Năm 1954, Samuel Sheppard ở 30 tuổi đã đứng trên đỉnh cao danh vọng khi là bác sĩ đẹp trai, tài hoa và giàu có nổi tiếng bang Ohio.
Đêm 3/7, Samuel và vợ, Marilyn chiêu đãi những người hàng xóm tại ngôi nhà bên hồ Erie. Sau khi con trai 7 tuổi ngủ say trên lầu, họ cùng người xem một bộ phim truyền hình. Samuel thiếp ngủ ngay trên sofa phòng khách. Bộ phim kết thúc lúc nửa đêm, Marilyn tiễn chân khách mời ra về.
Lúc 5h40 hôm sau, ngày Quốc khánh, thị trưởng thành phố Bay Village bị đánh thức bởi một cú điện thoại. "Chúa ơi, cậu qua đây đi, ai đó đã giết vợ tớ", giọng run rẩy của bác sĩ Samuel vang trong điện thoại. Vợ chồng thị trưởng vội vàng đến nơi, thấy bác sĩ trẻ để ngực trần, đang ngồi khóc trên ghế xoay trong trạng thái hoảng loạn.
Samuel nói đang ngủ ở sofa thì nghe thấy tiếng vợ hét lên. Anh giật mình tỉnh giấc và chạy lên lầu, thấy một bóng người trắng toát đứng cạnh giường. Khi lao vào vật lộn, anh bị kẻ đột nhập đánh bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, người chồng thấy vợ đã chết, nhưng con trai vẫn ngủ ngon lành ở phòng bên. Anh nghe tiếng động, chạy xuống nhà theo phía bờ hồ Erie mong lần theo kẻ đột nhập nhưng bất ngờ bị siết cổ.
Khi tỉnh dậy vào lúc bình minh ló dạng, Samuel nói thấy mình ướt sũng, bị lột mất áo phông và đồng hồ đeo tay, lập tức chạy vào nhà gọi điện cho bạn. "Tớ thậm chí không biết bọn chúng có mấy người, còn không chắc chúng phải người hay không nữa".
Sáu phút sau, cảnh sát đến hiện trường. Nữ nạn nhân đang mang bầu tháng thứ tư, bị đâm 24 nhát vào mặt và cơ thể, lột quần áo, được xác định tử vong lúc 4h30. cùng ngày.
Ngôi nhà có dấu hiệu bị lục tung, nhưng không mất mát gì. Sau 2 giờ khám nghiệm hiện trường, sự nghi ngờ của cảnh sát với bác sĩ ngày càng rõ ràng. Cảnh sát bỏ qua việc thu thập dấu vân tay, hoàn toàn tập trung vào Samuel. Họ phát hiện ra một vết máu lớn ở đầu gối trái, cho thấy rằng anh ta đã quỳ trong máu. "Rõ ràng là bác sĩ đã làm việc đó", thám tử lầm bầm với đồng nghiệp.
Vụ án nhanh chóng trở thành nỗi ám ảnh của các tờ báo ở Cleveland. Bức ảnh bác sĩ trẻ suy sụp bên chiếc giường đầy máu khiến cả thành phố xót thương. Nhưng khi tin đồn lan truyền, họ nhanh chóng quay lưng với Samuel, nói anh là kẻ giết vợ con.
Các nhà điều tra tập trung vào việc tìm kiếm động cơ. Một người hàng xóm phao tin bác sĩ Samuel quá bận rộn nên vợ anh ngoại tình và có bầu với người khác. Bác sĩ giết vợ để trả thù. Có người lại nói Samuel ngoại tình với nữ bác sĩ cùng bệnh viện.
Trong khi Samuel khai đó chỉ đơn thuần là tình bạn, nữ đồng nghiệp đã thừa nhận giữa họ có tình cảm và nhiều lần qua đêm với nhau. Công chúng cho rằng Samuel là nghi can số một, yêu cầu cảnh sát lấy cung công khai. Trong cuộc họp báo công khai chật cứng báo đài tề tựu ngày 22/7, Samuel tỏ ra lúng túng khi trả lời về quan hệ với đồng nghiệp, trong khi công chúng, chủ yếu là nữ giới, không ngừng la ó.
Bị bắt lúc 22h30 cùng ngày, Samuel trải qua phiên lấy lời khai kéo dài 22 giờ liền, nhưng kiên quyết phủ nhận.
Trong khung cảnh huyên náo chưa từng có, phiên tòa mở ngày 18/10/1954 tại phòng xử án quận Cleveland, đông nghịt báo giới và thu hút quá nhiều sự chú ý.
Thẩm phán Edward C. Blythin đã phải chủ trì phiên tòa gần như mất kiểm soát với những bóng đèn flash nổ tung, người dân đầy thù hận và sự náo động gớm ghiếc, điều mà tờ New York Times sau này mô tả là "rạp xiếc La Mã".
Sự khách quan của bồi thẩm đoàn bị lung lay, khi họ đã nghe quá nhiều về vụ án trên các phương tiên truyền thông và càng trở nên phức tạp hơn khi các tờ báo của Cleveland đăng từng bức ảnh và tên của 12 thành viên bồi thẩm đoàn.
Trong phiên tòa này, công tố viên nhấn mạnh mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo: Nếu nằm bát tỉnh trên bãi sông đến sáng, tại sao không có cát trên tóc bị cáo? Sao anh ta lại cởi trần? Có phải vết máu trong cuộc tấn công vợ buộc anh ta phải phi tang nó? Và tại sao tên trộm lại chẳng lấy gì? Về động cơ, công tố viên khơi lại chuyện ngoại tình với đồng nghiệp.
Dù không xác định được vũ khí gây án, Điều tra viên đã khéo léo dẫn dắt, dấu vết đẫm máu trên chiếc gối dưới đầu nạn nhân do một "con dao hai lưỡi" tạo ra, dụng cụ phẫu thuật có răng, ngầm chĩa cáo buộc về bị cáo.
Bồi thẩm đoàn đã thảo luận suốt 14 ngày và trải qua 18 lần bỏ phiếu mới có thể đi đến thống nhất: Samuel phạm tội Giết người cấp độ hai. Thẩm phán tuyên phạt bị cáo tù chung thân, xét ân xá sau 10 năm.
Samuel cải tạo trong nhà tù an ninh tối đa. Vài tuần sau tuyên án, mẹ anh tự tử còn cha anh qua đời vì bệnh ung thư sau vợ 11 ngày. Các tòa án Ohio đã bác kháng cáo của anh.
Tuy nhiên, một số phát hiện đã thu hút lại sự chú ý vào vụ án. Giáo sư Paul Kirk, nhà tội phạm học nổi tiếng tiến hành điều tra kỹ lưỡng hiện trường, kết luận rằng kẻ sát nhân thuận tay trái, có thể đã sử dụng đèn pin làm vũ khí giết người và rất có thể là kẻ thù ghét gia đình bị cáo. Trên giường nơi Marilyn chết, có vết máu không phải của cô hay Samuel.
Ba tháng sau kết luận dậy sóng dư luận, một hàng xóm của Samuel tìm thấy một chiếc đèn pin bị móp ở gần bờ hồ Erie. Tháng 11/1959, Richard Eberling, một thợ lau kính từng làm việc tại nhà Samuel bị bắt vì tội ăn cắp vặt, trong số nhiều tang vật cảnh sát tìm thấy tại nhà hắn, có một chiếc nhẫn của nữ nạn nhân. Dư luận lại một lần nữa đổi chiều.
Đúng lúc này, đen đủi lại ập xuống đầu Samuel khi luật sư của anh đột ngột qua đời. Người thay thế ông, là Francis Lee Bailey, luật sư mới 29 tuổi vô cùng năng động.
Francis đệ trình một loạt các kiến nghị lên tòa phúc thẩm, và đều bị từ chối. Sự thất vọng của cả luật sư trẻ và thân chủ kéo dài cho đến tháng 3/1964, khi Francis tình cờ tham dự một sự kiện và bắt chuyện với một nữ nhà báo từng dự phiên sơ thẩm. Cô tiết lộ với Francis rằng, thẩm phán Edward C. Blythin (đã qua đời năm 1959) từng nói với cô ngay trước phiên tòa: "Chà, anh này phạm tội ác quá ghê gớm. Không có gì phải nghi ngờ".
Luật sư trẻ như bắt được vàng, sử dụng điều này để khiếu nại về thành kiến của thẩm phán với bị cáo, điều tối kỵ trong tố tụng, đồng thời, phiên tòa cũng được tiến hành theo cách không phù hợp.
Tháng 6/1965, Tòa phúc thẩm đưa ra quyết định hủy bỏ bản án sơ thẩm với lý do, thẩm phán "không hoàn thành nghĩa vụ của mình là bảo vệ bị cáo khỏi sự định kiến vốn có của dư luận vốn đã lan tràn khắp quận".
Tòa án bang Ohio đã mở phiên xét xử phúc thẩm tháng 10 cùng năm. Về cơ bản, công tố viên đã dẫn dắt cáo trạng và các nhân chứng cùng một câu chuyện ông kể hơn một thập kỷ trước, nhưng giờ đây họ phải đối mặt với một luật sư bào chữa đang ở đỉnh cao tuổi trẻ.
Luật sư Francis đã chất vấn điều tra viên về dụng cụ gây án, được cho là con dao phẫu thuật của bị cáo, bác sĩ Samuel.
"12 năm rồi, cuối cùng ông đã tìm ra hung khí chưa?", Francis ghè sát mặt điều tra viên, chất vấn, nhấn từng chữ. Sĩ quan này cúi xuống đảo mắt hai vòng rồi nói bằng giọng bực bội "Chưa". Luật sư trẻ phê phán điều tra viên trưởng quan liêu và "cố đấm ăn xôi", kết tội thân chủ khiên cưỡng dù không có bằng chứng thuyết phục.
Luật sư trẻ cũng nghiên cứu biên bản phiên tòa năm 1954 và quyết tâm không lặp lại sai lầm của người tiền nhiệm. Francis đã mời giáo sư Paul Kirk để làm chứng về việc hung thủ thuận tay trái, trong khi bị cáo thuận tay phải, và vết máu lớn trên tủ quần áo là của người lạ, điều đã bị cảnh sát bỏ qua, vì quá mải mê tập trung vào các nghi ngờ cảm tính rằng Samuel là thủ phạm.
Ngày 16/12 cùng năm, bồi thẩm đoàn mất chưa đầy 12 giờ để đưa ra phán quyết vô tội. Bác sĩ Samuel được tự do lập tức. Bản án phúc thẩm nêu, dư luận xung quanh phiên sơ thẩm đã ảnh hưởng đến quyền được xét xử công bằng của bị cáo, bởi một bồi thẩm đoàn công bằng. Các bằng chứng kết tội bị cáo không thuyết phục.
Cuộc đời của bác sĩ Samuel Sheppard không kết thúc như một câu chuyện cổ tích. Anh ta quay trở lại hành nghề phẫu thuật của mình nhưng tay nghề sa sút đã khiến hai ca phẫu thuật thất bại. Hai bệnh nhân chết tại bàn mổ.
Ngày 6/4/1970, ở tuổi 46, Samuel chết trong bếp sau cơn đột quỵ. Nhưng cái chết của ông ta không đặt dấu chấm hết cho bí ẩn đang tiếp diễn xung quanh vụ án mạng
Năm 1995, con trai của ông khởi kiện bang Ohio vì đã bỏ tù oan cha mình, tuyên bố rằng bằng chứng ADN được phát hiện gần đây chỉ ra, thủ phạm thực sự, chính là thợ lau kính Richard Eberling, người lúc đó cũng đang thụ án vì một tội giết người ở bang Florida. Richard phủ nhận các cáo buộc, qua đời trong tù năm 1998.
Thi thể của ông Samuel không được phép hỏa táng. 7 năm sau, mộ ông được khai quật để xét nghiệm ADN phục vụ tái điều tra, sau đó mới được hỏa táng và được an nghỉ trong lăng mộ cùng vợ.
Sau nhiều lần trì hoãn, ngày 14/2/2000, lần thứ ba vụ án đáng chú ý này được đưa ra xét xử, lần này là phiên tòa dân sự đòi bồi thường oan sai. Luật sư đại diện cho Samuel quá cố tuyên bố trước tòa: "Cuối cùng, sau 45 năm, sự thật sẽ được nói cho mọi người trong phòng xử án này."
Đối mặt với các khoản bồi thường thiệt hại có thể lên tới hàng triệu USD, bang Ohio đã đáp trả mạnh mẽ, trong đó có quan điểm, bằng chứng về mẫu máu lạ bị ô nhiễm trong nhiều năm sau khi nó được thu thập, có thể sai lệch. 83% dân số nước Mỹ trưởng thành đều có thể trùng với mẫu ADN này.
Sau 10 tuần xét xử, với 76 nhân chứng và hàng trăm tang vật, bồi thẩm đoàn cân nhắc trong 3 giờ và quyết định ủng hộ nhà nước, nói rằng bồi thẩm đoàn của phiên sơ thẩm đã đúng, bác sĩ Samuel Sheppard đã giết vợ. Bang Ohio do đó không phải bồi thường oan sai.
Người Mỹ đến nay vẫn tranh cãi về bản án. Việc bác sĩ Samuel có thực sự giết vợ hay không, chỉ vợ chồng họ biết.
Hải Thư (Theo Famous trials, NYT, Crimes Library)