Kinh Đời
Trương Nhân Tuấn - Kiện hay đàm phán ở Biển Đông ?
Câu hỏi đã được các học giả tham gia "bàn tròn BBC" đặt ra, sau khi Tòa CPA ra phán quyết ngày 12-7 về vụ Phi đơn phương kiện TQ về các cách diễn giải và áp dụng bộ Luật Biển 1982.
Câu hỏi đã được các học giả tham gia "bàn tròn BBC" đặt ra, sau khi Tòa
CPA ra phán quyết ngày 12-7 về vụ Phi đơn phương kiện TQ về các cách
diễn giải và áp dụng bộ Luật Biển 1982.
Kết quả phán quyết ra rao mọi người đều biết. Phi đã thắng lớn trong vụ kiện.
Đường
chữ U chín đoạn, yêu sách của TQ về "quyền lịch sử" (và trong chừng mực
"danh nghĩa lịch sử") ở khu vực Biển Đông đã bị Tòa bác bỏ. Đơn giản vì
các yêu sách về lịch sử này đã không được TQ chứng minh. Dầu vậy, theo
Tòa, ngay cả khi các yêu sách (lịch sử) này được chứng minh, chúng cũng
không còn ý nghĩa, vì nó đi ngược lại tinh thần Công ước về Luật Biển
1982 (UNCLOS). Tòa cũng cho rằng các đảo thuộc TS không có cái nào được
xem là "đảo" để có thể yêu sách vùng "kinh tế độc quyền" 200 hải lý.
Phán quyết 12-7-2016 vì vậy hạn chế yêu sách của TQ thể hiện qua tấm bản
đồ (đường 9 đoạn) gởi lên LHQ năm 2009.
Trên lý thuyết, yêu sách đường chữ U chín đoạn của TQ không còn lý do hiện hữu (ở vùng biển TS) nữa. VN vì vậy cũng thắng lớn.
Nguyên nhân thất bại của TQ, dĩ nhiên đến từ các yêu sách vừa phí lý,
vừa quá lố của nước này. Nhưng chính yếu là do TQ đã không tham gia vụ
kiện. Các động thái của TQ, ngay vừa khi Tòa bắt đầu nhận đơn của Phi,
như cho bồi đắp, xây dựng các đảo nhân tạo tại các bãi cạn, đá... mà họ
chiếm được của VN năm 1988... đối với Tòa là một sự khiêu khích trắng
trợn, coi thường luật pháp quốc tế. Phán quyết ngày 12-7 của Tòa là một
cái tát vào mặt TQ (và là một bài học cho VN). Đáng lẽ phán quyết đã
không đến đỗi nặng nề như vậy. Nguyên lý là kẻ vắng mặt lúc nào cũng bị
thiệt thòi.
VN kiện, hay đàm phán, về cái gì với TQ ?
Phán quyết của Tòa CPA ngày 12-7 đã không chỉ giải quyết những tranh
chấp giữa VN và TQ tại khu vực TS mà còn mở cho VN nhiều cơ hội pháp lý
(và ngoại giao) để giải quyết Hoàng Sa, vấn đề đã bị "đông lạnh" ít ra
từ năm 1975 đến nay.
Cho rằng VN thắng lớn không phải là quá lố. Vấn đề Trường Sa coi như
"không đánh mà thắng", không mua mà được. VN còn có thể khai thác "chiến
thắng" này cho khu vực Hoàng Sa, tranh chấp giữa VN và TQ. Bao gồm :
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và khác biệt lập trường phân định biển
(đến từ các việc đối kháng về cách diễn giải về Luật Biển như vùng nước
quần đảo, tình trạng pháp lý các thực thể ở Hoàng Sa...) .
Kiện, vấn đề thuộc "pháp lý", đàm phán thuộc ngoại giao.
Vấn đề VN có thể kiện, hay đàm phán, TQ về cái gì tại Hoàng Sa ?
Tranh chấp về chủ quyền Hoàng Sa giữa VN và TQ đã kéo dài hơn thế kỷ.
Từ thập niên 30-40 của thế kỷ trước, nhà nước bảo hộ Pháp, đã hai lần
thách thức TQ giải quyết tranh chấp HS trước một trọng tài quốc tế. Cả
hai lần TQ đều khước từ. TQ cũng không hề "đàm phán" với nhà nước bảo hộ
Pháp về Hoàng Sa. Họ chờ dịp thuận tiện thì ra tay. Tháng giêng 1974 mở
ra cho TQ cơ hội ngàn năm: VNCH đang bị VNDCCH uy hiếp về quân sự trong
khi "đồng minh" Mỹ đã rút lui theo Hiệp định Paris 1973. TQ đưa quân
chiếm trọn HS, qua một cuộc chiến bất cân xứng về lực lượng giữa hải
quân TQ và hải quân VNCH.
Sau 1975, VNDCCH thắng trận và "thống nhứt đất nước", không thấy hai bên
VN và TQ đá động gì đến HS. Chỉ đến tháng giêng 1979, chiến tranh biên
giới bùng nổ, VN ra tuyên bố về chủ quyền của VN tại HS và TS cũng như
giải thích lại nội dung các tuyên bố đơn phương trước đây của VN liên
quan đến chủ quyền HS và TS (như công hàm 1958).
Hòa bình được thiết lập, bang giao hai bên Việt-Trung được hàn gắn, từ đầu những năm 90, qua hệ quả của Hội nghị Thành Đô.
Từ đó đến nay không hề nghe có "đàm phán" nào giữa hai nước về Hoàng Sa.
Việc phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt, tiếp nối theo việc
phân định Vịnh Bắc Việt (hiệp ước ngày 25-12-2000), vẫn trong tình trạng
bế tắc mặc dầu công trình phân định Vịnh Bắc Việt đã kết thúc từ lâu.
Nguyên nhân dĩ nhiên đến từ tranh chấp chủ quyền cũng như hiệu lực các
đảo HS.
Cho đến khi TQ kéo giàn khoan HY 981 đặt trên thềm lục địa VN, cách đảo
Lý sơn của VN khoảng 100 hải lý, cách đảo Tri Tôn (thuộc HS) khoảng 20
hải lý. Mâu thuẩn giữa hai bên VN và TQ mới được biểu lộ ra trước công
chúng. Đối với VN, hành vi TQ đặt giàn khoan HY 981 nhằm thám hiểm, thăm
dò thềm lục địa là xâm phạm đến quyền chủ quyền, quyền tài phán của VN,
được thiết lập theo Luật Biển 1982. Lập luận của TQ là giàn khoan HY
981 hoạt động trong khu vực biển và thềm lục địa của quần đảo HS.
Khủng hoảng đem đến do giàn khoan HY 981 hiển nhiên bắt nguồn từ việc
đối kháng cách diễn giải bộ Luật Biển 1982 về "hiệu lực các đảo" thuộc
quần đảo Hoàng Sa theo điều 121. Ngoài ra còn có quan điểm của TQ về
"vùng nước quần đảo", thể hiện qua hệ thống đường cơ bản của quần đảo HS
mà TQ đã công bố từ năm 1996.
Khủng hoảng do giàn khoan HY 981 đem lại ít nhiều hệ quả trong xã hội
VN. Dầu vậy vẫn không có "đàm phán" nào giữa hai bên VN và TS về vấn đề
Hoàng Sa.
Tin tức từ trong nước cho biết, từ lâu, TQ không nhìn nhận "có tranh
chấp với VN về HS". Đối với TQ, HS là chuyện đã rồi, đã thuộc về TQ. TQ
không chấp nhận bất kỳ một "đàm phán" nào với VN về vấn đề này.
Sau vụ giàn khoan HY 981, ta có thể khẳng định rằng tin tức nói trên là đúng.
Không hề có "đàm phán" nào giữa VN với TQ về vấn đề HS. Vị trí mà TQ đặt giàn khoan cho ta biết yêu sách về biển của TQ.
Vì vậy, ý kiến các học giả VN trên "bàn tròn BBC" hết sức là "bồng bột" khi cho rằng VN "không đàm phán song phương với TQ".
Chưa bao giờ TQ muốn ngồi vào bàn đàm phán với VN về vấn đề HS cả.
Nhưng từ phán quyết ngày 12-7 của Tòa, VN có thể "ép" TQ ngồi vào bàn "đàm phán" với mình về tranh chấp Hoàng Sa.
VN có thể vịn vào 3 khoản : 1/ các đảo HS, tương tự như TS, không có cái
nào phù hợp cho đời sống một cộng đồng dân chúng cũng như có thể có một
nền kinh tế tự tại. 2/ không hiện hữu vùng nước quần đảo và 3/ ngư
trường Hoàng Sa là ngư trường truyền thống của ngư dân VN.
Từ những luận điểm này VN có thể "đàm phán song phương" với TQ để thực
hiện các điều: 1/ phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt và xác
định đường phân định giữa bờ biển VN và đảo Hải Nam. 2/ Trong vùng lãnh
hải 12 hải lý các đá thuộc HS là ngư trường lịch sử của VN.
Đàm phán "song phương", bởi vì các việc phân định biển và việc xác định
ngư trường truyền thống các đá ở HS là chuyện "riêng" giữa VN và TQ.
Chỉ khi nào TQ một mực từ chối "đàm phán", lúc đó ta mới có thể nghĩ đến việc đi kiện.
Bởi vì, việc "đi kiện" (trước Tòa án về Luật Biển) chỉ được một bên áp
dụng khi mà mọi phương án "ngoại giao" (tức đàm phán) đều cạn kiệt. Luật
Biển 1982 xác định rõ việc này ở các điều 281 và 282.
VN bị ràng buộc bởi các tuyên bố chung VN-TQ, theo đó hai bên giải quyết
các tranh chấp thông qua thủ tục "đàm phán" và (việc đàm phán) dựa lên
căn bản:
" tuân thủ những nhận thức chung quan trọng đạt được giữa lãnh đạo cấp
cao hai Đảng, hai nước... nghiêm túc thực hiện những Thỏa thuận về những
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung
Quốc".
Do đó, ngay khi cả việc "đàm phán" đã kiệt, vì TQ không chấp nhận đàm
phán, như vụ giàn khoan 981, việc đi kiện đối với VN vẫn không dễ.
Chúng ta đâu ai biết được "những nhận thức của lãnh đạo" về HS và TS là
gì ? Lãnh đạo này là ai ? (Nếu là ông Hồ hay ông Đồng, thì VN xem như
mất HS và TS).
Những "thỏa thuận" giữa hai bên về "nguyên tắc cơ bản" gồm những nguyên tắc nào ?
Vì vậy, theo tôi, nếu ta không làm sáng tỏ những chi tiết ghi trên thì việc "lo liệu hồ sơ" đi kiện cũng hoài công.
Bởi vì, tranh chấp giữa VN và TQ về HS đã trên 100 năm, tranh chấp TS
bắt đầu từ sau Thế chiến Thứ hai, cũng đã tròn 70 năm. Từ 1975, VN đã có
vô số cơ hội đi kiện TQ để giải quyết vấn đề mà VN đã không đi kiện.
Tranh chấp giữa TQ và Phi chỉ bộc phát mới đây. Phi chỉ bắt đầu yêu sách
một số đảo TS từ thập niên 50, mà nguyên tắc về thụ đắc chủ quyền lãnh
thổ của Phi cũng không tuân thủ theo tập quán quốc tế. Phi chỉ kiện TQ
qua sự việc TQ chiếm các đá Scarborough, uy hiếp quân Phi ở bãi Cỏ Rong,
cho xây dựng đảo nhân tạo ở bãi chìm Vành Khăn... Tức những sự kiện chỉ
xảy ra mới đây, không quá 5 năm.
VN không kiện TQ hẵn nhiên có một số lý do tiềm ẩn. Và có thể VN sẽ
không bao giờ kiện được TQ, cũng bởi những lý do tiềm ẩn này.
Nhưng từ phán quyết 12-7 của CPA, VN có thể vịn vào một số phán lệnh làm
cơ bản, từ đó "ép" TQ ngồi vào đàm phán với mình về Hoàng Sa. Khi TQ
chấp nhận đàm phán, tức là TQ đã nhìn nhận "có tranh chấp" ở HS.
Vì vậy lý lẽ của các học giả "không đàm phán song phương với TQ ở HS" không chỉ "bồng bột" mà còn thể hiện sự phi lý.
Nếu đi kiện, VN cũng không thể kiện ra ngoài nội dung các bảo lưu của TQ
(về chủ quyền, về phân định biển). VN chỉ có thể kiện ở các nội dung
tôi đã liệt kê ở trên. Mà theo các điều 282, 283 của Luật Biển, VN chỉ
có thể kiện khi "đàm phán" đã kiệt.
Ý kiến của các học gia không chủ trương VN đàm phán với TQ, vậy thì VN có thể làm cái gì ?
Nếu kiện thì kiện cái gì ? kiện ở đâu ?
Trương Nhân Tuấn
(FB Trương Nhân Tuấn)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
Trương Nhân Tuấn - Kiện hay đàm phán ở Biển Đông ?
Câu hỏi đã được các học giả tham gia "bàn tròn BBC" đặt ra, sau khi Tòa CPA ra phán quyết ngày 12-7 về vụ Phi đơn phương kiện TQ về các cách diễn giải và áp dụng bộ Luật Biển 1982.
Câu hỏi đã được các học giả tham gia "bàn tròn BBC" đặt ra, sau khi Tòa
CPA ra phán quyết ngày 12-7 về vụ Phi đơn phương kiện TQ về các cách
diễn giải và áp dụng bộ Luật Biển 1982.
Kết quả phán quyết ra rao mọi người đều biết. Phi đã thắng lớn trong vụ kiện.
Đường
chữ U chín đoạn, yêu sách của TQ về "quyền lịch sử" (và trong chừng mực
"danh nghĩa lịch sử") ở khu vực Biển Đông đã bị Tòa bác bỏ. Đơn giản vì
các yêu sách về lịch sử này đã không được TQ chứng minh. Dầu vậy, theo
Tòa, ngay cả khi các yêu sách (lịch sử) này được chứng minh, chúng cũng
không còn ý nghĩa, vì nó đi ngược lại tinh thần Công ước về Luật Biển
1982 (UNCLOS). Tòa cũng cho rằng các đảo thuộc TS không có cái nào được
xem là "đảo" để có thể yêu sách vùng "kinh tế độc quyền" 200 hải lý.
Phán quyết 12-7-2016 vì vậy hạn chế yêu sách của TQ thể hiện qua tấm bản
đồ (đường 9 đoạn) gởi lên LHQ năm 2009.
Trên lý thuyết, yêu sách đường chữ U chín đoạn của TQ không còn lý do hiện hữu (ở vùng biển TS) nữa. VN vì vậy cũng thắng lớn.
Nguyên nhân thất bại của TQ, dĩ nhiên đến từ các yêu sách vừa phí lý,
vừa quá lố của nước này. Nhưng chính yếu là do TQ đã không tham gia vụ
kiện. Các động thái của TQ, ngay vừa khi Tòa bắt đầu nhận đơn của Phi,
như cho bồi đắp, xây dựng các đảo nhân tạo tại các bãi cạn, đá... mà họ
chiếm được của VN năm 1988... đối với Tòa là một sự khiêu khích trắng
trợn, coi thường luật pháp quốc tế. Phán quyết ngày 12-7 của Tòa là một
cái tát vào mặt TQ (và là một bài học cho VN). Đáng lẽ phán quyết đã
không đến đỗi nặng nề như vậy. Nguyên lý là kẻ vắng mặt lúc nào cũng bị
thiệt thòi.
VN kiện, hay đàm phán, về cái gì với TQ ?
Phán quyết của Tòa CPA ngày 12-7 đã không chỉ giải quyết những tranh
chấp giữa VN và TQ tại khu vực TS mà còn mở cho VN nhiều cơ hội pháp lý
(và ngoại giao) để giải quyết Hoàng Sa, vấn đề đã bị "đông lạnh" ít ra
từ năm 1975 đến nay.
Cho rằng VN thắng lớn không phải là quá lố. Vấn đề Trường Sa coi như
"không đánh mà thắng", không mua mà được. VN còn có thể khai thác "chiến
thắng" này cho khu vực Hoàng Sa, tranh chấp giữa VN và TQ. Bao gồm :
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và khác biệt lập trường phân định biển
(đến từ các việc đối kháng về cách diễn giải về Luật Biển như vùng nước
quần đảo, tình trạng pháp lý các thực thể ở Hoàng Sa...) .
Kiện, vấn đề thuộc "pháp lý", đàm phán thuộc ngoại giao.
Vấn đề VN có thể kiện, hay đàm phán, TQ về cái gì tại Hoàng Sa ?
Tranh chấp về chủ quyền Hoàng Sa giữa VN và TQ đã kéo dài hơn thế kỷ.
Từ thập niên 30-40 của thế kỷ trước, nhà nước bảo hộ Pháp, đã hai lần
thách thức TQ giải quyết tranh chấp HS trước một trọng tài quốc tế. Cả
hai lần TQ đều khước từ. TQ cũng không hề "đàm phán" với nhà nước bảo hộ
Pháp về Hoàng Sa. Họ chờ dịp thuận tiện thì ra tay. Tháng giêng 1974 mở
ra cho TQ cơ hội ngàn năm: VNCH đang bị VNDCCH uy hiếp về quân sự trong
khi "đồng minh" Mỹ đã rút lui theo Hiệp định Paris 1973. TQ đưa quân
chiếm trọn HS, qua một cuộc chiến bất cân xứng về lực lượng giữa hải
quân TQ và hải quân VNCH.
Sau 1975, VNDCCH thắng trận và "thống nhứt đất nước", không thấy hai bên
VN và TQ đá động gì đến HS. Chỉ đến tháng giêng 1979, chiến tranh biên
giới bùng nổ, VN ra tuyên bố về chủ quyền của VN tại HS và TS cũng như
giải thích lại nội dung các tuyên bố đơn phương trước đây của VN liên
quan đến chủ quyền HS và TS (như công hàm 1958).
Hòa bình được thiết lập, bang giao hai bên Việt-Trung được hàn gắn, từ đầu những năm 90, qua hệ quả của Hội nghị Thành Đô.
Từ đó đến nay không hề nghe có "đàm phán" nào giữa hai nước về Hoàng Sa.
Việc phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt, tiếp nối theo việc
phân định Vịnh Bắc Việt (hiệp ước ngày 25-12-2000), vẫn trong tình trạng
bế tắc mặc dầu công trình phân định Vịnh Bắc Việt đã kết thúc từ lâu.
Nguyên nhân dĩ nhiên đến từ tranh chấp chủ quyền cũng như hiệu lực các
đảo HS.
Cho đến khi TQ kéo giàn khoan HY 981 đặt trên thềm lục địa VN, cách đảo
Lý sơn của VN khoảng 100 hải lý, cách đảo Tri Tôn (thuộc HS) khoảng 20
hải lý. Mâu thuẩn giữa hai bên VN và TQ mới được biểu lộ ra trước công
chúng. Đối với VN, hành vi TQ đặt giàn khoan HY 981 nhằm thám hiểm, thăm
dò thềm lục địa là xâm phạm đến quyền chủ quyền, quyền tài phán của VN,
được thiết lập theo Luật Biển 1982. Lập luận của TQ là giàn khoan HY
981 hoạt động trong khu vực biển và thềm lục địa của quần đảo HS.
Khủng hoảng đem đến do giàn khoan HY 981 hiển nhiên bắt nguồn từ việc
đối kháng cách diễn giải bộ Luật Biển 1982 về "hiệu lực các đảo" thuộc
quần đảo Hoàng Sa theo điều 121. Ngoài ra còn có quan điểm của TQ về
"vùng nước quần đảo", thể hiện qua hệ thống đường cơ bản của quần đảo HS
mà TQ đã công bố từ năm 1996.
Khủng hoảng do giàn khoan HY 981 đem lại ít nhiều hệ quả trong xã hội
VN. Dầu vậy vẫn không có "đàm phán" nào giữa hai bên VN và TS về vấn đề
Hoàng Sa.
Tin tức từ trong nước cho biết, từ lâu, TQ không nhìn nhận "có tranh
chấp với VN về HS". Đối với TQ, HS là chuyện đã rồi, đã thuộc về TQ. TQ
không chấp nhận bất kỳ một "đàm phán" nào với VN về vấn đề này.
Sau vụ giàn khoan HY 981, ta có thể khẳng định rằng tin tức nói trên là đúng.
Không hề có "đàm phán" nào giữa VN với TQ về vấn đề HS. Vị trí mà TQ đặt giàn khoan cho ta biết yêu sách về biển của TQ.
Vì vậy, ý kiến các học giả VN trên "bàn tròn BBC" hết sức là "bồng bột" khi cho rằng VN "không đàm phán song phương với TQ".
Chưa bao giờ TQ muốn ngồi vào bàn đàm phán với VN về vấn đề HS cả.
Nhưng từ phán quyết ngày 12-7 của Tòa, VN có thể "ép" TQ ngồi vào bàn "đàm phán" với mình về tranh chấp Hoàng Sa.
VN có thể vịn vào 3 khoản : 1/ các đảo HS, tương tự như TS, không có cái
nào phù hợp cho đời sống một cộng đồng dân chúng cũng như có thể có một
nền kinh tế tự tại. 2/ không hiện hữu vùng nước quần đảo và 3/ ngư
trường Hoàng Sa là ngư trường truyền thống của ngư dân VN.
Từ những luận điểm này VN có thể "đàm phán song phương" với TQ để thực
hiện các điều: 1/ phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt và xác
định đường phân định giữa bờ biển VN và đảo Hải Nam. 2/ Trong vùng lãnh
hải 12 hải lý các đá thuộc HS là ngư trường lịch sử của VN.
Đàm phán "song phương", bởi vì các việc phân định biển và việc xác định
ngư trường truyền thống các đá ở HS là chuyện "riêng" giữa VN và TQ.
Chỉ khi nào TQ một mực từ chối "đàm phán", lúc đó ta mới có thể nghĩ đến việc đi kiện.
Bởi vì, việc "đi kiện" (trước Tòa án về Luật Biển) chỉ được một bên áp
dụng khi mà mọi phương án "ngoại giao" (tức đàm phán) đều cạn kiệt. Luật
Biển 1982 xác định rõ việc này ở các điều 281 và 282.
VN bị ràng buộc bởi các tuyên bố chung VN-TQ, theo đó hai bên giải quyết
các tranh chấp thông qua thủ tục "đàm phán" và (việc đàm phán) dựa lên
căn bản:
" tuân thủ những nhận thức chung quan trọng đạt được giữa lãnh đạo cấp
cao hai Đảng, hai nước... nghiêm túc thực hiện những Thỏa thuận về những
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung
Quốc".
Do đó, ngay khi cả việc "đàm phán" đã kiệt, vì TQ không chấp nhận đàm
phán, như vụ giàn khoan 981, việc đi kiện đối với VN vẫn không dễ.
Chúng ta đâu ai biết được "những nhận thức của lãnh đạo" về HS và TS là
gì ? Lãnh đạo này là ai ? (Nếu là ông Hồ hay ông Đồng, thì VN xem như
mất HS và TS).
Những "thỏa thuận" giữa hai bên về "nguyên tắc cơ bản" gồm những nguyên tắc nào ?
Vì vậy, theo tôi, nếu ta không làm sáng tỏ những chi tiết ghi trên thì việc "lo liệu hồ sơ" đi kiện cũng hoài công.
Bởi vì, tranh chấp giữa VN và TQ về HS đã trên 100 năm, tranh chấp TS
bắt đầu từ sau Thế chiến Thứ hai, cũng đã tròn 70 năm. Từ 1975, VN đã có
vô số cơ hội đi kiện TQ để giải quyết vấn đề mà VN đã không đi kiện.
Tranh chấp giữa TQ và Phi chỉ bộc phát mới đây. Phi chỉ bắt đầu yêu sách
một số đảo TS từ thập niên 50, mà nguyên tắc về thụ đắc chủ quyền lãnh
thổ của Phi cũng không tuân thủ theo tập quán quốc tế. Phi chỉ kiện TQ
qua sự việc TQ chiếm các đá Scarborough, uy hiếp quân Phi ở bãi Cỏ Rong,
cho xây dựng đảo nhân tạo ở bãi chìm Vành Khăn... Tức những sự kiện chỉ
xảy ra mới đây, không quá 5 năm.
VN không kiện TQ hẵn nhiên có một số lý do tiềm ẩn. Và có thể VN sẽ
không bao giờ kiện được TQ, cũng bởi những lý do tiềm ẩn này.
Nhưng từ phán quyết 12-7 của CPA, VN có thể vịn vào một số phán lệnh làm
cơ bản, từ đó "ép" TQ ngồi vào đàm phán với mình về Hoàng Sa. Khi TQ
chấp nhận đàm phán, tức là TQ đã nhìn nhận "có tranh chấp" ở HS.
Vì vậy lý lẽ của các học giả "không đàm phán song phương với TQ ở HS" không chỉ "bồng bột" mà còn thể hiện sự phi lý.
Nếu đi kiện, VN cũng không thể kiện ra ngoài nội dung các bảo lưu của TQ
(về chủ quyền, về phân định biển). VN chỉ có thể kiện ở các nội dung
tôi đã liệt kê ở trên. Mà theo các điều 282, 283 của Luật Biển, VN chỉ
có thể kiện khi "đàm phán" đã kiệt.
Ý kiến của các học gia không chủ trương VN đàm phán với TQ, vậy thì VN có thể làm cái gì ?
Nếu kiện thì kiện cái gì ? kiện ở đâu ?
Trương Nhân Tuấn
(FB Trương Nhân Tuấn)