc ngủ
Hắn rong chơi
    tiếng rủa bước theo chân
Hắn hội họp
    tiếng kêu ngồi cạnh
Giơ bàn tay đòi mạng nghều ngào
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vạch tên mày!
Tên đứa tay sai!
Chẳng có lâu đâu!
Hắn sẽ sống như tên mắc tội tử tù
Óc điên dại
- chân lê vòng xích
Trốn đi đâu?
Đất trời sâu
Đương vẩy máu
     đuổi theo chân hắn.
Hắn run sợ – Quỳ xin đã muộn!
Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu
Máu vẫn đỏ
    trúng đầu trúng mặt
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vang tên mày!
 
7.
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.
- Chúng phá hiệp thương
- Liệu có hiệp thương?
- Liệu có tổng hay chẳng tổng?
- Liệu đúng kỳ? Hay chậm vài năm?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương Lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông!
A tiếng kèn vang
    quân đội anh hùng
Biển súng
Rừng lê
    bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà…
Lá cờ ấy là cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
Là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được Chiến Tranh
Giữ được Hòa Bình
Giặc cũ chết – lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy – kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có LÝ? và ai có LỰC?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ Quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
    Không biết sợ!
Hôm nay
Cả nước chỉ có một lời hô:
THỐNG NHẤT
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi
- Giả miền Nam!
     Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng – bỗng máu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rơi vào tôi
Dân ta ơi!
Những tiếng ta hô
Có sức đâm trời chảy máu.
Không địch nào cưỡng nổi ý ta
Chúng ta đi – như quả đất khổng lồ
Hiền hậu lắm – nhưng mà quả quyết…
 
8.
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đã giống lưỡi lê: đâm
Giống viên đạn: xé
Giống bão mưa: gào
Giống tình yêu: thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin.
Sao bỗng đêm nay,
    tôi cúi mặt trước đèn?
Gian nhà vắng – chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.
Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá
    chặn đường ta!
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
    vẫn có những phút giây ngờ vực
Ai có LÝ? Và ai có LỰC?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
Cả nước
     cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.
Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực
Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!
Tảng đá chặn đường này!
Muôn triệu con người
Muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!
Anh đã nghĩ: không có đường nào khác
Đem ngã lòng ra
    mà thống nhất Bắc Nam ư?
Không không!
Đem sức gân ra!
Em ơi em!
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT
 
9.
Hôm nay
Trời đã thôi mưa
Thôi gió
Nắng lên
Đỏ phố
    đỏ nhà
    đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!
Bây giờ
Em khuân đồ đạc ra phơi
Em nhé đừng quên
Em khuân tất cả tim gan chúng mình
    phơi nắng hết.
Em nhìn
Cao tít
    trời xanh
Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!
Hôm nay em đã có việc làm
Lương ít – Sống còn khó khăn!
Cũng là may…
Chính phủ muôn lo nghìn lắng
Thực có tài đuổi bão xua mưa
Không thì còn khổ
Em treo cờ đỏ đầu nhà
Lá cờ trừ ma
Xua được bóng đen chúng nó!
Tiếng gì ầm phố em à?
A! Những người đi Nam trở ra
Phải rồi! Quên sao đất Bắc!
- Khổ! Trong ấy loạn
Phải đi đồn điền cao su
Chúng tôi bị lừa
Bà con muốn ra không được.
Đồng bào vui muốn khóc
Ô này lạ chưa?
- Mây ngoài này không đen
Mây đen vào trong ấy cả
Đúng rồi! Đó là công sức của nhân dân ta
        lùa mây đuổi gió
Những vết thương kháng chiến đỏ lòm
Đã mím miệng, lên da lên thịt.
Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni
    và nhiều phố khác.
Anh đã sống ở Sài gòn thuở trước
Cảnh miền Nam thành một góc tim anh
Chúng đốt tận đâu
    mà lửa xém tim mình
Tim nó bị thui đen một nửa
Từ dạo ấy
    mà em chẳng rõ.
- Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã
Đứng đây
Một lúc!
Cờ bay
    đỏ phố
    đỏ nhà
Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.
Em có thấy bay trên trời xanh
Hàng triệu tâm hồn?
Họ đã bỏ miền Nam
    ra Bắc!
Chúng đem súng mà ngăn
Đem dây mà trói!
Giữ thân người
    không giữ được nhân tâm
Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả.
Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi
Đổ lên chúng nó
Mây đen
    lửa loạn
    bão thù
Ai thắng ai thua?
Ai có LÝ và ai có LỰC?
 
Em ơi
Hôm nay
    trời xanh
    xanh đúc
Nắng lên
    đỏ phố
    đỏ cờ
Cuồn cuộn mít tinh
Những ngày thương xót đã lùi xa
Hòa bình
Thêm vững
Anh bước đi
    đã thấy phố thấy nhà
Không thấy mưa sa
Chỉ thấy nắng lên
    trên màu cờ đỏ
 
Ta ở phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
Đóng cửa
Cả nhà ra phố
Mít tinh
Chúng ta đi
     nổi bão
    biểu tình
Vung cờ đỏ
    hát hò
     vỡ phổi…
Hỡi những người
     thành phố
        thôn quê
Đói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả!
Ra đường!
Đi!
Hàng đoàn
    hàng đoàn
Đòi lấy tương lai:
HÒA BÌNH
    THỐNG NHẤT
        ĐỘC LẬP
            DÂN CHỦ
Đó là tim
    là máu đời mình
Là cơm áo! Là ái tình
Nhất định thắng!
 

© 1984-2012 Thụy Khuê

VHP chuyển

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm