Đoạn Đường Chiến Binh
Trận Đánh Đồi Móng Ngựa - Sư Đoàn 18BB
Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/52, là người đã trực tiếp chỉ huy tại mặt trận Đồi Móng Ngựa, đã ân cần gởi cho chúng tôi bài bút ký chiến trường “Trận Đánh Đồi Móng Ngựa”, Chiến Trường Xuân Lộc Tháng 4.1975, mà chúng tôi xin trích đăng những chi tiết quan trọng nhất, để thấy rằng tinh thần chiến đấu của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc nào cũng luôn vượt qua cái giới hạn ở đằng sau sự phi thường.
Hồi Ký Ý YÊN
Loạt trái phá đầu tiên làm rung chuyển Đồi Móng Ngựa vào lúc năm giờ
sáng ngày 15 Tháng Tư năm 1975.
Những người lính trẻ Miền Nam thuộc Tiểu đoàn 3/52 Sư đoàn 18, được phi,
pháo bạn tận tâm yểm trợ, đã giáng trả cộng quân một trận để đời nơi tọa
độ cô đơn đó, làm tan rã Trung đoàn 95-B thuộc Quân đoàn 4 Bắc Việt,
nhưng đã chiến thắng âm thầm khi vận nước nổi trôi.
Tình hình tổng quát
đầu năm 1975 - Chiến tuyến mênh mang giữa bạn và thù
Tỉnh Phước Long mất vào đầu tháng Giêng 1975. Ngày hôm đó, một trận mưa
trái mùa bao phủ vùng rừng chồi Tân Uyên, Phú Chánh lan sang những miền
tre gai chiến khu Đ, Đất Cuốc. Mưa trĩu nặng trên tấm poncho lính chiến
ven dòng La Ngà. Sư đoàn 18 và Liên đoàn 7 BĐQ nhận lệnh tái chiếm Phước
Long; nhưng kế hoạch không rõ vì lý do gì, phải bỏ dở nửa vời. Rồi tức
khắc, một chiếc đũa phù thủy nào đó chỉ vẽ cho Công trường 5 và Trung
đoàn 33 Đồng Nai của địch nổi lửa tại Võ Xu, Võ Đắt, và Tánh Linh nhằm
cầm chân đánh tiêu hao sinh lực quân ta. Túi lửa này vừa kịp dập tắt,
thì điểm nóng khác đã bùng lên. Dấu hiệu chuẩn bị đánh lớn phát hiện
khắp nơi: không kể xiết những đàn gà thả rong trong rừng mít Bảo Chánh
phía Bắc Xuân Lộc; cũng tại đây, hàng chục thùng phuy chứa gạo nàng
hương ngụy trang ven bờ suối cạn (sau này bộ tư lệnh cộng quân đóng nơi
đó). Trung đội “xì ke” xung kích thuộc Tiểu đoàn 3/52 do Thiếu úy Trần
Đình Cảnh chỉ huy đột nhập khu Phước Lộc khám phá những hầm chôn dấu hỏa
tiễn 122 mới tinh trong giấy bọc dầu cất giấu ven bờ Sông Bé.
Sau Phước Long bị bỏ quên đến Ban Mê Thuột làm quà cho đối phương. Vào
ngày 25 tháng Hai 1975, một phái đoàn trung ương Việt Mỹ lên Quân đoàn
II , đưa ra một xấp không ảnh về màn lưới pháo địch hướng về Pleiku (?)
và chỉ thị cho Tướng Phạm Văn Phú tập trung phòng thủ Pleiku, như có
dụng ý để Ban mê thuột kém phòng thủ hơn lọt vô tay địch, tạo ra dây
chuyền đổ vỡ toàn quốc trong thời gian kề cận. Tướng Phú nhắc người bạn
là Trung Tá Trần Thanh Mai, khoá 13 Đà Lạt, cần giữ kín chi tiết này,
trừ khi Tướng Phú quá vãng.
Ngoài Quân Đoàn I, Tướng Ngô Quang Trưởng nhận lệnh về Sàigòn gặp TT
Thiệu; tức thì đài ngoại quốc loan tin “Tướng Trưởng đã đào nhiệm” gây
hoang mang cùng khắp vùng Giới Tuyến. Ông Thiệu chỉ việc ra lệnh bỏ Huế
nữa là miền Trung tan rã trong kinh hoàng.
Không ai nghĩ rằng ông Thiệu sẽ được an toàn khi tự ý cho rút bỏ Cao
Nguyên và mền Trung, nếu hai vùng đó còn thiết yếu cho sách lược của Mỹ.
Nhưng ông Thiệu đã được an toàn khi ra lệnh rút bỏ Cao Nguyên và miền
Trung, vậy điều đó chứng tỏ ông ta đã thi hành ý định của người Mỹ.
1954: Đông Hà, Vùng Hoả Tuyến
1975: Túc Trưng, Ải Địa Đầu.
Ngày 22 tháng Ba 1975, Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18BB tổ chức thành
chiến đoàn với Thiết đoàn 5 (Trung Tá Nô) sát nhập hành quân, rời khu
vực núi Chứa Chan phía đông Xuân Lộc sang khu vực phiá Tây theo tuyến
Dốc Mơ-La Ngà. Quân số tham chiến gồm chung vào khoảng 1,600 tay súng,
phòng thủ lưu động trên một tuyến xa tắp mịt mờ, chẳng khác nào người ta
sử dụng một trung đội 30 người để canh giữ toàn bộ cái Dinh Dộc Lập
thênh thang kia. Tiểu đoàn 3/52-18 tăng phái cho Thiết đoàn 5, phòng thủ
lưu động nơi vùng Túc Trưng-La Ngà.
Đại Tá Trung đoàn Trưởng Ngô Kỳ Dũng chỉ thị cho Mỹ Phụng tổ chức Tiểu
đoàn 3/52 thành các toán xâm nhập nhảy toán vô các vùng nghi ngờ có
địch. Ý định này gặp sự phản kháng quyết liệt của Mỹ Phụng, với lý do:
đối phương đã tràn ngập khắp lãnh thổ từ phương Bắc về đây, không còn
chạm tuyến nào khác hơn là con sông La Ngà. Ông Dũng nói đây là lệnh từ
trên sư đoàn, vẫn gặp sự thách thức bất tuân hành của Mỹ Phụng, dù anh
ta có phải ra toà án binh, bị lột lon, chứ khiông thể nào hy sinh những
đứa em của anh ta một cách nhẫn tâm vô lý được. Ông Dũng đành tạm nhượng
bộ Mỹ Phụng, bởi tình hình đang biến chuyển xấu đi từng ngày.
Đàlạt mất vào 30-3-1975, đồng thời với Huế, và 20 ngày sau Ban Mê Thuột.
Từng đoàn dân chúng tay xách nách mang từ trên Lâm Đồng, Định Quán lũ
lượt đổ xuống chạy giặc. Đàn gia súc gồm chung trâu bò, chó mèo, dĩ chí
cả bầy vịt gà lếch thếch bám gót phiá sau con người; ít ai thấy cảnh
loài vật trung thành theo chủ như vậy. Bóng đoàn người di tản lê dài bên
quốc lộ 20 lúc xế chiều, nhìn từ vị trí đóng quân lặng lẽ trong rừng.
Một chút buồn nản, một chút ân hận len lỏi trong lòng người lính, bởi
không còn khả năng bảo vệ an toàn cho đồng bào mình nữa.
Mỹ Phụng thầm khen các chú lính kỷ luật của mình: không bao giờ lính xâm
phạm đến một trái ớt cọng rau nào của người dân qua những vùng hành
quân: ông chủ đồn điền mía vùng ga Gia Huỳnh phải nhắc Mỹ Phụng cho anh
em ăn mía “thả dàn, nhưng đừng chặt hom..; ruộng rau muống dưới chân núi
Đốt, xã Túc Trưng, từ màu xanh ngả sang màu vàng vẫn y nguyên còn đó qua
hàng tháng bên những lều poncho dã chiến của lính.”
Cầu La Ngà lạnh tanh. Hàng quán chơ vơ bởi thiếu bóng người. Đây là hình
ảnh vườn không nhà trống những năm về trước khi Tây Lê Dương tràn đến.
Bây giờ đến phiên cộng quân kéo về. Bất cứ ở nơi nào, hễ việt cộng mò
đến, là người dân chạy đi, trừ những vùng xa xôi nơi quân ta mất quyền
kiểm soát do hậu quả của Hiệp định Ba Lê 1973, và do tình cảnh người dân
phải bám lấy ruộng vườn để mà sống.
Từ màn đêm quạnh hiu hướng Cao Nguyên Đà Lạt, phòng không địch phóng
những chùm sáng đan chéo lên nhau giữa nền trời đen thẳm. Trên những
điểm cao bên Quốc lộ 20, người lính gác giặc nhìn rõ thấy từng vệt sáng
dài những đoàn xe chuyển quân địch dồn xuống phía Nam, đến Phương Lâm
đổi hướng Đông về vùng Bảo Chánh, vây ép Xuân Lộc.
Cộng quân bắt đầu đánh thăm dò vị trí Đại đội 2 Nguyễn Trọng Thuật trong
khu vực của Tiểu đoàn 3/52. Thuật có biệt tài về phòng thủ mìn bẫy; do
đó, sáng hôm sau, toán lục soát tìm thấy bông băng trắng xóa, những vũng
máu bên hàng cây cao su, tóm được bốn con chó trận Phú Quốc vướng mìn
nằm lại ngoài tuyến. Mấy cậu lính của Thuật ra chợ Túc Trưng mua củ sả,
riềng, mẻ, mắm tôm, húng lìu, khế chua v.v., không quên mang về dăm
bi-đông đầy ắp... nước-mắt-quê-hương.
Dốc Mơ, Gia Kiệm, Túc Trưng, v.v… trở nên sầm uất trù phú sau 20 năm có
mặt của đồng bào di-cư chạy loạn từ ngoài miền bắc. Đến nay, lính cụ Hồ
xanh xao vàng vọt từ xã hội bắc phương nghèo túng, lại đang lò mò bò tới
quanh quất trong những rừng cây trái bạt ngàn miền Đông.
Sức vây ép của đối phương cân nặng thêm từng ngày. Chiến đoàn 52 được
lệnh từ Túc Trưng lui về phòng thủ tuyến ngã Ba Dầu Giây-Ấp Nguyễn Thái
Học dọc theo Quốc lộ 20, cách Xuân Lộc mười hai cây số theo đường chim
bay. Đó là ngày 5 tháng Tư năm 1975. Thiết đoàn 5 rời chiến đoàn 52 vô
tăng cường Xuân Lộc. Lực lượng một Trung đoàn 52 còn lại trấn giữ tuyến
đầu và cuối cùng của nước Việt Nam Cộng Hoà, người bạn đồng minh bị dồn
vô thế cô độc bỏ rơi như chưa từng thấy qua các dòng quân sử thế giới.
Thành phần trang bị của người lính lưu động tháng ngày thì súng vẫn là
vợ đạn là con, một cái xẻng bất ly thân, tấm áo poncho đa dụng nhiều khi
thay da ngựa bọc thây. Đơn vị thường xuyên đóng dã trại giữa rừng hay
trên đồi núi. Lính đào vội vã một hố cá nhân; nếu đóng quân một ngày thì
khơi sâu làm thêm nắp, vài ngày thì nối giao thông hào, gài mìn
claymore, và sẵn sàng chờ giặc. Nếu sáng mai có lệnh di chuyển, lính chỉ
cần bỏ ra mười phút cuốn poncho, gỡ mìn, lấp hố cá nhân, rồi lại “đường
trường xa...Thiếu Tá không cho nhảy dù” “-- lính hát tếu -- đi chưa biết
đâu là bờ là bụi chiều nay.”
Ban chỉ huy Tiểu đoàn 3/52 lên Đồi Móng Ngựa vào giờ trưa ngày 5-4-1975. Trông từ xa, ngọn đồi mang hình dáng một con tàu kếch xù nổi lên giữa biển xanh cây trái miền Đông, phía Bắc ngã Ba Dầu Giây. Đó là khu đất đá, cao khoảng 200 mét, chiều dài chừng 800 mét theo đường đỉnh; khi đóng quân, mới thấy nó giống y chang một cái vành móng ngựa khoác lên một lớp thảo mộc dày gồm chuối, mít, và cây hoang. Lòng chảo khu đồi hướng về ngọn núi Ma phía Đông trên đường rừng vô Xuân Lộc; lưng đồi quay ra quốc lộ 20 phía Tây sang ngọn Xóc Lu sừng sững trong tầm nhìn. Nếu coi Đồi Móng Ngựa là cái đầu con đại bàng, thì Xóc Lu và Núi Ma đối xứng với nhau trông như đôi cánh rộng soải ra trên năm cây số ngàn.
Vừa đặt chân vô vùng, mấy trăm lính chiến biến dạng ngay vô rừng cây
trái, biệt tăm tích; trên bản đồ chỉ còn ghi lại những dấu xanh đậm vị
trí, những chấm tiền sát chạm khu chợ xã Bình Lộc trên hướng Bắc gần Dốc
Mơ.
Từng đoàn dân chúng tiếp tục chạy loạn từ Phương Lâm, Túc Trưng, và Dốc
Mơ của ngày hôm qua. Nét mệt mỏi bàng hoàng còn ghi trên ánh mắt mọi
người. Họ chỉ biết trả lời, “Chúng nó đông lắm, có cả chiến xa, súng
lớn; chúng nói rặt giọng Bắc Kỳ; nhiều đứa chỉ chừng mười lăm, mười sáu
tuổi.”
Nằm đu đưa trên chiếc võng cột vô hai cây mít trên Đồi Móng Ngựa, bên
cạnh ban truyền tin, Mỹ Phụng áp sát chiếc radio ba băng bên tai nghe
chương trình Dạ Lan của đài quân đội, chuyển sang thăm dò mấy đài ngoại
quốc đang tận tình mách đường cho giặc, đổi giọng chúc dữ quân dân Miền
Nam, mới đây còn được họ vinh danh là đồng minh của “thế giới tự do.”
Dưới xa về hướng đông, nhìn qua sườn trái Núi Ma, Xuân Lộc đang thiêm
thiếp mệt mỏi qua đêm mùng tám Tháng Tư, lâu lâu giật mình trong ánh hoả
tiễn và đại pháo địch đánh phá cầm chừng. Nhưng ngày chín Tháng Tư bắt
đầu rất sớm. Từ lúc năm giờ sáng, bỗng chốc cả một tấm áo lửa bao la
choàng phủ lên Xuân Lộc, hừng hực, chói lòa, tiếp theo đó như thấy toàn
bộ Xuân Lộc vỡ nổ tung ra ầm vang một góc trời. Trận chiến Xuân Lộc bắt
đầu.
Cùng lúc, lực lượng một một trung đoàn địch mở cuộc tấn công cường tập
vô vị trí Tiểu đoàn 1/52 (Cam Phú) tại ngã Ba Dầu Giây (sau này được
biết là trung đoàn 33 Đồng Nai). Đây là cơ sở một đồn đền cao su, rất dễ
nhận trên bản đồ đối với pháo binh địch. Chúng muốn chiếm giữ Dầu Giây,
nhằm khoá trục giao thông vô Xuân Lộc và khu Đồi Móng Ngựa của Trung
đoàn 52, đồng thời ngăn chặn tiếp viện của ta. Quả thật, qua suốt cuộc
chiến bên sườn Tây Bắc Xuân Lộc, Trung đoàn 52 (-) không nhận được một
sự tiếp sức nào, không một chút đỡ lưng nào từ hướng Biên Hoà, ngoại trừ
Không Quân bạn có mặt từng giờ.
Nhìn lên phóng đồ trận liệt, người ta sẽ thấy mặt trận Xuân Lộc chia làm
hai khối. Khối lớn là thị xã Xuân Lộc gồm: bộ tư lệnh Sư đoàn 18, hai
trung đoàn Bộ Binh 43 và 48, Thiết đoàn 5, các tiểu đoàn Pháo và Công
Binh trực thuộc, tiểu đoàn Biệt Động Quân 82 (-) Vương Mộng Long mới rút
từ Cao Nguyên xuống, và các đơn vị địa phương Long Khánh: tất cả chỉ có
thế, mỏng manh trên một khu vực phòng thủ rộng lớn từ Núi Ma-Núi Thị
phía Tây qua Núi Chứa Chan phía Đông. Khối thứ hai nhỏ hơn, khu vực
thuộc trung đoàn 52 (-), nằm về Tây Bắc từ Dầu Giây lên Dốc Mơ, có nhiệm
vụ rất trọng yếu: ngăn chặn cộng quân từ Cao Nguyên tràn xuống.
Ngày 11.4.1975, có lệnh “kéo” thêm Tiểu đoàn 2/52 vô tăng cường Xuân
Lộc. Từ lúc đó Trung đoàn 52 chỉ còn là một trung đoàn trừ (-) đơn
phương nơi tuyến đầu đất nước. Tiểu đoàn 2/52 trên đường vô Xuân Lộc, đã
chạm địch rất mạnh tại ấp Suối Tre và Cua Con Heo trước khi bắt tay và
tăng phái cho Trung Đoàn 43 (Đại Tá Lê Xuân Hiếu). Tướng Lê Minh Đảo
khen ngợi đơn vị thuộc quyền Đại Úy Huỳnh Văn Út, ông nói, “Chúng ta
không cần thu vũ khí địch làm gì, cần phải tiêu diệt sinh lực địch đến
mức tối đa cho tôi”. Nhưng một lô vũ khí do 2/52 tịch thu gồm đại
bác 37 phòng không, đã chứng tỏ mức thương vong rất cao về phía quân xâm
lược. Quân số tham chiến Trung đoàn 52(-) còn lại hai Tiểu đoàn 1/52 và
3/52 và Đại đội 52 Trinh Sát (Đại úy Mừng). Tiểu đoàn 1/52 tiếp tục cầm
địch tại ngã ba Dầu Giây. Đại đội 52 Trinh Sát phòng thủ vị trí trung
đoàn. Tiểu đoàn 3/52 trở thành lực lượng chủ lực, gồm Đại đội 1 Nguyễn
Thanh Trường trên Đồi Móng Ngựa, có thêm trung đội vũ khí nặng tiểu đoàn
do Thiếu úy nhà giáo Lương tái ngũ đảm trách; Liên đội TOW và Heat chống
tăng do Trung úy Hữu Minh điều khiển. Tiểu đoàn 3/52 (trừ) xuống ấp
Nguyễn Thái Học phòng thủ và bảo vệ bộ Chỉ huy trung đoàn, vị trí Tiểu
đoàn 182 Pháo Binh và Chi đoàn 3/5 Thiết Giáp.
Hồi nửa đêm 11 Tháng Tư, tổ phục kích mìn của Trường tại phía đông bắc
Đồi Móng Ngựa hạ 17 giặc, trong đó có 4 cán bộ cao cấp, thu 4 địa bàn
Trung cộng rất tinh xảo, 4 bản đồ nổi pictomaps, và đặc biệt một công vụ
lệnh ghi: “Đoàn nghiên cứu quân sự đặc biệt 301 - Nay đề cử bốn đồng chí
(lâu ngày quên tên) lên đường nghiên cứu thực địa chiến trường Thủ Biên
Xuân Lộc. Ngày lên đường: 2 tháng Tư 1975 - Ngày chấm dứt nhiệm vụ: 30
tháng Tư 1975.” Mỹ Phụng tỏ ý nghi ngờ về cái ngày “chấm dứt nhiệm vụ
30.4.1975” kia, thì Đại tá Dũng phán, “Anh chúa là hay mơ mộng, chỉ suy
nghĩ vẩn vơ, làm thơ tán gái (?)” Tình hình khu vực Trung đoàn 52 vào
13.4.1975 ghi nhận như sau: Tiểu đoàn 1/52 đã kiệt sức sau bốn ngày quần
thảo với trung đoàn 33 giặc; 200 chiến hữu đã hy sinh trên những thước
vuông vùng đất Dầu Giây. Đại Tá Dũng cử Tiểu đoàn Phó 3/52 là Đại úy Hà
Văn Cho hướng dẫn hai đại đội của Nguyễn Trọng Thuật và Đặng Hữu Lê hành
quân đêm bắt tay đưa 1/52 còn lại về vị trí trung đoàn. Vào lúc 2 giờ
sáng 14 tháng Tư, Đại tá Dũng mở chai champagne đón mừng Cam Phú và Hà
Văn Cho. Cũng từ đêm 13 tháng Tư, ngã Ba Dầu Giây hoàn toàn lọt vô tay
cộng quân, không bao giờ được chiếm lại qua suốt trận chiến Xuân Lộc,
bởi lý do không có lực lượng bạn tiếp viện (?). Với quân số bộ binh khả
dụng xuống thấp chừng 700 chiến binh , trung đoàn 52 (-) không còn đủ
quân số phòng giữ một vùng rộng lớn từ ấp Nguyễn Thái Học lên Đồi Móng
Ngựa, mặc dù là phòng thủ dã chiến tạm thời. Ngày 14 Tháng Tư, Tướng Lê
Minh Đảo chuyển xuống trung đoàn một công điện cộng quân, viết: “Tụi
ngụy Dù và Sư 18 ra sức chống giữ Xuân Lộc, ngăn cản quân ta thi hành
phương án đúng hạn kỳ.” Tuy không phải là “dân tình báo,” Mỹ Phụng cũng
nghi ngờ về một ngày hẹn nào đó của lính Bắc phương: vì đâu chúng tin
tưởng mạnh mẽ vô một ngày N có ước hẹn với ai (?) như rứa?
Nhật ký hành quân, 150500/4-75
Tác xạ chuẩn bị địch đánh trúng triền Đồi Móng Ngựa vào lúc 5 giờ sáng ngày 15 tháng Tư 1975. Trận chiến khởi sự khỏa lấp hết âm thanh dàn nhạc chính trong Xuân Lộc.
Trung úy Nguyễn Thanh Trường có thói quen nói rất lẹ như Huyền Vũ tường
thuật túc cầu, nhưng mạch lạc rõ ràng mỗi khi chạm địch. Trường cho biết
sơn pháo địch đặt bên sườn Núi Ma -khoảng nửa đường giữa Đồi Móng Ngựa
và Xuân Lộc - không rõ bao nhiêu khẩu. Địch gia tăng hoả lực trong mười
phút, và xung phong cấp kỳ. Pháo bạn từ trung đoàn và Núi Thị (gần Cua
Con Heo, cửa ngõ Xuân Lộc) trong khoảnh khắc tập trung bắn phá trên
hướng tấn công địch phía đông Đồi Móng Ngựa. Ánh hoả châu làm chao
nghiêng lay động khắp cảnh vật rừng cây, nhờ đó lính của Trường nhìn
thấy rõ màu chàm đen di động của lính cụ Hồ. Với quân số chừng một trăm
người, Trường đã giao cho Thiếu úy Tốt, đại đội phó, hai phần ba quân số
bố trí theo lưng đồi để có tầm quan sát và tác xạ. Lựu đạn và M72 phân
phối đều cho các hố chiến đấu. Không một tên giặc nào bước lọt được lên
đồi.
Thương binh địch bị lính của Tốt bắt làm tù binh khai báo thuộc đại đội
trinh sát, trung đoàn 95B, quân đoàn 4, mới từ Bắc vô.
Sau đợt xung phong thất bại, sơn pháo địch từ Núi Ma cùng với đại bác
130 từ bốn hướng áp đảo Đồi Móng Ngựa , rải xuống khắp vị trí trung đoàn
dưới ấp Nguyễn Thái Học. Khói đen đặc bao phủ quanh rừng cao su, toả mờ
trong ấp cũng là một cơ sở một đồn điền cao su. Bên kia khu sân rộng,
những nòng súng đại bác thụt hậu, nháng lửa, nhưng không còn phát ra
tiếng nổ, như trong một đoạn phim câm.
Hai khẩu đại bác 105 trúng đạn, đen sì tựa hai con voi lật nghiêng trong
ụ đất. Cây ăng-ten cao nghệu gần hầm đại tá Dũng bị đánh gẫy, nằm sõng
soài bên sân. Mặt sân thênh thang lỗ chỗ như những luống khoai vừa mới
bị cày sới lên.
Lúc 8 giờ, sơn pháo giặc chuẩn bị cho đợt xung phong mới. Trời sáng rõ,
nắng ấm, khói mờ mịt bay cao. Triền đồi thưa thớt hơn sau nhiều đợt
pháo. Những sinh mạng, hơn một trăm tấm bia sống đi lên, dồn lên, điếc
không sợ súng. Lính của Trường thấy rõ nhiều cậu vừa đi vừa nhai mía, ăn
vội một trái cây, không nghĩ nơi đây là sống hay là chết. Đó là những
cậu thiếu niên chừng mười lăm, mười sáu tuổi, thản nhiên như đi tập trận
giả, và cứ thế tiến tới. Lính của Trường không thể làm gì khác hơn là
tập bắn bia trên xạ trường; họ phải bắn phát một cho chắc ăn, vừa để
tiết kiệm đạn dược. Lính không lấy làm lạ, bởi qua những lần đụng độ,
bắt được nhiều tù binh Bắc Việt vừa mới lớn, ốm yếu xanh xao; chúng khai
báo chỉ được tập bắn khoảng chục viên đạn, rồi bị đẩy ra trận, nói là đi
B (Miền Nam).
Nếu đem so sánh, thì lính chính quy cụ Hồ không thể nào đồng cân đồng
sức với lính sư đoàn, lính của Trường được. Khi chạm trán bất ngờ, đội
hình đơn vị địch tương đương với ta thường dễ bị rối loạn, chúng thường
hô lớn “xung phong!” hoặc “đại đội X đánh diện, đại đội N đánh điểm” để
nghi binh, rồi chém vè. Nhưng lợi điểm của chúng-lực lượng xâm lăng nói
chung- là có trọn vùng núi rừng xâm nhập, có hậu phương lớn Miên Lào; có
thời gian chuẩn bị, tạo yếu tố bất ngờ; do đó chúng thường nắm quyền chủ
động chọn lựa địa thế cho trận đánh, -- còn hỏi vì đâu quân xâm lược
“tài giỏi” đến thế, thì xin tham khảo chương trình Việt-Nam-hoá chiến
tranh và Hiệp định Ba Lê do “đồng minh” chủ xướng, là biết rõ.
Thủ trưởng cộng quân ra ngón dụ hàng sau thêm một lần thất bại. Tiếng
loa léo nhéo giọng Bắc Kỳ tiếng được tiếng chăng nghe bỏ ngoài tai. Đây
là khoảng trống thời gian để chúng thu quân, tổ chức tấn công tiếp.
Trường cho săn sóc thương binh, gom đàn em thành những ổ kháng cự, bởi
lực lượng không còn đủ để dàn mỏng trên một tuyến dài mấy trăm mét theo
vành móng ngựa.
Ngoài vòng đai bắc ấp Nguyễn Thái Học, Trung úy Mai Mạnh Liêu đã sẵn
sàng. Lính đại đội 4 cuốn lều, nhưng tiếp tục bố trí, hoặc chụm lửa
chuẩn bị bữa cơm gạo sấy. Theo thói quen, Liêu xem lại mấy thứ lỉnh kỉnh
nhưng không thể thiếu: sổ ám danh đàm thoại, địa bàn, tấm bản đồ, băng
cấp cứu; sau đó là những bao thuốc lá Quân tiếp vụ và một bi đông ba xi
đế, nói là để chống sốt rét rừng (?)
Mấy tiệm chạp phô, quán nước bên ấp vừa đóng cửa. Nhưng lính cũng đã mua
được chút rau quả phòng hờ. Dân chúng bỏ đi chạy loạn theo đường ruộng
về phía nam Bàu Cá ngay từ ngày đầu cộng quân tấn công Xuân Lộc. Sáng
hôm ra đi, cô chủ quán gượng cười nói với Mỹ Phụng, “Cái bàn bida em
để nguyên đó, các anh trông cho em; còn vài két la de, các anh cứ tự
nhiên uống hết đi.”
Lúc 8giờ 30, Tiểu đoàn Phó Hà Văn Cho và Liêu điều động Đại đội 4 mở
đường nương theo sườn phía Tây lên tăng cường cho Đồi Móng Ngựa, đồng
thời mang thêm đạn dược cho đại đội Trường.
Hà Văn Cho lên đồi, tinh thần các em lính lên theo, cũng dễ hiểu bởi Cho
từng coi trinh sát trung đoàn và sư đoàn, tác giả cuộc tái chiếm Đồi Gió
trong chiến trường An Lộc 1972. Hà Văn Cho đến thay Mỹ Phụng trong chức
vụ tiểu đoàn trưởng, nhưng Mỹ Phụng còn bị kẹt lại do điều kiện chiến
trận, chưa kịp bàn giao.
Đại đội Phó Thiếu úy Nghĩa hướng dẫn trung đội đầu chiếm giữ tuyến của
Trường vừa bị sát thương nhiều nhất. Nghĩa tiếp tục giữ tuyến ngoài, và
Liêu theo dõi hoả lực yểm trợ phi pháo. Đại đội của Liêu đã đến vừa đúng
lúc để cùng Trường kịp chấn chỉnh lại đội hình chiến đấu. Thương binh
được trao về trạm xá; đó là mấy căn nhà gạch nằm giữa ấp, cũng đã trúng
nhiều đạn pháo. Trận chiến rối bời, không hiểu hai ông Y sĩ Nam và Sang
xoay trở như thế nào để săn sóc thương binh.
Thiếu úy Trần Đình Cảnh và trung đội “xì ke” của anh ta giữ tuyến giao
liên từ Đồi Móng Ngựa xuống ấp, làm thêm nhiệm vụ tiếp tế và tản thương.
Tuyến phòng thủ quanh ấp vẫn là tình trạng dã chiến tạm thời - một hố cá
nhân trần trụi, không bờ lũy, không chướng ngại vật, không rào kẽm gai,
mỗi giờ mỗi lúc càng thêm thưa mỏng hơn.
Trên đồi, theo hướng dẫn của Cho, trực thăng vòng qua đánh phá Núi Ma;
sơn pháo giặc câm tiếng sau mấy giờ tự do hoành hành, nhờ góc núi che
chở nên tránh được tầm pháo bạn. Phản lực F-5 biến ngọn Xóc Lu phía Tây
thành một cột khói lớn kèm theo những tiếng nổ phụ; buổi sáng nắng ấm
chuyển sang thành một buổi sáng có nhiều sương mù. Liêu xin đánh bom
trên một khối đông hàng trăm giặc từ Quốc lộ 20 tràn vô, không rõ vì
khinh suất hay non kém về chiến thuật, chúng bu lại lố nhố ven rừng cao
su. Xác người và thân cây tung lên thấy rõ trong tầm nhìn.
Tiếng loa ì xèo giọng Bắc kỳ ngưng lại từ lúc nào. Hồi 10 giờ, Pháo giặc
lên cơn điên trên Đồi Móng Ngựa trả thù một phen cho hả giận, rồi chuyển
xuống ấp Nguyễn Thái Học, tức thì hàng mấy trăm sinh linh đồng loạt bật
dậy. Từ những bờ cây gục đổ, từ sau nhửng thân chuối xác xơ dưới kia,
giặc xông lên. Tiếng kèn xung phong dục dã. Cả một tiểu đoàn giặc di
chuyển và tác xạ liên tục lên đồi, bất chấp hàng rào pháo cản của bạn.
Chúng bám lấy hai phiá đầu vành móng ngựa nhằm phân tán lực lượng bố
phòng của ta.
Có thể nói Đại Tá Ngô Kỳ Dũng là người bận rộn nhứt Miền Đông ngày hôm
nay. Cặp bút chì mỡ xanh, đỏ trong tay ông mòn dần, đã quá phần nửa.
Khói thuốc tràn ngập căn hầm. Tiếng ông vốn khàn đục nghe thêm nặng
trịch khi ông liên lạc không ngừng với phi, pháo và Tướng Lê Minh Đảo
trong Xuân Lộc. Mỹ Phụng thầm phục cách vẽ phóng đồ chấm độ của ông như
một họa công tài ba (nhờ lâu năm trong nghề Phòng Ba và Trung tâm Hành
quân). Qua chiếc máy truyền tin Trung Cộng, ông theo dõi rất sát tình
hình địch.
Lúc đó là một giờ chiều. Một giọng nói đặc sệt Quảng Bình từ máy phát
ra:
- Cự nọi (cứ nói).
Trung đoàn trưởng 95B giặc sốt ruột nghe “dưới” báo cáo:
- Bá...bá…báo…cááááo…
- Đ.M! Khận trướng lến! Nọi đí! (Khẩn trương lên, nói đi!)
- Bá bá bá cáo, lúc đầu, tôi nghĩ địch là một B (trung đội), nên cho C trinh sát đánh. Không ngờ chúng là một C (đại đội Trường). Tôi đánh tiếp bằng hai C, lính không lên được, rồi toàn D (tiểu đoàn), thì hình như chúng lại là một D (ta thêm đại đội Liêu). Bây giờ tôi khó khăn... Ghi chú: địch đoán sai về quân số ta trên đồi là trung đội, nên đã tấn công bằng một đại đội 95 trinh sát.
- Đ.M! Mận ăn cại chi rựa ...(... Mần ăn cái chi rứa ...)
Tinh thần đang căng thẳng, mệt mỏi theo dõi trận đánh bên cạnh Đại tá
Dũng, viên trung sỹ đội kỹ thuật cũng phải mỉm cười. Anh thấy tên E
trưởng Việt cộng cũng biết “đ.m.” ngon lành như Đại tá Dũng nhà mình.
- Đ.M! Nghe đây. Những thằng bị thương nặng, không cần, dục bỏ. Gom những thằng thương nhẹ, tui cho anh thêm một D nữa, tui sẹ...
Trung sỉ ban Kỹ thuật từng đi theo trung đoàn qua bao địa danh chiến
trận, biết bao lần giải mã cấp thời những báo cáo, chỉ thị, nghe bắt
những giọng nói bắc kỳ léo nhéo chỉnh pháo lên Tân Uyên, Rạch Bắp...,
nhưng anh không ngờ cộng quân lại dã man tàn tệ với thương binh của họ
như thế. Biết bao nhiêu lần, quân ta đã gom góp những thương binh địch
sau trận đánh, và săn sóc họ chu đáo không kém gì lính bên mình.
Về chiều, pháo giặc càng gia tăng nóng nảy dữ dằn hơn. Căn hầm Đại Tá
Dũng bị sập. Hai chiếc xe tăng M.41 bốc khói ngùn ngụt ở cuối sân. Ông
Dũng thoát khỏi hầm an toàn, lem luốc, chạy sang ban chỉ huy Tiểu đoàn
3/52 đặt gần thung lũng. Cây ăng-ten dựng lên, lại bị đánh gẫy nằm gục
bên sân. Bên kia sân, Thiếu Tá Thanh Trước toàn thân đen đúa tiếp tục
điều khiển tác xạ; đại bác nháng lửa nghe ì ầm như từ đâu xa vọng về.
Mỹ Phụng ở ngoài tuyến trở vô khi ông Dũng vừa tới. Căn nhà ngói bỗng
thấy sáng trưng dưới hai mảng trống trên nóc do pháo địch gây ra không
biết lúc nào. Ban truyền tin của trung sĩ nhất Anh được an toàn là một
sự lạ. Trung úy Hưng ban 3, đang liên lạc với trên đồi. Ông Dũng giật
lấy ống nói.
Trên Đồi Móng Ngựa, Mai Mạnh Liêu yêu cầu đánh pháo trên những hàng quân
giặc đi như diễn hành ngoài quốc lộ, hướng về khu vực trung đoàn; một
cánh rất đông khác vòng theo đường rừng về khu Bàu Cá phiá Biên Hoà.
Mười phút trước, Mỹ Phụng quan sát qua ống nhòm cũng thấy địch rất đông
bên kia thung lũng, nhưng chúng chuyển về hướng Dầu Giây (Sau này được
biết giặc tiếp tục vây đánh Đồi Móng Ngựa và ấp Nguyễn Thái Học, đồng
thời “bôn tập” về tập trung quanh Biên Hoà và Sàigòn).
Pháo bạn từ Núi Thị bắn tới trên những hàng quân giặc; chúng giãn ra hai
bên đường trong chốc lát, rồi tiếp tục tụ lại như những mảng bèo trôi.
Chúng làm ngơ không lượm thương binh đồng đội, tiếp tục đi chuyển (có lẽ
hậu cần sẽ lo sau).
Liêu cho biết, một toán chỉ huy giặc chạy vô căn nhà ngói về phía đầu
ấp. Căn nhà bị đánh sập, không thấy những tên mang máy Truyền Tin thoát
ra nữa. Trong một thoáng, Mỹ Phụng cho đó là cái quán có bàn bia-a của
cô gái; nghĩ tới cô gái hôm nào, anh ta vừa buồn vừa mừng cho cô ta
thoát nạn binh đao.
Trọn ngày 15 tháng Tư 1975, Đồi Móng Ngưa và ấp Nguyễn Thái Học chịu
pháo giặc mười hai giờ liên tiếp, và liên tục đẩy lui những đợt xung
phong hay xâm nhập của giặc. Đó là tập hợp của đủ thành phần tác chiến:
từ một đại đội 95 trinh sát tinh nhuệ, đến một tiểu đoàn lính thiếu nhi
mới từ Bắc vô, đến sự gom góp vá víu của toàn trung đoàn 95B điêu đứng
trước phi pháo bạn, và những cú đánh trả do đàn em của Trường, Cho và
Liêu. Ngọn đồi xanh mát đã biến thành ngọn đồi trống trơn. Rừng cây trái
xum xuê trở thành cánh đồng quang đãng. Thân cây trộn với xác người
chồng chất lên nhau hàng nọ tiếp nối hàng kia. Cùng với nhịp độ chuyển
quân ngoài quốc lộ, trung đoàn trưởng “đ.m.” giặc lùa một phần ba quân
số thiếu nhi còn lại vô vòng tử địa.
Trung úy Nguyễn Thanh Trường có thói quen nói rất lẹ như Huyền Vũ của
Miền Nam xưa tường thuật trận đấu túc cầu. Trường xin pháo nổ cao trên
làn sóng giặc đang chập choạng đi lên. Trường xin pháo sẵn sàng nổ chụp
ngay trên đồi, xin đánh bom trên đầu mình khi Trường yêu cầu.
Vào lúc 5giờ 30 chiều, tiếng Mai Mạnh Liêu nghe đứt đoạn trong máy:
- Chung quanh chúng tôi chẳng còn gì, triền đồi ngập xác địch và cây
cối, rừng tan hoang, ngọn đồi như đã thay đổi độ dốc.
Những người lính trẻ miền Nam: Việt Nam Cộng Hòa, thuộc Tiểu đoàn 3/52
Sư Đoàn 18BB, được phi, pháo bạn tận tâm yểm trợ, đã giáng trả Cộng quân
một trận để đời nơi toạ độ cô đơn đó - Đồi Móng Ngựa - làm tan rã Trung
đoàn 95-B thuộc Quân đoàn 4 Bắc Việt, và đã chiến thắng âm thầm khi vận
nước nổi trôi.
Ý Yên
Lá Còn Xanh Cây
Chút ít về Ý Yên - Trước 1975, viết trên Bách Khoa và Thơ-Và-Thi-Nhân do
Vũ Hoàng Chương trên báo Tự Do. Ý Yên là bút hiệu của Thiếu Tá Phan Tấn
Mỹ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/52 Sư đoàn 18BB trong trận chiến Xuân
Lộc, tháng Tư 1975, hiện đang cư ngụ tại San Jose, California.
Vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/52 đã kể lại: “Đại Đội 1 và Đại Đội
4 đã đánh bật được những đợt tấn công của quân địch. Tới 4 giờ chiều
ngày 15.4.1975, Trung Úy Liêu, sĩ quan chỉ huy trên đồi báo cáo về:
...Không còn cái gì tồn tại chúng quanh chúng tôi hết. Xác địch nằm ngỗn
ngang trên mặt đồi, cây cối chung quanh hoàn toàn bị tiêu rụi thành bình
địa. Thân cây và xác chết chồng chất lên nhau hàng đống, từng này chồng
lên từng kia...”. Mặc dù bị thiệt hại quá nặng nề như vậy, nhưng bộ
phận tuyên truyền của địch vẫn cứ ra rả mở loa kêu gọi quân ta đầu hàng.
Thật buồn cười. Xác chết cán binh chúng còn bầy nhầy thịt xương chất
hàng đống như núi, không đủ để cho chúng hiểu rằng chiến sĩ Sư Đoàn 18
Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa kiên quyết chiến đấu đến hơi thở
và giọt máu cuối cùng hay sao.
http://hon-viet.co.uk/YYen_TrangDanhDoiMongNguaSuDoan18BB.htm
Bàn ra tán vào (1)
----------------------------------------------------------------------------------
Trận Đánh Đồi Móng Ngựa - Sư Đoàn 18BB
Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/52, là người đã trực tiếp chỉ huy tại mặt trận Đồi Móng Ngựa, đã ân cần gởi cho chúng tôi bài bút ký chiến trường “Trận Đánh Đồi Móng Ngựa”, Chiến Trường Xuân Lộc Tháng 4.1975, mà chúng tôi xin trích đăng những chi tiết quan trọng nhất, để thấy rằng tinh thần chiến đấu của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc nào cũng luôn vượt qua cái giới hạn ở đằng sau sự phi thường.
Hồi Ký Ý YÊN
Loạt trái phá đầu tiên làm rung chuyển Đồi Móng Ngựa vào lúc năm giờ
sáng ngày 15 Tháng Tư năm 1975.
Những người lính trẻ Miền Nam thuộc Tiểu đoàn 3/52 Sư đoàn 18, được phi,
pháo bạn tận tâm yểm trợ, đã giáng trả cộng quân một trận để đời nơi tọa
độ cô đơn đó, làm tan rã Trung đoàn 95-B thuộc Quân đoàn 4 Bắc Việt,
nhưng đã chiến thắng âm thầm khi vận nước nổi trôi.
Tình hình tổng quát
đầu năm 1975 - Chiến tuyến mênh mang giữa bạn và thù
Tỉnh Phước Long mất vào đầu tháng Giêng 1975. Ngày hôm đó, một trận mưa
trái mùa bao phủ vùng rừng chồi Tân Uyên, Phú Chánh lan sang những miền
tre gai chiến khu Đ, Đất Cuốc. Mưa trĩu nặng trên tấm poncho lính chiến
ven dòng La Ngà. Sư đoàn 18 và Liên đoàn 7 BĐQ nhận lệnh tái chiếm Phước
Long; nhưng kế hoạch không rõ vì lý do gì, phải bỏ dở nửa vời. Rồi tức
khắc, một chiếc đũa phù thủy nào đó chỉ vẽ cho Công trường 5 và Trung
đoàn 33 Đồng Nai của địch nổi lửa tại Võ Xu, Võ Đắt, và Tánh Linh nhằm
cầm chân đánh tiêu hao sinh lực quân ta. Túi lửa này vừa kịp dập tắt,
thì điểm nóng khác đã bùng lên. Dấu hiệu chuẩn bị đánh lớn phát hiện
khắp nơi: không kể xiết những đàn gà thả rong trong rừng mít Bảo Chánh
phía Bắc Xuân Lộc; cũng tại đây, hàng chục thùng phuy chứa gạo nàng
hương ngụy trang ven bờ suối cạn (sau này bộ tư lệnh cộng quân đóng nơi
đó). Trung đội “xì ke” xung kích thuộc Tiểu đoàn 3/52 do Thiếu úy Trần
Đình Cảnh chỉ huy đột nhập khu Phước Lộc khám phá những hầm chôn dấu hỏa
tiễn 122 mới tinh trong giấy bọc dầu cất giấu ven bờ Sông Bé.
Sau Phước Long bị bỏ quên đến Ban Mê Thuột làm quà cho đối phương. Vào
ngày 25 tháng Hai 1975, một phái đoàn trung ương Việt Mỹ lên Quân đoàn
II , đưa ra một xấp không ảnh về màn lưới pháo địch hướng về Pleiku (?)
và chỉ thị cho Tướng Phạm Văn Phú tập trung phòng thủ Pleiku, như có
dụng ý để Ban mê thuột kém phòng thủ hơn lọt vô tay địch, tạo ra dây
chuyền đổ vỡ toàn quốc trong thời gian kề cận. Tướng Phú nhắc người bạn
là Trung Tá Trần Thanh Mai, khoá 13 Đà Lạt, cần giữ kín chi tiết này,
trừ khi Tướng Phú quá vãng.
Ngoài Quân Đoàn I, Tướng Ngô Quang Trưởng nhận lệnh về Sàigòn gặp TT
Thiệu; tức thì đài ngoại quốc loan tin “Tướng Trưởng đã đào nhiệm” gây
hoang mang cùng khắp vùng Giới Tuyến. Ông Thiệu chỉ việc ra lệnh bỏ Huế
nữa là miền Trung tan rã trong kinh hoàng.
Không ai nghĩ rằng ông Thiệu sẽ được an toàn khi tự ý cho rút bỏ Cao
Nguyên và mền Trung, nếu hai vùng đó còn thiết yếu cho sách lược của Mỹ.
Nhưng ông Thiệu đã được an toàn khi ra lệnh rút bỏ Cao Nguyên và miền
Trung, vậy điều đó chứng tỏ ông ta đã thi hành ý định của người Mỹ.
1954: Đông Hà, Vùng Hoả Tuyến
1975: Túc Trưng, Ải Địa Đầu.
Ngày 22 tháng Ba 1975, Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18BB tổ chức thành
chiến đoàn với Thiết đoàn 5 (Trung Tá Nô) sát nhập hành quân, rời khu
vực núi Chứa Chan phía đông Xuân Lộc sang khu vực phiá Tây theo tuyến
Dốc Mơ-La Ngà. Quân số tham chiến gồm chung vào khoảng 1,600 tay súng,
phòng thủ lưu động trên một tuyến xa tắp mịt mờ, chẳng khác nào người ta
sử dụng một trung đội 30 người để canh giữ toàn bộ cái Dinh Dộc Lập
thênh thang kia. Tiểu đoàn 3/52-18 tăng phái cho Thiết đoàn 5, phòng thủ
lưu động nơi vùng Túc Trưng-La Ngà.
Đại Tá Trung đoàn Trưởng Ngô Kỳ Dũng chỉ thị cho Mỹ Phụng tổ chức Tiểu
đoàn 3/52 thành các toán xâm nhập nhảy toán vô các vùng nghi ngờ có
địch. Ý định này gặp sự phản kháng quyết liệt của Mỹ Phụng, với lý do:
đối phương đã tràn ngập khắp lãnh thổ từ phương Bắc về đây, không còn
chạm tuyến nào khác hơn là con sông La Ngà. Ông Dũng nói đây là lệnh từ
trên sư đoàn, vẫn gặp sự thách thức bất tuân hành của Mỹ Phụng, dù anh
ta có phải ra toà án binh, bị lột lon, chứ khiông thể nào hy sinh những
đứa em của anh ta một cách nhẫn tâm vô lý được. Ông Dũng đành tạm nhượng
bộ Mỹ Phụng, bởi tình hình đang biến chuyển xấu đi từng ngày.
Đàlạt mất vào 30-3-1975, đồng thời với Huế, và 20 ngày sau Ban Mê Thuột.
Từng đoàn dân chúng tay xách nách mang từ trên Lâm Đồng, Định Quán lũ
lượt đổ xuống chạy giặc. Đàn gia súc gồm chung trâu bò, chó mèo, dĩ chí
cả bầy vịt gà lếch thếch bám gót phiá sau con người; ít ai thấy cảnh
loài vật trung thành theo chủ như vậy. Bóng đoàn người di tản lê dài bên
quốc lộ 20 lúc xế chiều, nhìn từ vị trí đóng quân lặng lẽ trong rừng.
Một chút buồn nản, một chút ân hận len lỏi trong lòng người lính, bởi
không còn khả năng bảo vệ an toàn cho đồng bào mình nữa.
Mỹ Phụng thầm khen các chú lính kỷ luật của mình: không bao giờ lính xâm
phạm đến một trái ớt cọng rau nào của người dân qua những vùng hành
quân: ông chủ đồn điền mía vùng ga Gia Huỳnh phải nhắc Mỹ Phụng cho anh
em ăn mía “thả dàn, nhưng đừng chặt hom..; ruộng rau muống dưới chân núi
Đốt, xã Túc Trưng, từ màu xanh ngả sang màu vàng vẫn y nguyên còn đó qua
hàng tháng bên những lều poncho dã chiến của lính.”
Cầu La Ngà lạnh tanh. Hàng quán chơ vơ bởi thiếu bóng người. Đây là hình
ảnh vườn không nhà trống những năm về trước khi Tây Lê Dương tràn đến.
Bây giờ đến phiên cộng quân kéo về. Bất cứ ở nơi nào, hễ việt cộng mò
đến, là người dân chạy đi, trừ những vùng xa xôi nơi quân ta mất quyền
kiểm soát do hậu quả của Hiệp định Ba Lê 1973, và do tình cảnh người dân
phải bám lấy ruộng vườn để mà sống.
Từ màn đêm quạnh hiu hướng Cao Nguyên Đà Lạt, phòng không địch phóng
những chùm sáng đan chéo lên nhau giữa nền trời đen thẳm. Trên những
điểm cao bên Quốc lộ 20, người lính gác giặc nhìn rõ thấy từng vệt sáng
dài những đoàn xe chuyển quân địch dồn xuống phía Nam, đến Phương Lâm
đổi hướng Đông về vùng Bảo Chánh, vây ép Xuân Lộc.
Cộng quân bắt đầu đánh thăm dò vị trí Đại đội 2 Nguyễn Trọng Thuật trong
khu vực của Tiểu đoàn 3/52. Thuật có biệt tài về phòng thủ mìn bẫy; do
đó, sáng hôm sau, toán lục soát tìm thấy bông băng trắng xóa, những vũng
máu bên hàng cây cao su, tóm được bốn con chó trận Phú Quốc vướng mìn
nằm lại ngoài tuyến. Mấy cậu lính của Thuật ra chợ Túc Trưng mua củ sả,
riềng, mẻ, mắm tôm, húng lìu, khế chua v.v., không quên mang về dăm
bi-đông đầy ắp... nước-mắt-quê-hương.
Dốc Mơ, Gia Kiệm, Túc Trưng, v.v… trở nên sầm uất trù phú sau 20 năm có
mặt của đồng bào di-cư chạy loạn từ ngoài miền bắc. Đến nay, lính cụ Hồ
xanh xao vàng vọt từ xã hội bắc phương nghèo túng, lại đang lò mò bò tới
quanh quất trong những rừng cây trái bạt ngàn miền Đông.
Sức vây ép của đối phương cân nặng thêm từng ngày. Chiến đoàn 52 được
lệnh từ Túc Trưng lui về phòng thủ tuyến ngã Ba Dầu Giây-Ấp Nguyễn Thái
Học dọc theo Quốc lộ 20, cách Xuân Lộc mười hai cây số theo đường chim
bay. Đó là ngày 5 tháng Tư năm 1975. Thiết đoàn 5 rời chiến đoàn 52 vô
tăng cường Xuân Lộc. Lực lượng một Trung đoàn 52 còn lại trấn giữ tuyến
đầu và cuối cùng của nước Việt Nam Cộng Hoà, người bạn đồng minh bị dồn
vô thế cô độc bỏ rơi như chưa từng thấy qua các dòng quân sử thế giới.
Thành phần trang bị của người lính lưu động tháng ngày thì súng vẫn là
vợ đạn là con, một cái xẻng bất ly thân, tấm áo poncho đa dụng nhiều khi
thay da ngựa bọc thây. Đơn vị thường xuyên đóng dã trại giữa rừng hay
trên đồi núi. Lính đào vội vã một hố cá nhân; nếu đóng quân một ngày thì
khơi sâu làm thêm nắp, vài ngày thì nối giao thông hào, gài mìn
claymore, và sẵn sàng chờ giặc. Nếu sáng mai có lệnh di chuyển, lính chỉ
cần bỏ ra mười phút cuốn poncho, gỡ mìn, lấp hố cá nhân, rồi lại “đường
trường xa...Thiếu Tá không cho nhảy dù” “-- lính hát tếu -- đi chưa biết
đâu là bờ là bụi chiều nay.”
Ban chỉ huy Tiểu đoàn 3/52 lên Đồi Móng Ngựa vào giờ trưa ngày 5-4-1975. Trông từ xa, ngọn đồi mang hình dáng một con tàu kếch xù nổi lên giữa biển xanh cây trái miền Đông, phía Bắc ngã Ba Dầu Giây. Đó là khu đất đá, cao khoảng 200 mét, chiều dài chừng 800 mét theo đường đỉnh; khi đóng quân, mới thấy nó giống y chang một cái vành móng ngựa khoác lên một lớp thảo mộc dày gồm chuối, mít, và cây hoang. Lòng chảo khu đồi hướng về ngọn núi Ma phía Đông trên đường rừng vô Xuân Lộc; lưng đồi quay ra quốc lộ 20 phía Tây sang ngọn Xóc Lu sừng sững trong tầm nhìn. Nếu coi Đồi Móng Ngựa là cái đầu con đại bàng, thì Xóc Lu và Núi Ma đối xứng với nhau trông như đôi cánh rộng soải ra trên năm cây số ngàn.
Vừa đặt chân vô vùng, mấy trăm lính chiến biến dạng ngay vô rừng cây
trái, biệt tăm tích; trên bản đồ chỉ còn ghi lại những dấu xanh đậm vị
trí, những chấm tiền sát chạm khu chợ xã Bình Lộc trên hướng Bắc gần Dốc
Mơ.
Từng đoàn dân chúng tiếp tục chạy loạn từ Phương Lâm, Túc Trưng, và Dốc
Mơ của ngày hôm qua. Nét mệt mỏi bàng hoàng còn ghi trên ánh mắt mọi
người. Họ chỉ biết trả lời, “Chúng nó đông lắm, có cả chiến xa, súng
lớn; chúng nói rặt giọng Bắc Kỳ; nhiều đứa chỉ chừng mười lăm, mười sáu
tuổi.”
Nằm đu đưa trên chiếc võng cột vô hai cây mít trên Đồi Móng Ngựa, bên
cạnh ban truyền tin, Mỹ Phụng áp sát chiếc radio ba băng bên tai nghe
chương trình Dạ Lan của đài quân đội, chuyển sang thăm dò mấy đài ngoại
quốc đang tận tình mách đường cho giặc, đổi giọng chúc dữ quân dân Miền
Nam, mới đây còn được họ vinh danh là đồng minh của “thế giới tự do.”
Dưới xa về hướng đông, nhìn qua sườn trái Núi Ma, Xuân Lộc đang thiêm
thiếp mệt mỏi qua đêm mùng tám Tháng Tư, lâu lâu giật mình trong ánh hoả
tiễn và đại pháo địch đánh phá cầm chừng. Nhưng ngày chín Tháng Tư bắt
đầu rất sớm. Từ lúc năm giờ sáng, bỗng chốc cả một tấm áo lửa bao la
choàng phủ lên Xuân Lộc, hừng hực, chói lòa, tiếp theo đó như thấy toàn
bộ Xuân Lộc vỡ nổ tung ra ầm vang một góc trời. Trận chiến Xuân Lộc bắt
đầu.
Cùng lúc, lực lượng một một trung đoàn địch mở cuộc tấn công cường tập
vô vị trí Tiểu đoàn 1/52 (Cam Phú) tại ngã Ba Dầu Giây (sau này được
biết là trung đoàn 33 Đồng Nai). Đây là cơ sở một đồn đền cao su, rất dễ
nhận trên bản đồ đối với pháo binh địch. Chúng muốn chiếm giữ Dầu Giây,
nhằm khoá trục giao thông vô Xuân Lộc và khu Đồi Móng Ngựa của Trung
đoàn 52, đồng thời ngăn chặn tiếp viện của ta. Quả thật, qua suốt cuộc
chiến bên sườn Tây Bắc Xuân Lộc, Trung đoàn 52 (-) không nhận được một
sự tiếp sức nào, không một chút đỡ lưng nào từ hướng Biên Hoà, ngoại trừ
Không Quân bạn có mặt từng giờ.
Nhìn lên phóng đồ trận liệt, người ta sẽ thấy mặt trận Xuân Lộc chia làm
hai khối. Khối lớn là thị xã Xuân Lộc gồm: bộ tư lệnh Sư đoàn 18, hai
trung đoàn Bộ Binh 43 và 48, Thiết đoàn 5, các tiểu đoàn Pháo và Công
Binh trực thuộc, tiểu đoàn Biệt Động Quân 82 (-) Vương Mộng Long mới rút
từ Cao Nguyên xuống, và các đơn vị địa phương Long Khánh: tất cả chỉ có
thế, mỏng manh trên một khu vực phòng thủ rộng lớn từ Núi Ma-Núi Thị
phía Tây qua Núi Chứa Chan phía Đông. Khối thứ hai nhỏ hơn, khu vực
thuộc trung đoàn 52 (-), nằm về Tây Bắc từ Dầu Giây lên Dốc Mơ, có nhiệm
vụ rất trọng yếu: ngăn chặn cộng quân từ Cao Nguyên tràn xuống.
Ngày 11.4.1975, có lệnh “kéo” thêm Tiểu đoàn 2/52 vô tăng cường Xuân
Lộc. Từ lúc đó Trung đoàn 52 chỉ còn là một trung đoàn trừ (-) đơn
phương nơi tuyến đầu đất nước. Tiểu đoàn 2/52 trên đường vô Xuân Lộc, đã
chạm địch rất mạnh tại ấp Suối Tre và Cua Con Heo trước khi bắt tay và
tăng phái cho Trung Đoàn 43 (Đại Tá Lê Xuân Hiếu). Tướng Lê Minh Đảo
khen ngợi đơn vị thuộc quyền Đại Úy Huỳnh Văn Út, ông nói, “Chúng ta
không cần thu vũ khí địch làm gì, cần phải tiêu diệt sinh lực địch đến
mức tối đa cho tôi”. Nhưng một lô vũ khí do 2/52 tịch thu gồm đại
bác 37 phòng không, đã chứng tỏ mức thương vong rất cao về phía quân xâm
lược. Quân số tham chiến Trung đoàn 52(-) còn lại hai Tiểu đoàn 1/52 và
3/52 và Đại đội 52 Trinh Sát (Đại úy Mừng). Tiểu đoàn 1/52 tiếp tục cầm
địch tại ngã ba Dầu Giây. Đại đội 52 Trinh Sát phòng thủ vị trí trung
đoàn. Tiểu đoàn 3/52 trở thành lực lượng chủ lực, gồm Đại đội 1 Nguyễn
Thanh Trường trên Đồi Móng Ngựa, có thêm trung đội vũ khí nặng tiểu đoàn
do Thiếu úy nhà giáo Lương tái ngũ đảm trách; Liên đội TOW và Heat chống
tăng do Trung úy Hữu Minh điều khiển. Tiểu đoàn 3/52 (trừ) xuống ấp
Nguyễn Thái Học phòng thủ và bảo vệ bộ Chỉ huy trung đoàn, vị trí Tiểu
đoàn 182 Pháo Binh và Chi đoàn 3/5 Thiết Giáp.
Hồi nửa đêm 11 Tháng Tư, tổ phục kích mìn của Trường tại phía đông bắc
Đồi Móng Ngựa hạ 17 giặc, trong đó có 4 cán bộ cao cấp, thu 4 địa bàn
Trung cộng rất tinh xảo, 4 bản đồ nổi pictomaps, và đặc biệt một công vụ
lệnh ghi: “Đoàn nghiên cứu quân sự đặc biệt 301 - Nay đề cử bốn đồng chí
(lâu ngày quên tên) lên đường nghiên cứu thực địa chiến trường Thủ Biên
Xuân Lộc. Ngày lên đường: 2 tháng Tư 1975 - Ngày chấm dứt nhiệm vụ: 30
tháng Tư 1975.” Mỹ Phụng tỏ ý nghi ngờ về cái ngày “chấm dứt nhiệm vụ
30.4.1975” kia, thì Đại tá Dũng phán, “Anh chúa là hay mơ mộng, chỉ suy
nghĩ vẩn vơ, làm thơ tán gái (?)” Tình hình khu vực Trung đoàn 52 vào
13.4.1975 ghi nhận như sau: Tiểu đoàn 1/52 đã kiệt sức sau bốn ngày quần
thảo với trung đoàn 33 giặc; 200 chiến hữu đã hy sinh trên những thước
vuông vùng đất Dầu Giây. Đại Tá Dũng cử Tiểu đoàn Phó 3/52 là Đại úy Hà
Văn Cho hướng dẫn hai đại đội của Nguyễn Trọng Thuật và Đặng Hữu Lê hành
quân đêm bắt tay đưa 1/52 còn lại về vị trí trung đoàn. Vào lúc 2 giờ
sáng 14 tháng Tư, Đại tá Dũng mở chai champagne đón mừng Cam Phú và Hà
Văn Cho. Cũng từ đêm 13 tháng Tư, ngã Ba Dầu Giây hoàn toàn lọt vô tay
cộng quân, không bao giờ được chiếm lại qua suốt trận chiến Xuân Lộc,
bởi lý do không có lực lượng bạn tiếp viện (?). Với quân số bộ binh khả
dụng xuống thấp chừng 700 chiến binh , trung đoàn 52 (-) không còn đủ
quân số phòng giữ một vùng rộng lớn từ ấp Nguyễn Thái Học lên Đồi Móng
Ngựa, mặc dù là phòng thủ dã chiến tạm thời. Ngày 14 Tháng Tư, Tướng Lê
Minh Đảo chuyển xuống trung đoàn một công điện cộng quân, viết: “Tụi
ngụy Dù và Sư 18 ra sức chống giữ Xuân Lộc, ngăn cản quân ta thi hành
phương án đúng hạn kỳ.” Tuy không phải là “dân tình báo,” Mỹ Phụng cũng
nghi ngờ về một ngày hẹn nào đó của lính Bắc phương: vì đâu chúng tin
tưởng mạnh mẽ vô một ngày N có ước hẹn với ai (?) như rứa?
Nhật ký hành quân, 150500/4-75
Tác xạ chuẩn bị địch đánh trúng triền Đồi Móng Ngựa vào lúc 5 giờ sáng ngày 15 tháng Tư 1975. Trận chiến khởi sự khỏa lấp hết âm thanh dàn nhạc chính trong Xuân Lộc.
Trung úy Nguyễn Thanh Trường có thói quen nói rất lẹ như Huyền Vũ tường
thuật túc cầu, nhưng mạch lạc rõ ràng mỗi khi chạm địch. Trường cho biết
sơn pháo địch đặt bên sườn Núi Ma -khoảng nửa đường giữa Đồi Móng Ngựa
và Xuân Lộc - không rõ bao nhiêu khẩu. Địch gia tăng hoả lực trong mười
phút, và xung phong cấp kỳ. Pháo bạn từ trung đoàn và Núi Thị (gần Cua
Con Heo, cửa ngõ Xuân Lộc) trong khoảnh khắc tập trung bắn phá trên
hướng tấn công địch phía đông Đồi Móng Ngựa. Ánh hoả châu làm chao
nghiêng lay động khắp cảnh vật rừng cây, nhờ đó lính của Trường nhìn
thấy rõ màu chàm đen di động của lính cụ Hồ. Với quân số chừng một trăm
người, Trường đã giao cho Thiếu úy Tốt, đại đội phó, hai phần ba quân số
bố trí theo lưng đồi để có tầm quan sát và tác xạ. Lựu đạn và M72 phân
phối đều cho các hố chiến đấu. Không một tên giặc nào bước lọt được lên
đồi.
Thương binh địch bị lính của Tốt bắt làm tù binh khai báo thuộc đại đội
trinh sát, trung đoàn 95B, quân đoàn 4, mới từ Bắc vô.
Sau đợt xung phong thất bại, sơn pháo địch từ Núi Ma cùng với đại bác
130 từ bốn hướng áp đảo Đồi Móng Ngựa , rải xuống khắp vị trí trung đoàn
dưới ấp Nguyễn Thái Học. Khói đen đặc bao phủ quanh rừng cao su, toả mờ
trong ấp cũng là một cơ sở một đồn điền cao su. Bên kia khu sân rộng,
những nòng súng đại bác thụt hậu, nháng lửa, nhưng không còn phát ra
tiếng nổ, như trong một đoạn phim câm.
Hai khẩu đại bác 105 trúng đạn, đen sì tựa hai con voi lật nghiêng trong
ụ đất. Cây ăng-ten cao nghệu gần hầm đại tá Dũng bị đánh gẫy, nằm sõng
soài bên sân. Mặt sân thênh thang lỗ chỗ như những luống khoai vừa mới
bị cày sới lên.
Lúc 8 giờ, sơn pháo giặc chuẩn bị cho đợt xung phong mới. Trời sáng rõ,
nắng ấm, khói mờ mịt bay cao. Triền đồi thưa thớt hơn sau nhiều đợt
pháo. Những sinh mạng, hơn một trăm tấm bia sống đi lên, dồn lên, điếc
không sợ súng. Lính của Trường thấy rõ nhiều cậu vừa đi vừa nhai mía, ăn
vội một trái cây, không nghĩ nơi đây là sống hay là chết. Đó là những
cậu thiếu niên chừng mười lăm, mười sáu tuổi, thản nhiên như đi tập trận
giả, và cứ thế tiến tới. Lính của Trường không thể làm gì khác hơn là
tập bắn bia trên xạ trường; họ phải bắn phát một cho chắc ăn, vừa để
tiết kiệm đạn dược. Lính không lấy làm lạ, bởi qua những lần đụng độ,
bắt được nhiều tù binh Bắc Việt vừa mới lớn, ốm yếu xanh xao; chúng khai
báo chỉ được tập bắn khoảng chục viên đạn, rồi bị đẩy ra trận, nói là đi
B (Miền Nam).
Nếu đem so sánh, thì lính chính quy cụ Hồ không thể nào đồng cân đồng
sức với lính sư đoàn, lính của Trường được. Khi chạm trán bất ngờ, đội
hình đơn vị địch tương đương với ta thường dễ bị rối loạn, chúng thường
hô lớn “xung phong!” hoặc “đại đội X đánh diện, đại đội N đánh điểm” để
nghi binh, rồi chém vè. Nhưng lợi điểm của chúng-lực lượng xâm lăng nói
chung- là có trọn vùng núi rừng xâm nhập, có hậu phương lớn Miên Lào; có
thời gian chuẩn bị, tạo yếu tố bất ngờ; do đó chúng thường nắm quyền chủ
động chọn lựa địa thế cho trận đánh, -- còn hỏi vì đâu quân xâm lược
“tài giỏi” đến thế, thì xin tham khảo chương trình Việt-Nam-hoá chiến
tranh và Hiệp định Ba Lê do “đồng minh” chủ xướng, là biết rõ.
Thủ trưởng cộng quân ra ngón dụ hàng sau thêm một lần thất bại. Tiếng
loa léo nhéo giọng Bắc Kỳ tiếng được tiếng chăng nghe bỏ ngoài tai. Đây
là khoảng trống thời gian để chúng thu quân, tổ chức tấn công tiếp.
Trường cho săn sóc thương binh, gom đàn em thành những ổ kháng cự, bởi
lực lượng không còn đủ để dàn mỏng trên một tuyến dài mấy trăm mét theo
vành móng ngựa.
Ngoài vòng đai bắc ấp Nguyễn Thái Học, Trung úy Mai Mạnh Liêu đã sẵn
sàng. Lính đại đội 4 cuốn lều, nhưng tiếp tục bố trí, hoặc chụm lửa
chuẩn bị bữa cơm gạo sấy. Theo thói quen, Liêu xem lại mấy thứ lỉnh kỉnh
nhưng không thể thiếu: sổ ám danh đàm thoại, địa bàn, tấm bản đồ, băng
cấp cứu; sau đó là những bao thuốc lá Quân tiếp vụ và một bi đông ba xi
đế, nói là để chống sốt rét rừng (?)
Mấy tiệm chạp phô, quán nước bên ấp vừa đóng cửa. Nhưng lính cũng đã mua
được chút rau quả phòng hờ. Dân chúng bỏ đi chạy loạn theo đường ruộng
về phía nam Bàu Cá ngay từ ngày đầu cộng quân tấn công Xuân Lộc. Sáng
hôm ra đi, cô chủ quán gượng cười nói với Mỹ Phụng, “Cái bàn bida em
để nguyên đó, các anh trông cho em; còn vài két la de, các anh cứ tự
nhiên uống hết đi.”
Lúc 8giờ 30, Tiểu đoàn Phó Hà Văn Cho và Liêu điều động Đại đội 4 mở
đường nương theo sườn phía Tây lên tăng cường cho Đồi Móng Ngựa, đồng
thời mang thêm đạn dược cho đại đội Trường.
Hà Văn Cho lên đồi, tinh thần các em lính lên theo, cũng dễ hiểu bởi Cho
từng coi trinh sát trung đoàn và sư đoàn, tác giả cuộc tái chiếm Đồi Gió
trong chiến trường An Lộc 1972. Hà Văn Cho đến thay Mỹ Phụng trong chức
vụ tiểu đoàn trưởng, nhưng Mỹ Phụng còn bị kẹt lại do điều kiện chiến
trận, chưa kịp bàn giao.
Đại đội Phó Thiếu úy Nghĩa hướng dẫn trung đội đầu chiếm giữ tuyến của
Trường vừa bị sát thương nhiều nhất. Nghĩa tiếp tục giữ tuyến ngoài, và
Liêu theo dõi hoả lực yểm trợ phi pháo. Đại đội của Liêu đã đến vừa đúng
lúc để cùng Trường kịp chấn chỉnh lại đội hình chiến đấu. Thương binh
được trao về trạm xá; đó là mấy căn nhà gạch nằm giữa ấp, cũng đã trúng
nhiều đạn pháo. Trận chiến rối bời, không hiểu hai ông Y sĩ Nam và Sang
xoay trở như thế nào để săn sóc thương binh.
Thiếu úy Trần Đình Cảnh và trung đội “xì ke” của anh ta giữ tuyến giao
liên từ Đồi Móng Ngựa xuống ấp, làm thêm nhiệm vụ tiếp tế và tản thương.
Tuyến phòng thủ quanh ấp vẫn là tình trạng dã chiến tạm thời - một hố cá
nhân trần trụi, không bờ lũy, không chướng ngại vật, không rào kẽm gai,
mỗi giờ mỗi lúc càng thêm thưa mỏng hơn.
Trên đồi, theo hướng dẫn của Cho, trực thăng vòng qua đánh phá Núi Ma;
sơn pháo giặc câm tiếng sau mấy giờ tự do hoành hành, nhờ góc núi che
chở nên tránh được tầm pháo bạn. Phản lực F-5 biến ngọn Xóc Lu phía Tây
thành một cột khói lớn kèm theo những tiếng nổ phụ; buổi sáng nắng ấm
chuyển sang thành một buổi sáng có nhiều sương mù. Liêu xin đánh bom
trên một khối đông hàng trăm giặc từ Quốc lộ 20 tràn vô, không rõ vì
khinh suất hay non kém về chiến thuật, chúng bu lại lố nhố ven rừng cao
su. Xác người và thân cây tung lên thấy rõ trong tầm nhìn.
Tiếng loa ì xèo giọng Bắc kỳ ngưng lại từ lúc nào. Hồi 10 giờ, Pháo giặc
lên cơn điên trên Đồi Móng Ngựa trả thù một phen cho hả giận, rồi chuyển
xuống ấp Nguyễn Thái Học, tức thì hàng mấy trăm sinh linh đồng loạt bật
dậy. Từ những bờ cây gục đổ, từ sau nhửng thân chuối xác xơ dưới kia,
giặc xông lên. Tiếng kèn xung phong dục dã. Cả một tiểu đoàn giặc di
chuyển và tác xạ liên tục lên đồi, bất chấp hàng rào pháo cản của bạn.
Chúng bám lấy hai phiá đầu vành móng ngựa nhằm phân tán lực lượng bố
phòng của ta.
Có thể nói Đại Tá Ngô Kỳ Dũng là người bận rộn nhứt Miền Đông ngày hôm
nay. Cặp bút chì mỡ xanh, đỏ trong tay ông mòn dần, đã quá phần nửa.
Khói thuốc tràn ngập căn hầm. Tiếng ông vốn khàn đục nghe thêm nặng
trịch khi ông liên lạc không ngừng với phi, pháo và Tướng Lê Minh Đảo
trong Xuân Lộc. Mỹ Phụng thầm phục cách vẽ phóng đồ chấm độ của ông như
một họa công tài ba (nhờ lâu năm trong nghề Phòng Ba và Trung tâm Hành
quân). Qua chiếc máy truyền tin Trung Cộng, ông theo dõi rất sát tình
hình địch.
Lúc đó là một giờ chiều. Một giọng nói đặc sệt Quảng Bình từ máy phát
ra:
- Cự nọi (cứ nói).
Trung đoàn trưởng 95B giặc sốt ruột nghe “dưới” báo cáo:
- Bá...bá…báo…cááááo…
- Đ.M! Khận trướng lến! Nọi đí! (Khẩn trương lên, nói đi!)
- Bá bá bá cáo, lúc đầu, tôi nghĩ địch là một B (trung đội), nên cho C trinh sát đánh. Không ngờ chúng là một C (đại đội Trường). Tôi đánh tiếp bằng hai C, lính không lên được, rồi toàn D (tiểu đoàn), thì hình như chúng lại là một D (ta thêm đại đội Liêu). Bây giờ tôi khó khăn... Ghi chú: địch đoán sai về quân số ta trên đồi là trung đội, nên đã tấn công bằng một đại đội 95 trinh sát.
- Đ.M! Mận ăn cại chi rựa ...(... Mần ăn cái chi rứa ...)
Tinh thần đang căng thẳng, mệt mỏi theo dõi trận đánh bên cạnh Đại tá
Dũng, viên trung sỹ đội kỹ thuật cũng phải mỉm cười. Anh thấy tên E
trưởng Việt cộng cũng biết “đ.m.” ngon lành như Đại tá Dũng nhà mình.
- Đ.M! Nghe đây. Những thằng bị thương nặng, không cần, dục bỏ. Gom những thằng thương nhẹ, tui cho anh thêm một D nữa, tui sẹ...
Trung sỉ ban Kỹ thuật từng đi theo trung đoàn qua bao địa danh chiến
trận, biết bao lần giải mã cấp thời những báo cáo, chỉ thị, nghe bắt
những giọng nói bắc kỳ léo nhéo chỉnh pháo lên Tân Uyên, Rạch Bắp...,
nhưng anh không ngờ cộng quân lại dã man tàn tệ với thương binh của họ
như thế. Biết bao nhiêu lần, quân ta đã gom góp những thương binh địch
sau trận đánh, và săn sóc họ chu đáo không kém gì lính bên mình.
Về chiều, pháo giặc càng gia tăng nóng nảy dữ dằn hơn. Căn hầm Đại Tá
Dũng bị sập. Hai chiếc xe tăng M.41 bốc khói ngùn ngụt ở cuối sân. Ông
Dũng thoát khỏi hầm an toàn, lem luốc, chạy sang ban chỉ huy Tiểu đoàn
3/52 đặt gần thung lũng. Cây ăng-ten dựng lên, lại bị đánh gẫy nằm gục
bên sân. Bên kia sân, Thiếu Tá Thanh Trước toàn thân đen đúa tiếp tục
điều khiển tác xạ; đại bác nháng lửa nghe ì ầm như từ đâu xa vọng về.
Mỹ Phụng ở ngoài tuyến trở vô khi ông Dũng vừa tới. Căn nhà ngói bỗng
thấy sáng trưng dưới hai mảng trống trên nóc do pháo địch gây ra không
biết lúc nào. Ban truyền tin của trung sĩ nhất Anh được an toàn là một
sự lạ. Trung úy Hưng ban 3, đang liên lạc với trên đồi. Ông Dũng giật
lấy ống nói.
Trên Đồi Móng Ngựa, Mai Mạnh Liêu yêu cầu đánh pháo trên những hàng quân
giặc đi như diễn hành ngoài quốc lộ, hướng về khu vực trung đoàn; một
cánh rất đông khác vòng theo đường rừng về khu Bàu Cá phiá Biên Hoà.
Mười phút trước, Mỹ Phụng quan sát qua ống nhòm cũng thấy địch rất đông
bên kia thung lũng, nhưng chúng chuyển về hướng Dầu Giây (Sau này được
biết giặc tiếp tục vây đánh Đồi Móng Ngựa và ấp Nguyễn Thái Học, đồng
thời “bôn tập” về tập trung quanh Biên Hoà và Sàigòn).
Pháo bạn từ Núi Thị bắn tới trên những hàng quân giặc; chúng giãn ra hai
bên đường trong chốc lát, rồi tiếp tục tụ lại như những mảng bèo trôi.
Chúng làm ngơ không lượm thương binh đồng đội, tiếp tục đi chuyển (có lẽ
hậu cần sẽ lo sau).
Liêu cho biết, một toán chỉ huy giặc chạy vô căn nhà ngói về phía đầu
ấp. Căn nhà bị đánh sập, không thấy những tên mang máy Truyền Tin thoát
ra nữa. Trong một thoáng, Mỹ Phụng cho đó là cái quán có bàn bia-a của
cô gái; nghĩ tới cô gái hôm nào, anh ta vừa buồn vừa mừng cho cô ta
thoát nạn binh đao.
Trọn ngày 15 tháng Tư 1975, Đồi Móng Ngưa và ấp Nguyễn Thái Học chịu
pháo giặc mười hai giờ liên tiếp, và liên tục đẩy lui những đợt xung
phong hay xâm nhập của giặc. Đó là tập hợp của đủ thành phần tác chiến:
từ một đại đội 95 trinh sát tinh nhuệ, đến một tiểu đoàn lính thiếu nhi
mới từ Bắc vô, đến sự gom góp vá víu của toàn trung đoàn 95B điêu đứng
trước phi pháo bạn, và những cú đánh trả do đàn em của Trường, Cho và
Liêu. Ngọn đồi xanh mát đã biến thành ngọn đồi trống trơn. Rừng cây trái
xum xuê trở thành cánh đồng quang đãng. Thân cây trộn với xác người
chồng chất lên nhau hàng nọ tiếp nối hàng kia. Cùng với nhịp độ chuyển
quân ngoài quốc lộ, trung đoàn trưởng “đ.m.” giặc lùa một phần ba quân
số thiếu nhi còn lại vô vòng tử địa.
Trung úy Nguyễn Thanh Trường có thói quen nói rất lẹ như Huyền Vũ của
Miền Nam xưa tường thuật trận đấu túc cầu. Trường xin pháo nổ cao trên
làn sóng giặc đang chập choạng đi lên. Trường xin pháo sẵn sàng nổ chụp
ngay trên đồi, xin đánh bom trên đầu mình khi Trường yêu cầu.
Vào lúc 5giờ 30 chiều, tiếng Mai Mạnh Liêu nghe đứt đoạn trong máy:
- Chung quanh chúng tôi chẳng còn gì, triền đồi ngập xác địch và cây
cối, rừng tan hoang, ngọn đồi như đã thay đổi độ dốc.
Những người lính trẻ miền Nam: Việt Nam Cộng Hòa, thuộc Tiểu đoàn 3/52
Sư Đoàn 18BB, được phi, pháo bạn tận tâm yểm trợ, đã giáng trả Cộng quân
một trận để đời nơi toạ độ cô đơn đó - Đồi Móng Ngựa - làm tan rã Trung
đoàn 95-B thuộc Quân đoàn 4 Bắc Việt, và đã chiến thắng âm thầm khi vận
nước nổi trôi.
Ý Yên
Lá Còn Xanh Cây
Chút ít về Ý Yên - Trước 1975, viết trên Bách Khoa và Thơ-Và-Thi-Nhân do
Vũ Hoàng Chương trên báo Tự Do. Ý Yên là bút hiệu của Thiếu Tá Phan Tấn
Mỹ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/52 Sư đoàn 18BB trong trận chiến Xuân
Lộc, tháng Tư 1975, hiện đang cư ngụ tại San Jose, California.
Vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/52 đã kể lại: “Đại Đội 1 và Đại Đội
4 đã đánh bật được những đợt tấn công của quân địch. Tới 4 giờ chiều
ngày 15.4.1975, Trung Úy Liêu, sĩ quan chỉ huy trên đồi báo cáo về:
...Không còn cái gì tồn tại chúng quanh chúng tôi hết. Xác địch nằm ngỗn
ngang trên mặt đồi, cây cối chung quanh hoàn toàn bị tiêu rụi thành bình
địa. Thân cây và xác chết chồng chất lên nhau hàng đống, từng này chồng
lên từng kia...”. Mặc dù bị thiệt hại quá nặng nề như vậy, nhưng bộ
phận tuyên truyền của địch vẫn cứ ra rả mở loa kêu gọi quân ta đầu hàng.
Thật buồn cười. Xác chết cán binh chúng còn bầy nhầy thịt xương chất
hàng đống như núi, không đủ để cho chúng hiểu rằng chiến sĩ Sư Đoàn 18
Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa kiên quyết chiến đấu đến hơi thở
và giọt máu cuối cùng hay sao.
http://hon-viet.co.uk/YYen_TrangDanhDoiMongNguaSuDoan18BB.htm